Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:32:53 am



Tiêu đề: Xuân giải phóng
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:32:53 am
          
        - Tên sách: Xuân giải phóng
        - Tác giả: Thiếu tướng Phan Hàm
        - Số hóa: ptlinh

      
Chương 1: Lối thoát của đường hầm

Chiếc máy bay C.141 của không quân Mỹ đã chực sẵn giữa sân đỗ, sải cánh vươn rộng phủ gần hết bề ngang đường lăn. Cửa dưới bụng nó mở toàn hoác. Hai quân cảnh Mỹ, quân phục trắng, đứng gác hai bên. Xa xa trông chiếc máy bay như một con quái vật đang há mồm, nhe răng, nằm phơi xác trên sân xi măng.

Sân bay Gia Lâm, chiều hôm ấy, 29 tháng 3 năm 1973 có vẻ tấp nập nhưng không náo nhiệt tưng bừng. Người tuy đông hơn mọi ngày, nhưng ai nấy đầu giữ yên lặng, trật tự, chẳng trống, chẳng kèn, thậm chí cũng chẳng có cờ xí gì. Một cái lều bằng vải, màu xanh lá cây, phủ toàn bộ sân ga, dùng làm chỗ làm việc của phái đoàn quân sự hai bên. Trong lều vài cái bàn con, mấy chiếc ghế đẩu đối diện nhau. Người làm việc thì ít, người đi xem thì nhiều, chỉ vì một lẽ đơn giản: Hôm nay là đợt thả tù binh Mỹ cuối cùng. Lịch sử chẳng nhẽ sẽ lặp lại một ngày thứ hai như thế này nữa và trên thế giới, chắc gì đã có một địa điểm thả tù binh Mỹ thứ hai như đất Hà Nội này? Ngót năm trăm năm về trước, hàng vạn tướng sĩ của quân đội xâm lược nhà Mình đã quỳ gối xin hàng ở Đông Đô, và hôm nay, cũng trên mảnh đất này, hàng trăm giặc lái được tha về nước. Hai sự kiện lịch sử, tính chất chẳng khác gì nhau bao nhiêu, cùng diễn ra trên một địa điểm: Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội; và cũng cùng nói lên một sự thật: quân xâm lược đã phải đền tội như thế nào trên mảnh đất này.

Có lẽ do ý nghĩ đó, mà người dân Hà Nội, mặc dù xưa nay vốn ít có tính tò mò, chiều hôm ấy, vẫn cố tìm cách đến đây cho được, để tận mắt chứng kiến một cuộc rút lui không kèn không trống, một sự “cút” của một đế quốc sừng sỏ nhất được mệnh danh là đội quân đã từng gieo rắc hãi hùng trên khắp hành tinh.

Cả đám người yên lặng, trật tự, bỗng nhộn nhịp hẳn lên: hai chiếc xe ca, chạy ngang qua đường băng, vòng ra trước dãy nhà của máy bay rồi dừng lại ở cuối sân, cạnh cái lều vải mấy chục thước. Người ta xúm xít xung quanh xe, không phải để tìm một khuôn mặt quen thân, mà là để ghi lại một quang cảnh hiếm có. Máy ảnh bấm liên hồi, máy quay phim quay xè xè. Giữa những tiếng gọi nhau í ới, những tù binh gịăc lái Mỹ lần lượt xuống xe. Mỗi lúc nghe gọi đến tên mình, người tù bước ra khỏi hàng, tiến vào trong lều vải, đứng nghiêm chào các sĩ quan hai bên, trình diện. Một người, dễ thường là nhà báo, chìa ra trước mặt người tù binh một cái cần có gắn micro, cố thu cho được một lười tuyên bố gì đó, nhừng lần nào cũng vậy, các tù binh đều gạt nhẹ sang một bên, rồi lặng lẽ bước theo một lính quân cảnh đi kèm ra tận máy bay.

Đứng trên đài chỉ huy nhìn xuống sân ga, rồi lại đảo mắt nhìn về phía thành phố, tôi bồi hồi xúc động, vừa tin tưởng tự hào, vừa căm giận đau thương. Thủ đô mến yêu, xinh đẹp của chúng ta, vẫn xanh tươi với những rặng cây, trong ánh nắng chiều xuân. Khác với những thủ đô của các nước khác, ở đây không có những dãy nhà chọc trời, những rừng cao ống khói, nhưng chính tại nơi đây, những ngày cuối năm 1972 lại là một trung tâm rung cảm lòng người trên cả hành tinh. Cách đây không lâu, mảnh đất Thăng Long đã từng gọi là “phi chiến địa” đã trở thành nơi nóng bỏng nhất của quả đất. Mỗi lần đêm buông xuống, đồng bào cả nước thấp thỏm lo âu cho Hà Nội. Khu tập thể An Dương vừa bị san bằng trong lúc mọi người đang ngủ say, thì tiếp đến bệnh viện Bạch Mai, khu phố Khâm Thiên bị phá huỷ tan thành. Người ta hỏi nhau: Rồi đêm nay, đêm mai, sẽ đế lượt phố phường nào đây? Nhưng rồi cứ sáng ra, cùng với mặt trời đang lên, Đài tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại dõng dạc truyền đi những tin chiến thắng trong đêm. Lại reo mừng, hả dạ, hả lòng! Bạn bè của chúng ta ở khắp năm châu bốn biển cũng cùng hoà chung một nhịp: những ngày đầu thì động lòng trắc ẩn, xót thương, lo lắng nhưng càng về sau thì càng phấn khởi reo mừng và khâm phục. Riêng đối với kẻ thù, thì trái lại, từ chỗ hí hửng huênh hoang lúc ban đầu, dần dần bị rỡi xuống chỗ ngạc nhiên, rồi bàng hoàng và thất vọng.

Ròng rã 12 ngày đêm chìm trong bão lửa, thực chất là trong hai trăm bốn mươi mốt tiếng đồng hồ, nếu trừ những ngày nững đánh, chịu đựng gần hai nghìn lần đánh trong tổng số bốn nghìn năm trăm lần cất cánh của không quân Huê Kỳ, riêng B.52 là 663 lần chiếc, số còn lại là không quân chiến thuật và máy bay hải quân-6 vạn tấn bom, mà Hà Nội vẫn vững vàng cứ hiên ngang, tươi đẹp như thế này ư?

Với cái vốn hiểu biết về khoa học quân sự mà Mỹ đã từng đánh giá là không cao lắm, nhân dân Việt Nam lại dám chấp nhận một kiểu chiến tranh điện tử, hiện đại nhất, bằng một sức mạnh tập trung cao độ, với B.52, một trong ba bảo bối mà Mỹ thườngh đưa ra để doạ loài người; với những máy bay hiện đại “cánh cụp cánh xoè”, như thế này ư? Ở đây chỉ có “diệt”, cứ gì phải “tìm”. Nào có ai ngờ.

Nhớ lại câu thơ của Bác:
“Nghĩ rằng châu chấu đá xe,
Tưởng là chấu ngã, ai dè xe nghiêng”.

Nhưng xe chẳng những nghiên mà thôi, mà con cháu của Bác đã dìm nó xuống tận bùn đen.

Tám mươi mốt máy bay hiện đại trong hai trăm bốn mươi mốt giờ chiến đấu. Dù công nghiệp quốc phòng Mỹ có mạnh đến đâu cũng không sản xuất kịp. Những tên giặc lái Mỹ hiện đang đứng đằng kia, và số chết bao nhiêu chưa rõ, là những cái có thể “đếm xác được”.

Có cái gì là lạ, mơi mới ở đây chăng.

Ta còn nhớ ngày 9 tháng 9 năm 1971, trong cuộc họp của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, để nhận định tình hình và đề ra nhiệm vụ quân sự cho năm 1972, Đảng đã nói: Năm 1972, nếu có giải pháp thì “nó” sẽ rút hết, và nếu chưa, thì cũng có thể “nó” liều. Có thể “nó” sẽ tập trung không quân, đánh có trọng điểm trong một số ngày.

Theo tinh thần ấy, Quân uỷ Trung ương đã sớm chỉ thị cho các đơn vị: “B.52 không chỉ đánh ở miền Nam, đến mức độ nào đó, cũng có thể đánh vào thủ đô Hà Nội. Quân chủng Phòng không-không quân phải nghiên cứu kỹ đối tượng này”.

        Thực hiện chỉ thị nói trên, quân chủng không những chỉ nghiên cứu trên lý thuyết, mà cả mặt thực hành. Mùa xuân năm đó, một số đơn vị tên lửa được đưa vào giới tuyến, tham gia chiến dịch Quảng Trị và trên đường mòn Hồ Chí Minh, với hai nhiệm vụ: vừa tác chiến tiêu diệt địch, vừa rút kinh nghiệm đánh pháo đài bay B.52. Kết hợp những kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại với những thực tiễn nóng hổi ở chiến trường, bảy tháng sau, cuốn sách “Cách đánh B.52” ra đời.

        Một không khí thi đua sôi nổi dấy lên trong toàn quân, đặc biệt trong quân chủng Phòng không-Không quân. Từ cán bộ đến chiến sĩ, say sưa nghiên cứu, luyện tập, quyết tâm làm chủ mọi binh khí kỹ thuật có sẵn trong tay. Nếu có nhà sư phạm quân sự nào bảo rằng: người giáo viên dạy có kết quả nhất lại chính là kẻ đối kháng thì lời nói đó cũng không sai, nhất là khi những người đi thực tập lại nắm vững được đường lối chiến dịch nhân dân vô địch của Đảng và cũng khá thông minh để kết hợp nhuần nhuyễn những kinh nghiệm của Liên Xô vào thực tiễn Việt Nam.

        Chúng ta đã chuẩn bị đón tiếp chúng như thế đấy. Bấy nhiêu thời gian chờ đợi, tưởng cũng đã quá lâu rồi.

        Bị thất bại nặng trên các mặt, nhất là trên mặt trận quân sự, ngày 20 tháng 10 năm 1972, Kissinger, ngậm đăng nuốt cay, sau bốn năm tranh cãi, buộc phải cầm lấy bản dự thảo: “Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” của phái đoàn ta trao cho ông ta.

        Ba ngày sau, ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra.

        Vì lẽ gì đây? Do thiện chí mong muốn hoà binh hay là để kiếm thêm vài lá phiếu của nhân dân Mỹ? Âm mưu cơ bản vẫn là vừa muốn thoát khỏi đường hầm chiến tranh, lại vừa muốn duy trì được quân đội Cộng hoà và chính quyền miền Nam Việt Nam đủ mạnh. Ngày 26 tháng 10 năm 1972, thấy có triệu chứng lật lọng, ta đã chủ động vạch mặt dối trá của Mỹ trong lúc Kissinger vẫn còn chối bai bải: “Hoà bình đã nằm ở trong tầm tay!”. Chỉ có giải thưởng Nobel về hoà bình thôi, còn thực tế chiến trường vẫn chưa tắt lửa. Một tuần sau đó, Nixon nghiễm nhiên bước vào Nhà trắng, nhiệm kỳ 2.

        Cờ lại về tay. Ông ta càng tỏ ra ngang ngược, ngang nhiên đòi sửa đổi nhiều điều khoản có tính nguyên tắc của bản dự thảo hiệp định mà đôi bên đã thoả thuận từ trước. Kissinger thay mặt Nam Việt Nam, đưa ra 60 đề nghị sửa đổi văn bản-Bản thân Kitssinger 40 đề nghị. Ta không chấp nhận. Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đề nghị gây sức ép với Hà Nội. Nixon điện cho ta: 72 giờ phải tán thành đàm phán.

        Lại bế tắc! Giống như trò ảo thuật, ngoắc một cái củ cà rốt lại biến mất, cây gậy thò ra. Bản dự thảo hiệp định đã bị gác sang một bên, và thay thế vào đó là kế hoạch Linebacker 2. Một sự phối hợp “tuyệt đẹp” giữa ngoại giao và quân sự, theo kiểu Mỹ. Cái nọ là tín hiệu của cái kia.

        Cả Nixon lẫn Kissinger, đều đinh ninh rằng: với đòn tập kích chiến lược này, vừa tập trung, vừa tàn bạo, lại vừa bất ngờ, đối phương chắc sẽ không kịp trở tay, choáng váng và sẽ chấp thuận. Nhưng ai choáng váng, ai bất ngờ?

        Bao nhiêu năm trời phải đương đầu với đế quốc Mỹ, Đảng ta đã từng dự kiến rất chính xác mọi tình huống có thể xảy ra, và cùng không còn lạ gì cái bản chất cực kỳ phản động khét tiếng của tổng thống diều hâu, vốn thường ra những quyết định điên rồ. Những cuộc hành quân đánh sang Campuchia, sang đường 9 Nam Lào, chẳng đã chứng minh sao?

        Hôm nay, đón những tù binh lặng lẽ về, có lẽ các cấp chỉ huy, tướng lĩnh Mỹ mới vỡ lẽ một điều: Quân đội nhân dân Việt Nam đã nắm chắc âm mưu thâm độc và xảo quyệt, bản chất lật lọng của đối phương, nắm chắc được mọi hành động, mọi công tác của từng quân binh chủng của Mỹ, trong quá trình chuẩn bị cho cuộc tập kích chiến lược bất ngờ này: từ lúc kế hoạch hãy còn thai nghén, đến lúc tàu chở máy bay tiếp dầu, bay qua bay lại nhộn nhịp, tập trung trên đất Thái Lan, và cũng không phải chỉ có thể, đến cả giờ mở màn, hình như cũng được biết trước.

        Có gì lạ đâu? Mười tám giờ ba mươi phút ngày 18 tháng 12 năm 1972, khi Chính phủ ta nhận được công hàm của Mỹ đòi ta họp lại hội nghị Paris theo những điều kiện do họ áp đặt, hay nói cho đúng hơn, là một tối hậu thư, thì các chiến sĩ rađa của ta cũng đã phát hiện được B.52 trên màn hiện sóng. Vì vậy mà xông vào hướng nào cũng được đón tiếp rất giòn giã và rất xứng đáng.

        Cứ theo như tù binh kể lại, thì Mỹ chắc mẩm phần thắng trong tay. Với 15 loại nhiễu trên một chiếc máy bay, với một đội hình chiến đấu rất vững chắc, có tiền hô, có hậu ủng, có giương đông, có kích tây, và bằng một thủ đoạn chiến đấu rất nham hiểm, sở trường, ngay từ phút mở đầu đánh phủ đầu vào sáu sân bay lớn trên miền Bắc, diệt trước lực lượng không quân ta, đồng thời đánh vào Đài phát thanh, hòng bịt miệng, không cho ta tố cáo trước thế giới hành động tàn bạo và đê hèn của họ, Việt Nam khó lòng đứng vững được.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:47:44 am

        Ngày đầu chúng nếm mùi thất bại quá nặng nề. Đêm 19 rạng ngày 20, sáu chiếc máy bay bị hạ trong đó 2 B.52. Đêm 20 rạng ngày 21, vọt lên 11 chiếc bị bắn rơi, có một B.52; đành phải thay đổi cách đánh: giãn hoạt động của B.52 ra vòng ngoài. Nhưng Đồng Mỏ, Thái Nguyên, Hải Phòng nào có chịu kém thủ đô giữa mùa chiến thắng.

        Sáng ngày 22 tháng 12, Mỹ lại gửi công hàm, đề nghị ta họp lại theo nội dung đã thoả thuận trong tháng 10. Rõ ràng con ngoáo ộp đã bị ngấm đòn. Đến 24 giờ ngày 24 tháng 12, cuộc tập kích tạm ngừng. Nào phải đâu vì lòng ngoan đạo, mà con chiến Nixon không muốn cho Chúa thấy vào giờ Giáng sinh, những tội ác tày trời mà ông ta đã gây ra? Đây chẳng qua chỉ là mượn cớ xả hơi, hòng bổ sung thêm cho căn cứ Utapao một số B.52, vài chục tổ lái, để bù vào những thiệt hại vừa qua và lừa bịp dư luạn cho đỡ rát mặt.

        Sáng ngày 22, trong lúc khói bom hãy còn đang mù mịt, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra đến trận địa của tiểu đoàn 59 tên lửa, ngồi trong xe điều khiển, chăm chú nghe từng trắc thủ, từng cán bộ báo cáo rành rọt về trận đánh hôm qua, không bỏ sót một động tác nhỏ, một nhận xét nhỏ của mỗi người, mặc cho những “cánh cụp cánh xoè”, những “thần sấm con ma” gầm rít trên bầu trời, cố tìm diệt trừ các đối thủ đáng sợ trong đêm hôm trước.

        Thượng tướng Văn Tiến Dũng thường xuyên chủ trì các cuộc họp với cán bộ trong Bộ Tổng tham mưu và Bộ tư lệnh quân chủng. Đồng chí biểu dương những thành tích, bổ sung nhận định và thẳng thắn vạch ra những điểm yếu cần khắc phục và cùng thảo luận để tỉma cách đánh có hiệu quả nhất. Đồng chí nói: “Địch bị tổn thất đau nhất từ năm 1964 đến nay, chúng đang bị choáng váng, bất ngờ trước sự đánh trả có hiệu quả của ta. Nhưng, tuyệt đối không được chủ quan, sức địch còn nhiều, chúng sẽ thay đỏi quy luật và thủ đoạn. Đối tượng chính của chúng hiện nay là tên lửa. Khi chưa trị được tên lửa, trước mắt, chúng đánh phá vòng ngoài để giảm bớt thiệt hại, nhưng chúng sẽ tổ chức lực lượng, để rồi tiếp tục đánh phá vòng trong nội thành. Những giặc lái trực tiếp lao vào khu vực này, nơi được bảo vệ vững chắc, thì hoang mang, lo sợ; nhưng những kẻ cầm đầu vẫn chưa cam chịu thất bại, chúng còn có những ý định liều lĩnh hơn, còn tập trung lớn hơn”.

        Đồng chí khêu gợi cho cán bộ nghiên cứu tìm cách phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, giao nhiệm vụ bảo vệ tên lửa, tạo điều kiện cho binh chủng này phát huy sức mạnh lâu dài. Những cuộc họp đầu bờ, những hội nghị chớp nhoáng như vậy, đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu về kỹ thuật, chiến thuật, chỉ huy hiệp đồng, thấy được những nhược điểm của từng loại máy bay ma từ trước đến nay ở các chiến trường khác, Mỹ chưa hề bộc lộc và từ đó cũng tìm ra được cách đánh của từng binh quân chủng của ta: tên lửa, không quân, cao xạ bộ binh và đến cả dân quân.

        Điều mà các chiến sĩ không thể nào quên được là hình ảnh của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta. Từ những ngày đầu, tuy đã có kế hoạch di chuyển cơ quan lãnh đạo về nơi an toàn, nhưng rồi cũng chẳng có đồng chí nào chịu đi. Trong cơn bão lửa, cũng như lúc tạm ngừng, Bác Tôn, đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng, vẫn đến những trận địa còn ngập mùi thuốc súng. Sự có mặt của các đồng chí là một niềm cổ vũ vô cùng to lớn đem đến những chiến công và cũng là một niềm an ủi đối với những đau thương và tổn thất.

        Cho nên không có gì là khó hiểu khi thấy, ngày lại ngày, thành tích các đơn vị, các địa phương cứ phơi phới đi lên: trưa ngày 24, tổ dân quân trực chiến ở hướng Phà Đen hạ 1 F.111 bằng 21 viên đạn súng máy cao xạ chưa hẳn là diệu kỳ nhất; tối hôm ấy một đơn vị dân quân khác mới được thành lập, được trang bị bằng một loại pháo cao xạ cũ trong kho mới kéo ra, cũng hạ được một pháo đài bay ở Thái Nguyên, đêm 27 không quân ta đã rẽ mây len lỏi lọt qua máy bay hộ tống, vít cổ một pháo đài bay, và đêm 29, trước giờ kết thúc, Vũ Xuân Thiều, lại hạ một “thần sấm” trên núi rừng Tây Bắc. Toàn là những chiến công xưa nay chưa từng có.

        Đánh giá về lực lượng phản kích của ta, nhiều tướng lĩnh Mỹ, nhiều nhà binh luận phương tây, đã không ngớt lời ca ngợi.

        Cơn-oen, tham mưu trưởng không quân Mỹ đã viết: “Lực lượng phản kích của Việt Nam là đáng sợ nhất và hoàn chỉnh nhất mà những người lái của Mỹ chưa hề gặp”.

        Cuối cùng, chính Taylor, cũng đã đi đến kết luận: ”Sức mạnh không quân là một sự yểm trợ, nhưng nó không thể quyết định việc chặn đứng những con người kiên quyết chiến đấu trên mặt đất… Chúng ta đã không đánh giá đúng tinh thần cực kỳ kiên quyết và đức tính hy sinh vì sự nghiệp của người Việt Nam…”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:49:13 am

        Thủ đô của chúng ta thần kỳ như thế đó. Mỗi phố phường đều có sự tích anh hùng. Thăng Long, Đông Đô hay Hà Nội, đời nào cũng như thế đấy.

        Ấy thế mà hôm nay, ngày trao trả tù binh cuối cùng, ngày đế quốc Mỹ cam kết chấm dứt mọi sự dính líu với miền Nam Việt Nam,chấm dứt sự phong toả ném bom miền Bắc, liệu có suôn sẻ như lời văn của hiệp định, hay lại còn giở trò giờ chứng gì nữa? Nhìn ra xa xa ngoài sân bay, những vùng đất mới bị B.52 cày xới, màu đất hãy còn đỏ tươi. Những nấm mồ do những tên giặc lái sắp hàng đang đứng ở kia, trực tiếp gây ra, còn chưa xanh cỏ; những nhà cửa bị bom ném sập; cây cối ngả nghiêng, lòng người uất hận, căm thù ngút tận trời xanh. Chỉ mới cách đây mấy phút thôi, những giặc lái này vẫn được bình yên, diễu qua trước mặt nhà những nạn nhân của họ. Nhân dân Hà Nội đã có một sự kìm chế cao độ, một niềm tin tưởng vô biên và một ý thức tổ chức kỷ luật hiếm có. Đảng bảo họ: hãy khoan hồng! Và họ đã nén giân, tuân theo.

        Cuộc thả tù binh Mỹ được tiến hành nhanh chosng theo đúng kế hoạch. Khi tên giặc lái cuối cùng bước vào máy bay, cánh cửa từ từ cất lên. Chiếc máy bay nổ máy, lướt nhanh trên đường băng, nhẹ nhàng cất cánh. Đến Cầu Đuống, chưa lấy hết độ cao, nó đã quặt về hướng đông và dần dần chỉ còn là một chấm đen chìm dần trong mây bạc, rồi mất hút hẳn.

        Mười phút sau, tổ cán bộ trao trả nhận được điện từ Tân Sơn Nhất đánh ra: “Chiếc máy bay chở tên lính Mỹ cuối cùng cũng vừa rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhất”. Một sự hợp đồng về thời gian tuyệt đẹp giữa hai miền đất nước.

        Chiều hôm ấy, Đài tiếng nói Hoa Kỳ loan báo cho thế giới biết: “Hôm nay ngày 29 tháng 3 năm 1973, người tù binh cuối cùng và người lính Mỹ cuối cùng đã gặp nhau và cùng nhau liên hoan tại căn cứ Clark”.

        Trước đó 48 tiếng đồng hồ, toàn nước Mỹ đã làm lễ cầu nguyện và tạ ơn Đức Chúa trời. Nixon tuyên bố trước công chúng Mỹ là cuộc thử thách lâu dài đã chấm dứt. Mỹ đã đạt được mục tiêu hoà bình trên danh dự Việt Nam.

        Phải chăng đây là lối thoát của con đường hầm tăm tối mà mười mấy năm qua, Mỹ đang ngụp lăn chui đầu vào?

        Chưa hẳn đã là như vậy. Sự dính líu vẫn còn…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:52:56 am

Chương 2

GIEO GIÓ

        Hiệp định Paris về Việt Nam đã xác nhận: “Đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam; rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là: Độc lập, chủ quyền và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; chấm dứt dính líu quân sự và can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam; thừa nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị…

        Sau hơn mười năm gây chiến tranh ở Việt Nam, hy sinh hàng chục vạn lính Mỹ, tiêu tốn ngót gần một nghìn tỷ đô la, đế quốc Mỹ buộc phải ra đi, chấp nhận một thất bại có ý nghĩa, nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.

        Ngày 23 tháng 1 năm 1973, bốn ngày trước khi ngừng bắn và sau hai ngày bước vào Nhà Trắng, nhiệm kỳ hai, Nixon công bố không úp mở: “Mỹ sẽ không ủng hộ bầu cử tự do và Mỹ sẽ tiếp tục thừa nhận chính phủ Việt Nam là chính phủ hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam”.

        Bộ chỉ huy quân sự Sài Gòn được thay bằng Văn phòng tuỳ viên quốc phòng Mỹ, viết tắt là DAO. Cư này bắt đầu hoạt động từ ngày 28 tháng 1 năm 1973 và do thiếu tướng Giôn Mua-rây cầm đầu. DAO có chi nhánh ở Đà Nẵng, Plây Cu, Quy Nhơn, Nha Trang, Biên Hoà, Long Khánh, Nhà Bè, Đồng Tâm, Bình Thuỷ và Cần Thơ.

        Hai vạn ba nghìn người lính không mặc quân phục do chính phủ Mỹ trực tiếp đào tạo theo một chương trình đặc biệt đã ở sẵn trên đất miền Nam Việt Nam ngay từ đầu ngừng bắn. Như vậy thì Mỹ đã “Việt Nam hoá chiến tranh hay là ”Dân sự hóa chiến tranh”?

        Mỹ không giải tán tổng hành dinh lực lượng không quân Mỹ như hiệp định yêu cầu, mà chuyển đến căn cứ không quân hoàng gia Thái Lan ở Nakhom Phanom. Nhiều phi đội máy bay Mỹ đáng lý phải rút về nước thì lại chuyển sang một trong số sáu căn cứ không quân lớn của Mỹ ở Thái Lan.

        Đối với bản hiệp định, Thiệu phản ứng ra mặt. Ông ta nói với cấp dưới: “Các anh nghĩ thế nào khi đọc đến lời văn chữ nghĩa của hiệp đình này, liệu có còn đứa nào ở trong quân đội nữa không?”. Và làm mình làm mẩy cố phá; nhưng phá thế nào được, vì “cái đuôi con chó không thể nào cưỡng lại ý muốn của con chó được”. Những sự mè nheo, mặc cả, cũng chỉ cốt để tỏ ra rằng chính phủ Nam Việt Nam cũng còn có tiếng nói, và chủ yếu là để cho hai viện ở quốc hội Mỹ mở rộng két bạc ra. Ông ta tuyên bố rất ngang ngược: “Không có chính phủ liên hiệp, không có trung lập, không cho Cộng sản tham gia vào các hoạt động chính trị, không chịu để mất một tấc đất nào”.

        Thiệu đinh ninh rằng nếu vạn nhất có điều gì tai biến xảy ra, thì Mỹ nhất định sẽ không khoanh tay ngồi nhìn, nhất định sẽ can thiệp. Hơn nữa, ông ta cho rằng cơ sở hạ tầng của ta rất yếu, mà chính quyền miền Nam thì lại quá mạnh. Muốn đảo ngược được tình hình thì phải mất một thời gian rất lâu.

        Vấn đề đặt ra cho chính quyền Sài Gòn trước mắt là tìm mọi cách làm cho lực lượng cách mạng suy yếu, tiến tới tiêu diệt các lực lượng vũ trang, chính trị của Co cách mạng lâm thời. Chiến tranh sẽ tàn lụi dần và cuối cùng, chỉ còn có một chính quyền: Cộng hoà Việt Nam và một quân đội, quân đội Cộng hoà.

        Tư tưởng chủ đạo trước sau vẫn một mực dựa vào sự viện trợ của Mỹ để tồn tại và khi có nguy cơ sụp đổ, thì gào thét, cầu khẩn, xin bùa hộ mệnh B.52. Họ cho rằng mọi hoạt động của ta, dù lớn hay nhỏ đều phụ thuộc vào viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và muốn làm gì, cũng phải tính đến khả năng phản ứng của Mỹ. Đánh chó phải nể mặt chủ nhà.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:53:55 am

        Để thực hiện âm mưu này, chủ trương của Mỹ-Thiệu, trước tiên cần phải xây dựng một đội quân thật mạnh. Ngay từ đầu năm 1972, liệu thế trận nhất thiết phải ra, Mỹ đã hối hả đưa vào miền Nam Việt Nam, một khối lượng binh khí kỹ thuật, trang bị, phương tiện rất lớn bằng hai kế hoạch liên tiếp: tăng cường và tăng cường cộng (Enhance và Enhance Plus). Về không quân: trên 650 máy bay các loại, trong đó có 260 máy bay chiến đấu, 30 trực thăng, gần 30 máy bay vận tải C.130, 60 máy bay trinh sát; về lục quân: có 450 khẩu pháo, 300 xe tăng và thiết giáp; về hải quân: từ 1 đến 2 tuần dương hạm. Ngoài ra có 15 vạn tấn đạn dược. Thực ra, số tiền viện trợ do hai viện được quốc hội Mỹ thông qua và công bố công khai chẳng khớp tí nào với khối lượng vũ khí, trang bị tiếp nhận được. Bằng những trò ảo thuật, Lầu năm góc và những tướng tá bên dưới, có thiếu gì phép lạ, để lừa bịp quốc hội và nhân dân Mỹ. Với số trang bị kỹ thuật do Mỹ để lại, cộng thêm với số mới được tiếp nhận thêm, Mỹ ra sức hiện đại hoá quân đội Cộng hoà Việt Nam. Trong năm 1973, bắt thêm 24 vạn lính, thu nhận 13 vạn lính đảo ngũ, nâng tổng số quân lên gần 90 vạn, bao gồm 40 vạn lục quân,trên 4 vạn hải quân, 5 vạn 4 không quân và32 vạn quân địa phương. Nếu tính cả nghĩa vụ quân và phụ quân thì tổng số lên đến 1 triệu mốt người. Mỹ Thiệu rất chú trọng đến việc xây dựng các quân chủng. Không quân có 66 phi đoàn với 2.000 máy bay, hải quân có 1.600 tàu các loại; pháo binh với 1.600 khẩu pháo; xe tăng trên 2.000 chiếc. Nhiều nhà quân sự nước ngoài thừa nhận là quân đội Cộng hoà ở miền Nam Việt Nam là đội quân tay sai mạnh nhất thế giới. Trong thế giới tư bản, đội quân này được xếp vào loại thứ tư về hải quân và thứ ba về không quân.

        Bên cạnh lực lượng thường trực hùng hậu nói trên, Mỹ Thiệu còn tổ chức thêm lực lượng tại chỗ rất rộng rãi, đông đảo, lên đến 1 triệu rưỡi người, một nửa được vũ trang. Những kinh nghiệm chống phá cách mạng, tích luỹ từ các chiến trường Đông Nam Á đã từng áp dụng ở miền Nam, hãy còn được bổ sung thêm thủ đoạn thường dùng là những hình thức thuyết phục nhân dân đứng về phía “chính phủ” đến những hành động ám sát; họ còn bày trò chiêu hồi, ân xá, giúp đỡ những người trót đã đi theo kháng chiến, nay “cải tà quy chính” trở về với chính phủ, trở lại một cuộc sống bình thường. Để giúp chính quyền Sài Gòn thực hiện chương trình đó, Mỹ phái sang Sài Gòn một đội ngũ cán bộ mới được đào tạo theo một chương trình đặc biệt.

        Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đánh giá đế quốc Mỹ, tuy buộc phải chấp nhận một giải pháp chính trị, nhưng vẫn chưa từ bỏ âm mưu cơ bản là biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta.

        19 năm về trước, nhân dân miền Nam Việt Nam cũng đã từng đấu tranh với Pháp để thi hành Hiệp định Geneva; lần này, lại đấu tranh với Mỹ để thi hành Hiệp định Paris. So với trước, tình hình có khác. Ngày nay chủ lực của ta ở miền Nam Việt Nam đã đứng sẵn trên các địa bàn chiến lược, bộ đội địa phương và dân quân du kích đang xen kẽ với địch; cơ sở chính trị ở khắp ba vùng: rừng núi, nông thôn, đô thị,tuy mạnh yếu có khác nhau, vùng giải phóng xen kẽ với vùng bị chiếm. Đây chính là chỗ thắng lợi cơ bản của hiệp định, đem lại thuận lợi cơ bản cho ta sau này. Tuy nhiên, trước mắt còn nhiều khó khăn: số dân làm chủ chưa đông và chưa vững chắc; cơ sở chính trị, vũ trang còn yếu; đối phương đang chiếm lĩnh các địa bàn, các trục đường giao thông quan trọng; nhất là về mặt kinh tế, vùng giải phóng còn rất nghèo nàn…

        Phán đoán âm mưu và hành động của đối phương trong thời gian tới, Đảng ta dự kiến:

        Hoặc là họ sẽ thi hành một số điều khoản như ngừng bắn, trao trả tù binh, rút quân Mỹ và chư hầu về nước, nhưng trong từng công việc làm cũng có những cái không triệt để và nhất là những điều khoản chính trị có hại cho họ thì sẽ bị phớt lờ. Đối phương vẫn tiếp tục dùng lực lượng quân sự, mở các cuộc hành quân cảnh sát, đẩy mạnh công tác bình định, nhằm củng cố vùng họ kiểm soát; mở hành quân lấn chiếm, giành dân vùng giải phóng, xoá hình thái da báo, bao vây kinh tế v.v… làm cho cách mạng yếu đi.

        Hoặc là sau một thời gian củng cố và chuẩn bị lực lượng, sau khi đưa hết tù binh Mỹ về nước, Thiệu có thể gây lại chiến tranh, có sự chi viện của Mỹ và chư hầu. Phạm vi có thể hạn chế ở miền Nam, cũng có thể lan rộng đến Lào, Campuchia và cũng có thể ra cả miền Bắc.

        Dù bất cứ tình huống nào, con đường tiến lên của cách mạng vẫn là con đường bạo lực, dựa vào hai lực lượng quân sự và chính trị. Đứng trước tình hình mới, ta chủ trương chuyển hướng, phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn của quần chúng lấy lực lượng quân sự làm hậu thuẫn, buộc đối phương thi hành hiệp định triệt để, thực hiện hoà bình, độc lập, dân chủ, hoà hợp; đồng thời, sẵn sàng đập tan mọi hành động phá hoại gây lại chiến tranh. Nghị quyết tháng giêng năm 1973 của Quân uỷ Trung ương chỉ thị cụ thể thêm: “Ta chủ trương tiến công địch về chính trị, mà không tiến công về quân sự, nhưng nếu địch tiến công ta về quân sự, thì phải sẵn sàng tiêu diệt chúng…”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:56:41 am

        Từ tháng 9 năm 1972, Bộ Tổng tham mưu có đề nghị Quân uỷ Trung ương một phương án tranh thủ giành thắng lợi thêm trước khi có lệnh ngừng bắn, để tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh về sau. Sau khi đã thống nhất ý kiến với các bộ chỉ huy các chiến trường,”kế hoạch thời cơ” được đặt ra nhằm ba mục đích:

        -Hình thành cho được thế bao vây các đô thị lớn, các căn cứ quan trọng, triệt phá các đường giao thông quan trọng nhằm chia cắt, cô lập đối phương đồng thời bảo đảm hành lang đi lại tiếp tế của ta.

        -Đẩy mạnh hoạt động của các lực lượng tinh nhuệ, tập kích các cơ quan, căn cứ, chỉ huy ở, kho tàng, phương tiện kỹ thuật.

        -Mở rộng vùng giải phóng, hoàn chỉnh các địa bàn đứng chân của các trung đoàn, sư đoàn, mở vùng, mở mảng, giành dân chiếm đất, bám trụ, giữ vững nếu bị phản kích.

        Bộ Tổng tham mưu cũng nhắc nhở các chiến trường không tung hết lực lượng ra, không được vì thắng lợi nhất thời mà để cho lực lượng bị tiêu hao, phải giữ sức để đối phó với âm mưu mới của đối phương sau ngày ngừng bắn (chỉ thị số 480-B-Tgl, ngày 27 tháng 1 năm 1973). Cách làm cụ thể là dùng lực lượng nhỏ, tinh nhuệ: đặc công, biệt động, các phân đội pháo cối lẻ, các phân đội công binh, đánh rất táo bạo, đánh sâu, đánh hiểm, vào các thị xã, thành phố lớn như ở Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, cắt đứt các đường giao thông chiến lược, buộc các đơn vị chủ lực quân đội Cộng hoà phải đối phó dài ngày. Trong khi đó chỉ dùng một bộ phận chủ lực cùng với lực lượng vũ trang chính trị tại chỗ, kết hợp giữa đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng và tấn công quân sự, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng kìm kẹp; giải phóng và làm chủ thêm nhiều xã, ấp; đưa dần các vùng đanh tranh chấp lên thành vùng giải phóng.

        Kết quả của “kế hoạch thời cơ” rất khả quan. Trước giờ ngừng bắn, ta đã chiếm thêm được một số địa bàn rất có lợi, mở ra thêm nhiều vùng, nhiều mảng quan trọng như Sa Huỳnh (Khu 5); Đức Cơ, Plây Krông, Trung Nghĩa (Tây Nguyên); Long Mỹ (đồng bằng sông Cửu Long), các đường giao thông như quốc lộ 1 trên một chiều dài gần nghìn cây số từ thị xã Quảng Trị đến bắc Sài Gòn  bị chặt đứt từng đoạn; đường quốc lộ 14 từ Kon Tum đến Buôn Ma Thuột; quốc lộ 19, 21 (Tây Nguyên); quốc lộ 15, 20, 4 (Nam Bộ); ta đưa lên làm chủ thêm 800 ấp với 50 vạn dân.

        Với kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, quân đội Cộng hoà đã mở những cuộc tiến công sâu vào các vùng căn cứ giải phóng. Ở Quảng Trị, đến giờ phút chút, họ lén lút đưa một bộ phận thuỷ quân lục chiến, có xe tăng, pháo binh chi viện, bất thình lình chiếm lĩnh lấy cảng Cửa Việt, cái cổ họng duy nhất thông ra biển trong vùng kiểm soát của Chính phủ cách mạng lâm thời. Họ đã phải trả giá quá đắt cho cuộc hành quân này. Mặc dù họ đã “khôn khéo” báo cho tổ quốc tế ở Huế biết từ trước, và cung cấp phương tiện ra ngay Cửa Việt, để xác minh chủ quyền của họ. Nhưng muộn mất rồi! Bằng một đòn giáng trả rất tập trung, rất kiên quyết, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân này. Hàng chục chiếc xe tăng bị diệt, phơi xác trên bãi cát trắng, còn bộ binh thì lủi thủi rút về.

        Ở Quảng Nam, họ dùng 3 sư đoàn nguỵ, được tăng cường thêm trung đoàn 51 của sư đoàn 1 nguỵ, mở cuộc hành quân sâu vào thung lũng Quế Sơn, cố chiếm cho được các cao điểm ở đông quận lỵ Hiệp Đức. Chưa đến mục tiêu, cánh quân này đã bị chặn lại. Ở nam Quảng Ngãi, đến ngày 27 tháng 1 năm 1973, ta đã giải phóng một đoạn dài 30 cây số trên quốc lộ 1 từ Đức Phổ đến Tam Quan, trong đó có cửa Sa Huỳnh. Vừa lo bị chia cắt, vừa không muốn để cho Chính phủ cách mạng lâm thời có thêm một cửa biển thứ hai, nên bất chấp quy định ngừng bắn, đối phương vẫn huy động lực lượng, từ phía nam đánh ra, phía bắc đánh vào, phối hợp với máy bay, tàu chiến cố chiếm lại cho kỳ được, sau 20 ngày giằng co quyết liệt, vùng giải phóng này bị chiếm lại.

        Tổng hợp tình hình chung trên các chiến trường, thấy nổi lên một điểm: nơi nào ta có lực lượng mạnh như bắc Quảng Trị, miền Đông Nam Bộ, thì bề ngoài đối phương tỏ ra biết điều. Sĩ quan, binh lính đôi bên, thỉnh thoảng còn có gặp nhau. Nhưng, bộ mặt hoà hợp giả tạo không che nổi những mưu đồ, hành động xảo trá, lật lọng của họ. Phần lớn các nơi khác, họ đã huy động trên 60 phần trăm lực lượng chủ lực và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương liên tục mở các cuộc hành quân bình định lấn chiếm, cường độ đánh phá, xúc dân tăng gấp 10 lần so với trước khi có hiệp định: chỉ trong vòng 60 ngày, đối phương đã mở gần 2 vạn cuộc hành quân lấn chiếm và gần 2 vạn rưởi cuộc hành quân cảnh sát trong toàn miền.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2017, 05:59:44 am

        Chỉ thị mà ta lấy được ở cơ quan Bộ Tổng tham mưu Cộng hoà Việt Nam sau ngày giải phóng, có đoạn viết “quân đội Cộng Hoà có quyền có mặt ở bất cứ khu vực này xảy ra xung đột và bất kỳ một vụ nổ nào vào quân đội Cộng hoà, trong những khu vực ấy, đều quy thành một sự vi phạm của Quân giải phóng. Trong khi đó, những cuộc nã pháo vào bất cứ vị trí nào đều không được báo cáo là vi phạm vì đây chỉ là biện pháp phòng thủ, hoặc phản ứng lại một vụ vi phạm của đối phương”.

        Do điều kiện chiến trường bị chia cắt, việc đi lại có nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, nên việc quán triệt cho dưới cơ sở tinh thần và lời văn của hiệp định không thể đầy đủ, kịp thời, và đã có tình trạng “tam sao thất bản”. Một số cán bộ ở các cơ quan cấp trên, khi xuống các để truyền đạt, đã quá nhấn mạnh đến xu thế hoà bình, nói tinh thần hoà hợp hoà giải, theo cách một chiều. Nhìn thấy nhân dân vùng do đối phương kiểm soát bị chà đi sát lại nhiều lần, bị dồn hết nơi này đến nơi khác, đời sống vô cùng cực khổ, nên đưa ra chủ trương cho vài địa phương: hay là tạm gác lại những hoạt động vũ trang để đối phương không còn có cớ để khủng bố, chém giết nhân dân, cố giữ thế hợp pháp cho đồng bào, để đấu tranh chính trị? Hãy tạm thời để cho “xanh đồng đông chợ”, để có điều kiện mà bồi bổ sức dân; kiên trì sống trong cảnh cá chậu chim lồng miễn là luôn luôn giữ vững niềm tin. Vỏ tuy xanh nhưng lòng vẫn đỏ.

        Nhưng, cây muốn lặng mà gió chẳng đừng! Thực sự không có hoà bình, thực sự không có ngừng bắn, Mỹ Thiệu vẫn tiếp tục chiến tranh.

        Ở Trị Thiên, sau đòn Cửa Việt, đối phương lui về giữ tuyến phòng thủ trên bờ sông Thạch Hãn. Ta khống chế các cao điểm phía tây. Họ biết ở đây ta có lực lượng lớn có nhiều pháo, xe tăng và nhất là có lực lượng phòng không rất mạnh với nhiều trận địa tên lửa, nên họ án binh bất động. Từ Mỹ Chánh trở vào và nhất là ở đồng bằng, đêm ngày đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt. Trên một chiến trường dài khống quá 150 cây số, chưa đầy một triệu dân mà họ cắm ở đây một lực lượng rất lớn: 56.000 quân chủ lực và địa phương, 35.000 phòng vệ dân sự, 7 ngàn cảnh sát, 15.000 nhân viên nguỵ quyền, 3 ngàn mật vụ. Trung bình mỗi cây số vuông có trên 100 lính. Ở nông thôn, lực lượng kìm kẹp ở mỗi xã có từ 3 đến 9 trung đội dân vệ. Ở thành phố, mỗi khóm có trên vài trăm nhân dân vệ. Vẫn chưa hết, về sau còn tăng thêm 600 tâm lý chiến. 200 chiêu hồi viên, 350 sĩ quan cảnh sát hạ phóng xuống làm ấp trưởng, liên gia trưởng. Bọn Mỹ-Thiệu đã từng rút kinh nghiệm của những năm trước đây. Năm 1963, cũng tại nơi đây, đã châm ngòi cho phong trào đấu tranh lật đổ Ngô Đình Diệm; năm 1967, chiến dịch Đường 9 đã đẩy mấy sư đoàn thiện chiến Mỹ xuống địa ngục Khe Sanh, tạo điều kiện thuận lợi cho Quân giải phóng, trong Tết Mậu Thân, bằng một đòn tấn công chớp nhoáng, sau một đêm, làm chủ gần hết cả cố đô. Năm 1972, chiến dịch Quảng Trị, giải phóng thị xã Đông Hà, đẩy quân đội Cộng hoà về phía nam cầu Mỹ Chánh. Bao giờ chiến trường này cũng là nơi nóng bỏng nhất lại trực tiếp mặt đối mặt với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nên phải ra sức đề phòng. Cũng còn thêm một lý do nữa mà Thiệu chẳng hề hé răng cho ai biết. Lính dù, thuỷ quân lục chiến vỗn dĩ là con dao hai lưỡi. Thiệu có tin gì hai viên tư lệnh Lê Quang Lương và Bùi Thế Lâm, nhất là Lương, vì cùng sắc lính với Nguyễn Cao Kỳ. Đưa những người này về chung quanh Sài Gòn, khác gì nuôi ong tay áo.

        Với lực lượng như trên, đối phương đã tạo ra một cái vỏ rất cứng, với hai sư đoàn dự bị chiến lược và sư đoàn 1-sư đoàn thiện chiến nhất của quân đội Cộng hoà-các liên đoàn biệt động quân, liên đoàn thiết giáp v.v… Còn bên trong, tỷ lệ 1 lính kẹp 6 dân, họ tha hồ làm mưa làm gió. Cuối năm 1973, các lõm giải phóng gần như bị xoá sạch, các hàng lang từ trên núi xuống đồng bằng bị phong toả. Chiến trường Trị Thiên có phần êm ắng hơn các nơi khác. Đối phương cũng có phát hiện vài lõm giải phóng nhỏ gần quận lỵ Phong Điền, nhưng lực lượng cách mạng ở đây quá ít, chỉ cần một cuộc hành quân cũng đủ quét sạch mọi lực lượng đề kháng. Theo họ, công tác bình định đã thành công mỹ mãn: Trần Văn Đôn, nhắc mãi đến chuyến đi công tác trên một chuyến xe con không cần phải có họ tống, suốt từ Mỹ Chánh đến chân đèo Hải Vân. Những lính gác cầu, trước kia là người Mỹ, thì nay đã có dân vệ thay thế.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 01:29:26 pm

        Có một thứ mà đối phương không phát hiện ra: ngọn lửa cách mạng đang âm ỉ cháy trong lòng dân, các cơ sở mật bị chà đi sát lại lần hồi được xây dựng lại rải rác khắp nơi: Triệu Hải, Phong Điền, Hương Trà, Hương Thuỷ, Phú Vang… Các chi bộ Đảng ở xã Mỹ Thuỷ anh hùng, ban ngày thì chui hầm bí mật, nhưng ban đêm thì từ lòng đất, trồi lên móc nối cơ sở. Cả thành uỷ Thuận Hóa vẫn hoạt động trong bóng tối ở ven đô.

        Trên chiến trường đồng bằng Khu 5, họ biết nhân dân ở đây có truyền thống lâu đời và có nhiều kinh nghiệm đấu tranh. Họ tìm cách để cách ly nhân dân với cách mạng. Thủ đoạn chính là đóng chốt, phân tuyến. Trên đường ranh giới giữa rừng núi và đồng bằng, họ xây dựng trong vài tháng đầu năm 1973 bốn trăm chốt, mỗi cái chỉ có một ít lực lượng địa phương đóng giữ. Họ ngày đêm phục kích lùng bắt cán bộ, ngăn chặn tiếp tế. Nơi nào thiếu lực lượng thì dùng mìn phong toả. Thỉnh thoảng tổ chức những cuộc hành quân hay dùng lực lượng trực thăng đổ bộ sâu vào căn cứ, càn quét, bắn phá chớp nhoáng rồi rút nhanh. Để đối phó lại, ở một vài nơi, ta cũng bố trí những bãi mìn dọc theo các ngả đường. Kết quả của hai hàng rào thuốc nổ là chiến trường bị phân tuyến, lực lượng cách mạng bị dồn dần lên núi. Đồng bào vùng kiểm soát bị đàn áp, khủng bố liên miên; nay dồn đến khu tập trung này, mai lại rời sang nơi khác. Không phải họ chỉ tách “cá ra khỏi nước” mà còn nhằm cắt đứt quan hệ giữa cá với cá, người với người. Không còn chút tư liệu gì để sản xuất, không còn mẩu đất nào để làm ăn, nói là để cho “xanh đồng đông chợ” nhưng làm gì có đồng để mà xanh, có chợ để mà đông, vùng cát đã trắng, nay càng trắng thêm.

        Ở Nam Bộ, càng gần thủ đô Sài Gòn, âm mưu và thủ đoạn lại càng thâm độc, xảo quyệt và tàn bạo hơn.

        Cũng như trên chiến trường phía bắc vùng I chiến thuật, miền Đông Nam Bộ là trọng điểm phòng thủ của đối phương vì có thủ đô Sài Gòn. Ngoài ba sư đoàn bộ binh, còn có một số liên đoàn biệt động quân, địa phương quân, nghĩa quân, các binh chủng, quân chủng, các trường, viện, được tăng cường một cách đặc biệt, trong nội thành cũng như ở các cụm ven đô. Ở đây, không có những cuộc hành quân lớn suốt cả năm 1973, trừ cuộc hành quân giải toả quốc lộ 13 từ ngày 3 đến 15 tháng 6, mà họ đã sử dụng gần hết nửa triệu viên đạn pháo, tức là 17 phần trăm tổng số đạn phá tiêu thụ trong toàn miền thời gian ấy. Cái vẻ êm ắng bên ngoài không che giấu được tính chất ác liệt của cuộc đấu tranh. Đã có nơi ở đây trong một năm phải thay đổi cả ban chi uỷ tới ba lần; cán bộ bám trụ không nổi, ban ngày phải dạt ra xa, ban đêm đến mò về hoạt động, xây dựng thêm và giữ từng cơ sở, rồi đến lúc gà vừa cất tiếng gáy đầu tiên đã phải rút về căn cứ phía sau. Trước những tổn thất quá nặng nề, có người đã nghĩ rằng có lẽ vì ở đây, quá gần thủ đô, nên sự chú ý kiểm soát của đối phương cũng chặt chẽ hơn ở vùng nông thôn. Đồn bót dày dặc, kiên cố, địa bàn hoạt động quá hẹp, rất khó xoay sở không như ở vùng đồng bằng, dân hầu hết đầu đã bị tập trung, nên ngại không dám hành động mạnh, sợ vỡ cơ sở.

        Nói đến tình hình Nam Bộ, nửa năm sau ngày ngừng bắn, tình báo Mỹ nhận định: “Việt cộng kiểm soát không ra được quá vùng cao su và đống gạch vụn được bao nhiêu; tức là những vùng thưa dân, núi non, dọc dài phía tây của đất nước; thêm vào đó một số điểm da báo ở vùng châu thổ. Mạng lưới tay chân chính trị của họ, nhất là ở trong các đô thị, thì đã bị hao mòn; và đồng minh lâu đời của họ, là sinh viên và các nhóm phật giáo cực đoan thì đã bị tan rã và khiếp sợ trước việc Thiệu bắt đi lính hàng loạt và trước áp lực kinh tế ngày càng tăng. Việt cộng không thể mở một cuộc tấn công quy mô trong vòng từ 3 đến 5 năm tới; vì tình hình hoà hoãn trên thế giới, vì sự suy yếu rõ rệt của quân đội…”.

        Ở đồng bằng sông Cửu Long, cuộc đấu tranh để thi hành Hiệp định Paris cũng vô vùng phức tạp. Hàng ngày hàng giờ ta phải đối phó với một mưu mô xảo quyệt và tàn bạo. Chính sách cơ bản vẫn là bình định, kết hợp chặt chẽ các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý.

        Báo cáo đầu năm của cơ quan DAO viết:

        “Trong thời gian cuối năm, tình hình ở quân khu IV có vẻ biệt đãi quân đội Nam Việt Nam. Con đường từ vùng châu thổ về Sài Gòn được thông suốt, xe cộ, thương mại và quân sự đi lại bình thường; vụ lúa được mùa. Các đơn vị Việt Nam Cộng hoà, đang trong tình trạng sung sức, mặc dù chiến đấu căng thẳng, còn các đơn vị địch thì thiếu quân số nặng, thiếu đạn và trong một số trường hợp, lại còn mất tinh thần. Quân Nam Việt Nam kiểm soát được đa số làng mạc trong vùng châu thổ, đa số đường giao thông quan trọng. Trong thời gian 2 năm sau ngày ngừng bắn, nếu có xảy ra những trận đánh lớn nào trong quân khu, thì nhất định quân đội Việt Nam Cộng hoà sẽ thắng hết”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 01:32:36 pm

        Vẫn chưa hết! Thiệu còn dám huênh hoang tuyên bố: “Rừng U Minh chỉ còn có 12 tên Việt cộng thôi".

        Vì sao họ lại có những nhận xét chủ quan đến như vậy? Thì ra là thế này: Riêng trong 16 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long,với 7 triệu dân trong “đáy” này, quân đội Cộng hoà có 3 sư đoàn quân chủ lực: 7, 8,21; 3 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp; 2 hải đội. Tổng quân số chủ lực khoảng 5 vạn, nghĩa là còn kém con số chủ lực trên chiến trường Trị Thiên rất nhiều. Ngược lại, địa phương quân thì lại có đến 144 tiểu đoàn, 155 đại đội lẻ, 88 bộ chỉ huy tiểu khu, tổng quân số lên đến gần 21 vạn, nghĩa là gấp ba lần ở quân khu I. Toàn bộ lực lượng nói trên chiếm giữ 3.600 đồn bốt, mà chín mươi phần trăm là cỡ tiểu đội, trung đội. Những con số nói trên đã nói rất rõ rằng nhiệm vụ chiến lược của chiến trường này là bình định, gom dân, mà lực lượng được sử dụng trong nhiệm vụ này là nghĩa quân và địa phương quân.

        Ở khu 8, họ huy động lực lượng chủ lực và địa phương đánh liên tục các vùng Tân Châu, nam bắc quốc lộ 4, nam Bến Tre, Bảy Núi. Chỉ trong vòng 2 tháng-từ cuối tháng giêng đến tháng 3 năm 1973, ta mất 24 xã, 120 ấp, địch đóng 287 đồn. Cuộc đấu tranh giằng co, kéo dài đến cuối năm 1973, ta mới khôi phục lại được hình thái cũ, quyết liệt nhất là ở nam bắc quốc lộ 4, Mỏ Cày và Giồng Trôm.

        Ở khu 9, trước ngày ngừng bắn, ta bắt được toàn bộ bản kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của đối phương. Những trinh sát viên đột nhập vào các thị xã Cần Thơ, Vị Thanh về báo cáo: các sĩ quan không quân trao đổi với nhau là sẽ không thi hành hiệp định. Hơn thế nữa, ở hai nơi này, họ còn tổ chức ra những băng cướp trực săn để hành hung các nhiên viên các ban liên hiệp. Chứng cớ đã khá rõ ràng. Sáng ngày 28 tháng giêng năm 1973, đúng vào lúc lệnh ngừng bắn bắt đầu có hiệu lực, thì lính ở đồn Tô Ma bung ra càn quét. Trung đoàn 1 Quân giải phóng lập tức đánh phủ đầu, rồi thừa thắng san bằng cứ điểm này. Buổi chiều hôm ấy, trung đoàn 2 cũng trong một tình huống tương tự, diệt luôn 3 đồn thuộc chi khu Ngang Dừa. Bị bắt quả tang, họ đành phải im hơi lặng tiếng.

        Sáng 30 tháng giêng, Thường vụ Quân khu uỷ họp mở rộng nhận định: địch ngoan cố, không ra lệnh ngừng bắn cho dưới, mà vẫn tiếp tục chiến tranh. Kế hoạch bình định năm 1973 của đối phương có ghi rõ: trọng điểm là Chương Thiện và tiếp theo là U Minh. Đứng trước âm mưu mới của đối phương, chủ trương của quân khu là tiếp tục tiến công quân sự, kết hợp với tiến công chính trị, binh vận, đánh bại âm mưu đối phương, giữ vững thành quả, dồn họ vào thế bị động, buộc họ phải thi hành Hiệp định Paris, đến khi nào họ chịu ngừng bắn, mới đưa chính trị, binh vận lên thành mũi tiến công chủ yếu.

        Họ biết rằng trong vùng này ta chỉ có 4 trung đoàn, lại đứng ngay giữa đồng bằng trống trải, trong tầm súng cối của họ, nên không ngần ngại gì mà không dốc gần như toàn bộ lực lượng trong tay vào chiến trường này. Lúc đầy quy mô mới có 25 tiểu đoàn; chẳng mấy chốc đã lên đến 85 tiểu đoàn, kể cả pháo lớn, xe tăng, xe lội nước, giang thuyền v.v… Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh vùng 4 chiến thuật và Chung Dềnh Quay, chuẩn tướng, sư trưởng sư đoàn 21, đã hứa trước Nguyễn Văn Thiệu là sẽ bắt sống đồng chí Võ Văn Kiệt và đồng chí Lê Đức Anh, Bí thư Khu uỷ và Tư lệnh Quân khu. Chiến thuật của họ được mệnh danh một cách kỳ quái là “ồ ồ xạc xạc”, nghĩa là, tập trung lực lượng đột kích mạnh, kết hợp với phi pháo đánh thẳng vào địa hình; trong lúc dùng lực lượng khác bao vây các mặt, lực lượng chiếm đóng kéo theo đằng sau, chiếm đến đâu, đóng đến đấy. Tài liệu của Bộ Tổng tham mưu Cộng hoà miền Nam còn cho viết, chỉ trong vòng 6 tháng đã bắn xuống vùng này hơn nửa triệu viên đạn pháo, mà chỉ riêng ba tuần lễ đầu, đã tiêu thụt ngót trên 20 vạn viên rồi. Lúc bấy giờ, nếu tạm lánh về U Minh, ở gần đấy, thì chỉ trong một đêm tối là xong tất. Nhưng rồi hình thình sẽ ra sao? Chắc chắn là đối phương sẽ bám lấy thắt lưng ta, xiết chặt vòng vây lại, cắt lìa vùng căn cứ với đồng bằng: bộ đội sẽ sống với muỗi mòng, giữa sình lầy nước đọng, vật lộn với đói khát, bệnh tật; nhân dân sẽ mất chỗ dựa để đấu tranh, phong trào sẽ suy sụp rệu rã. Liệu có còn được gì để mà hoà hợp nữa? Ngay từ  đầu Quân khu uỷ đã đặt vấn đề chống tư tưởng hoà bình, hữu khuynh, xây dựng tư tưởng tích cực chống địch.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 01:35:38 pm

        Song song với việc củng cố thế bố trí ngày càng vững chắc, đẩy mạnh việc tiến công, ngăn chặn đối phương. Họ đánh nơi này, ta giải phóng nơi khác. Có lúc phải đưa cả một trung đoàn chủ lực ra hoạt động ở một hướng để thu hút họ về một hướng khác, đỡ đòn. Họ dồn dân, ta phá kìm, bung dân về làng cũ, xà quần lộn ẩu với địch, phá đi lập lại không biết mấy lần. Người ta thấy đêm đêm, một vài cụ già thường có thói quen đảo qua nhà của các đồng chí lãnh đạo quân khu để xem thử ngọn đèn trong sở chỉ huy còn hay đã tắt. Ánh sáng chỉ bằng hột ngô, leo lét giữa đêm dày thanh vắng, đã có một sức mạnh kỳ diệu. Ngọn đèn còn đó, Đảng còn đó. Trong những giờ phút căng thẳng nhất, nguy hiểm nhất, Đảng vẫn ở ngay bên cạnh đồng bào, đồng cam cộng khổ, để chỉ lối soi đường, cho nên đồng bào không bao giờ xa Đảng, một tấc không đi một ly không rời. Cơ quan đầu não đã trụ được, thì tất cả các đơn vị đều trục được. Nhờ có sự tiếp xúc trực tiếp hàng ngày, nên ta hiểu đối phương hơn, nắm chắc tình hình, biết rõ quy luật hành động của họ. Lúc bấy giờ trong các cơ quan, đơn vị, dấy lên một phong trào thi đua diệt đồn, phá bốt, mở mảng, mở vùng sôi nổi chưa từng có. Trong khi bộ tham mưu quân khu dẫn đầu phong trào diệt bốt, thì Cục chính trị lại dẫn đầu phong trào gọi hàng, binh vận, Cục hậu cần dẫn đầu việc chặn tiếp tế, cắt hành lang… Cơ quan thi đua với đơn vị, tỉnh này thi đua với tỉnh khác.

        Người ở xa cứ tưởng đây là chuyện kỳ lạ, khó tin. Nhưng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ này ở miền Nam Việt Nam, ở trong căn cứ giải phóng đâu mà chẳng thế, và con người Việt Nam, ai mà chẳng thế? Đồng bào và bộ đội Tây Nguyên, trong chiến dịch Plây Me (1965) đồng bào và bộ đội miền Đông Nam Bộ trong chiến dịch Junction City, đi đâu, ở đâu mà chẳng đụng đầu lính Mỹ, cũng xà quần lộn ẩu như vậy mới có những thắng lợi vang dội.

        Sau bốn tháng quần nhau như vậy, đối phương không lấn chiếm được vùng Vĩnh Viễn, Nước Trong mà còn bị mất thêm một số điểm ở Nước Đục, trước sau họ chỉ đóng được một căn cứ hành quân trên kênh 13. Cho đến lúc quận Vị Thanh bị ép lực mạnh, đối phương buộc phải ngồi bàn lại và ra thông cáo chung ngày 15 tháng 6 năm 1973.

        Tưởng là họ đã biết điều, ngừng tiến công; nhưng lại giở cái trò lật lọng. Họ lại tiếp tục thực hiện âm mưu chiếm Chương Thiện, với yêu cầu thấp hơn: chiếm lĩnh Chương Thiện, phong toả, thôi không lấn chiếm U Minh. Thủ đoạn tác chiến cũng thay đổi: không tiến công ồ ạt với binh lực lớn, mà lại chia ra khu vực nhỏ, đơn vị nhỏ gặm dần từng miếng một. Chỉ một ngày đầu sơ hở, họ đóng liền 6 bốt trên tuyến Ba Hồ và bung ra ở bắc Long Mỹ, lại còn chuẩn bị chiếm lại tuyến: Lái Hiếu, sông Bà Lớn. Ở các nơi khác, ta đã đề phòng nên họ không phá được thế bố trí của ta. Ta vẫn tiếp tục đánh, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh chống bắt lính và cướp lúa. Thấy không xong, sang tháng 9 năm 1973 họ lại hạ thấp yêu cầu một lần nữa: cố khôi phục lại hình thái trước ngày ngừng bắn. Trong cuộc hành quân nam Nước Trong lần này, họ không dùng xe bọc thép như trước mà lại dùng giang đoàn làm lực lượng nòng cốt, đánh vào sau lưng ta. Biết được kế hoạch này, ta sử dụng một lực lượng pháo nhỏ, với 20 quả đạn 120 ly và một bộ phận đặc công đánh phủ đầu, nhận chìm tàu chiến ở Rạch Sỏi, bẻ gãy cuộc hành quân từ trong trứng. Vẫn ngoan cố họ lại hạ mức yêu cầu, chuyển sang hành quân cướp lúa, phong toả kinh tế U Minh. Cách đối phó của ta lần này cũng khác trước: ta chủ động mở màn chiến dịch mùa khô, đánh mạnh vào lực lượng bảo an, kìm kẹp làm cho bọn này bị thiệt hại nặng. Cũng trong lúc này, đối phương phải rút bớt lực lượng khỏi đồng bằng sông Cửu Long để cứu nguy cho các chiến trường khác, nên buộc phải bỏ biên giới Long Châu Hà, điều chỉnh lại cách bố trí: sư đoàn 9 lên biên giới, sư đoàn 7 ở Tiền Giang, Vĩnh Trà, sư đoàn 21 ở vùng ruột Hậu Giang và giao các tiểu khu cho quân lãnh thổ. Đồn bốt bị mất hàng mảng, vùng kiểm soát bị thu hẹp dần.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 01:37:26 pm

        Trên miền Bắc, Hiệp định Paris cũng quy định cho Mỹ phải tháo gỡ hết bom mìn đã thả xuống để phong toả cảng Hải Phòng. Điều rất đáng buồn cười là cả hai bên đều cử cán bộ cấp cao, qua tận Paris để cùng nhau định nghĩa thế nào là một con sông? Đầu đề tranh cãi là số phận của những quả bom chưa nổ, vô phúc còn nằm phơi trên các bãi ven sông: khi nước lên thì nó nằm dưới nước, trách nhiệm thuộc về Mỹ phải tháo gỡ; nhưng khi nước ròng, nó lại bày ra trên bãi cát, thì trách nhiệm phá huỷ lại thuộc về ta. Một thiếu tướng Mỹ đến căng lều, trải bạt ở cuối bãi Đình Vũ, huy động nào trực thăng, nào ca nô tự điều khiển, thôi thì đủ các phương tiện hiện đại. Để quảng cáo, để răn đe hay là để thu thập tình báo? Kết quả sau mấy tháng làm việc, chỉ vớt được vẻn vẹn có 3 quả bom từ trường. Một quả núi đẻ ra một con chuột nhắt. Thành tích trục vớt như thế này xét ra không hơn gì kết quả công tác của một cô dân quân gái, được trang bị một đoạn dây đồng và một mảnh sắt rỉ, sau một ngày rà phá không lấy gì làm căng lắm.

        Trong giai đoạn này của cuộc chiến tranh chống Mỹ, hơn bất cứ lúc nào, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương tập trung cao độ sự chỉ đạo các chiến trường ở miền Nam. Trước ngày ngừng bắn, luôn luôn đã có chỉ thị hướng dẫn rất kịp thời, và về sau, các nề nếp báo cáo, thỉnh thị, các nơi đều chấp hành chặt chẽ và nghiêm túc. Ngoài những báo cáo của các bộ chỉ huy các chiến trường gửi về Bộ Tổng tham mưu, còn có các báo cáo của các cấp uỷ gửi về Ban Bí thư Trung ương Đảng, các báo cáo của Ban Thống nhất, Ban Miền Nam v.v… So với những năm trước, sự đi lại ra vào cũng ít vất vả hơn và nhanh chóng hơn rất nhiều, nên việc nắm tình hình các chiến trường làm tương đối đầy đủ và kịp thời. Sự chập chững trong những ngày đầu ở một vài nơi, tuy chỉ trong một thời gian ngắn, đã có sự uốn nắn lại nhưng không phải là không gây ra tổn thất. Về mặt quân sự, một khi tiến công hay phòng ngự không xác định thì nhất định sẽ có những lúc do dự, quyết tâm không dứt khoát, chiến thuật không rõ ràng, tác chiến bị thương vong cao, bộ đội không được củng cố, bổ sung vật chất không được đầy đủ kịp thời, sự hiệp đồng giữa các chiến trường không chặt chẽ. Về mặt chính trị, binh vận, thì lực lượng bị bộc lộ, cơ sở bị xáo trộn, phong trào ở nông thôn, đô thị đều gặp khó khăn; về mặt kinh tế thì, một phần do viện trợ của Mỹ giảm, nên Thiệu ra sức vơ vét lúa gáo; phần khác, họ ráo riết ngăn chặn đánh phá các cửa khẩu, phong toả các hành lang vận chuyển nguồn tiếp tế, lực lượng dự trữ các loại cứ vơi dần.

        Tháng 3 năm 1973, các Bộ tư lệnh các chiến trường về họp, đánh giá tình hình sau ba tháng thi hành Hiệp định Paris, đề ra phương hướng và nhiệm vụ mới. Thực chất đây là toàn bộ công tác chuẩn bị cho cuộc họp Trung ương Đảng sắp đến. Nói là chuẩn bị, chứ không phải chỉ có việc nắm tình hình, viết báo cáo như thường lệ; mà là những cuộc họp giữa Quân uỷ Trung ương hay Bộ Tổng tham mưu với các chính uỷ, tư lệnh các chiến trường để nghiên cứu tình hình, từng bước đề bạt với Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương những chủ trương công tác lớn vừa là cơ bản lâu dài, vừa là cấp bách trước mắt, trong bước đầu của giai đoạn mới, đồng thời, chỉ đạo việc triển khai thực hiện các chiến trường.

        Bước sáng tháng 7 năm 1973, sau nửa năm đấu tranh gay go quyết liệt, các cuộc hành quân lấn chiếm và bình định bắt đầu bị chặn lại. Mặc dù đến tháng 10 năm 1973, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 130.000 bắt sống trên 2.000 tên, thu 6.000 súng các loại, nhưng đối phương vẫn còn ngoan cố hung hăng.

        Khi nói về giai đoạn này, nhiều nhà bình luận quân sự phương Tây, vì không nắm đầy đủ các tài liệu, nên dễ có những cách nhìn lệch lạc. Ai hiếu chiến? Ai vi phạm Hiệp định? Xin nhường lời cho Giô-dep Am-tơ:

        “Cả Hiệp định hoà bình lẫn việc chấm dứt ném bom, Mỹ đều không đưa lại hoà bình ở Đông Nam Á. Hoà bình thực sự không thể có được, chừng nào Mỹ còn ủng hộ Thiệu và còn bảo đảm với hắn về việc viện trợ để hắn tránh hoà hợp chính trị và tiếp tục tiến công quân sự, vi phạm các điều khoản của Hiệp định Paris. Mặc dù Thiệu luôn luôn lấn chiếm, dùng máy bay đánh phá các vùng của phe cách mạng, nhưng Bắc Việt Nam tiếp tục kiềm chế. Vào cuối tháng 10 năm 1973, Bộ Chính trị ở Hà Nội mới quyết định đánh trả các hành động của Sài Gòn, nhưng chỉ với quy mô hạn chế. Nhưng mỗi hoạt động của Việt cộng, dù rất nhỏ, cũng bị Sài Gòn kêu ầm lên, như cuộc tiến công đã bắt đầu. Đó là để kích động Nixon giữ lời hứa bí mật của mình, chính trên thực tế, lực lượng Bắc Việt Nam chỉ tấn công các căn cứ mà lực lượng Sài Gòn xây dựng một cách không hợp pháp trong khu vực của Việt Cộng đã được quy định theo Hiệp định…” (Việt Nam-Viedict).


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 01:38:24 pm

        Tháng 10 năm 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 nhận định: “Địch không thi hành Hiệp định, tiếp tục chiến tranh Việt Nam hoá, thực chất là chiến tranh thực dân kiểu mới, hòng chiếm lấy cả miền Nam, thì ta không có con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh cách mạng tiêu diệt chúng, giải phóng miền Nam”. Phương châm chung là: kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao. Hội nghị chỉ rõ: “Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, để đưa cách mạng tiến lên. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển lực lượng cách mạng, vừa là yêu cầu bức thiết, vừa là cơ bản trong giai đoạn mới…”. Hội nghị cũng dự kiến tình hình có thể phát triển theo hai khả năng: “Một là, do đấu tranh tích cực trên các mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao, từng bước ta có thể buộc địch phải thi hành Hiệp định Paris, hoà bình được lập lại thực sự, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam tuy còn khó khăn, lâu dài, phức tạp, nhưng ngày càng phát triển và ở thế tiến lên mạnh mẽ. Hai là, do bản chất cực kỳ ngoan cố, âm mưu cực kỳ thâm độc của Mỹ-nguỵ, Hiệp định cứ tiếp tục bị vi phạm, xung đột quân sự có thể bị tăng, cường độ chiến tranh sẽ ngày càng lớn. Ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt, để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn…”.

        Trải qua mười mấy năm chiến đấu vô cùng gian khổ, chống một đối phương cực kỳ hung hãn và lớn mạnh, có thể rút ra một điều là trong những lúc tình hết sức khó khăn và đứng trước những bước ngoặt mới, chính nhờ sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Đảng ta, nhừ sức chiến đấu anh dũng và nỗ lực phi thường của quân và dân ta, chúng ta đã đưa cách mạng tiến lên những bước tiến nhảy vọt.

        Đứng trước bước ngoặt mới của chiến tranh, lãnh đạo của ta thấy rõ được chiều hướng phát triển của tình hình, đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa địch và ta, xác định rõ đối tượng, nhiệm vụ, phương hướng tấn công, nắm vững thời cơ. Và sau khi đã có chủ trương chính xác, còn có quyết tâm thật cao, khắc phục mọi khó khăn, tổ chức thực hiện thật tỷ mỷ cụ thể, kiểm tra chu đáo để thực hiện bằng được ý định chiến lược, đường lối vạch ra.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 01:41:12 pm

Chương 3

CHUYỂN MÌNH

        Tình hình miền Nam Việt Nam, đầu năm 1974 đã có chiều hướng thay đổi. Báo cáo của cơ quan DAO xem chừng hơi dịu giọng: “Tình hình ở nam quân khu 1, cũng giống như ở đồng bằng sông Cửu Long hay bất cứ một nơi nào khác, quân chính quy Việt Nam Cộng hoà nắm được quyền kiểm soát trong những trung tâm dân cư và dọc những tuyến giao thông quan trọng; còn quân Bắc Việt, ít nhiều bị loạng choạng bước đầu, nay đang phục hồi, củng cố lại và đang nhận được quân thay thế từ miền Bắc vào. Quân địa phương Nam Việt Nam, đang chịu gánh nặng của những cuộc tiến công của cộng sản, những cuộc tiến công đã bào mòn tinh thần của họ, làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế vốn đã căng thẳng, và góp phần tạo nên một sự suy sụp, tuy chậm, nhưng rõ nét trong dân chúng, mấy lâu nay vẫn được xem là dưới sự ảnh hưởng và sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam Cộng hoà…”

        Kèm theo bản báo cáo trên, có một sơ đồ vẽ lên hình thái đôi bên trong thời gian này. Trên toàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam, có một chuỗi khoanh tròn nho nhỏ, tô mầu đỏ, nằm rải rác dọc biên giới Việt Nam-Campuchia, Việt Nam-Lào. Đó là những căn cứ của Quân giải phóng. Đọc bản báo cáo và nhìn qua sơ đồ, chắc có người đã suy nghĩ: “Như thế này thì làm gì có chuyện nổi dậy và tấn công trong vài ba năm nữa”.

        Có hai điểm trong báo cáo phản ánh tương đối đúng tình hình thực tế ở chiến trường quân khu 1 lúc bấy giờ: Lực lượng Quân giải phóng đang được phục hồi, và “sự bào mòn tinh thần của quân địa phương đang chịu gánh nặng của những cuộc của cộng sản”.

        Mùa xuân 1974, Quân khu uỷ Quân khu 5, cũng có nhận định như sau: “Với lực lượng địch đã đưa ra sử dụng trong hơn một năm nay, trong lúc hoạt động của ta còn yếu, mà chúng chỉ đạt được những kết quả như vậy, thì có thể nói đây là đỉnh cao của bình định lấn chiếm, của chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh trong giai đoạn mới”.

        Sự chuyển biến trên chiến trường mà bản báo cáo của DAO đã thừa nhận, cũng như kết luận trên đây của Quân khu uỷ Quân khu 5 là kết quả của việc thực hiện Nghị quyết 21 Trung ương tháng 10 năm 1973 và nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân uỷ Trung ương. Trước những đòn giáng trả của ta, quân địa phương đã tỏ ra bất lực, kế hoạch bình định bị chừng lại; một bộ phận quân chủ lực Cộng hoà Việt Nam phải phân tán, thay thế cho quân địa phương, đi làm nhiệm vụ bình định. Trong một số tướng tá có kẻ đã thấy trước được nguy cơ rải quâ, dàn đều trên khắp các chiến trường, nên cố tạo điều kiện để nắm trong tay một lực lượng dự bị đáng kể. Điều ngược đời là: ở cấp sư đoàn trong vùng chiến thuật 1, mỗi viên tư lệnh lúc đầu con giữ được một trung đoàn, hay vài tiểu đoàn làm lực lượng dự bị, nhưng càng lên trên, lực lượng càng ít dần và đến Bộ Tổng tham mưu, thì coi như trắng tay: sư đoàn dù, sư đoàn thuỷ quân lục chiến, hai con át chủ bài nay đã bị kìm chặt trên chiến trường Trị Thiên. Để khắc phục nhược điểm này, cũng có người đưa ra ý kiến muốn xây dựng quân đội Cộng hoà thành một kiểu “quân đội nhân dân”, vũ trang rộng rãi trong nhân dân để giữ đất, để cho quân chủ lực được cơ động hơn. Nhưng cái hình thức bề ngoài, cái tên gọi, thì làm thế nào có thể trở thành quân đội nhân dân, khi mà bản chất không thay đổi. Chế độ nguỵ trao vũ khí cho nhân dân, thì có khác gì kẻ đã khát nước mà đi uống thuốc độc.

        Thiệu không bao giờ dám để mất một tấc đất, cho dù mảnh đất ấy không có một mống dân nào và cũng không có giá trị về bất cứ một mặt nào. Ông ta cố sống cố chết bám giữ các đồn bốt ở những nơi hẻo lánh, heo hút, giữa rừng sâu như Đắc Pét-Măng Bút-Tống Lê Chân, mà phương tiện tiếp tế duy nhất là những chiếc trực thăng vừa ít ỏi lại vừa cổ lỗ. Vấn đề đặt ra cho Quân giải phóng là phải xoá sạch các ung nhọt ấy đi để làm cho vùng căn cứ được mở rộng hoàn chỉnh hơn: việc làm đường, làm kho tàng, cũng như việc cơ động lực lượng được thoải mái, dễ dàng hơn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 01:44:54 pm

        Khúc ruột miền Trung dằng dặc có đường quốc lộ 1 chạy suốt từ Bắc chí Nam và các đường quốc lộ 19, 21, chạy từ bờ biển lên biên giới phía Tây Nguyên. Cái “dằng dặc” của miền Trung là nỗi lo lắng lớn của Mỹ-Thiệu trong suốt cả cuộc chiến tranh: lúc nào cũng nơm nớp sợ bị chia cắt. Sở dĩ như thế là vì giải đất này cơ lưng dựa vững chắc là dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. 80 năm đô hộ, có nhiều nơi trên dãy núi này, thực dân Pháp chưa dám bước chân đến. Những cái tên: Bến Hiên, Bến Giằng, Trà Mi, Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ, An Lão, Gia Hội, Vĩnh Thạnh, đối với lính Pháp và lính “bản xứ” xưa kia là những nỗi kinh hoàng, có đi mà chẳng có về. Trong kháng chiến chống Pháp, cả vùng này được hoàn toàn tự do, nhân dân đã được cách mạng giáo dục, biết Boóc Hồ, cơ sở cách mạng càng thêm vững chắc. Ấy thế mà lần này, Mỹ cậy có sức, có tiền dấn thân vào. Trong thời kỳ chiến tranh cục bộ, tại những nơi này và suốt cả cùng giáp ranh với đồng bằng, lính Mỹ kéo đến, hết bò đến lết, nào phục kích, nào bịt hành lang, cố tình ngăn chặn lực lượng cách mạng từ trên núi xuống. Sau khi có Hiệp định Paris, theo chân Mỹ, Thiệu đã dùng những nơi này làm nơi xuất phát của các lực lượng chuyên đi càn quét, lấn chiếm trái phép. Trên bàn hội nghị ở trại David, đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời đã lớn tiếng tuyên bố sẽ trừng trị đích đáng những thủ đoạn ấy tại những nơi này. Và chúng ta đã nói là làm. Từ chỗ bị động phòng ngự trong thời kỳ đầu, ta đã bung ra cài lại thế, nhưng chưa sử dụng hết lực lượng chủ lực, nên sự chuyển biến ban đầu tuy chắc nhưng còn chậm.

        Kỳ Trà là một cứ điểm nhỏ do đại đội địa phương 931, hai trung đội nghĩa quân và 60 dân vệ đóng giữ, án ngữa phía tây nam quận lỵ Tam Kỳ-Tiên Phước, một con đường tỉnh lộ thọc sâu vào căn cứ của Quân khu 5. Trận tiêu diệt Kỳ Trà là một trậnh đánh mức bình thường. Nhưng tư lệnh sư đoàn 2 nguỵ, tướng Trần Văn Nhật đã cảm thấy có điều gì khác thường. Ông ta vội vàng điều ngay tiểu đoàn 1 của trung đoàn 2 và một tiểu đoàn của trung đoàn 6 bộ binh đến giải toả, nhưng không thành công. Tiếp đến một vị trí khác do tiểu đoàn 131 địa phương đóng giữ, gần quận lỵ Tiên Phước, bị đánh chiếm, Nhật điều động cả liên đoàn biệt động quân 12 đến tăng cường cho Tiên Phước. Chỉ trong vòng 10 ngày, liên đoàn này đã bị thiệt hại nặng; rồi tiếp theo các trung đoàn 4 và 5 thay phiên nhau bước vào chiến đấu. Đến đầu tháng 6 năm 1974, toàn bộ sư đoàn 2 gần như mất hiệu lực, vì thương vong quá nặng nề. Chiến sự không những chỉ bùng lên trong phạm vi tỉnh Quảng Tín, mà cả ở Quảng Ngãi, Nhật cũng phải đối phó rất chật vật với lữ đoàn 52 Quân giải phóng.

        Trong lúc tiếng súng ở vùng giáp ranh nổ giòn giã, thì ở Tây Nguyên, trên đường 14, phía bắc Kon Tum, Đắc Pét bị tấn công. Đây là một đồn tiền tiêu do tiểu đoàn biệt động quân 88 với 360 người, 10 trung đội nghĩa quân với 300 người chiếm giữ. Mặc dù được 70 lần chiếc máy bay yểm trợ, Đắc Pét vẫn bị “tràn ngập”. Sự xuất hiện của xe tăng và pháo lớn ở khu vực này đã làm cho họ hết sức kinh ngạc và lo sợ. Đối phương từ đâu đến và từ bao giờ?

        Những chiến thắng trong mùa hè năm 1974 ở Khu 5, chưa phải đã lớn lắm, nhưng đã có một tác động rất lớn. Nó đã đem lại sự tin tưởng vào sự chỉ đạo của cấp trên, sự thống nhất tư tưởng quân sự trong toàn khu vực: Trong lúc này không ai còn ý kiến là nên phân tán các đơn vị chủ lực ra, chia đều cho các địa phương, để be bờ, ngăn chặn, hay gỡ từng chốt một, mà phải quán triệt tinh thần tiến công, lấy phương châm “phản công và tấn công” mà Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng đã chỉ ra, để hành động.

        Thắng lợi xuân hè năm 1974 đã làm cơ sở cho quyết tâm của đợt hè thu năm ấy. Một kế hoạch hoạt động quy mô lớn hơn nhiều và đều khắp hơn nhằm tẩo cho quân khu một thế chiến lược mới: Lần lượt giải phóng các thung lũng thọc sâu vào căn cứ, đưa chủ lực xuống đứng ở đồng bằng, uy hiếp quốc lộ 1, áp sát các đô thị. Không chỉ phải một đợt mùa thu mà thôi, đây cũng là phương hướng hoạt động của quân khu trong suốt thời gian còn lại của năm 1974, để từng bước, thực sự làm chủ chiến trường.

        Chiến dịch tổng hợp mừa thu năm 1974, diễn ra trong phạm vi ba tỉnh: Quảng Đà, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Trận chiến đấu mở màn diễn ra ở Nông Sơn, Trung Phước.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 10:41:49 pm

        Nông Sơn, Trung Phước nằm trong thung lũng sông Thu Bồ. Đồn Chính nằm trên cao điểm 270, trên bờ tây sông. Cả một hệ thống đồn vệ tinh nằm rải rác hai bên bờ sông vào tận đến chân đèo Le. Hai vạn dân bị kìm kẹp trong thung lũng này. Ngày 17 tháng 7 năm 1974, sư đoàn 2 thiếu trung đoàn 38,nhưng lại được phối thuộc thêm trung đoàn 36 và đầy đủ các binh chủng kỹ thuật: đặc công, pháo binh, thiết giáp, cao xạ mở màn chiến dịch. Việc tiêu diệt dứt điểm Nông Sơn và tất cả các đồn bốt chung quanh diễn ra trong đêm khá gọn. Phản ứng trong ngày hôm sau rất yếu ớt. Vài chục lần chiếc A37 đến ném bom vu vơ, vài loạt đạn pháo và trận địa đặt trong thung lũng Quế Sơn, bên kia núi Hòn Tàu, bắn hú hoạ đến chiều thì tiếng súng thưa và bặt hẳn. Các đơn vị chuyển sang đánh viện. Chiến trường được lựa chọn là chân núi Kỳ Vĩ, nam sông Thu Bồn. Sư đoàn 2 Quân giải phóng đã chờ sẵn ở đấy. Kết quả sau mấy ngày chiến đấu là hai tiểu đoàn của trung đoàn 2 quân đội Cộng hoà bị đánh thiệt hại nặng ở Kỳ Vĩ-Khương Quế và cách đấy mấy cây số, ở Đức Dục, tiểu đoàn 3 cũng bị tan vỡ, sau khi tiểu đoàn trưởng bị thương nặng. Theo lệnh tướng Ngô Quang Trưởng, liên đoàn 12 biệt động quân ở Quảng Ngãi vội điều động đến để lấp vào chỗ trống; tiếp đến, ngày 26 tháng 7, trung đoàn 54 ở chiến trường Trị Thiên cũng kéo vàp, chân ướt chân ráo mới đến vùng Gò Nổi đang chuẩn bị bước vào vòng chiến, thì bị đánh cho tơi tả. Ngô Quang Trưởng vốn dĩ là hiếu chiến, lại được cái ô Mỹ che chở, nên rất hùng hổ. Với một đối thủ như vậy, thì tổ chức đánh bồi, đánh nhồi, nhất định sẽ ăn to. Trong vòng chưa đầy nửa tháng, từ ngày 17 đến ngày 30, Trưởng liên tiếp mở ba cuộc hành quân trên cùng một địa điểm. Các đơn vị cứ sắp hàng dọc mà lao vào chỗ chết. Cùng một lúc, sân bay Đà Nẵng mấy ngày liền bị pháo kích, 17 chiếc bị huỷ, một số khác bị hỏng nặng. Cầu Nam Ô phía bắc thành phố bị đánh sập. Trong lúc Trưởng đang cố vét từng đơn vị đưa ra mặt trận, mà vẫn chưa đến được Nông Sơn, thì tiếng súng ở Thượng Đức lại rộ lên. Nông Sơn nằm trong thung lũng sông Thu Bồn, và Thượng Đức nằm trong thung lũng sông Vũ Gia, như hai cánh cây xoè ra, cắm sâu vào trong lòng dãy Trường Sơn, mà gốc cây là vùng B Đại Lộc. Ở đấy có quận lỵ Đại Lộc và quận lỵ Đức Dục. Không hiểu vì lẽ gì, Mỹ lại đặt cho vùng này một cái tên rất Mỹ: bang Arizona; chỉ biết rằng, về phương diện quân sự ở mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, thì vùng này có tầm quan trọng đặc biệt. Từ trước đến nay, nó là vùng hậu cứ của Quân giải phóng ở mặt trận 4; nhưng sau ngày có Hiệp định, bị lấn chiếm trái phép, nên trở thành vùng tranh chấp. Ba phía: bắc, tây, nam đều là vùng căn cứ của ta, được nối liền với nhau bằng những đường sông, đường bộ rất thuận tiện cho việc cơ động lực lượng. Một khi ta làm chủ được vùng này, đặt trận địa pháo 130 ly, thì toàn tỉnh Quảng Đà, trong đó có căn cứ liên hiệp Đà Nẵng, đều nằm trong tầm pháo. Trong kế hoạch tác chiến chiến dịch của quân khu, ta cũng đã có tính đến mối quan hệ hữu cơ giữa Nông Sơn và Thượng Đức và ngược lại. Cho nên, có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ lực và địa phương, giữa lực lượng chính trị và quân sự ở hai nơi này thì dù đối phương có tăng viện đến bao nhiêu, ta vẫn nắm được quyền chủ động chiến dịch,từ đầu đến cuối.

        Quân đội Cộng hoà ở Quảng Đà chưa kịp hoàn hồn, thì ở Quảng Tín, trong thung lũng Quế Sơn, trung đoàn 38 của sư đoàn 2 Quân giải phóng cùng với các tiểu đoàn địa phương của tỉnh, huyện tiến công một loạt cứ điểm: Hòn Chiện, Lạc Sơn, Núi Ngang, v.v… khôi phục lại hình thái trước ngày ngừng bắn. Đồng bào được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang nổi lên diệt ác, phá kìm, bao vây, bức rút, bức hàng hàng loạt đồn, bốt, đấu tranh quyết liệt, phá vỡ các khu tập trung ở đông Quế Sơn, từng mảng chốt rơi rụng. Sư đoàn 2 và trung đoàn 57 của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà bị chôn chân trong thung lũng này cho đến ngày hoàn toàn tan rã. Sau ba cuộc hành quân bị thất bại, Nguyễn Duy Hinh tay trắng và tiếp đó một vài hôm đến lượt Ngô Quang Trưởng trắng tay, một tên lính dự trữ cũng không còn. Trưởng đành phải cầu cứu đến Bộ Tổng tham mưu, xin rút hai lữ đoàn du 1 và 3 ở Trị Thiên về mặt trận Thượng Đức để đối phó với sư đoàn 301 của ta mà chúng vừa phát hiện được phiên hiệu và còn biết là từ Đắc Pét mới ra.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 10:45:50 pm

        Như mọi người đều biết, sau chiến dịch Quảng Trị năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu đưa cả 2 sư đoàn dự bị chiến lược ra tăng cường cho quân đoàn 1 án ngữ nơi đầu sóng ngọn gió này. Sau hơn một năm rưỡi trời bị đưa ra chốt giữ trên chiến trường phía bắc, 2.900 sĩ quan và binh lính chết, 12 ngàn bị thương, 300 bị mất tích. Đối với một đơn vị mà biên chế đầy đủ là 13 ngàn người, thì tổn thất nói trên, có nghĩa là trăm phần trăm binh sĩ đã bị loại ra ngoài vòng chiến đấu. Những loại lính ưu tú nhất không còn nữa, số tân binh mới được bổ sung-bao giờ cũng giành cho lính dù ưu tiên-thì tinh thần sa sút, “do tác động của nghèo đói, của bản thân và gia đình”. Trong một báo cáo của DAO, đã có đoạn nói về họ như thế, mà còn có chú thích thêm: “nạn đào ngũ không hề bị trừng phạt, nạn say rượu, ma tuý, đánh giết chỉ huy ngày càng tăng”. Dù sao, công bằng mà nói, năng lực chiến đấu của quân dù và thuỷ quân lục chiến vẫn còn cao hơn lính cộng hoà một bậc. Lính dù đến Đà Nẵng ngày 8 tháng 8, quen thói, hợm hĩnh, chẳng còn coi ai ra gì, và rêu rao là chỉ trong vài ngày, sẽ lấy lại Thượng Đức.

        Nhưng tình hình đã khác trước rất nhiều. Trong một báo cáo gửi lên cấp trên, Phạm Kiều Loan, phó chủ nhiệm trung tâm hậu cần trung ương quân đội Cộng hoà Việt Nam, có than vãn về tình hình vật chất lúc bấy giờ như sau:

        “Thiếu đạn dược, phụ tùng máy bay và xăng dầu. Giờ hoạt động của máy bay chỉ còn 50%; súng M.16 trước kia mỗi cơ số là 500 viên, nay phải rút xuống còn một nửa, thiếu pháo sáng, đạn vạch đường. Loại xe tăng M.48 thì quá tinh vi, nên không có người sửa chữa, phải đưa về Mỹ; súng M.16 cần 3 loại dầu nhờn khác nhau, loại pháo 175 ly tầm bắn xa, nhưng phải bắn mò. Tên lửa TOW, 3.000 đô la một quả, quá đắt…”

        Đến lúc này, lính dù lại phải bày ra cái trò đánh theo lối con nhà nghèo. Hồi đánh nhau ở Quảng Trị, trên khu vực Thành Cổ, mỗi bề rộng chừng trên một cây, mỗi ngày Mỹ đã giội xuống đây vài vạn viên đạn pháo lớn, từ các chiến hạm bắn lên yểm trợ, nắm sáu trăm lần chiếc máy bay, trong đó có vài trăm lần chiếc B.52 biến hẳn bốn bức tường thành mấy đống gạch vụn chỉ trong có mấy ngày. Sỏi đá cũng trở thành tro bụi. Lúc bấy giờ, lực lượng bổ sung cho quân dù và thuỷ quân lục chiến còn dồi dào, có chọn lọc, có ưu tiên, nên đánh xong một trận là có lính mới thay vào ngay, quân số luôn luôn giữ múc 600-700 của một tiểu đoàn. Bây giờ, thời kỳ hoàng kim ấy không còn nữa. Trên toàn cả mặt trận dài hàng chục cây số, mỗi ngày chỉ có 30-50 lần chiếc máy bay bay tít trên chín tầng mây, vì sợ pháo cao xạ, và trên dưới 1.000 viên đạn pháo. Về phương diện chiến thuật, rõ ràng là có một bước lùi, một sự thay đổi đáng kể. Để nhanh chóng tái chiếm lại Thượng Đức đã bị rơi vào tay Quân giải phóng từ ngày 8 tháng 8. Họ đã áp dụng một chiến thuật mới: bàn tay xoè, nghĩa là phân tán ra thành đơn vị nhỏ, dũi lấn tới. Hoả lực chi viện thì yếu ớt, tinh thần lại bạc nhược, nên xoè ra đến đâu, vừa bị đánh, lại phải co lại, nằm yên, be bờ, chốt giữ. Với một đội quân đánh thuê, từ tổ chức, huấn luyện, trang bị, tư tưởng chiến thuật, chiến lược đều phải răm rắp theo điều lệnh của quân đội Mỹ, mà đánh theo kiểu này, thì chỉ càng bộc lộ thêm nhiều nhược điểm, sơ hở mà thôi. Hai tuần lễ tác chiến rõng rã, mà quân dù vẫn không đến được cao điểm 1062, một đài quan sát tuyệt vời ở đông Thượng Đức. Về phần mình, sau khi làm chủ Thượng Đức, ta còn có thêm một trận địa pháo vừa an toàn, vừa bí mật ở phía nam sông. Với thế trận như thế, toàn bộ thung lũng Vũ Gia và vùng B Đại Lộc đều bị ta khống chế, ai đã chui đầu vào đây, nhất định sẽ bị sứt đầu mẻ trán. Cho nên chỉ trong vòng 2 tháng, hai lữ đoàn dù 1 và 3 đã có 2.000 bị loại ra khỏi vòng chiến đấu. Bộ Tổng tham mưu ta chủ trương phải giữ vững khu vực Thượng Đức, đánh bại cuộc hành quân tác chiến của sư đoàn dù. Tuyệt đối không được đặt thành tiền lệ là quân dù đi đến đâu là giải toả được đến đấy. Phải tăng cường sự lãnh đạo tư tưởng giải quyết cách đánh nào tốt, phát huy cách đánh chốt có công sự, bẻ gãy thủ đoạn đánh dũi của đối phương, đồng thời nắm chắc lực lượng cơ động, nhằm vào sở chỉ huy lữ đoàn, trận địa pháo của đối phương mà diệt, phát huy cách đánh của phân đội nhỏ, tinh nhuệ, đánh vào sau đội hình.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 10:48:23 pm

        Để quán triệt hơn nữa ý định của Bộ, đồng thời để tuyệt đối giữ bí mật, một ý đồ chiến lược đang chớm hình thành, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã triệu tập thiếu tướng Hoàng Văn Thái và thiếu tướng Lê Linh, tư lệnh và chính uỷ quân đoàn 2 về Hà Nội, giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy mặt trận Thượng Đức cho quân đoàn. Đại tướng chỉ thị: “Việc giữ Thượng Đức và đánh bại quân dù đi giải toả, có một ý nghĩa chính trị, quân sự lớn, đối với địch, cũng như đối với ta. Phải đánh sụp truyền thống của kẻ địch, đồng thời xây dựng truyền thống tốt cho ta. Vì vậy, vấn đề nóng bỏng nhất của quân đoàn hiện nay là Thượng Đức. Phải tìm mọi cách làm suy yếu, giam chân quân dù trên chiến trường này càng lâu càng tốt, suốt cả mùa xuân năm 1975, để tạo điều kiện cho các nơi khác hoạt động. Tân binh, vật chất, đạn dược sẽ được bổ sung đầy đủ”.

        Chúng ta thừa biết trình độ chỉ huy của Ngô Quang Trưởng chỉ có thể đối phó với một chiến dịch. Nếu có đôi ba nơi cùng tiến công một lúc, thì sẽ bối rối, không xử trí nổi. Ở phía nam vùng một chiến thuật, Trưởng đã phải điều động trung đoàn 4 của sư đoàn 2 ra thung lũng Quế Sơn, để thay thế cho sư đoàn 3 bị đánh tơi bời, làm cho lực lượng phòng thủ ở Quảng Ngãi bị suy yếu, mặc dù ngoài lực lượng còn lại của bản thân, sư đoàn 2 còn được phối thuộc thêm 12 tiểu đoàn địa phương quân và 3 tiểu đoàn thuộc liên đoàn biệt động quân 11. Ở Quảng Ngãi, cũng như ở các nơi khác, mỗi thung lũng thường là một quận lỵ, giao cho một tiểu đoàn quân biệt động và một số quân địa phương, cùng với nhiều trung đội nghĩa quân chiếm giữ. Ngoài ra, còn có bọn cán bộ bình định phượng hoàng, thiên nga, chiêu hồi… Tiểu đoàn biệt động quân 68 đứng ở quận lỵ Sơn Hà; tiểu đoàn biệt động quân 78 ở Trà Bồng và tiểu đoàn biệt động quân 70 ở Gia Vụt. Chừng ấy lực lượng đủ kìm kẹp trên dưới vài ban vạn dân tập trung trong vài ba khu vực. Lúc bình thường, xem ra có vẻ mạnh nhưng đến giữa năm 1974 trở đi, với trình độ tác chiến và khả năng bảo đảm của ta, thì đây là những miếng mồi béo bở, những khu vực mục tiêu được lựa chọn trong kế hoạch hoạt động của quân khu. Lữ đoà 52 Quân giải phóng và một đơn vị pháo, được giao nhiệm vụ giải phóng quận lỵ Minh Long, áp sát vào các vùng đông dân cư như quận lỵ Nghĩa Hành, uy hiếp cả hai quận lỵ Mộ Đức và Đức Phổ. Đơn vị bảo vệ Minh Long cùng với 15 trung đội nghĩa quân ở các tiền đồn chung quanh nhanh chóng bị diệt.

        Trong số chiến lợi phẩm, có cả những khẩu pháo 105 ly, còn tốt dùng được ngay. Tướng Trần Văn Nhật cho 3 tiểu đoàn đến cứu nhưng không kết quả. Ba ngày sau, Nhật đề nghị rút bỏ Gia Vụt, Sơn Hà, Trà Bồng nhưng Trưởng nhất định không nghe. Ông ta ra lệnh: “Nhất định không để một quận lỵ nào rơi vào tay cộng sản mà không qua chiến đấu”. Y như rằng, sau đó một thời gian ngắn, Gia Vụt được giải phóng.

        Như vậy trên chiến trường Khu 5, sau hè thu, đã xuất hiện mấy nhân tố mới: bộ đội địa phương và du kích có thể cùng đồng bào tiêu diệt, bức hàng, bức rút từng mảng chốt nhỏ thuộc hệ thống kìm kẹp, để giàh dân, giành quyền làm chủ.

        Bộ đội chủ lực có khả năng diệt địch trong công sự vững chắc ở trong chu khu, quận lỵ, giải phóng từng khu vực một.

        Ta có khả năng đánh bại các cuộc hành quân giải toả của đối phương, bất kể các loại quân nào, giữ vững vùng giải phóng và phát triển thế tiến công, mở rộng thắng lợi.

        Tuy nhiên vấn đề phá bình định, nổi dậy ở vùng ven các đô thị và những vùng quan trọng còn nhiều vướng mắc. Nổi dậy thì được nhưng giữ như thế nào?

        Phong trào chính trị ở các đô thị còn yếu.

        Bộ đội chủ lực tuy có diệt được nhiều địch nhưng chưa gọn, đặc biệt, cách đánh cụm cứ điểm, quận lỵ, cũng như đánh vận động diệt từng chiến đoàn, trung đoàn địch ở đồng bằng, địa hình trống trải, thì quân khu chưa có kinh nghiệm.

        Giải phóng các cư điểm Đắc Pét-Măng Bút-Măng Đen-Ia súp ở Tây Nguyên và vùng giáp ranh, Khu 5 đã mở rộng vùng căn cứ của ta từ Trường Sơn ra đến biển và gần như liên hoàn từ bắc chí nam, đã khôi phục lại trạng thái trước ngày 28 tháng 1 năm 1973 và còn mở rộng thêm ra…

        Khác với những chiến trường khác ở miền Nam Việt Nam, chiến trường Trị Thiên có một nét khá độc đáo: ngày thường thì có vẻ là sóng yên bể lặng nhưng lúc bất thình lình nổi cồn cao sóng dữ thì không đâu bằng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 10:51:40 pm

        Sự kiện nổi bật nhất gần đây là việc thành lập Quân đoàn 2, ngày 17 tháng 5 năm 1974, với các sư đoàn 304, 324, 325 và các đơn vị binh chủng kỹ thuật trực thuộc; đơn vị nào cũng được gần 30 tuổi quân, có nhiều kinh nghiệm tác chiến. Ngoài việc phái ra một số đơn vị để tham gia chiến dịch hè thu ở Quảng Nam-Đà Nẵng và ở Trị Thiên, quân đoàn dốc sức vào công tác huấn luyện, bổ sung trang bị, làm đường cơ động từ Tà Bạt nằm trên trục đường chiến lược chạy đến núi Bạch Mã, vào đến bắc Đà Nẵng và tích luỹ dự trữ vật chất. Giữa lúc Ngô Quang Trưởng đang bù đầu rối rít về chiến sự ở Quảng Đà, Quảng Tín, Quảng Ngãi, thì sư đoàn 324 bắt đầu tiến công vào tuyến phòng ngự ở tây nam Huế, ngày 25 tháng 8 năm 1974. Trong khu vực này, có những điểm cao chạy dọc theo rìa phía tây đường số 1 vào đến núi Bạch Mã như cao điểm 144, 273, 224, 350, núi Bông, Mỏ Tàu. Chỉ trong ngày đầu tiến công, tiểu đoàn 2, trung đoàn bộ binh 3 quân đội Cộng hoà và tiểu đoàn địa phương 129 bị diệt. Tiểu đoàn thứ hai của trung đoàn này bị pháo bắn thiệt hại, rút chạy. Toàn bộ công sức bỏ ra để xây dựng tuyến phòng thủ trên các điểm cao nói trên, bị xoá sạch chỉ trong mấy ngày. Những người khách bộ hành đi trên đường quốc lộ số 1, chẳng ai chú ý đến những mỏm đồi này làm gì; nhưng đối với những cán bộ của Quân đoàn 2 thì lại khác: một khi đã chiếm được bất cứ một mỏm nào để đặt đài quan sát, lại có trận địa pháo ở phía sau, thì khống chế được một đoạn đường quốc lộ rất dài từ nam Huế đến bắc Hải Vân. Đối phương cũng nhanh chóng nhận ra được rằng, cuộc tiến công lần này, chẳng phải như lần trước là nhằm mục đích tạo ra một hàng lang để xuống đồng bằng, hỗ trợ cho phong trào phá bình định, mà chính là nhằm cắt con đường giao thông huyết mạch này: mọi công tác vận chuyển, tiếp tế, đi lại trên chiến trường bắc vùng I bằng đường bộ, đường sắt và cả đường không, sẽ bị tê liệt. Cho nên sống chết gì cũng phải đổ quân vào đây mà giải toả cho bằng được.

        Ngay từ đầu, Trưởng đã phải ném cả trung đoàn 51 vào vòng chiến, không kết quả, lại phải cấp tốc điều cả trung đoàn 54 đanh bị đánh nhừ tử, từ chiến trường Quảng Nam ra, vẫn chưa đủ. Thậm chí đến lữ đoàn dù, đang án ngữ trên tuyến sông Bồ ở bắc Huế, tiểu đoàn 37 biệt động quân, cũng đưa đến để cứu nguy và như vậy là đã vét sạch những lực lượng tinh nhuệ nhất ở vùng I, để giành giật lại những điểm cao nóng bỏng này với Quân giải phóng. Chiến sự kéo dài, cho đến đầu mùa xuân 1975. Tại đấy, cả hai bên đầu có một trở ngại chung: mưa và bão. Trên đất nước Việt Nam, có lẽ lượng mưa ở khu vực này là cao nhất và trong cả năm, thì cũng tập trung nhất ở những tháng ngày này: hết mưa, đến bão. Hành quân, tiếp tế vô cùng khó khăn. Chủ trương của Bộ Tổng tham mưu là làm thế nào để duy trì được cường độ hoạt động, đồng thờ kiện toàn, chấn chỉnh được các đơn vị để được sung sức hơn trong mùa xuân đến. Các trung đoàn thuộc sư đoàn 324, được lệnh bí mật lùi về phía sau, giao lại chiến trường cho các đơn vị chủ lực của địa phương: trung đoàn 6 và trung đoàn 271. Để làm cho có vẻ rầm rộ hơn, ngày 21 tháng 10 năm 1974 mở thêm một mặt trận mới đánh vào các tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 6, 8 và 61, lúc bấy giờ đang đứng trên tuyến phòng ngự Phong Điền ở phía bắc Huế. Việc thay quân ở Phú Lộc, được thực hiện rất êm đẹp, mãi đến mùa xuân 1975 đối phương mới phát hiện ra.

        Nghị quyết 21 đã đến với chiến trường Nam Bộ rất kịp thời. Trung ương Cục và Quân uỷ Miền nhanh chóng triển khai cho các cấp uỷ Đảng, các cấp chỉ huy tỉnh đội… nghiên cứu quán triệt. Tiếp theo đó, nhiều cuộc hội nghị được tổ chứ để nghiên cứu các chuyên đề lớn, nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc nhất: Hội nghị tổng kết kinh nghiệm đánh giá bình định, hội nghị binh vận v.v… Qua học tập, nhiều nhận thức lệch lạc, nhiều vướng mắc được uốn nắn lại và đạt được sự nhất trí cao. Đây là một thắng lợi rất cơ ản. Sự nhất trí từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đã đem lại sức mạnh rất to lớn.

        Quán triệt tinh thần Nghị quyết 21 và nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, tháng 3 năm 1974, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đề ra phương hướng chính cho chiến trường Nam Bộ là: “Phải đẩy mạnh phá bình định ở đồng bằng sông Cửu Long, phá hậu phương trực tiếp cung cấp sức người sức của cho chiến tranh: tiêu diệt địch ở rừng núi, mở hành lang, tạo bàn đạp tấn công, hoàn chỉnh và mở rộng vùng giải phóng miền Đông, phá lỏng và tạo bàn đạp chung quanh đô thị, nhất là vùng ven Sài Gòn (Nghị quyết 21-TWC, tháng 5 năm 1974)”.

        Dưới ánh sáng của các nghị quyết nói trên, các chiến trường có sự phối hợp nhịp nhàng hơn trước, tạo điều kiện cho nhau chuyển dần lên thế chủ động tiến công, đã đánh trong mùa khô, lại liên tục đánh cả mùa mưa, dồn đối phương vào thế suy yếu toàn diện.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 11:00:52 pm

        Phía bắc Sài Gòn, các cư điểm vòng ngoài đều bị cô lập, không thể dùng bộ binh, thậm chí cả đến hoả lực, để chi viện tiếp cứu cho nhau: Tây Ninh-Tống Lê Chân, An Lộc-Chơn Thành-Phước Vĩnh-Đồng Xoài… Theo cách suy nghĩ của Thiệu nếu để bất cứ một nơi nào lọt vào tay Quân giải phóng thì cũng thành vấn đề chính trị lớn, ảnh hướng đến tinh thần của nhân dân, đến sức mạnh của quân đội Cộng hoà. Bỏ thì thương, vương thì tội, nên mặc dù phải dùng đến hàng nghìn lần chiếc trực thăng mỗi tháng để bảo đảm tiếp tế, các cứ điểm nói trên vẫn cứ ngắc ngoải cầm hơi. Không quân, dù có thừa hưởng được cái gia tài đáng giá do Mỹ để lại, cũng không đủ sức để bảo đảm lâu dài cho cả hệ thống đồn bót này nhất là trong lúc xăng dầu đang là vấn đề nan giải.

        Để khắc phục lại tình trạng khó khăn này, đối phương có ý đồ nối liền hệ thống cứ điểm này lại với nhau, lập ra tuyến phòng thủ chạy từ Chơn Thành sang Phước Vinh-Đồng Xoài. Ta mở mặt trận Bù Bông, Tuy Đức, tiêu diệt đồn Nha Bích đứng giữa đường Chơn Thành-Đồng Xoài, đốt kho xăng Nhà Bè. Bị đánh đau, chúng vội co về bên trong, lập ra tuyến phòng thủ hẹp hơn, kéo dài từ An Nhơn Tây sang Bến Cát. Đằng sau cái chiến luỹ ấy, họ mặc sức tung hoành càn quét liên miên vùng Trảng Bàng, bắc Củ Chi, kết hợp với hoạt động của phượng hoàng, thiên nga, cố đẩy lực lượng chính trị, vũ trang ta ra ngoài, xoá thế da báo. Bộ tư lệnh Miền đặt vấn đề phá tuyến, để hỗ trợ cho phong trào phá bình định vùng ven, giữ các lõm giải phóng, xây dựng các địa bàn đứng chân ở chung quanh Sài Gòn.

        Một bộ phận của sư đoàn 9 tiến công vào tuyến phòng thủ này. Các cứ điểm nằm trên tỉnh lộ 7, Ri Nét-Rạch Bắp do tiểu đoàn địa phương 301 đóng giữ bịt diệt, cánh cửa phía bắc vào Tam giác sắt được mở toang. Một đơn vị thuộc sư đoàn 9 phát triển dọc theo sông Thị Tính được 6 cây số, buộc viên tư lệnh vùng 3 chiến thuật, phải tung sư đoàn 7 biệt động quân ngăn chặn hướng tiến công của ta về Phú Cường. Cùng lúc, trên hướng đông bắc Sài Gòn sư đoàn 7 Quân giải phóng cũng mở đợt tiến công phối hợp. Toàn bộ chủ lực quân đội Cộng hoà và một bộ phận khá lớn quân địa phương trên các hướng này, đều bị căng kéo cho đến hết mùa mưa.

        Mặc dù lữ đoàn 3 thiết giáp và một vài đơn vị quân đội Cộng hoà có bị đánh thiệt hại nặng, nhưng nhiệm vụ tiêu diệt địch của đợt hoạt động chưa hoàn thành. Nguyên nhân là chỉ đặt vấn đề chốt chặn để giữ tuyến mà không đặt vấn đề tiêu diệt nên không cơ động lực lượng và cũng thiếu sự chỉ huy thống nhất.

        Ở đồng bằng sông Cửu Long, bước sang năm 1974, Thiệu mặc dù vẫn phải khư khư giữ lấy vùng đông dân nhiều của này, muốn hay không, buộc phải tiếp tục hạ thấp yêu cầu. Ông ta đang lâm vào thế bị động chiến lược. Nhiệm vụ bảo đảm an ninh lãnh thổ phải đặt lên hàng đầu. Đã xa rồi, thời kỳ tự do tung quân đi tìm diệt, càn quét, đánh phá phong trào. Thay cho yêu cầu mở rộng vùng kiểm soát dành thêm dân, lần này chỉ đề ra nhiệm vụ cố gắng giữ đất, giữ dân.

        Tuy nhiên, Thiệu vẫn còn nuôi dưỡng ý chí ngăn chặn sự thâm nhập của Quân giải phóng vào vùng đồng bằng, tỏ ra rất nhạy bén trong việc ngăn chặn ta từ bên kia biên giới.

        Đầu năm 1974, một bộ phận của sư đoàn 5 Quân giải phóng và sư đoàn Đồng Tháp tiến công vào Long Khốt-Quéo Ba trong vùng Mỏ Vẹt, gần biên giới Việt Nam-Campuchia, nhằm thu hút đối phương, hỗ trợ cho phong trào bình định ở đồng bằng, đồng thời mở thông hành làn từ tây sông Vàm Cỏ Tây nối liền với Đồng Tháp, Kiến Tường, Kiến Phong, Mỹ Tho. Lập tức Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh vùng 4 chiến thuật, tung sư đoàn 7, sư đoàn 9 và lữ đoàn thiết giáp 4 ra ngăn chặn. Phối hợp với vùng 4, Phạm Quốc Thuần, tư lệnh vùng 3, cũng đưa sư đoàn 25 cùng với các lữ đoàn đặc nhiệm 310, 313, 320 với xe tăng, pháo binh và được sự chi viện tích cực của 50 lần chiếc trực thăng vũ trang và 100 lần chiếc máy bay chiến đấu trong ngày, liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân dài ngày cho đến mùa mưa năm 1974. Trong những tháng 4, 5, 6, chiến sự vẫn diễn ra rất ác liệt trên một vòng cung chạy từ Long Khốt đến Đức Huệ, Gò Dầu Hạ. Để phô trương thêm sức mạnh, mượn cớ là để truy kích đối phương đến tận hang ổ, quân đội Cộng hoà miền Nam đánh tràn sang đất Campuchia, nhằm mục đích chặn đứng một hiểm họa mà đêm ngày họ ăn không ngon, ngủ không yên: cắt quốc lộ 4, uy hiếp Sài Gòn.

        Trên chiến trường miền Tây, cũng để thực hiện ý đồ ngăn chặn, quân đội Cộng hoà liên tiếp mở các cuộc hành quân nam Nước Trong, Trị Pháp, triển khai cho bằng được các chi khu Hưng Long, Hậu Mỹ, Phương Hồng nhằm chiếm lĩnh khu trung tuyến, cắt đứt hành lang vận chuyển của ta từ trên biên giới xuống.

        Để có quân, họ rút bỏ hàng trăm đồn bốt ở những nơi không quan trọng, chỉ trong ba tháng, từ tháng 6 đến tháng 9, số đồn bốt từ 335 cái rút xuống 267 cái-lập ra hệ thống phân chi khu ở xã để thống nhất các lực lượng lại, nâng bảo an lên cấp tiểu đoàn. Sư đoàn 21, vốn đã bị vào loại kém nhất, hiệu suất chiến đấu thấp nhất, nay lại phải dàn mỏng hơn nữa, một mình phụ trách những sáu tỉnh đồng bằng: Phong Dinh, Ba Xuyên, Bạc Liêu, Chương Thiện, Kiên Giang và An Giang.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 11:11:25 pm

        Trong lúc ở vùng 4 đang gặp khó khăn về quân số, thì ở Bộ Tổng tham mưu cuộc khủng hoảng lại càng trầm trọng hơn. Biện pháp tháo gỡ khó khăn là giải thể biệt khu 44, để lấy ra 9 tiểu đoàn còn có chút ít máu mặt, để lấy quân bổ sung, ứng cứu cho những nơi khác, còn nguy hiểm hơn nhiều. Biết được thóp của trên, đàn em ở dưới chẳng còn có ai chịu nâng quân số lên để cho trên hốt gọn.

        Về phía ta, nhờ có sự phối hợp chung trên toàn chiến trường, sự kết hợp giữa các mặt đấu tranh ngày càng chặt chẽ hơn, nên cục diện chiến trường cũng thay đổi, nhân lúc chủ lực quân đội Cộng hoà bị chôn chân ở trên biên giới, các nơi khác bung ra đánh đều khắp và quyết liệt. Kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến và xây dựng, các lực lượng tại chỗ lớn mạnh nhanh chóng, chất lượng các tiểu đoàn địa phương có khác trước rất nhiều. Sự thay đổi này đã tạo ra tính chất đồng đều và phổ biến của phong trào. Ở những nơi, trước nay phong trào đã mạnh sẵn, lại có chủ lực hoạt động như Cần Thơ, Bạc Liêu, Chương Thiện thì tính chất rầm rộ, sôi nổi là điều dễ hiểu; đến những nơi không có một đơn vị chủ lực nào cũng thi đua, mở các “chiến dịch tổng hợp”. Với một đại đội không quá 30 người làm nòng cốt, Sóc Trăng đã huy động một số đông dân quân du kích và nông dân mở mảng, mở vùng ở hai huyện Mỹ Xuyên và Thạnh Trị. Về vũ khí, quân khu chỉ cấp cho một ít đạn B.40, B.41, còn thì địa phương phải tự túc lấy. Chiến thuật chém vè, hù dọa lại có dịp phát triển. Nhân dân vùng đồng bằng, tưởng như đã sống lại những ngày đồng khởi năm nào.

        Sự chuyển mình nhanh chóng, mạnh mẽ, đồng đều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, không những chỉ nói lên được sức mạnh của những nghị quyết mà còn nói lên truyền thống đấu tranh cực kỳ anh dũng, sự nỗ lực vô bờ bến của đồng bào Nam Bộ. Những nhận thức lệch lạc về hiệp định chỉ là cá biệt, quảng đại quần chúng thì lại khác. Tuy thời gian tìm hiểu Hiệp định Paris chưa được bao nhiêu, nhưng người dân ở đây lại hiểu khá đầy đủ ý nghĩa, tinh thần của nó, và vận dụng nó một cách rất tài tình và sáng tạo. Dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, họ không hề nuôi một ảo tưởng gì về đối phương, không mảy may hy vọng là chúng sẽ thực hiện những điều cam kết. Bản chất của đối phương là như vậy. Nhưng, Hiệp định đâu phải chỉ là vấn đề giấy tờ, mà đây là kết quả của cả một cuộc đấu tranh, cách mạng lâu dài, gian khổ, với ta, nó là vũ khí đấu tranh, với đối phương nó là một thứ thuốc độc, cứ ngấm dần… Ban đầu, thì chưa thấy phản ứng gì, nhưng tác hại thì rất lớn. Tinh thần của Hiệp định là hoà bình, hoà hợp. Tinh thần ấy phù hợp với thực tế. Đây là nguyện vọng của tất cả mọi người Việt Nam, dù đứng trên bất cứ trận tuyến nào. Trước kia, chính trị phản động là quốc gia, chống cộng, chia cắt đất nước, ngày nay chính trị phản động là chống Hiệp định Paris, là chống hoà bình, chống hoà hợp dân tộc, chống lại mơ ước từ bao đời nay của tất cả mọi người Việt Nam.

        Hàng ngày, trực tiếp đương đầu với đối phương, đồng bào hiểu họ rất rõ, nhận thấy sự thay đổi hàng ngày hàng giờ trong hàng ngũ họ. Rõ nhất là cái thế quân sự so với trước ngày ngừng bắn, thì khác nhau xa. Bây giờ là thế thủ, thế bị động, thế lùi, không thể nào gượng lại được. Đối phương muốn bung ra giữ lắm, muốn chiếm nơi này nơi khác, nhưng mỗi mùa hoạt động lại phải hạ thấp yêu cầu, thì lấy vải thưa mà che mắt thánh thế nào được?

        Trước kia, trong lúc chính sách bình định đang đạt hiệu quả cao nhất, bọn ác ôn mặc sức tung hoành. Người ta sợ một tên ác ôn hơn cả một đơn vị chủ lực nguỵ, vì nó biết tất cả trong địa phương: ai là cách mạng, ai là trung thành, thật bụng với quốc gia, ai là lưng chừng vâng vâng dạ dạ về ngoài, nó biết tất cả phong tục tập quán, thông thạo các hang cùng, ngõ hẻm. Bây giờ thì không thế nữa. Người trong đồn vẫn mặc bộ quần áo lính, bề ngoài vẫn rằn ri như cũ, nhưng ở trong khác trước nhiều biết bao nhiêu: họ là con cháu của dân. Những cấp chỉ huy, cán bộ tâm lý chiến, mặc sức hò hét, lừa bịp, cũng khó mà xua họ đi chém giết bà con họ, và tề nguỵ, dù có ngoan cố, độc ác đến đâu cũng không có ai dại dột đến nỗi đi đôn quân, bắt lính để mua cái chết cho con cháu họ. Một tên lính đi càn quét bị vướng mìn chết. Đồng bào khiêng xác nó lên đồn, đấu tranh đòi cấp chỉ huy phải thi hành đúng điều 6 Hiệp định Paris, không được tung quân đi càn quét, không được bắn phá, đồng thời đòi bồi thường thiệt hại cho gia đình nó. Từ đấy, dấy lên một phong trào chống bắt lính, lôi kéo con cháu về nhà làm ăn. Một mũi tên bắn trúng ba mục tiêu cùng một lúc. Chỗ dựa chủ yếu của đối phương để bình định, khủng bố, đàn áp ngày càng rệu rã như thế đấy.

        Địa phương mà bị yếu, thì chủ lực sẽ giảm mất sức cơ động vì phải phân tán ra để giữ đất thay thế cho địa phương. Nguồn bổ sung cũng cạn dần, chủ lực rốt cuộc cũng yếu theo. Quân số các tiểu đoàn bảo an thì lơ lửng ở con số 100 đến 150 là cùng. Lại nữa, lính chủ lực mà về các địa phương thì chẳng thuộc người, chẳng biết địa hình, suốt ngày phải do đối phó với chiến tranh du kích và với những cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng; có nơi lại còn phải lo đấu tranh với số quân và chính quyền ở địa phương, vì cả hai đều có máu tranh ăn, tranh giành quyền lợi.

        Báo cáo của quân đội Cộng hoà giữa năm 1974, khác hẳn với giọng lưỡi đầu năm: “Ở quân khu 4, tình hình an ninh lãnh thổ ngày càng sụp đổ. Lực lượng lãnh thổ sa sút nghiêm trọng. Nếu để kéo dài, quân lãnh thổ sẽ tan rã, đồn bốt không còn, không thể nào thực hiện bình định được. Đã mất đất thì mất dân, mà nếu không có khả năng thu hồi, dần dần sẽ chết. Hiện nay, cộng sản đang đánh phá khắp nơi, không ngăn được. Không có an ninh vì chưa chấn chỉnh được lực lượng, quân số quá thấp, thiệt hại cao, đào ngũ nhiều, bắt lính hạn chế. Đòi hỏi cấp bách phải có an ninh lãnh thổ, kiện toàn cho được quân địa phương là yếu tố quyết định. Nếu không, bình định sẽ thất bại, có làm cũng bị phá, vì cộng sản có mặt ở khắp đồng bằng…”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2017, 11:19:32 pm

Chương 4

DỌC TRƯỜNG SƠN

        Sau những trận mưa đầu mùa, nước sông Trường Sơn lên to, đục ngầu. Chiếc com-măng-ca đưa tôi từ mặt trận Quảng Đà về Hà Nội, dừng lại khi bánh xe vừa chớm đến mép nước. Đồng chí lái xe mở cửa, xuống tháo dây cua roa. Xe chậm rãi bò xuống ngầm. Nó gầm gừ, nhảy chồm chồm trên đá đầu ông sư. Tôi nói:

        - Cố gắng vượt qua khỏi ngầm Bà Huỳnh này, nếu không thì tối đấy.

        - Thủ trưởng yên trí! Đồng chí lái xe đáp. Ngầm này thì đã thấm vào đâu. Đi trên đường Trường Sơn, đã nói đến ngầm thì Bung, A Vương Một, A Vương Hai, Ly Tôn còn tai ác gấp mấy đây kia. Nhưng, hễ ta ra được đến đường 14 rồi thì khỏi lo. Xe đoàn 559 chạy nhiều, nếu phải nằm lại thì nhờ họ co kéo lên giúp.

        Càng ra sâu, chiếc xe càng trở nên bướng bỉnh, nó chồm lên, chúi xuống, vật phải, vật trái, nghiên bên này, vẹo bên kia. Tiếng rú ga liên tục, xen lẫn với tiếng ùng ục của ống xả ở phía sau xe, tiếng nước tràn qua các khe cửa. Trừ đồng chí lái xe, ai nấy đều giữ thế: quần dài choàng trên cổ, xắn tay áo, ngồi chồm hổm trên đệm, tay bám chặt những thanh sắt của mui xe. Nhìn ra mặt sông, những đám bèo bọt, cành cây khô, đang bồng bềnh trôi, cứ tưởng như nước sông đang lên từng phút một. Có lúc, nước gần như nâng bổng cả chiếc xe lên, để táp vào những trụ cầu xiêu vẹo, đứng trơ thu lu giữa dòng sông, từ ngày du kích phá sập cầu, dưới thời Ngô Đình Diệm. Qua khỏi ngầm, nước trong xe lại tranh nhau thoát ra, qua các khe cửa. Mặt đường đất thịt, thêm nhão nhoét. Đồng chí lái xe chổm người ra trước, gần như úp cả bộ ngực vạm vỡ trên vòng tay lái, ngước mắt nhìn mặt đường, đánh tay lại, cố tránh những vệt bánh xe sâu hoắm, do đoàn xe vận tải vừa mới đi qua, đào lên. Đường trơn như mỡ, có lúc bánh xe không lăn về phía trước mà cứ rệ ngang, bất chấp cả tay lái. Càng nhấn ga, càng rú tợn, mà bánh xe thì cứ quay tít giữa đống bùn nhão nhoét, cả giờ không nhích lên được nửa bước. Tôi ngồi ở ghế trước nhìn cảnh vật lộn giữa người và máy, lo lắng: đường sá thế này, thì vận chuyển ra sao? Mang tiếng là trục đường chiến lược, mà còn xấu như thế này, thì trên các mạng đường chiến dịch ở các quân khu, quân đoàn, thi công toàn bằng tay với dụng cụ thô sơ, thì đường còn xấu đến đâu nữa? Hầu như đã trở thành quy luật, hằng năm, cứ sắp đến mùa mưa, Quân khu 5 mới bắt đầu nhận được hàng, vì ưu tiên phải dành cho các chiến trường xa. Do đó, Cục hậu cần quân khu, năm nào cũng tất bật, vất vả với thời tiết. Nhận đã khó, mà đưa đến tận tay người sử dụng ở Bình Định, Phú Yên là cả một chặng đường đầy gian khổ. Đi xe con, hai cầu, mà còn ì ạch thế này, thì với các lại xe vận tải chở nặng, leo dốc yếu, thì vất vả đến bao nhiêu! Thế này thì không biết trong năm 1974 này, liệu đoàn Trường Sơn có hoàn thành được kế hoạch vận tải hay không?

        Trên đường 14, xe chạy bon bon. Tôi rất đỗi vừa ngạc nhiên, vừa phấn khởi. Chỉ mấy tháng thôi mà chất lượng đường đã khác hẳn: mặt đường được rải đá, có đoạn được rải nhựa, cầu cống tuy còn phải làm tạm, nhưng cũng khá vững chắc và cũng đỡ được cái phiền phức là phải lội ngầm. Khác hẳn với cảnh vắng vẻ trên các trục đường chiến dịch ở quân khu, không khí trên đường chiến lược tấp nập, nhộn nhịp hẳn lên. Mùa thu sắp qua rồi: lẽ ra việc giao hàng cho các chiến trường phải kết thúc từ lâu; vì theo thường lệ, đến tháng này, trời đổ mưa xuống, đường sá lầy lội, tạm ngừng vận chuyển. Đoàn Trường Sơn, cứ đến dịp này là rút một phần lớn lực lượng ra Bắc để tổng kết, nghỉ ngơi và làm mọi công tác chuẩn bị, để đến cuối tháng 10, lại vào lại, và lao vào kế hoạch vận chuyển cho năm sau. Nam nay, khác hẳn. Các đoàn xe cắn đuôi nhau chạy vào không ngớt. Đến những đoạn dốc hay đường vòng, chiếc xe con phải nép sát bên lề đường, dựa vào vách núi, để nhường đường cho các xe vận tải rú ga, nặng nề bò lên dốc. Toàn xe din 130, chế tạo tại Liên Xô, mới tinh, phủ bạt kín. Những chiến sĩ lái xe, rất trẻ, ngồi lọt thỏm trong cabin quá rộng, mắt dán lên mặt đường, hai tay ôm ghì tay lái.

        Gần đến bến Giằng, chiếc xe con lại phải dừng lại, nép sang một bên, tránh một đoàn pháo cao xạ đang hành quân vào, giữa ban ngày. Những chiếc xe xích đồ sộ, kéo những khẩu pháo cao xạ 57 ly, choán gần hết mặt đường. Đường vòng còn hẹp, xe lại có đuôi, phải đánh tay lái rộng, nhưng nhỡ cưỡi lên đất mượn thì xe lao xuống vực sâu, dễ như chơi. Tất cả các pháo thủ đều xuống xe, cán bộ chỉ huy đi trước, tay cầm cờ, ra hiệu cho từng xe nhích dần lên phía trước. Tôi gặp đồng chí Cảnh, tham mưu phó quân chủng Phòng không-Không quân đi với đoàn xe pháo cao xạ. Đồng chí cho biết:

        - Lệnh của Bộ quá gấp, thành thử trang bị “B” cũng chưa nhận đủ. Lần này, toàn sư đoàn 377 chúng tôi ra quân, phấn khởi lắm.

        Đồng chí cũng cho biết thêm là sang tháng 12 này, sẽ đưa cả 2 trung đoàn tên lửa vào.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 04:03:11 pm
       
        Cơ quan tình báo Mỹ và nguỵ thường bám các đơn vị tên lửa này như đỉa. Báo chí phương Tây không ngớt lời bình luận về chúng và cũng đưa ra rất nhiều giả thuyết. Năm 1972, tên lửa đã có mặt ở đường 9, đã lập thành tích bắn rơi B.52. Thế mà sau ngày nhừng bắn, phát hiện thấy tên lửa ở Quảng Trị, địch lại kêu la inh ỏi. Lần này thì tên lửa vào sâu hơn. Phát hiện ra việc này, chắc là thiên hạ tha hồ mà bán tán, đoán già, đoán non. Được cái hay là, tình báo Mỹ thường phát hiện sai những sự thật, những gì đã diễn ra trên đường Trường Sơn. Năm nào, một đoàn khách nước ngoài, đi trên mươi chiếc xe con, thì chúng kêu la inh ỏi là Việt cộng đã đưa vào miền Nam cả một binh đoàn cơ giới; ngược lại, khi cả một sư đoàn pháo cao xạ, pháo binh và xe tăng đi vào miền Nam như hiện nay, thì chúng lại im khô. Chỉ cần thoáng qua ai cũng có thể đoán biết: vận chuyển tấp nập ồ ạt như thế này, điều động các đơn vị binh khí kỹ thuật lớn như thế này vào chiến trường giữa mùa mưa lũ, đâu phải là việc bình thường?

        Một đám nữ thanh niên xung phong, đang hỳ hục xeo một quả bom to, đẩy nó ra bên vệ đường.

        Một cô gái, tay cầm cờ, ra hiệu cho xe tôi dừng lại từ xa.

        - Cái gì đấy?

        - Bom nổ chậm.

        Thấy có chiếc xe con ở chiến trường ra, vài cô gái bỏ đám đông, chạy đến, và rất hồn nhiên, như gặp lại người quen thân;

        - Này bố cho chúng con gửi cái thư. Hà Tây! Thái Bình! Hải Hưng! Một trận mưa phong thư không dán tem viết sẵn từ bao giờ, tới tấp bay vào trong xe.

        Những ai đã đi trên đường Trường Sơn, thường rất có cảm tình với đám thanh niên xung phong này. Với tuổi 19, 20, tốt nghiệp lớp 7, lớp 10, vừa rời ghế nhà trường, vượt hàng nghìn cây số để vào đây, chịu biết bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, thậm chí có thể hy sinh cả tính mệnh nữa. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của họ đã trôi qua với những năm tháng - mà không ai có nửa lời kêu ca phàn nàn - để đem lại mùa xuân vĩnh viễn cho đất nước. Công việc của họ, rất giản đơn, nhưng lại đầy ý nghĩa. Hôm xe ta bắt đầu lăn bánh đến đây, đồng bào dân tộc ít người trong vùng kéo đến xem rất đông. Họ không lạ gì với chiếc xe ô tô, nhưng cũng như những nhà vạch kế hoạch ở Lầu Năm Góc, chưa bao giờ họ nghĩ rằng, xe ô tô lại có thể đến được giữa rừng sâu núi thẳm, trong những ngày âm u, mưa lũ như thế này. Trong lịch sử chiến tranh thế giới, đã từng có nhiều trường hợp: một đội quân vượt qua được một nơi hiểm trở, không ai ngờ đến để đi đến đích, thì đội quân ấy thường mang lại chiến thắng.

        Chiều rồi! Liệu không thể vượt được khỏi dốc Giằng trước khi trời tối, chúng tôi ghé vào binh trạm 471, nhân tiện nắm thêm một số tình hình.

        Nhà khách của binh trạm nằm cheo leo bên bờ một con sống còn mang tên rất đẹp: Sông Thanh.

        Thượng tá Lạng, binh trạm trưởng, tiếp tôi rất thân mật. Vốn có quan hệ công tác lâu ngày, tôi thường ra vào đoàn Trường Sơn luôn, nên câu chuyện cởi mở ngay từ đầu.

        Đồng chí nói: Tổ chức vận chuyển của đoàn Trường Sơn, hiện đang có sự thay đổi lớn, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Đoàn quyết định bỏ các binh trạm đã tổ chức từ trước đến nay, để xây dựng thành các sư đoàn xe, sư đoàn công binh, sư đoàn cao xạ v.v… do đó tư lệnh trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy.

        Năm 1972 trở về trước, đoàn Trường Sơn có 29 binh trạm; đến năm 1973, rút xuống còn 5, nay thì bỏ hẳn. Đoàn Trường Sơn không phải là một đoàn vận tải đơn thuần; vì ngoài việc vận tải hàng hóa vào miền Nam, đoàn còn có nhiệm vụ chuyển quân, giao liên, cũng chiếm một khối lượng công việc rất lớn. Đoàn phải tự mình mở đường, đánh địch mà đi, từng giờ từng phút, từng đoạn đường, phải luôn luôn đối phó với mọi thủ đoạn đánh phá, ngăn chặn của địch. Vì vậy, phải tuỳ theo tình hình địch hoạt động, tình hình đường sá, tình hình thời tiết v.v… mà tổ chức ra đội hình vận tải, có khi phải thay đổi hàng tuần một, vận dụng chiến thuật rất linh hoạt, khi thì lấy đội hình tiểu đoàn, xe khi thì tổ chức đội hình trung đoàn xe mà đi, phải hợp đồng chặt chẽ giữa các binh chủng vận tải, công binh, cao xạ v.v… chẳng khác gì khi chỉ huy binh chủng hợp thành. Người chỉ huy binh trạm phải nắm các đơn vị vận tải, công binh, cao xạ, giao liên, pháo binh, bộ binh v.v… để phối hợp kế hoạch, nếu không rất dễ bị tổn thất: khi bị máy bay địch đánh phá, mà gọi cho được cao xạ đến; đường bị tắc mà phải chờ cho người ta đưa công binh đến, thì hỏng mất công việc, tốn rất nhiều thời gian.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 04:07:07 pm

        Đồng chí Lạng cho biết thêm: không có năm nào như năm nay. Khối lượng đưa vào “B” lên đến hàng chục vạn tấn; cho C, cho Khu cũng vài vạn tấn; và cho khối lượng dự trữ chiến lược ở trên tuyến cũng ngót 10 vạn tấn. Riêng B2, khối lượng đã nhập gấp 6 lần năm ngoái, còn yêu cầu thêm nữa vào cuối mùa mưa; B3 cũng nhiều. Thế mà binh trạm vẫn dứt điểm được trong tháng 5. Từ tháng 6 đến nay, phía Tây Trường Sơn, trời đổ mưa, binh trạm đã tập trung, lật cánh, chạy tuyến phía đông Trường Sơn để giao hàng cho Khu 5, gấp mấy lần năm 1973. Đây là chưa nói đến vấn đề chuyển quân, chuyển các đơn vị binh khí kỹ thuật… ngày nào cũng đi vào như trẩy hội. Ngoài ra, lại còn lắm cái đột xuất, như vận chuyển quân, vận tải vũ khí, đạn dược, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, cho các đồng chí đánh Đắc Pét, Nông Sơn, Thượng Đức… Đột xuất hơn nữa là vận chuyển một ngàn xe giải phóng và 1.500 tấn hàng hoá của Trung Quốc viện trợ cho Campuchia. Yêu cầu chiến trường đã lớn và gấp nhưng hàng hóa viện trợ của bạn vẫn phải bảo đảm. Nhưng binh trạm vẫn khắc phục hoàn thành nhiệm vụ. Mọi năm trên tuyến này, máy bay Mỹ canh cả ngày đêm. Trên các bến vượt quan trọng, trên các mỏm đèo: Tà Lê, Phu La Nhích, Chà Là, Sê Pôn, Bạc, hết B.52 rải thảm lại đến C.130 tọa đô. Đặc biệt, cái giống C.130, bụng nó chứa bao nhiêu xăng dầu không biết, mà nó cứ rà đi rà lại trên đầu, cả đêm không lúc nào ngớt, bám dai như đỉa.

        Thế mà vẫn chạy được, tất nhiên là có bị hạn chế và tổn thất. Trước kia, có năm phải bổ sung 100 phần trăm. Năm nay, những cái ấy hầu như không còn nữa. Máy bay của nguỵ, thì làm được gì. Chúng nó sợ pháo cao xạ của ta như sợ cọp, ban ngày còn hoạt động lẻ tẻ, vài ba chục lần chiếc, mà cũng chỉ trên đoạn từ đây vào đến Plây Cần thôi; ban đêm thì hoạ hoằn lắm, mới dám bén mảng đến. Cho nên, từ Plây Cần trở ra, là cứ bật đèn pha lên mà chạy, chẳng cần phải đi đèn gầm, lù mù như trước kia; lại còn tranh thủ lấn sáng, lấn chiều nữa, nên lợi đường lắm. Từ đây trở ra đường 9, thì chạy như ban ngày, như ở miền Bắc vậy. Chúng nó bây giờ, đã ít máy bay hơn, ít xăng dầu hơn, kỹ thuật lại kém; mà còn phải đối phó với ta ở dưới đồng bằng, thì lấy đâu ra máy bay, mà đánh phá hành lang này? Đã lâu lắm, vừa rồi mới thấy vài chiếc A.37 đảo qua đây một vòng, mới bị vài loạt cao xạ 57, đã lo cất tít lên cao, ném vung vít vài quả bom chiếu lệ thì trúng trật gì.

        Năm nay, quyết tâm của đoàn là sửa chữa, nâng cấp, đường, hạ độ dốc, mở đường vòng, rải đá, làm cầu. Tất cả những việc làm trên, đều nhằm nâng tốc độ xe lên, giảm bớt hư hỏng, nâng sức tải của từng đầu xe lên. Từ Bạc vào Bù Gia Mập, trước đây đi ba tháng, nay Bộ tư lệnh 559 đề ra định mức khép kín trong 9 ngày; anh em quyết tâm rút xuống còn 7 và có đơn vị còn đang phấn đấu rút xuống còn 5, trong mùa thi đua này. Một quân đoàn cơ động từ miền Bắc vào đến miền Đông Nam Bộ, nay cũng chỉ mất 15-20 ngày là cùng. Công tác vận tải, giao liên chuyển quân cũng như công tác tác chiến, khi tình hình khách quan đã thay đổi, thì cũng phải thay đổi cung cách làm ăn, cách tổ chức; nếu tư tưởng không thoát ra được, cứ rị mọ làm ăn theo lối cũ, thì mất thời cơ. Nếu bây giờ mà còn giữ cái tổ chức 25 binh trạm như trước, thì chỉ có mỗi một việc, bốc lên, dỡ xuống, kiểm kê cân đếm, giao nhận, cũng đủ hết ngày và tốn rất nhiều người. Cho nên, từ nay trở đi, sư đoàn nhận hàng một lần tại Đông Hà, rồi chạy một mạch vào thẳng, giao cho chiến trường, tiết kiệm được không biết bao nhiêu công và thời gian. Về mặt tổ chức, lấy trung đoàn xe làm đơn vị tấn công, chứ không đi từng đại đội, tiểu đoàn như trước. Mỗi chuyến đi, có bộ phận sửa chữa, phục vụ, theo sát đội hình, hỏng đâu sửa đấy. Chỉ huy, lãnh đạo cũng đi theo trong đội hình, nên không còn tình trạng rời rạc, lẻ tẻ, tuỳ tiện, bạ đâu nghỉ đấy, như trước nữa. Làm ăn theo lối công nghiệp mà!

        Đồng chí binh trạm trưởng còn cho biết, từ nay trở đi, thời tiết không còn là nhân tố quyết định trong công tác vận chuyển nữa. Mùa mưa ở miền Nam, cũng đồng thời là mùa khô trên đất Lào và ngược lại. Do đó, chỉ cần lật cánh qua lại, chuyển từ đông Trường Sơn sang tây Trường Sơn là có thể vận chuyển trong suốt 12 tháng trong năm.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 04:09:36 pm

        Trong công tác vận tải, loại hàng hóa khó tính nhất là xăng dầu.

        Là loại hàng nước, nên không phải bạ đâu cũng để được, xe nào cũng chở được, mà phải có kho bể, có xe chuyên dùng. Nó lại dễ cháy. Chỉ một quả bom, một viên đạn bắn vu vơ làm cháy một xe, cũng đủ làm cho cả đoàn xe bị vạ lây. Những khó khăn ấy, đến nay căn bản đã được giải quyết. Với hơn vài nghìn cây số đường ống như thế này, công tác xăng dầu không còn là một mối lo nữa. Với cách đặt ống và với cách vận hành của ta, thì khó mà phá được. Những năm trước, từ sông Lam  trở vào, B.52 rải thảm liên tục và trong chiến dịch Nam Lào, quân đội Cộng hoà đổ quân ngay trên đường ống dẫn dầu, mà vẫn không làm gì nổi ta huống gì ngày nay, đã xuống dốc nhiều rồi. Thời tiết, đối với tuyến đường ống, thì tuy cũng còn có vấn đề, nhưng không còn như trước nữa.

        Đó là những điểm rất mới, những bước nhảy vọt trong công tác vận tải mà sau 15 năm-từ 1959 đến nay-ta mới tạo ra được, bằng trí óc và bằng sức lao động của hàng chục vạn con người.

        Những tiến bộ này, nhất định sẽ làm thay đổi quy luật hoạt động của ta trên các chiến trường, và là một điều rất bất ngờ với đối phương: mùa mưa cường độ hoạt động vẫn giữ được như mùa khô. Từ trước đến nay, thời tiết đã bắt buộc ta phải chia ra hai mùa hoạt động, vì các công tác bảo đảm, phải hoạt động theo mùa.

        Sáng hôm sau, rời binh trạm 471, chúng tôi đến đội trinh sát kỹ thuật chiến dịch, thuộc biên chế của Quân đoàn Quyết Thắng, từ mấy tháng nay, cùng tôi đi vào tham gia chiến dịch hè thu ở Quân khu 5. Toàn đội đóng trên điểm cao 600. Từ đường ô tô lên đến nơi ở và làm việc, mất non một tiếng đồng hồ. Dốc đứng. Với những người đi bộ thì cũng không có vấn đề gì lớn, nhưng đối đội trinh sát kỹ thuật này, vẻn vẹn chỉ có một nhúm người, mà phải khiêng hàng tấn máy móc, đưa lên đặt trên mỏm cao này, thì thật là vất vả vô cùng. Nước dùng phải lấy ở dưới vực sâu; nên chỉ riêng có mỗi một việc, đi lấy nước, để bảo đảm sinh hoạt, cũng đã mất mấy người chuyên trách rồi. Năm căn lều bạt vải, dựng thành hình chữ u vây quanh một cái sân nhỏ, buổi sáng là bãi thể dục, buổi chiều là bãi cầu lông và buổi tối là nơi sinh hoạt của bộ đội. Trươc cửa các lều vải, những giò hoa phong lan đẹp tro lủng lẳng. Bước vào, người khó tính đến đâu cũng vẫn hài lòng. Mặc dù sống trong hoàn cảnh dã chiến, mọi thứ đều thiếu thốn, nhưng đơn vị ăn ở rất quy củ, nền nếp. Nơi làm việc có đủ bàn, ghế; nơi thu thập tin tức, nơi họp hành, chỗ ăn, chỗ ngủ, ngăn nắp đâu ra đấy. Tôi thay mặt Bộ tư lệnh chiến dịch chuyển tặng anh em một ít quà, thuốc lá, chè và biểu dương kết quả đợt công tác vừa qua. Đồng chí Tình, đội trưởng báo cáo: “Sau mấy hôm mò mẫm, nay đã nắm được toàn bộ mạng của quân đoàn 1 nguỵ rồi, từ tiểu đoàn trở lên, kể cả sư đoàn dù và biệt động quân. Chúng báo cáo, thông báo gì cho nhau, chỉ sau 5 phút, là đội đã có tin và báo cáo về bộ tham mưu chiến dịch rồi”.

        Tôi không quên nhắc một kinh nghiệm còn nóng bỏng: “Làm công tác nắm địch, nếu chỉ tin vào những điều do chính miệng chúng nói ra, thì chết có ngày. Nó lừa ta thì sao? Hôm đánh Thượng Đức, chỉ có mấy thằng nghĩa quân nằm ngoài rào, mà nó dám báo cáo lên trên, là cả một đại đội, đang chực sẵn để phản kích lại ta vào trận nội. Khi phát hiện anh em ta tiếp cận, bọn này chạy mất, còn bọn trong đồn thì cứ nằm đấy mà yên chí, cả tin vào bọn bên ngoài. Có thế nó mới thua”.

        Về đến d bộ 473, trời đã sâm sẩm tối. Có lẽ đây là một đơn vị làm đường, luôn luôn di động, nay chỗ này, mai chỗ khác, nên cách ăn ở, trang hoàng ở đây khác với những nơi khác. Ẩn dưới những gốc cây cà phê, nhà phần lớn làm bằng gỗ, lắp ghép, cót ép, nhưng rất thoáng và đẹp. Từ cổng vào nhà khách có hai hàng rào “cây nhiệt đới”.Cô chiến sĩ gái nào đó, khéo tay đã cắt vài và nylon làm những cái hoa, sặc sỡ, đính vào các đầu mút anten, để cho nó mất cái vẻ nhân tạo, khỏi ai nhận ra đó là một thứ vũ khí giết người ghê gớm. Dọc theo các hành lang, treo lủng lẳng những máy thu tiếng động, xen kẽ những giò hoa phong lan thật đẹp. Trên bàn từ cái lọ hoa, hộp kính, đến hộp thuốc lá, khay trà, tất cả đều làm bằng thứ nguyên liệu hiếm có, sản xuất tại Hoa Kỳ: vỏ bom bi và pháo sáng. Có điều là thiếu mấy chữ Made in USA.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 04:13:32 pm
     
        Nhìn các đồ vật xung quanh, tôi nghĩ. Giá lúc này có Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mac Namara và tướng Alfred Stabrird, người được giao nhiệm vụ xây dựng cái hàng rào điện tử nổi tiếng cả thế giới, chắc họ sẽ điên người lên mất: công sức của hàng nghìn nhà bác học, trí tuệ của hàng trăm trường đại học và viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm tiêu tốn hàng tỷ đô la, không biết bao nhiều mồ hôi và nước mắt của nhân dân Mỹ, lại hoá thành những đồ chơi như thế này ư? Lại còn có cả những máy ngắm ban đêm bằng tia hồng ngoại, những máy móc cực kỳ tinh xảo, có khả năng nhân ánh sáng lên gấp 7 vạn lần, để phát hiện ra du kích vào những đêm tối trời nhất; những máy đánh hơi người, những máy móc có thể phân biệt được màu lông, màu tóc của đối phương, cả những chữ cố trên xe nữa.

        Các tài liệu của phương Tây cho biết:

        - Năm 1966, chính phủ Mỹ tổ chức cuộc họp các nhà khoa học Mỹ để nghiên cứu các biện pháp ngăn chặn có hiệu quả. Phân viện Jason, có 47 nhà khoa học ưu tú nhất của Mỹ, sau 3 tháng nghiên cứu, đã rút ra kết luận: cần phải xây dựng tiếp một hàng rào điện tử qua khu phi quân sự bằng những công cụ mới được phát minh. Đó là hàng rào Mac Namara. Sau gần 1 năm thử nghiệm, tướng Mar Johnson, trong hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã phát hiện ra hàng rào Mac Namara không có hiệu lực ngăn chặn đối phươg: để thành lập được một tuyến phòng thủ từ biển lên đến bờ sông Mekong, dài khoảng 200 dặm, không có chỗ nào bị chọc thủng, ít nhất cần đến 12 sư đoàn quân Mỹ, với sự tăng cường yểm trợ tương ứng của không lực. Đó là gánh nặng, hậu cần khó mà kham nổi.

        Sau tết Mậu Thân 1968, các chuyên gia và các nhà khoa học Mỹ đi đến kết luận: “Hàng rào điện tử Mac Namara đã thực sự bị vứt bỏ trong cuộc chiến tranh ngăn chặn này. Phải thay thế ngay bằng một giải pháp có hiệu quả hơn”. Họ muốn biến đây thành một chiến trường điện tử, chiến trường tự động hoá.

        Hàng trăm loại thiết bị được đưa vào sử dụng, các thiết bị phối hợp chặt chẽ với nhau thành tổ hợp hoàn chỉnh. Những máy tính điện tử khổng lồ, đặt tại Nakhon Phanom, trên đất Thái Lan, có nhiệm vụ phân tích các tiếng động, các rung động, để phân biệt xe cộ, xác định thời gian và địa điểm của những nguồn phát ra tiếng động ấy, rồi chuyển đến “điều khiển viên” tại trung tâm kiểm soát chiến trường, để ra lệnh cho máy bay đi đánh phá. Tuy nghe ghê gớm như vậy, nhưng tác dụng thực tế chẳng đáng là bao. Thành tích vô hiệu hóa những thứ này thuộc về các nhà khoa học, kỹ thuật của ta. Họ không có những máy đo lường tinh vi, những máy kiểm tra hiện đại, thiếu cả những phòng nghiên cứu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, căm thù giặc cao độ, bằng trí thông minh, sáng tạo của mình, họ đã tìm mọi cách để vô hiệu hóa những máy móc tinh vi này. Ở đây anh em hóa kiếp nó thành những thứ đồ chơi như thế này; còn ở các trọng điểm đánh phá, anh em ta còn biết dùng nó để chỉ huy cả máy bay địch nữa! Cứ đặt nó vào chỗ nào mà mình muốn tập trung bom đạn vào đấy, rồi dùng băng ghi âm, phát ra mọi tiếng động như ý muốn của mình, thế là máy bay C.130 vù đến như ong, suốt cả đêm ném bom vô tội vạ. Xong một lần, lại phải đổi chỗ.

        Theo các đồng chí giao liên, chuyện đưa người vào ra trên đường dây, thì chính tại nơi có hàng rào điện tử ghê gớm này, lai là nơi sự đi lại của ta được an toàn và dễ dàng hơn cả. Là vì ở đây, máy móc đã thay thế con người. Quân lính Mỹ không bao giờ chúng dám đến đây phục kích, bắt người.

        Một giáo sư ở trường đại học Coóc-nen (Mỹ) kết luận: “Thắng lợi của người Việt Nam là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người với máy móc” (Sức mạnh Việt Nam trang 463).

        Nói đến ý nghĩa triết học của chiến tranh Việt Nam, một người Nhật tên là Yoshishiga Kozsi cũng đã nói: “Ý chí chiến đấu không thể đo bằng máy tính. Binh lực và vũ khí có thể dùng máy tính điện tử mà lập biểu, chứ ý chí chiến đấu, thì lại không như thế. Hơn nữa, nó là biến động không ngừng. Trong chiến tranh Việt Nam, ý chí chiến đấu của Quân Mỹ ngày càng giảm sút, ngược lại ý chí chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam mỗi ngày một tăng, khoảng cách này ngày càng lớn. Như đã tiết lộ trong hồ sơ bí mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, họ hy vọng chắc chắn rằng: nếu ném bom thật nhiều, thì ý chí chiến đấu của nhân dân Việt Nam sẽ bị gãy. Nhưng rõ ràng điều đó là một sai lầm lớn”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 04:18:47 pm
           
Chương 5

THAI NGHÉN-KHÊU GỢI

        Theo chị thị của trên, một số cán bộ của Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị làm việc với anh Ba-Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng, tại Đồ Sơn. Khu nghỉ mát này chẳng qua là một nơi thay đổi không khí; khác chăng với trên Hà Nội, là ở đây, được yên tĩnh hơn, ít người đến gặp hơn, để các đồng chí tập trung, nghiên cứu, suy nghĩ những vấn đề to tát hơn, có quan hệ đến vận mệnh của toàn Đảng, toàn dân.

        Lần này, đi Đồ Sơn, không phải chí có một mình thượng tá Võ Quang Hồ mà còn có cả thượng tướng Hoàng Văn Thái, trung tướng Lê Trọng Tấn nữa. Nhưng họ không đi thành một đoàn, mà xe ai nấy đi, xem như chẳng có liên quan gì đến với nhau cả. Như thế, cũng đỡ phiền phức cho những người tò mò, phải bận tâm để ý đến.

        Sau giờ nghỉ trưa, theo kế hoạch đã sắp đặt từ trước, cả ba người đến chỗ anh Ba. Một ngôi nhà nhỏ, một tầng lầu, nằm sát vệ đường, cạnh Pa-gốt-đông. Cả ba người bước vào nhà, anh Ba từ trên gác đi xuống, bắt tay mọi người, chỉ ghế mời ngồi.

        Trung tướng Lê Trọng Tấn báo cáo ngay tin sốt dẻo:

        - Khu 5 vừa diệt cụm cứ điểm Nông Sơn, giải phóng 2 vạn dân.

        - Có chủ trương giữ luôn không? Anh Ba hỏi.

        - Có. Cũng có thể giữ được. Từ khi có nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, tháng 3 năm 1974 đến nay, Khu 5 đã có chuyển biến lớn. Các anh trong ấy đã thống nhất chủ trương là không nên phân tán chủ lực ra để gỡ các chốt, mà lại tập trung đánh những trận lớn, thôi động, thì cũng có thể gỡ được chốt. Mặc dù chiến dịch vừa rồi ở tây nam Tam Kỳ, kết quả còn hạn chế giải phóng được mấy trăm dân thôi, nhưng cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Đang có đà.

        Anh Ba cười;

        - Khu 5 làm đúng bài bản rồi đấy! Tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa, Khu 5 cũng sẽ lên kịp với đồng bằng sông Cửu Long thôi.

        Hôm nay mời các anh xuống đây, tôi muốn trao đổi với Quân uỷ và Bộ Tổng tham mưu một vài ý kiến: Chiến lược thực dân mới kiểu mới của Mỹ trong 20 năm qua là gì? Nó vào từng giai đoạn như thế nào? Mỗi giai đoạn đều có mục đích, yêu cầu chiến lược, chiến thuật và khả năng khác nhau. Ta phải nắm vững các quy luật của nó. Ý định chiến lược của ta khi ký Hiệp định Paris như thế nào? So sánh mạnh yếu giữa ta và địch sau Hiệp định Paris như thế nào? Tình hình Đông Nam Á, giữa hai phe hiện nay ra sao? Phương hướng hoạt động thế nào là thích hợp nhất? Thời cơ nào thì chấm dứt chiến tranh và chấm dứt như thế nào là có lợi nhất? Chúng ta cần phải đánh giá tình hình vừa qua, thật tỉnh táo và khách quan. Tôi cũng có nghe báo cáo về địch. Có những chỗ còn chưa rõ. Ngày nay, có phải là Mỹ mạnh lắm không? Có phải nó muốn làm gì thì làm không? Chúng ta không nhìn đối phương qua những bản thống kê, những con số, mà phải tìm cho ra quy luật của từng vấn đề, không phải chí thấy hiện tượng bên ngoài mà phải thấy thực chất bên trong, không phải chỉ thấy hiện tại trước mắt mà phải thấy chuyển hóa sau này. Tại sao năm 1954, Mỹ nhảy vào Việt Nam, gây ra chiến tranh đặc biệt, phát triển thành chiến tranh cục bộ, rồi bây giờ lại rút ra? Tại sao Mỹ không nhảy vào Việt Nam lúc cách mạng Trung Quốc tràn xuống phía Nam?

        Không chờ trả lời, anh tiếp:

        - Trước đó, năm 1945, Liên Xô đã tiêu diệt một triệu quân Nhật ở đông bắc Trung Quốc. Mỹ cho rằng, dù có đưa một triệu quâ Mỹ vào để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, chưa chắc đã làm được gì, vì một triệu quân Mỹ có hơn gì một triệu quân Nhật? Nếu Liên Xô không thắng đội quân Quan Đông này thì chắc là Mỹ cũng không ngần ngại gì mà không nhảy vào Trung Quốc để ngăn chặn cách mạng ở nước này. Nhưng sau đó, ở Triều Tiên, Mỹ lại nhảy vào, để ngăn chặn, không cho chủ nghĩa cộng sản tiến thêm nữa, để giữ lấy vị trí, để cứu chế độ tay sai khỏi sụp đổ, giữ lấy những nước còn lại. Lúc bấy giờ Liên Xô, Trung Quốc đoàn kết gắn bó với nhau: Trung Quốc đưa quân sang, Liên Xô giúp vũ khí. Do sẵn sàng lực lượng hai bên lúc đó, nó không tiến lên được, mà bạn ta cũng dừng lại ở vĩ tuyến 38. Như vậy, nó thấy rằng nó cứu được Nam Triều Tiên, giữ được một nước trong phe nó, nó thấy sức mạnh của nó có thể ngăn chặn được Liên Xô, Trung Quốc, mà không có nhiều khó khăn lắm, nó hùng hổ đứng ra nắm cả Đại Tây Dương-Thái Bình Dương, giữ Đông Nam Á, lập ra các khối SEATO, CENTO, NATO, bao vây phe ta…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 04:22:37 pm

        Năm 1954, nó nhảy vào Việt Nam trong lúc chúng ta đang thắng Pháp. Về hội nghị Geneva, Eisenhower đã nói: “Ở chiến trường thì nó thua, nhưng ở hội nghị thì nó được”. Do nó chặn được bước thắng lợi của ta, nó thấy chỗ mạnh của nó, nên nó quyết tâm nhảy vào Việt Nam để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan tràn xuống Đông Nam Á. Nó nhảy vào trên thế chiến tranh lạnh và có ưu thế rõ ràng về quân sự, chính trị, và kinh tế trên toàn thế giới. Nó có một chiến lược toàn cầu, “phản ứng linh hoạt”, có mấy phương án nắm lấy quân tay sai, được trang bị bằng vũ khí của Mỹ. Với vài ba sư đoàn, với vài vạn quân, nó cũng đã ngăn chặn được việc thành lập chính quyền tiến bộ cánh tả, làm đảo ngược được tình hình ở một nước như Dominica. Cùng một lúc, nó có thể tham gia vài ba cuộc chiến tranh như vậy, mà vẫn thắng được, mà vẫn chưa đụng chạm gì đến lực lượng mạnh mẽ dùng để đương đầu với các nước lớn, đặc biệt là Liên Xô. Hai cuộc chiến tranh rưỡi là như vậy!

        Ở miền Nam nước ta, ngay từ đầu, Mỹ dùng chính quyền Ngô Đình Diệm, phá hoại Hiệp đinh Geneva, không chịu tiến hành tổng tuyển cử, chủ trương vĩnh viễn chia cắt đất nước ta, kéo dài lãnh thổ Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17. Nó dùng chính quyền phản động này xua từng lữ đoàn, sư đoàn đi càn quét, khủng bố, lê máy chém đi khắp các nơi. Chính quyền Ngô Đình Diệm phát xít ghê gớm lắm: chúng nắm từng nhà một, đến nỗi, con ở chiến khu về mà mẹ phải la làng và đi báo cáo; vợ không dám nhận chồng, con không dám nhìn cha.

        Mặc dù đối phương đang diễu võ dương oai như vậy, lúc bấy giờ Đảng ta đánh giá chúng như thế nào? Chúng yếu về mặt chiến lược, càng thi hành những thủ đoạn phát xít, càng bộc lộ sự suy yếu mà thôi, cho nên ta chủ trương đồng khởi, nổi dậy. Có người khuyên ta nằm im, chờ thơi cơ. Thử hỏi đến bao giờ mới có thời cơ? Ta nhất định không nghe, vì không ai hiểu tình hình Việt Nam hơn ta. Ta cũng không chờ mong ai mang đến thời cơ cho ta, mà chính ta phải chủ động tạo ra thời cơ cho mình. Thực tế diễn biến, đã xác minh chủ trương của Đảng ta là hoàn toàn chính xác: chỉ một năm sau đó, chúng ta đã lấy lại toàn bộ vùng nông thôn là nơi yếu nhất. Đây là điều bất ngờ lớn đối với Mỹ… và đối với nhiều người khác.

        Năm 1960, thấy gay go, Mỹ tổ chức ra bộ chỉ huy ở miền Nam Việt Nam-MACV-để lãnh đạo chiến tranh đặc biệt. Chúng đã dùng những người chống cộng, chống du kích khét tiếng như Lansdale, Thompson, đem những kinh nghiệm đã thu thập được ở Mã Lai, Phi Luật Tân ra áp dụng ở miền Nam Việt Nam, bày trò gom dân, đuổi cá ra khỏi nước v.v… nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng còn non yếu. Nhưng thấy rõ so sánh lực lượng giữa ta và địch trong quần chúng, ta vẫn tiếp tục tiến công và nổi dậy ở cả đô thị nữa. Có người góp ý “Đánh đến đơn vị trung đội thôi nhé, đừng đánh lớn hơn!”. Sau những thắng lợi vang dội ở Ba Gia, Bình Giã, Mỹ thấy nguỵ quyền, nguỵ quân không giữ nổi, nên đưa 20 vạn quân Mỹ vào làm chiến tranh cục bộ ở miền Nam, gây chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Chúng muốn đóng lâu dài ở miền Nam, tiến lên thu hẹp miền Bắc xã hội chủ nghĩa và bao vây Trung Quốc, cắm cờ của chúng chung quanh Trung Quốc. Điều này, sau này khi Chu Ân Lai sang đây có nói với tôi. Nó đinh ninh rằng sẽ lui về phòng ngự, lực lượng ta ở miền Nam sẽ bị hao mòn, và miền Bắc sẽ trở lại thời kỳ đồ đá. Mỹ xua quân đi tìm diệt, hết Plây Me đến Attleboro, Junction City, v.v… bỏ trống các đô thị. Ta mở chiến dịch Khe Sanh, kéo địch ra đường 9, giữ nó lại mà đánh sau đó, dùng lực lượng tinh nhuệ, đánh thẳng vào Sài Gòn và tất cả các đô thị ở miền Nam, làm nên cái Tết Mậu Thân lịch sử.

        Một lần nữa, đối phương lại bị bất ngờ. Như vậy, ta đã thắng Mỹ ở mức cao nhất và như Trung ương đã đánh giá: Ta đã đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Mỹ thua cả về sức mạnh, cả về ý chí. Mọi mặt đều trở nên rối loạn: chính trị, quân sự, kinh tế, dự trữ vàng chỉ còn 10 tỷ đô la; trong nước rối loạn không thể tưởng tượng được. Nhưng điều mà Mỹ lo sợ nhất lại không phải là Việt Nam! Nhật, Tây Đức đã vùng lên về kinh tế, và nguy hiểm hơn nữa cho Mỹ là Liên Xô đã vượt lên Mỹ về vũ khí chiến lược. Mỹ ngày càng gặp khó khăn về kinh tế suy thoái, thất nghiệp ngày càng tăng, sức chống đối trong nội bộ nước Mỹ và trên thế giới ngày càng mạnh, đế quốc Mỹ ngày càng bị cô lập.

        Tình hình đó, buộc Mỹ phải ngồi lại đàm phán, xuống thang chiến tranh. Johnson nêu ra chiến lược “phi Mỹ hóa” và tiếp đó, Nixon phải “Việt Nam hóa chiến tranh” để giữ miền Nam Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 04:25:42 pm

        Đánh bốn năm trời, ghê gớm như vậy, muốn xoá ta không xoá được. Ta phá chiến lược toàn cầu của chúng, phá cả thế bao vây Trung Quốc. Hơn nửa triệu quân Mỹ và quân chư hầu không tìm được con đườn thắng lợi vinh quang, mà phải tìm con đường rút lui, rút lui mà giữ được thể diện mà còn có thể duy trì được cái gì đây. Mỹ thua, buộc phải rút ra, phải thừa nhận miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, còn quân chủ lực miền Bắc thì vẫn ở lại. Phải nhận như vậy là nhận trên thế yếu.

        Thực dân kiểu mới là gì? Là giữ cho tay sai ở miền Nam đững vững, trong khi Mỹ đang gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng, buộc phải rút ra; giữ được nông thôn, đô thị, quân nguỵ. Ra mà vẫn còn nhiều lực lượng ở lại. Đó là một triệu quân nguỵ, là nguỵ quyền được Mỹ viện trợ kinh tế, là hai vạn cố vấn. Nếu ta mạnh thì nó phải ra, ta không mạnh thì nó sẽ ở lại. Bây giờ thì nó đang ra đấy, chưa phải là đã vào lại. Để giữ miền Nam, nó hoà hoãn, ngoặc với các nước lớn để chặn miền Bắc lại. Nhưng, giữ miền Nam là một chuyện, còn nhảy vào miền Nam lại là chuyện khác. Mười năm nữa, nếu nó xây dựng được hải, lục, không quân của nguỵ mạnh lên, thì tình hình sẽ phức tạp, chứ không như bây giờ.

        Như vậy, từng giai đoạn, chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ có mục đích, có biện pháp và khả năng riêng của nó. Ta nói đến mức nào, chứ không nói hết được đâu. Có điều là phải luôn luôn cảnh giác, còn đế quốc thì ta phải luôn luôn sẵn sàng…

        Bây giờ tôi nói qua về ý định chiến lược của ta khi ký Hiệp định Paris. Ta biết rằng đế quốc Mỹ vì thua mà phải ra, chứ thâm tâm thì muốn ở lại. Cho nên chúng lại phải xoay thêm một chiến lược mới nữa là hoà hoãn. Nhưng, khó mà giữ Thiệu được thêm bốn năm nữa. Chúng sẽ chọn một tên tay sai khác, để thi hành Hiệp định một bước, để tranh thủ thời gian củng cố, xây dựng lực lượng, cố giữ cho nguỵ quyền đứng vững. Chúng sẽ tìm mọi cách để giữ miền Nam, vì nếu để mất miền Nam, thì rồi Lào, Campuchia cũng sẽ mất theo. Chúng có thể ve vãn nơi này nơi kia, để tác động vào ta, làm cho ta im bớt tiếng súng ở chiến trường, hạ thấp yêu cầu trên bàn hội nghị, chủ yếu là để làm nhụt ý chí và làm suy yếu sức mạnh của ta.

        Ta biết rằng, Mỹ còn có tiềm lực. Nó yếu thì yếu, nhưng vẫn còn nhiều khả năng. Nhất thiết ta không bao giờ được chủ quan mà cho rằng nó đã sức tàn, lực kiệt. Còn ta, tuy thắng lợi liên tiếp, nhưng sự viện trợ bên ngoài, cũng không thể lúc nào cũng đầy đủ và kịp thời như chủ quan ta mong muốn. Vì vậy, ta đã tạo ra một thế đi lên vững chắc nhất, một thế thắng vững chắc nhất. Ta ký Hiệp định Paris, đề ra hai chính quyền, hai quân đội, ba thành phần. Trên toàn chiến trường, ta vẫn giữ thế tiến công, đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định, thực thi dân chủ, phá thế kìm kẹp của chúng, đồng thời tranh thủ xây dựng lực lượng, mở rộng hành lang nối liền tiền phương với hậu phương. Tất cả những việc làm có thể tạo ra một thế mạnh mới, để tiến lên, khi Mỹ buộc phải ra đi, nghĩa là quân nguỵ đã suy yếu đi nhiều. Với chủ trương như vậy, ta có ý định giữ lại sức mạnh ở miền Nam để tiến lên, để tiếp tục phát triển thế tiến công bằng cách này hay cách khác, thích hợp với từng lúc từng nơi, để làm suy yếu lực lượng nguỵ thêm một bước, đi đến xoá bỏ chúng. Ý định của chúng ta là như vậy, và với hai khả năng cũng là như vậy. Không bao giờ ta dừng lại cả. Ta ký Hiệp định Paris rất là chủ động. Ta kiên quyết tiến công, nhưng cũng rất mềm dẻo, biết thắng địch từng bước, từng mục tiêu một. Con người Việt Nam là thế đấy, bao giờ cũng tấn công, biết tấn công và biết thắng địch. Địch mạnh hơn ta, ta phải biết tấn công để chặn địch lại, để kéo địch xuống; địch đã yếu đi, phải biết tấn công để đánh sụp địch, để giành thắng lợi hoàn toàn. Tư tưởng sợ sức mạnh của địch, cách này hay cách khác, đều gây khó khăn nguy hiểm cho cách mạng.

        Việt Nam ngày nay có khác gì trước không? Trước kia, Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á. Mỹ đánh Việt Nam để ngăn chặn, bao vây phe xã hội chủ nghĩa. Nhưng bây giờ, vấn đề Việt Nam không còn là vấn đề giữa hai phe nữa, mà đã trở thành vấn đề Đông Dương, vấn đề Đông Nam Á.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 08:21:06 pm

        Các nước lớn đang giành giật nhau găng lắm ở khu vực Đông Nam Á này. Mai đây, không chừng họ có thể dùng quân sự để giải quyết với nhau. Họ tuyên bố: không ai được độc quyền làm chủ Đông Nam Á. Mỗi nước đều có mưu đồ riêng: Mỹ không muốn cho Trung Quốc, Nhật, Liên Xô xuống Đông Nam Á; Nhật, Trung Quốc cũng không muốn Mỹ nhảy vào khu vực này. Người ta ngại Việt Nam mạnh. Họ đang tìm cách làm cho Việt Nam yếu đi, tim mọi cách chia hai nước Việt Nam. Họ sợ ta thống nhất, vì họ biết rằng, một khi đã thống nhất được rồi, ta được độc lập thật sự, Lào, Campuchia cũng được độc lập thật sự, sẽ đoàn kết gắn bó với nhau, Đông Dương sẽ mạnh lên nhiều lắm. Thắng lợi của ta sẽ tạo ra tình hình mới ở Đông Nam Á này. Có lẽ vài mươi năm sau, cả thế giới còn chịu tác động bởi ảnh hưởng này. Vì thế, các nước đang tìm xem dùng cách nào để chặn lại ta lại. Ở Lào, Nhật muốn nắm nhưng cho rằng đi bằng đường quân sự không có lợi, mà nên đi bằng đường kinh tế, vì vùng này có nhiều tài nguyên, lại gần nước Nhật; còn Mỹ thì lại muốn có chính phủ liên hiệp, muốn cả Campuchia, miền Nam, cũng đều liên hiệp và để cho nó nắm. Mỹ không muốn cho Trung Quốc xuống Đông Nam Á và muốn dùng tiền để giằng Việt Nam lại…

        Như tôi vừa nói, hiện nay các nước chưa ai sẵn sàng cả; Mỹ thì đang rút ra, chưa phải là lúc vào lại. Cho nên mặc dù bọn Mỹ ở bên này có kêu gào đến mấy chăng nữa, viện trợ chỉ có chiều hướng giảm, không tăng. Nguỵ thì đang xuống dốc, còn ta thì đang ở thế thắng và đang tiến lên nhanh. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nay là thời cơ thuận lợi nhất để kết thúc cuộc chiến tranh này, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Nếu để chậm năm bảy năm nữa, họ mạnh lên thì sẽ phức tạp vô cùng cho ta. Từ tình hình trong nước và tình hình thế giới mà rút ra kết luận đó. Nhưng còn một vấn đề nữa là thắng như thế nào cho tốt? Để chậm, thì sẽ không tốt đã đành, còn làm, mà làm không tốt, chầy chật, cũng sẽ thêm phức tạp. Làm tốt là làm nhẹ nhàng, làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, làm trong một vài tháng, thì có lợi hơn là dây dưa, kéo dài ngày. Có như thế mới đạt được bất ngờ để không ai kịp trở tay, chứ nếu kéo dài ra thì các nước lớn sẽ tìm cách này, cách nọ để tăng thêm lực lượng, tiền của, để đối phó với ta. Có làm được như thế không? Tôi nghĩ rằng càn thiết và nhất định sẽ làm được…

        Cần phải phân tích thêm điểm này..

        Cách mạng, cuối cùng do so sánh lực lượng quyết định. Ta phải biết đánh giá địch, ta cho đúng: hiểu được mạnh yếu giữa ta và địch như thế nào, trong từng lúc, từng nơi. Ngô Đình Diệm, nó xây dựng ấp chiến lược, đề ra thành quốc sách, hai sông, ba núi, nghe ghê lắm. Đảng ta nhận định rằng: một thế mạnh trong thế yếu chung của chúng về chính trị. Địch tập trung quần chúng lại để kìm kẹp quần chúng; còn ta thì phát động quần chúng, đưa quần chúng ra đấu tranh với địch. Như vậy là ta ở vào thế mạnh của mình. Ta thấy rõ 1965-1966, Mỹ đưa vào miền Nam Việt Nam 20 vạn quân. Ta đánh giá ta mạnh, vì nó vào trong thế thua, vào trong lúc lực lượng ta đã ở trong thế bố trí đâu đấy cả rồi. Cho nên có Vạn Tường, có núi Thành, nhất là Vạn Tường: cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, gần một vạn tên, với bao nhiêu là tàu chiến, xe lội nước, máy bay, trực thăng yểm trợ, càn quét ở ngày rìa căn cứ Chu Lai, mà suốt cả một ngày ròng rã, từ sáng đến chiều, không làm gì nổi hai tiểu đoàn chủ lực của ta với lực lượng tại chỗ, lại bị thương vong nặng. Như vậy, thì nên đánh giá thế nào? Ta vẫn giữ được quyền làm chủ chiến trường và vẫn tiếp tục tiến công quân địch.

        Khi quân Mỹ lên đến 50 vạn và gần một chục vạn quân chư hầu, chưa nói đến mấy chục vạn quân nguỵ, ta lại đánh ngay vào Sài Gòn và trên 40 thị xã, thị trấn, cơ quan đầu não, kho tàng, buộc chúng phải co tất cả về để giữ căn cứ. Cho nên, nói đến mạnh yếu giữa ta và địch, là nói theo quan điểm cách mạng, đánh giá một cách tổng hợp cả thế và lực, cả quân sự và chính trị, cả khả năng và thời cơ, cả điều kiện khách quan và nghệ thuật lãnh đạo chủ quan trong một không gian và trong một thời gian nhất định. Không thể đem số lượng đơn vị, số lượng đồn bốt ra mà đánh giá mạnh yếu được. Ở Kế hoạch 9 vừa rồi ta 1 địch 8, ta tiến công, địch thua; ngược lại, ở Trị Thiên, ta 1 địch 2, ta phòng ngự, địch thực hiện được bình định, phân tuyến. Vì sao vậy? Ở Khu 9, các đồng chí trong ấy nắm rất vững quy luật của chiến tranh cách mạng và phong trào cách mạng, biết vận dụng nó một cách sáng tạo để tạo ra sức mạnh tổng hợp và giành thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 08:24:39 pm

        So sánh lực lượng giữa ta và địch, trước và sau Hiệp định Paris, có gì mới không? Đứng về logic mà nói, thì khi còn cả Mỹ, cả nguỵ mà ta cũng thắng được, có nghĩa lực đã mạnh; thì sau khi Mỹ rút ra ta phải mạnh hơn và phải thắng lớn hơn. Mỹ cũng lo sợ như vậy. Cho nên, hoãn đi hoãn lại việc ký kết, cố kéo dài thêm thời gian, để tranh thủ đối phó với ta. Năm1973, nó giành được chủ động, rõ ràng là ta có sai lầm ở nơi này hay nơi khác. Nó cứ vận động tiến lên, mà ta thì ngồi yên một chỗ; thậm chí, có nói rút lui, thủ tiêu chiến đấu, nên nó mạnh lên mà ta thì yếu đi. Nhưng nếu ta cứ vận động tiến lên một cách thích hợp, thì không những ta cũng mạnh như trước, mà có thể nói gấp đôi, gấp ba. Đến cuối năm 1973, đầu 1974, sau khi ra phản công và tấn công kiên quyết như Nghị quyết 21 đã chỉ ra, thì địch bộc lộ rất rõ những chỗ yếu của nó: tinh thần yếu, quân cơ động yếu, dự trữ giảm, thế bị động; quân địa phương, thì mặc dù có được sự che chở của hàng vạn đồn, bốt, nhưng sức kìm kẹp đã suy yếu, không dám đi hành quân và bị quần chúng bao vây. Sự kết hợp giữa các thứ quân của chúng, giữa lực lượng kìm kẹp và lực lượng vũ trang, chỉ có thể phát huy được trong tình trạng yên tĩnh, nghĩa là ta không đánh; trái lại khi đã bị đánh, thì đánh một, bị tan rã hai, ba, vì không còn có chủ lực, không còn có không quân yểm hộ che chở như trước kia. Ở đô thị, ở nông thôn, địch yếu về chính trị, về kinh tế, về  văn hóa, về xã hội; yếu về mâu thuẫn nội bộ, mâu thuẫn gay gắt với nhân dân, mâu thuẫn giữa Mỹ và tay sai…

        Còn ta thì sao? Ta có sức mạnh tổng hợp của lịch sử để lại, của cả nước, của một cuộc cách mạng và của thời đại đang lên. Ông cha ta đã để lại cho chúng ta, truyền thống kiên trì của 10 năm chống quân Minh, truyền thống dũng mãnh của 10 ngày thần tốc đuổi quân Thanh, lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy mưu trí, dũng cảm mà chinh phục kẻ mạnh. Ngày nay, đó là sức mạnh của hai ngọn cờ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và của của cả nước: miền Bắc, miền Nam. Vị trí và điều kiện lịch sử không cho phép bất cứ một ai chia cắt đất nước, chia sẻ hoà bình; không thể có nửa nước độc lập, nửa nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Trong lúc này miền Nam phải đấu tranh giành độc lập thống nhất; miền Bắc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải quyện lấy nhau. Nhờ có sức mạnh tổng hợp ấy, con người Việt Nam thông minh, yêu nước, thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” mới có phong cách đánh giặc riêng của mình, một người cũng mạnh, một sư đoàn cũng mạnh; một địa phương nhỏ cũng là pháo đài đánh giặc, biết căng địch ra, biết vây địch lại mà đánh. Có người nước ngoài đã nói với tôi: “Việt Nam đánh giặc ít chết, vì không sợ chết”, và họ cũng không hiểu vì sao, 20 năm địch đánh phá khốc liệt như vậy mà vẫn sống được, vẫn có ăn, có mặc, có nhà ở; trẻ con vẫn được học hành; tài năng, trí tuệ vẫn phát triển… Sức mạnh của ta là sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, sức mạnh thường trực của thời đại đang tiến công vào dinh luỹ đế quốc chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển chung của cách mạng thế giới và cách mạng trong nước, ta đã nắm được quy luật của nó, nhờ đó mà đánh bại liền mấy tên đế quốc, kể cả tên đế quốc đầu sỏ nhất là Mỹ.

        Đường lối quân sự của ta là đường lối vận dụng sức mạnh tổng hợp đó, đường lối chiến tranh nhân dân. Trong thời đại ngày nay có hai sức mạnh: sức mạnh nguyên tử và sức mạnh chiến tranh nhân dân. Sức mạnh nguyên tử đang bị chặn lại ở thế phòng ngự của hai phe, cho nên sức mạnh của chiến tranh nhân dân vượt hẳn lên và chiến thắng. Đó là sức mạnh cơ bản nhất.

        Chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân là gì? Chiến lược tổng hợp là gì? Nội dung nó đề cập đến nhiều vấn đề:

        Quy luật chiến tranh cách mạng ở miền Nam là nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, đi đến tổng tiến công và nổi dậy để đánh bại quân thù; hay nói một cách khác: làm chủ để tiêu diệt, tiêu diệt để làm chủ. Đó là quá trình đấu tranh chính trị và quân sự, quân sự và chính trị (chính trị bao gồm cả binh vận và ngoại giao, khởi nghĩa của quần chúng và chiến tranh cách mạng, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, giành thắng lợi từng bước, đi đến giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm của lịch sử Việt Nam, đặc biệt từ Lê Lợi đến Quang Trung, chiến tranh đều diễn biến ra trên hình thái đó.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 08:29:54 pm

        Ngày nay, để thực hiện đầy đủ quy luật đó, phải nắm vững ba vùng chiến lược, quan hệ trong từng thời gian của ba vùng chiến lược, phải có phương thức đấu tranh chính trị, quân sự thích hợp cho mỗi vùng theo sự phát triển của phong trào và so sánh lực lượng ở từng vùng, từng lúc; phải nắm vững hơn nữa vai trò của quần chúng, của ba thứ qua, vai trò của Đảng lãnh đạo. Nói là quân sự, chính trị song song, nhưng cũng có lúc thì chính trị đi đầu, có lúc quân sự đi đầu. Đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch trong từng thời gian và ở từng vùng để có phương hướng đúng đắn trong việc xây dựng, phát triển lực lượng, cũng như trong việc phối hợp hoạt động các mặt. Nhờ nắm được quy luật chiến tranh và biết phát huy sức mạnh tổng hợp đó, biết chủ động tấn công đúng lúc, biết thắng từng mức, nên Mỹ vào hơn nửa triệu quân mà ta vẫn thắng, nên mới có thắng lợi như ngày nay.

        Cuộc chiến tranh này, vừa mang tính chất nội chiến, vừa mang tính chất chống xâm lược. Đây là một cuộc chiến tranh quyết liệt, giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ; đồng thời là một cuộc đấu tranh một mất một còn giữa các tầng lớp nhân dân Việt Nam với tập đoàn thống trị, tư sản mại bản, quan liệu, quân phiệt, để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu là phải lật đổ chính quyền đầu não của giai cấp thống trị ở trung tâm sào huyệt của chúng là Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn đất nước, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Đánh ngoại xâm và đánh kẻ thù trong nước có khác. Đánh Pháp trước kia, ta thắng ở Điện Biên Phủ, là nó thua; nhưng đánh ngụy ngày nay, trong một cuộc chiến tranh mang cả tính chất như thế này, không diệt được đầu não của nó, nó không thua đâu. Cứ xem tình hình Trung Quốc và Đài Loan thì rõ. Cho nên muốn giành thắng lợi triệt để, nhất thiết phải đánh sụp đầu não của ngụy quân ngụy quyền ở trung tâm sào huyệt của chúng là đô thị.

        Ta quyết tâm, trong hai năm, 1975-1976, động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam Bắc, đưa cuộc cách mạng của ta lên bước phát triển mới, cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân,giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước.

        Nghị quyết 21 có nói đến hai khả năng. Đó là phương pháp để đạt được một mục đích, một quyết tâm, là giải phóng miền Nam. Lúc bấy giờ, chúng ta dự kiến, nếu chúng thi hành Hiệp định, thì chúng ta nắm lấy đó tiến lên. Nhưng từ khi Hiệp định được ký kết, ở miền Nam chiến tranh vẫn tiếp diễn, gay gắt và đang diễn biến phức tạp. Ta lại càng phải nắm sức mạnh quân sự, chiến tranh mà đẩy mạnh chiến tranh đến bước có lợi nhất cho ta. Mười tám tháng nay đã chứng kiến sức mạnh tiến công và khả năng chiến thắng của ta.

        Tôi nhắc lại nhé: Phương hướng giành thắng lợi là tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Phải làm cho thật nhanh, một vài tháng xong, là lý tưởng nhất. Muốn tiến tới tổng khởi nghĩa nhất định phải làm cho địch thất bại về quân sự, làm cho địch không còn sử dụng được công cụ bạo lực của chúng. Kinh nghiệm lịch sử từ Cách mạng Nga đến Cách mạng tháng Tám ở ta, cách mạng Trung Quốc, cách mạng Cu Ba đều chứng tỏ điều đó. Ở miền Nam muốn tổng khởi nghĩa trong hoàn cảnh không có một cuộc chiến tranh thế giới, làm thất bại lực lượng quân sự của địch như Cách mạng tháng Mười, cách mạng tháng Tám, thì chủ yếu phải do lực lượng quân sự của nhân dân tạo nên. Vì vậy, trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị trong nhân dân, vấn đề quân sự trở thành mặt đấu tranh chủ yếu giữa ta và địch. Không có sự thất bại của địch về quân sự, thì tổng khởi nghĩa không thể thành công được.

        Muốn làm được như vậy, thì sắp đến, một mặt mở toang đồng bằng, mở thông rừng núi, nối liền Trung ương với địa phương, mở vùng ven, xây dựng cơ sở ở đô thị; mặt khác, phải làm suy yếu lực lượng địch, phải làm cho cả thế và lực của ta hơn hẳn địch. Chủ lực của ta phải hết sức cơ động, phải thực sự là những quả đấm thép. Phải có cán bộ tốt, có trình độ kỹ thuật chiến thuật cao, có trình độ chính trị vững và cũng phải có sức khỏe nữa. Phải hết sức coi trọng công tác huấn luyện, bổ sung quân số, trang bị. Những việc đó chắc các đồng chí đang làm.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 08:34:22 pm

        Trung tướng Lê Trọng Tấn trả lời:

        - Chủ lực thì khá, gần đây có nhiều tiến bộ; nhất là chủ lực của Bộ. Chúng tôi cũng đã có những chỉ thị kiên quyết cho các nơi để nâng quân số của tiểu đoàn lên 450-500. Nhưng chủ lực của các quân khu trong miền Nam thì quân số hãy còn thấp, đặc biệt là ở miền Đông Nam Bộ, mỗi tiểu đoàn mới được trên vài trăm một ít mà cũng chưa được bổ sung, một phần vì phải đưa xuống đồng bằng cho Khu 8, Khu 9 trước, vì đường sá xa xôi quá; một phần, vì vừa qua tác chiến có bị tiêu hao. Về mặt huấn luyện, đến nay cũng có thể nói là ta đã có khả năng diệt cụm cứ điểm cấp trung đoàn của địch trong công sự vững chắc. Nhưng cũng chưa được đều tay. Điều đáng lo là, các đơn vị địa phương thì còn quá xộc xệch, trừ Khu 8, Khu 9 có được bổ sung một ít, số còn lại, thì mỗi tiểu đoàn chưa đầy 200 quân. Công tác tuyển người địa phương rất khó khăn. Có bao nhiêu thanh niên trong vùng bị chiếm, địch bắt đi quan dịch cả; còn ở vùng ta thì thanh niên cũng ít, và họ cũng đã nhập ngũ cả rồi.

        Anh Ba nói:

        - Chủ lực ta phải hết sức cơ động. Yêu cầu cơ động một quân đoàn từ Bắc vào Nam, chỉ trong vòng một tháng, có làm được không?

        Đồng chí thượng tá, Võ Quang Hồ trả lời:

        - Với số xe cộ, phương tiện và tổ chức như hiện nay, một sư đoàn đi từ Bắc vào Nam mất 20 ngày, kể từ lúc đơn vị đi đầu xuất phát đến lúc tập kết xong đơn vị cuối cùng.

        - Chậm quá! Các đồng chí cần nghiên cứu xem có cách gì đi nhanh hơn nữa không? Càng cơ động nhanh, càng tăng thêm sức mạnh. Chủ lực ta, một khi đã tung ra, là phải giải quyết được chiến trường. Cần xúc tiến sớm việc xây dựng cho miền Nam vài quân đoàn nữa.
        Thượng tướng Hoàng Văn Thái đáp:

        Ngoài Quân đoàn 1 ở ngoài này ra, còn có Quân đoàn 2 hiện đang đóng ở Trị Thiên, mới xây dựng hôm tháng 5 vừa rồi. Bộ Chính trị cũng đã có quyết định cho xây dựng Quân đoàn 4 ở miền Đông, Quân đoàn 3 ở Tây Nguyên, thì cũng đầu năm 1975 sau đợt mùa xuân mới hình thành. Gọi là xây dựng, chứ thật ra thì từ các Bộ tư lệnh đến các đơn vị bộ binh, binh chủng bảo đảm, đến các cơ quan đều có sẵn đầy đủ cả rồi. Bây giờ, chỉ ghép lại là hình thành và tác chiến được ngay.

        Anh Ba hỏi:

        - Các đồng chí quan niệm vấn đề đánh tiêu diệt ngày nay như thế nào?

        - Từ trước đến nay, chúng ta định nghĩ đánh tiêu diệt một đơn vị thì phải diệt cho được 70% lực lượng của đơn vị đó và phải diệt cho được ban chỉ huy để chúng không khôi phục lại được đơn vị như cũ, hoặc có khôi phục lại, cũng phải mất một thời gian khá lâu. Chính vì vậy, mà anh em dưới các sư đoàn, quân đoàn rất lo lắng và cũng có thắc mắc. Diệt đơn vị thì được, quy định 70% chứ hơn nữa cũng có khả năng; nhưng diệt cho được ban chỉ huy thì rất khó, vì bọn này thường nằm ở phía sau rất xa. Muốn diệt được bộ chỉ huy sư đoàn chẳng hạn, thì phải giải quyết được thị xã, thị trấn, hay là các căn cứ lớn của chúng. Vì vậy, chúng tôi thấy cũng cần xem lại, nhất là trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, có nhất thiết phải như thế không?

        - Đúng, đúng! Ta phải đặt vấn đề đánh tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực ngụy, vì đây là chỗ dựa chính của ngụy quân ngụy quyền, có tiêu diệt lớn thì mới có sự thối động mạnh, và đến một lúc nào đó, tuy số ta diệt được ít, nhưng nó sẽ tan ra nhiều, tan rã về tinh thần, về tổ chức, tan rã trong dân. Không phải chỉ binh sĩ mà thôi, chỉ huy cũng chạy, mà chạy còn xa hơn, nhanh hơn lính là đằng khác. Như vậy, thì có xem như là đã tiêu diệt được đơn vị đó không? Đánh tan rã như vậy, để tạo điều kiện tiêu diệt những đơn vị địch lớn hơn. Thực ra, ta cũng chưa đánh giá hết chỗ yếu của địch. Các đồng chí thử xem, đến lúc nào đó, ta dùng mấy quân đoàn, diệt cho được mấy sư đoàn như: sư đoàn 5, sư đoàn 18, sư đoàn 25, rồi chớp nhoáng thọc vào Sài Gòn, địch không kịp trở tay. Có được không? Tôi nghĩ rằng, ta có khả năng và cũng có lúc, cần thiết phải làm như vậy. Bộ Tổng tham mưu cần nghiên cứu trước những khu vực đánh lớn, tập trung vài quân đoàn chứ không nên phân tán. Khi ta làm mạnh, ta làm nhanh, hợp với tình hình thế giới hơn, nếu không sẽ phức tạp.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 08:37:27 pm

        Cũng cần đánh để khai thông các hành lang. Hôm trước trao đổi ý kiến, các anh Văn Tiến Dũng và Đinh Đức Thiện, đều có ý kiến như thế và tôi cũng tán thành. Phải có hành lang nối liền Tây Nguyên với miền Đông, hành lang xuống đồng bằng sông Cửu Long. Có được hành lang bảo đảm chi viện vững chắc, thì đồng bằng mới mạnh lên được, phong trào mới vững. Hiện nay các lực lượng địa phương của ta còn yếu hơn địch, phải nhanh chóng khắc phục tình trạng này. Theo tôi, nên lấy ngay 5.000, 6.000 quân bổ sung, tổ chức thành mười tiểu đoàn hoàn chỉnh, huấn luyện cho thật tốt, đưa ngay vào tăng cường gấp cho đồng bằng sông Cửu Long. Các quân khu trong đó cũng phải có kế hoạch sử dụng cho tốt, phối hợp với lực lượng tại chỗ, mở những chiến dịch tổng hợp nhỏ trong từng khu vực, giải phóng từng vùng nhỏ, rồi liên hoàn lại với nhau. Làm như vậy mới kịp thực hiện chủ trương; mở toang đồng bằng, chứ để cho các địa phương tự tuyển lấy thanh niên xây dựng lên thì chậm lắm. Ở ngoài này, ta có điều kiện tốt để xây dựng, tại sao ta không làm? Ta phải hoạt động tích cực hơn nữa, phải liên tục hơn nữa, làm cho lực lượng kìm kẹp của địch ở địa phương suy yếu nhanh chóng, mất hẳn tác dụng. Các tiểu đoàn hoàn chỉnh này cũng phải được trang bị khá mạnh để có khả năng bẻ gãy các cuộc càn quét an ninh, giải toả của địch, để cho chủ lực của ta hoàn toàn cơ động, thì mới có điều kiện tiêu diệt nhiều chủ lực địch, làm chủ chiến trường.

        Bây giờ tôi nói thêm vài ý kiến về vấn đề đô thị về mặt quân sự. Ở ven đô, phải có những đội đặc công thật mạnh, thật tinh nhuệ, tổ chức thành đơn vị tiểu đoàn, trung đoàn đứng vững chắc trên các địa bàn. Việc này, các anh trong ấy đang làm và theo báo cáo của các thành uỷ, thì kết quả rất tốt. Đây không phải như người ta đoán là: lấy nông thôn bao vây thành thị. Theo quan điểm của ta, thành thị không phải chỉ có đầu sỏ Mỹ, ngụy, tư sản mại bản, mà còn có cả một lực lượng quần chúng cách mạng đông đảo bao gồm công nhân, dân nghèo thành thị, học sinh, sinh viên, phụ nữ, trí thức cách mạng v.v… Tại sao lại nói bao vây họ? Nói như vậy là vô nghĩa. Song song với việc xây dựng lực lượng, xây dựng các bàn đạp ở ngoại ô, phải tạo ra và nắm lấy các lõm giải phóng ở trong các phường, các khóm trong nội thành, phát triển các đội biệt động trong nội thành. Những việc này ta đã làm từ năm 1968, nay phải làm rộng rãi hơn, mạnh hơn, nhiều hơn. Như thế là trong và ngoài, tạo ra được thế liên hoàn hỗ trợ nhau và mới có thể phát huy được sức mạnh của ba thứ quân sau này.

        Cũng có người lo rằng, năm 1975, phong trào chính trị ở thành phố cũng sẽ không làm được gì. Nghĩ như thế là sai. Địch yếu, còn do mâu thuẫn nội bộ, yếu về chính trị, yếu cả về kinh tế. Thời Ngô Đình Diệm, nó đưa lực lượng từ miền Bắc vào, tiếp đó thì Mỹ vào, cho nên Sài Gòn nó mạnh. Bây giờ, Sài Gòn lại là nơi yếu nhất. Ở đấy, đã có lực lượng của ba thứ quân mà trước đây ta chưa hề có; lại có cả ba thành phần. Trước đây, có ai giành quyền nổi với Diệm đâu? Ở Sài Gòn cũng như ở các đô thị lớn ở miền Nam, có khả năng tình hình sẽ phát triển một cách đột biến khi có thời cơ, hoặc là do thắng lợi của những cuộc phản công của quân đội cách mạng đưa lại; hoặc là do chính phong trào cách mạng ở đó phát sinh ra do lợi dụng được mâu thuẫn trong bội bộ địch. Trong cách mạng, luôn luôn có những bước phát triển nhảy vọt. Lê-nin nói: “Một ngày bằng 20 năm” là nói về chính trị. Trường hợp Sài Gòn khởi nghĩa thắng lợi năm 1945, hay Ngô Đình Diệm bị lật đổ 1963, hay nhân dân Đà Nẵng làm chủ thành phố này trong 76 ngày năm 1966, đã chứng minh điều đó. Tôi e rằng rồi đây phong trào chính trị lên mà quân sự lại không theo kịp. Năm 1971-72, Thiệu còn mạnh mà ta đã thắng được như thế, thì năm 1975, nếu biết làm, tình hình sẽ khác đi nhiều…

        Tôi nhắc lại nhé! Ta cần nhận định đầy đủ hơn nữa vị trí cực kỳ quan trọng của thành thị, và đấu tranh chính trị ở thành thị, trong việc đánh bại chính sách Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ trong giai đoạn mới, để có sự chỉ đạo hết sức linh hoạt, chủ động và kịp thời khi có những động thái mới của tình hình. Làm công tác đô thị, phải biết kết hợp cho tốt giữa bí mật và công khai. Bí mật là chính, là cơ bản, nhưng công khai là quan trọng. Bí mật là tồn tại của Đảng, còn càng công khai bao nhiêu càng mạnh bấy nhiêu. Vừa rồi, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết về đô thị. Rồi đây, Quân uỷ Trung ương và Quân uỷ Miền sẽ thảo luận nghị quyết này. Nhất định năm 1975 phải làm cho phong trào đô thị mạnh lên gắn liền với phong trào nông thôn thúc đẩy, hỗ trợ tiến lên.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 08:39:37 pm

        Như tôi đã nói hôm qua, do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ, phải chủ động gây phong trào, chứ không phải ngồi chờ cho phong trào nổi lên. Khi ta đánh mạnh thì phong trào đô thị sẽ khác ngay. Phải có người dám làm, vào hẳn trong thành phố. Không xông vào thì xa rời quần chúng, xa phong trào. Phải xông vào mà nắm lấy chỗ yếu nhất của địch, để kịp thời và có biện pháp cụ thể lợi dụng, khoét sâu thêm.

        Anh Ba dừng lại hồi lâu. Phải chăng anh nhớ lại 20 năm về trước, khi hoà bình mới lập lại trên nửa đất nước, vâng theo lời Đảng, theo chỉ thị Bác, Anh đã ở lại miền Nam sống giữa lòng đồng bào. Khi thì náu mình giữa rừng đước U Minh, Năm Căn, nơi tận cùng của đất nước, khi thì sống đàng hoàng gần như công khai trong các xóm lao động giữa các đô thị lớn như Sài Gòn, Đà Lạt. Đã nhiều lần, Anh bộc lộ tâm tình với anh em cán bộ: Nhiều đêm anh đã khóc, vì đoán biết thế nào đồng bào miền Nam cũng phải trải qua một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ, sẽ phải chịu không biết bao nỗi hy sinh, tù đày, chết chóc. Kết quả của những năm dài sống giữa nanh vuốt quân thù, Anh đã cùng Đảng tìm được đường lối đấu tranh cách mạng nhất, khoa học nhất, thích hợp nhất và đúng đắn nhất.

        Đột nhiên Anh hỏi:

        - Đánh vào Sài Gòn thế nào? Tất nhiên là phải chuẩn bị cho thật kỹ về quân sự. Các anh phải làm cho thật tốt. Tôi chỉ nói đến một khía cạnh thôi. Đây là một thành phố có gần 4 triệu dân, có 10 vạn cảnh sát, ghê gớm lắm. Nhưng không phải chỉ đem lực lượng quân sự giữa hai bên ra mà so sánh, mà phải lấy lực lượng của quần chúng. Lực lượng này thì tiềm tàng, bây giờ ta phải ra sức phát triển, nhưng sức mạnh của nó thì không có ai có thể lường hết được. Nó còn mạnh gấp năm, gấp mười lần sức mạnh quân sự. Đến một lúc nào đó, tình thế xoay chuyển, thì chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng này có thể làm tê liệt tất cả: nhà máy sẽ không còn là pháo đài, lô cốt của địch mà sẽ trở thành những ổ đề kháng, nơi tập trung lực lượng của giai cấp công nhân, đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch mà trở thành những chiến luỹ gang thép, thiên la địa võng của ta để bao vây địch, tiêu diệt quân thù. Mà cũng chẳng phải chỉ có Sài Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, nơi nào cũng làm được như thế cả.

        Về vấn đề hậu phương, Stalin đã từng nói: “Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định mọi thắng lợi”. Câu nói đó rất đúng và rất phù hợp với cuộc chiến tranh của ta hiện nay. Miền Bắc là chỗ dựa vững chắc, là hậu phương của cách mạng miền Nam. Nó còn có nhiệm vụ rất nặng nề đối với cách mạng Lào, Campuchia. Vì vậy, từ trước đến nay chúng ta đặt vấn đề xây dựng và bảo vệ miền Bắc thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng. Trước đây có người góp ý với ta, nên kéo địch ra miền Bắc mà đánh, vì ở đây, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn về mọi mặt bảo đảm; còn địch sẽ khó khăn nhiều. Ta không nghe. Trái lại ta chủ trương hạn chế chiến tranh ở miền Nam và thắng địch ở miền Nam, không cho chiến tranh lan ra miền Bắc. Đây là nói về một cuộc chiến tranh thông thường, bằng bộ binh; còn việc Mỹ dùng máy bay, tàu chiến, tiến hành chiến tranh phá hoại như vừa qua, thì là một vấn đề khác. Bao giờ cũng vậy, ta phải độc lập, tự chủ. Hôm nay bao nhiêu nhỉ?

        - Ngày 22 tháng 7.

        - Thì giờ đi nhanh quá. Những ý kiến phát biểu hôm nay, thực ra, trong Bộ Chính trị, chúng tôi cũng đã có trao đổi qua rồi. Tuy vậy, các anh về báo cáo lại với anh Văn, anh Dũng để trao đổi thêm về chủ trương, phương hướng làm kế hoạch cho năm 1975. Cố gắng chuẩn bị cho tốt, để khoảng tháng 10 Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương có thể họp được. Quay sang đồng chí Võ Quang Hồ anh tiếp: có ghi được đầy đủ những ý kiến tôi phát biểu không? Viết cho gọn rồi đưa tôi xem lại. Đây cũng là một phần nội dung của cuộc họp sắp đến đấy.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 08:42:35 pm
         
Chương 6

NHỮNG BÀI TOÁN HÓC BÚA

        Ngay sau khi gặp đồng chí Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Đồ Sơn về thượng tướng Hoàng Văn Thái đã báo cáo lại với các đồng chí trong Quân uỷ những ý kiến khêu gợi của anh Ba ở Đồ Sơn hôm trước và đã hướng dẫn cho các nơi làm kế hoạch tác chiến 1975, mặc dù đã chuẩn bị từ trước nhưng nay phải khẩn trương, cấp bách hơn. Cục tác chiến đang thu thập, tổng hợp các báo cáo để lên kế hoạch cho cả năm.

        Ý kiến chung của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy quân đội là: về phương hướng cơ bản thì nhất trí, còn cách làm ra sao đây thì phải bàn kỹ. Sau 30 năm đấu tranh, Đảng ta mới tạo ra được thời cơ thuận lợi như thế này, thì phải nắm lấy mà hành động thật kiên quyết. Phải tập trung mọi nỗ lực lại mà làm. Và kế hoạch 1975, phải khẩn trương bàn và làm. Nếu quân sự không thắng lớn, thì thời cơ cũng chưa đến đâu; ngược lại, nếu chúng ta đánh tốt, thắng lớn, thì phong trào chính trị lên, cũng sẽ có thể sẽ có thời cơ.

        Trị Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, mỗi nơi phải làm gì, nhằm đạt yêu cầu gì và phải có những biện pháp gì? Đánh vào đâu là có lợi nhất? Ở bắc vùng 1, từ Huế đến Đà Nẵng thì gần hậu phương miền Bắc. Chiến trường này được tổ chức tốt, có đường chạy dọc từ Quảng Trị đến nam Động Khe Tre, song song với đường đông Trường Sơn; lại có đường ngang từ La Hạp bắc qua đường 12 ở tây Huế. Công tác chuẩn bị có thể làm nhanh, để giữ bí mật và cũng ít phức tạp. Hiện nay, đối phương đang tập trung toàn bộ các đơn vị dự bị chiến lược ở khu vực này để thực hiện chiến lược “nặng đầu, nhẹ đáy”. Lực lượng chủ lực của ta ở đây cũng khá mạnh, nhưng lực lượng dưới cơ sở thì quá yếu. Nếu ta có lực lượng diệt và giam chân địch ở đây, để cho các nơi khác hoạt động, thì rất tốt. Thiệu không thể nào bỏ nơi này được, vì nếu bỏ thì sụp ngay, nên càng bị đánh, càng phải bám lấy. Năm 1972 chỉ có một mảnh đất nhỏ hẹp như thành cổ Quảng Trị, mà quân đội Cộng hoà cũng cố sống cố chết lấy lại cho bằng được thì đủ biết. Mọi người đều thống nhất với nhau là chiến trường Tây Nguyên có rất nhiều thuận lợi cho việc đánh tiêu diệt lớn; mà lúc này thì vấn đề cơ bản là vấn đề làm suy yếu đối phương, để nhanh chóng làm thay đổi so sánh lực lượng. Ở đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long, thì chủ yếu là vấn đề phá bình định giành dân, giành quyền làm chủ, còn muốn diệt địch thì phải tìm chỗ yếu của nó mà đánh. Vùng 1 đất hẹp, ta khó triển khai lực lượng lớn; vùng 3, địch mạnh, ta chưa có ưu thế áo đảo; cho nên địch yếu nhất là ở vùng 2 mà ở trong vùng 2 thì Tây Nguyên địch yếu hơn các nơi khác. Địa hình ở đây rất tốt, địch lại bị cô lập. Đánh xong, giữ cũng được, mà phát triển xuống đồng bằng hay vào Nam đều thuận lợi. Đánh ở đây, ngoài việc tiêu diệt địch, còn đánh khai thông hành lang Nam-Bắc. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, cứ tha thiết đề nghị với Quân uỷ Trung ương và Bộ Chính trị giải quyết sớm Đắc Pét, Đức Lập để có được một hành lang đi hoàn toàn trên đất ta; vì gần đây, bạn Campuchia hay dở chứng lắm. Xe ta sẽ chạy suốt từ bắc Kon Tum vào Nam Bộ, theo con đường mới mở dọc biên giới Việt-Miên. Bây giờ xong Đắc Pét rồi còn Đức Lập nữa. Cái khó ở đây là công tác bảo đảm. Kon Tum, Plây Cu thì gần miền Bắc, dễ bảo đảm hơn nhưng địch đề phòng nhiều, còn ở Đức Lập, Buôn Ma Thuột, thì địch có sơ hở thật, nhưng bị lệ thuộc nhiều vào thời tiết. Nếu ta diệt được 4-5 chiến đoàn ở đây, thì sẽ tạo chuyển biến lớn, nhất là trên đường 19 cũng sẽ diệt được một vài chiến đoàn. Lúc đầu là diệt, nhưng sau thì chuyển thành chia cắt, và đây là điều mà đối phương lo sợ nhất.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 11:31:44 pm

        Miền Đông Nam Bộ cũng có thể đánh tiêu diệt lớn được, địa hình rất tốt. Đánh lớn ở đây, thì ngoài mục đích tiêu diệt sinh lực địch ra, còn có tác dụng trực tiếp là hỗ trợ cho phong trào phá bình định, giành dân ở đồng bằng sông Cửu Long và ven đô. Trở ngại lớn nhất là xa hậu phương lớn quá. Ta chưa có điều kiện để sử dụng lực lượng lớn ở đây, vì vận chuyển, tiếp tế khó khăn, nhất là trường hợp có nhiều binh chủng kỹ thuật tham gia. Đánh ở đây, thì thế nào Thiệu cũng kéo cả sư đoàn dù, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ về. Với ba sư đoàn hiện có, các liên đoàn biệt động quân và với các sư đoàn 7, 9 ở đồng bằng rút về như năm 1972, thì lực lượng có thể lên đến 9-10 sư đoàn. Liệu ta có còn giữ được ưu thế nữa không? Vấn đề là phải phân tán cho được chủ lực đối phương, kìm chế được chúng để giữ nguyên trạng thái như hiện nay, hoặc có thêm bớt chút ít gì đó thôi, thì mới giữ được ưu thế chiến dịch lâu dài. Nếu không, thì rất dễ xảy ra tình trạng đánh cò cưa như kiểu Rạch Bắp-Ri Nét, bắc Bến Cát vừa rồi; cuối cùng tiêu hao lực lượng cả đôi bên, nó thì yếu mà ta cũng không còn đủ sức để phát triển, sau khi tạo ra thời cơ. Chủ lực của ta ở đây có kinh nghiệm chiến đấu, quen chiến trường, quen địch, nhưng chưa được kiện toàn. Tình trạng quân số chiến đấu thấp, chưa biết bao giờ mới khắc phục được, Địa hình ở đây thì tốt thật đấy, nhưng từ sau Tết Mậu Thân, Mỹ rải chất độc vô tội vạ, nên trơ trụi hết. Có nhiều nơi, trước đây cây cối rất rậm rạp, um tùm; thế mà nay, đã biến thành những bãi cỏ gianh trống tuếch, trống toác, cỏ cũng không mọc nổi. Chính diện thì rộng thật, nhưng tung thâm thì ngắn quá. Nếu ta đánh Chơn Thành hay Bến Cát thì coi ngay như đứng trên đỉnh đầu Sài Gòn rồi. Đây là nơi sẽ đánh nhau, giành giật quyết liệt của hiệp cuối của cuộc chiến tranh; hết phòng ngự lại phản kích, hết phản kích lại tiến công… Ở đây đối phương có mấy cái lợi: các căn cứ lớn đều có thể yểm hộ hoả lực cho nhau rất có hiệu quả; họ lại có điều kiện để tập trung nhanh, phát huy mọi uy lực của mọi binh, quân chủng: thiết giáp, pháo binh, … không quân… Cho nên, ở đây ta không nên đánh lèm nhèm, đã đánh là phải tập trung lực lượng, tập trung phương tiện, tập trung chỉ huy, đánh cho ra trò, cho dai sức. Tuy vậy, ngay từ bây giờ, phải bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị Sài Gòn như ý anh Ba thì mới kịp. Phải nghĩ đến việc xây dựng căn cứ ở miền Đông Nam Bộ, nối liền với Tây Nguyên. Trên đường 14, từ Đồng Xoài trở ra, thì địch yếu. Nếu ta giải phóng được Bù Đăng, Bù Na, ra đến Kiến Đức, Gia Nghĩa, Đức Lập thì sẽ có một căn cứ hoàn chỉnh dài mấy trăm cây số từ Đồng Xoài ra đến Buôn Ma Thuột. Từ đấy, có thể cơ động đi các tỉnh miền Đông và hướng Tây Ninh hay Đồng Xoài, Long Khánh, hoặc ra các tỉnh Kế hoạch 5 đều thuận tiện. Vấn đề chọn chiến trường, để mở màn cho đợt mùa xuân tới, còn phải cân nhắc, phải bàn bạc kỹ thêm nữa. Bây giờ thì phải giải quyết ngay các vấn đề cấp bách trước mắt.

        Từ sau khi có ý kiến khêu gợi của đồng chí Bí thư thứ nhất, căn cứ vào tình hình chiến trường và tham khảo những đề nghị của các nơi về kế hoạch hoạt động năm 1975, Bộ Tổng tham mưu gấp rút làm kế hoạch tác chiến chiến lược 1975-1976, dưới sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, đặc biệt là Thượng tướng Hoàng Văn Thái và Trung tướng Lê Trọng Tấn, để kịp thời trình bày trong hội nghị Bộ Chính trị tháng Mười tới. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Tổng tham mưu phó và thượng tá Võ Quang Hồ cục phó cục tác chiến chuẩn bị làm báo cáo; về sau tôi cũng được trên bổ sung vào nhóm này.

        Gần một năm sau có nghị quyết 21, từng chiến trường đã có những chuyển biến lớn, hoặc nhỏ. Đến tháng 10 năm 1974, tình hình đại thể như sau:

        Đối phương đã bị thất bại một bước quan trọng, trong việc thực hiện âm mưu bình định, lấn chiếm, bộc lộ những suy yếu mới, đang ở thế đi xuống, với tốc độ ngày càng nhanh. Kế hoạch xoá trạng thái da báo chẳng những không thực hiện được, mà vùng chúng kiểm soát thì ngày càng bị thu hẹp. Hệ thống đồn bốt cũng bị phá vỡ từng mảng, hoặc mất hiệu lực. Những cuộc hành quân lấn chiếm giảm dần: từ con số chín nghìn năm 1973 xuống còn ba nghìn năm 1974; ngược lại những cuộc hành quân giải toả lại tăng từ hai nghìn năm 1973 lên chín nghìn năm 1974. Rõ ràng là họ đang lùi dần về thế phòng ngự toàn diện. Đối với một số vùng ta mới giải phóng, địch đã phải chịu bỏ hẳn: Nha Bích-Tống Lê Chân ở miền Đông; Tánh Linh ở cục Nam Trung Bộ; Chư Nghé-Lệ Minh-Đắc Pét-Iasúp, Măng Bút ở Tây Nguyên; Nông Sơn, Thượng Đức, Minh Long, Gia Vụt ở Khu 5. Trong năm 1974, họ mất 830 ấp, 2.700 đồn, trong đó có một số chi khu quận lỵ, mà chỉ lập lại được 155 ấp, đóng lại 600 đồn. Tinh thần và sức mạnh chiến đấu của quân đội Cộng hoà giảm sút, số đào ngũ tăng gấp ba lần năm 1973, tổng số sau khi bổ sung lại vẫn còn tụt hai vạn. Lực lượng dự bị chiến lược bị sa lầy; quân chủ lực của các vùng chiến thuật bị dàn mỏng các nơi nên không còn sức để tiến công lớn ra vùng giải phóng. Viện trợ Mỹ ngày càng giảm sút, tài khóa 1974-1975 chỉ còn 700 triệu đô la về quân sự, mới đáp ứng được một nửa yêu cầu theo sự tính toán của DAO.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 11:34:21 pm

        Những khó khăn về kinh tế, chính trị của Mỹ, kéo theo những khó khăn của Thiệu. Nền kinh tế Mỹ tiếp tục bị suy thoái, nạn thất nghiệp ngày càng tăng, thì nền kinh tế miền Nam cũng ngày càng khốn đốn; ngân sách thiếu hụt gần một trăm tỷ đồng bạc miền Nam, lạm phát 200 tỷ.

        Tuy nhiên, khách quan mà nói, đối phương vẫn còn lực lượng khá hùng hậu. Chúng còn trên một triệu quân, trong đó có gần 70 vạn quân chủ lực và bảo an được trang bị hiện đại. Bắt lính đôn quân, mặc dù có khó khăn hơn trước, nhưng vẫn còn làm được. Kết quả tác chiến trong năm 1974 số bị diệt và bị tan rã khá nhiều, nhưng cũng chỉ mới đánh tuột được tổng quân số hơn vài vạn. Bộ máy kìm kẹp còn khá mạnh, tổ chức còn chặt chẽ, từ trung ương đến các địa phương. Tuy nhiên có nhiều nơi rệu rã, nhưng chúng đang chiếm lĩnh các địa bàn chiến lược, các đô thị, các vùng đông dân nhiều của, các đầu mối giao thông quan trọng. Trong tổng số 23 triệu dân ở miền Nam, ta mới nắm chắc trên 4 triệu, trong đó mới có một triệu hai được giải phóng hoàn toàn. Viện trợ Mỹ giảm, nhưng với trên một tỷ đô la-700 triệu quân sự và 300 triệu viện trợ kinh tế thử hỏi trong đám chư hầu, tay sai có ai được ưu đãi đến thế không?

        Phương chi, Mỹ Thiệu rất ngoan cố, xảo quyệt. Họ đưa muôn nghìn mánh khóe để lừa bịp dư luận thế giới, hòng ngăn chặn phong trào chống chiến tranh sôi sục ở khắp nơi và ngay trong nước Mỹ; họ tìm cách để chia rẽ, lừa bịp, hạn chế ta. Và việc làm của họ không phải là không có kết quả.

        Việc nghiên cứu kế hoạch lần này xoay quanh các vấn đề chính: Đánh giá địch và âm mưu của chúng sắp đến; phương hướng và nhiệm vụ của ta, phân chia các đợt hoạt động; sử dụng lực lượng, phối hợp chiến trường, công tác bảo đảm v.v… Từng vấn đề được nêu ra nghiên cứu và thảo luận. Một câu hỏi chung lúc bấy giờ là: làm thế nào để trong vòng hai năm thay đổi được cục diện toàn chiến trường theo hướng có lợi cho ta? Phải diệt bao nhêu chiến đoàn, giải phóng bao nhiêu quận lỵ, làm chủ bao nhiêu dân? Mọi người đều nhất trí là nếu không có chiến thắng vang dội, dồn dập thì sẽ chưa có thời cơ; và nếu địch không có thất bại về quân sự, thì tổng khởi nghĩa sẽ không có. Năm 1975, với tư tưởng chỉ đạo thống nhất là mở chiến dịch nam Tây Nguyên, đã được trên xác định rõ: đây là một chiến dịch kiên quyết. Vấn đề lớn nhất cần phải quán triệt, là phải tiêu diệt được nhiều địch, giải phóng và thắng giòn giã. Muốn vậy, phải chọn đúng mục tiêu đánh điểm; chọn đúng chiến trường đánh viện; phải giữ yếu tố bất ngờ, rất chủ động, buộc đối phương hành động theo ý định của mình. Phải có kế hoạch phối hợp chiến trường rất tỷ mỷ, chặt chẽ; phải chuẩn bị đầy đủ để khi có thời cơ, thì phát triển cho nhanh.

        Việc chọn mục tiêu Đức Lập, được mọi người nhất trí. Trong năm 1971, với hai trung đoàn bộ binh, vật chất bảo đảm nghèo nàn, ta cũng đã giải phóng được khu vực này. Nhưng sau khi ta lui quân, địch lại chiếm lại. Nay, với hai sư đoàn-sư đoàn 10 và sư đoàn 320-ở nam Tây Nguyên; với sư đoàn 968 thiếu ở bắc Tây Nguyên, và trung đoàn 95A trên đường 19, trung đoàn 25 trên đường 21, nhất định cũng sẽ giải phóng được khu vực này và diệt vài ba chiến đoàn trên đường 14 bằng đánh viện. Như thế, đã đủ để làm cho toàn bộ chiến trường miền Nam rung chuyển chưa? Năm 1972, trên chiến trường Trị Thiên, lực lượng ta sử dụng còn lớn hơn bây giờ, vật chất bảo đảm dồi dào hơn nhiều, đã giải phóng được tỉnh lỵ Quảng Trị, truy kích địch vào đến Mỹ Chánh, Huế rung chuyển rất dữ, nhưng đã có gì thay đổi lắm đâu. Thiệu lại đưa hai sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến ra đối phó. Chiến dịch kéo dài mấy tháng liền. Trời lại mưa xuống, rồi lại lui quân; thế là một năm trôi qua… Trong chúng tôi, không ai nghĩ đến việc phải tăng thêm lực lượng cho chiến trường chính này, để tạo ra một bước chuyển biến lớn, vang dội hơn; vì kiểm lại lực lượng chung trong toàn quốc, thấy không còn có đơn vị nào nữa, trừ Quân đoàn Quyết Thắng. Sư đoàn 316, thì mới ở Lào về, đang củng cố ở Quân khu 4. Mới mở màn đợt hoạt động, mà đã phải tung quân đoàn chủ lực dự bị chiến lược ra, là điều thất sách, chẳng ai làm; còn sư đoàn 316 thì đang chuẩn bị để đưa vào Nam Bộ, vì các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục đã có đề nghị xin, và Bộ đã chấp thuận. Kế hoạch tiếp theo là sẽ dùng lực lượng nào để nhân đà thắng lợi đẩy mạnh hoạt động và phương hướng khuếch trương chiến quả vào đâu để giành thắng lợi cao nhất? Hay là tạm nghỉ, chuẩn bị thêm lực lượng, để năm 1976, sẽ đánh đòn quyết định?


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 11:37:11 pm

        Bài toán hóc búa nhất chung quy vẫn là con người và vật chất. Một miền Bắc, với vài chục triệu dân, với một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu lại phải qua bao nhiêu năm chiến tranh, phải bảo đảm vai trò hậu phương lớn của rất nhiều chiến trường, rất nhiều mặt trận. Tổng quân số không thể tăng lên nữa vì tỷ lệ so với dân số miền Bắc đã quá cao. Trên miền Bắc không thiếu gì những xã với năm, bảy nghìn dân, mà có đến một đại đội quân nhân đang tại ngũ, hàng trăm cán bộ và chiến sĩ đã phục viên về nhà làm lực lượng dự bị và còn có một số không nhỏ đã vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường. Những gia đình có 5, 7 liệt sĩ không phải là hiếm.

        Trong cuộc chiến tranh này ta chủ trương không để cho nó lan rộng, mà thu hẹp ở miền Nam thôi, nên dù khó khăn đến đâu, bạn bè có nhiệt tình đến đâu, ta cũng không bao giờ yêu cầu một người quân tình nguyện; trong khi đó đế quốc Mỹ lại huy động lực lượng của cả nước, đến cả xương máu của các nước chư hầu ở châu Á, để ném vào cuộc chiến tranh này. Thực ra vấn đề xây dựng lực lượng cũng đã được đề cập đến từ lâu cho miền Nam. Sau ngày ngừng bắn, đã có lúc ta chủ trương giảm bớt tổng quân số, tập trung vào việc xây dựng kinh tế; nhưng liền sau đó, đối phương lật lọng, vi phạm hiệp định, càn quét, lấn chiếm liên miên, nên chủ trương này không thực hiện được. Trong hai năm 1973, 1974, thế và lực trên các chiến trường phát triển không đều có nơi lực ta không bị tiêu hao bao nhiêu, nhưng lại bị bật ra khỏi địa bàn hoạt động, bị dồn lên núi, nên mất thế; trái lại, có nơi lực lượng ta bị hao mòn, vật chất bị tiêu hao, nhưng vẫn bám chặt được địa bàn và từ đó mà cài lại thế để dần dần đi lên. Vấn đề đặt ra từ năm 1973 và những năm về sau là, song song với việc tạo thế, phải đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng, để sau một thời gian ngắn trên chiến trường, cả thế và lực ta đều hơn hẳn đối phương. Sau khi có NQ 21, Quân uỷ Trung ương đã có chỉ thị: “Ra sức nâng cao chất lượng quân đội một cách toàn diện, nhằm trong khoảng ba năm làm cho quân đội có chuyển biến vượt bậc về mặt chất lượng và có một sức chiến đấu mới”.

        Thực hiện chủ trương này, Bộ Tổng tham mưu đã nhanh chóng tăng cường lực lượng cho miền Nam, nhất là các vùng trọng điểm: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, để làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta; ra sức tăng cường lực lượng dự bị chiến lược theo yêu cầu tác chiến quy mô ngày càng lớn, xây dựng các quân đoàn, các quân chủng, binh chủng, ra sức tăng cường sức cơ động, lực lượng vận tải chiến lược, đồng thời chuẩn bị nhân tài vật lực để đón thời cơ. Quân uỷ chỉ thị rõ:

        “Dù thời cơ chính trị tạo ra có thuận lợi bao nhiêu, thì cũng phải đánh sụp ngụy quân, ngụy quyền; đòn công kích phải đi trước một bước, cho nên bất kể trong trường hợp nào, cũng phải nắm trong tay một lực lượng tập trung tương đối mạnh, và trong sử dụng, trong xây dựng, đều phải chăm lo giáo dục, để luôn luôn là một vũ khí sắc bén của cách mạng. Bất luận trong tình huống nào, cũng phải xây dựng lực lượng ở miền Nam cho thật mạnh”.

        Cơ quan DAO và Bộ Tổng tham mưu của Thiệu đinh ninh rằng, ta không thể nào mở được cuộc tiến công lớn, trước năm 1976, điều đó không phải là không có cơ sở. Nhìn lại tình hình, từ trước đến nay: cứ 4 năm lại có một lần đánh lớn: 1964, 1968, 1972… Chu kỳ ấy, trùng hợp một cách có ý thức vào các nhiệm kỳ bầu cử tổng thống ở Mỹ. Ai muốn bước chân vào Nhà Trắng mà chẳng hứa hươu hứa vượn, với nhân dân Mỹ và với cả thế giới là sẽ chấm dứt chiến tranh trong danh dự, sẽ rút quân, đưa tù binh MỸ về?

        Để phá bỏ quy luật này, đánh lớn ngay từ năm 1975, ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề trong việc tổ chức lực lượng bảo đảm vật chất… Như vậy là, phải rút ngắn thời gian chuẩn bị một năm.

        Rất nhiều chủ trương và biện pháp cụ thể được đề ra và thực hiện một cách kiên quyết và khẩn trương. Kế hoạch tuyển quân trong 3 năm 1973-1975, thì đến giữa năm 1974 đã hoàn thành. Các địa phương chưa kịp nghỉ xả hơi, thì nay do yêu cầu mới, phải tuyển thêm một số lực lượng tương đương với trước kia. Bộ Tổng tham mưu đã phải đề nghị Bộ Chính trị cho tuyển trước số quân của kế hoạch năm 1976, việc này, đã gây nên xáo trộn lớn trên tất cả các địa phương miền Bắc, kể cả trong các cơ quan Nhà nước.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 11:38:51 pm

        Kết quả là chỉ trong vòng ba tháng đến cuối năm 1974, hàng vạn chiến sĩ trẻ, khỏe, vừa qua huấn luyện cơ bản, đã lần lượt lên đường vào Nam, hay đưa đi các đơn vị thường trực ở miền Bắc, thay thế cho những thương bệnh binh và những anh em chiến đấu lâu ngày, sức khỏe sút kém. Nhờ thế, bước vào năm 1975, quân số chiến đấu ở các đơn vị đã được nâng lên khá cao, và tạo nên bước thay đổi lớn về chất lượng. Để gấp rút tăng cường sức mạnh tại chỗ cho các địa phương miền Nam; ta đã tổ chức ra nhiều tiểu đoàn bộ binh hoàn chỉnh. Các chiến sĩ được chọn lọc kỹ, tổ chức và huấn luyện đặc biệt, được đưa thẳng xuống cho các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Họ đã nhanh chóng làm quen với chiến trường và sớm phát huy được tác dụng. Những đơn vị này đã làm nòng cốt trong các chiến dịch tổng hợp ở các địa phương, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang, chính trị tại chỗ, mở vùng, mở mảng, giành dân, mở rộng diện làm chủ, và phối hợp tác chiến với lực lượng cơ động từ nơi khác đến, phân tán hoặc kìm chân giữ địch, tạo điều kiện tiêu diệt nhiều địch.

        Nói đến việc xây dựng lực lượng, có một sự kiện lớn là sự thành lập các quân đoàn cơ động của ta. Về mặt chiến lược, việc ra đời các Quân đoàn 2 ở Trị Thiên, Quân đoàn 4 ở Đông Nam Bộ, Quân đoàn 1 ở miền Bắc là một bước ngoặt lớn: Những chiến dịch sắp đến sẽ không còn hạn chế ở quy mô trung đoàn, sư đoàn, mở ra trên từng địa phương nhỏ hẹp nhằm mở vùng, mở mảng, trong một khu vực nào đó thôi mà sẽ có những chiến dịch có ý nghĩa chiến lược lớn, có thể quyết định cuộc chiến tranh lâu dài này.

        Để đạt được những thành tích to lớn và nhanh chóng trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nói trên, các binh chủng, quân chủng, quân khu, quân đoàn, tỉnh đội, v.v… trên miền Bắc đã góp phần công sức không nhỏ. Khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến” được thực hiện trên mỗi kế hoạch cụ thể, trên từng việc làm rõ ràng. Các đơn vị miền Bắc đã khéo léo kết hợp giữa hai nhiệm vụ: sẵn sàng chiến đấu ở miền Bắc đồng thời hết sức chi viện cho miền Nam, đã chọn những đơn vị khá nhất, những cán bộ tốt nhất để đưa vào tăng cường cho chiến trường, còn ở miền Bắc thì sẽ tuyển tân binh khôi phục lại. Chỉ nói riêng một đơn vị như Quân đoàn Quyết Thắng, đơn vị luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, cũng đã rút ra hàng vạn cán bộ chiến sĩ có kinh nghiệm để bổ sung chiến trường.

        Công tác bảo đảm vật chất, cũng được đề ra sớm và cũng gặp vô vàn khó khăn. Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, hậu phương miền Bắc vẫn còn đang chập chững đi những bước ban đầu, nên vẫn còn thiếu thốn mọi bề. Từ cái ăn, cái mặc, cái ở, đều phải thắt lưng buộc bụng để dồn sức cho tiền tuyến lớn. Bộ Chính trị đã khẳng định: miền Bắc là hậu phương quyết định nhất. Dù khó khăn đến đâu và phải ra sức sản xuất và chiến đấu, chăm lo xây dựng lực lượng, tích luỹ dự trữ, sẵn sàng chi viện cho miền Nam đầy đủ, kịp thời. Việc khai thác tại chỗ, trong chiến trường miền Nam, tuy có đáp ứng phần nào về lương thực và thực phẩm, nhưng cũng có nhiều lúc bấp bênh; vì bản thân nền kinh tế của Thiệu cũng đang xuống dốc. Chúng đã phải tổ chức những chiến dịch thu vét lúa gạo. Sự giành giật, đấu tranh giữa ta và địch về mặt kinh tế, cũng đã diễn ra hàng ngày và cũng khá gay go quyết liệt, nhất là ở những vùng đông dân, màu mỡ nhất.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 11:41:58 pm

Chương 7

CUỘP HỌP LỊCH SỬ

        Đây là một ngôi nhà, trông bề ngoài trông rất bình thường. Mái bằng, thấp, nép mình dưới một gốc cây cổ thụ, cành lá xum xuê. Từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy một mảnh mái nhà rất nhỏ; phần còn lại, khuất hẳn dưới tán cây.

        Nhà chỉ có ba phòng, giữa là phòng họp của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương.

        Chính nơi đây là nơi đã từng mở hội nghị để vạch ra đường lối chủ trương của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Trong những ngày sôi nổi nhất của đất nước, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cũng đã đến đây để theo dõi diễn biến, của từng bước tiến quân của các binh đoàn, và ra những chỉ thị cần thiết cho các chiến trường.

        Ngày 18 tháng 12 năm 1974, sau ba tháng trời khẩn trương chuẩn bị lại, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương lại họp, nghiên cứu tình hình và hạ quyết tâm lần cuối cùng. Khác với kỳ họp lần trước, lần này có đông đủ đại biểu các chiến trường về dự. Đại diện cho Trung ương Cục miền Nam, có các đồng chí Phạm Hùng, Phan Văn Đáng, Trần Văn Trà; đại diện cho Khu 5 có các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Hoàng Mình Thảo. Trong Bộ Tổng tham mưu có các đồng chí Tổng tham mưu phó phụ trách tác chiến: Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền.

        Số lượng đại biểu không nhiều, nhưng những người dự họp lần này, là những người đã từng lăn lộn trên các chiến trường, từ lúc Đảng còn trong trứng nước, không một mảnh đất cắm dùi, với hai bàn tay trắng, đã lãnh đạo quân và dân cả hai miền Nam Bắc, đánh bại hết chiến lược này đến chiến lược khác của những tên đế quốc đầu sỏ, trên các mặt trận, quân sự, chính trị, ngoại giao. Những người về đây họp, đã tổng hợp được quyết tâm và ý chí nguyện vọng và tình cảm, trí thức và kinh nghiệm của cả nước. Mấy tháng gần đây, các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ mặc dù bận trăm công nghìn việc, vẫn để nhiều thì giờ nghe cán bộ ở các chiến trường về báo cáo tình hình, nghiên cứu suy nghĩ về những vấn đề đã bao nhiêu năm canh cánh bên lòng: làm thế nào đem lại độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho toàn dân.

        Từ trước đến nay, chưa thấy hội nghị nào được chuẩn bị kỹ như lần này.

        Sau khi mọi người đã ngồi vào chỗ, đồng chí Lê Duẩn khai mạc hội nghị. Đồng chí nói:

        - Lần này chúng ta họp, đông đủ cả… Cách đây gần hai tháng, Bộ Chính trị đã họp, hạ quyết tâm sơ bộ; trong hai năm chấm dứt chiến tranh. Lúc bấy giờ các đồng chí ở chiến trường đều vắng mặt. Sau đó, Quân uỷ cũng đã họp, để bàn kế hoạch triển khai dần. Lần này thì có đông đủ. Chúng ta cần đánh giá cho thật kỹ tình hình. Bộ Chính trị muốn biết ý kiến các đồng chí về chủ trương, kế hoạch, để hạ quyết tâm lần cuối cùng. Khi báo cáo tình hình miền Nam, nhớ nói luôn cả biện pháp. Có như thế, mới thấy rõ ta mạnh, yếu thế nào. Phải nói nguyên nhân, nhược điểm của địch, nhất là từ khi Mỹ ra rồi, nhược điểm trong toàn cục, và trong từng địa phương, địch còn có chỗ mạnh và ta đập tan chỗ mạnh ấy như thế nào? Khi nói chủ trương của ta, phải nói chỗ mạnh, chỗ yếu, cách bố trí lực lượng tại chỗ, ở từng nơi, phương pháp đấu tranh thế nào là đúng. Chúng ta không sợ mất nhiều thì giờ, các đồng chí thảo luận cho kỹ đi, bàn cho ra nhẽ, đồng tinh rồi, về mà làm…

        Đồng chí Bí thư thứ nhất nói xong, chậm rãi ngồi xuống.

        Nhắm thời cơ thuận lợi, ba đồng chí quay phim nhiếp ảnh bước vào phòng, kẻ kéo dây điện, người chiếu đèn, máy quay phim quay rè rè. Tiếp đến là mấy cán bộ tác chiến vào, tháo gỡ tất cả các bản đồ, biểu đồ giả và thay vào đó là bản đồ quyết tâm và các sơ đồ, đúng như đã chuẩn bị. Trật tự lại trở lại, cuộc họp chính thức bắt đầu.

        Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, thay mặt Bộ Tổng tham mưu, trình bày dự thảo kế hoạch, đã được thông qua hồi tháng 10, có bổ sung một vài điểm về tình hình mới nhất; điều chỉnh một vài chỉ tiêu sau khi đã thống nhất ý kiến với các Bộ chỉ huy các chiến trường.

        Sau khi tóm tắt tình hình trong một năm qua, đồng chí báo cáo:

        - Năm 1975, nhất là khoảng từ tháng 8 đến tháng 10, chính trị bị suy yếu, phong trào quần chúng ở nông thôn, đô thị lên mạnh, Mỹ có thể thay Thiệu một cách êm thấm, có thể phát triển thành một phong trào đấu tranh lớn hơn.

        Về mặt tác chiến, thì năm 1975 là năm bản lề. Cần đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị, ngoại giao lên, làm biến chuyển so sánh lực lượng, có lợi cho ta, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho năm 1976. Yêu cầu cụ thể là:

        Giải phóng làm chủ mạnh từ 5 triệu đến 6 triệu dân, hay nếu có thể, thì nâng lên 7 triệu. Muốn làm được việc đó, phải giải quyết 4.500-5.000 đồn bốt; giải phóng 3.500-4.000 ấp, 300-400 xã; diệt 15-20 chi khu quận lỵ; 4-5 tỉnh lỵ; diệt và làm bị thương 30-35 vạn địch, đánh tụt 5-10 vạn tổng quân số, trong đó gồm 14-15 trung đoàn bộ binh, 4-5 trung đoàn, lữ đoàn xe tăng, đánh thiệt hại nặng 4-5 sư đoàn; làm tan rã 70-80 phần trăm phòng vệ dân sự; đốt 7 vạn tấn kho, phá huỷ 500 đến 600 máy bay địch…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 11:44:48 pm

        Mở rộng và củng cố vùng giải phóng miền núi; có thể giải phóng một số thị xã, mở rộng hành làn chiến lược, nối liền Tây Nguyên với miền Đông; miền Đông với đồng bằng sông Cửu Long, cải thiện một bước thế chiến lược của ta.

        Phát triển và đẩy mạnh phong trào đô thị.

        Ra sức xây dựng ba thứ quân, làm chuyển biến nhanh so sánh lực lượng, có lợi cho ta.

        Kết hợp với tiến công ngoại giao, buộc địch lập chính phủ thi hành hiệp định, hoặc chính phủ liên hiệp ba thành phần, thực hiện các quyền tự do dân chủ, để có điều kiện đẩy mạnh phong trào đô thị lên nữa.

        Về kế hoạch tác chiến cụ thể: năm 1975 tổ chức ba đợt tiến công.

        Đợt 1, từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975: tiến công có mức độ. Ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Mục đích của đợt này là mở vùng đồng bằng Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và các vùng cũ Chương Thiện-Rạch Giá-Cần Thơ-Cà Mau-các kênh Dương Văn Dương, Nguyễn Văn Tiếp, nam bắc lộ 4-Mỹ Tho. Ở miền Đông, sư đoàn trung đoàn hay sư đoàn, đánh từng trận chắc thắng, diệt Bù Na-Bù Đăng, giải phóng một đoạn đường 14, từ Bù Đăng đến Đồng Xoài.

        - Có đánh Đồng Xoài không? Có đồng chí hỏi.

        - Chưa, vì phải huy động nhiều lực lượng, nhất là nếu địch phản ứng mạnh để chiếm lại, và ta cũng chưa chủ trương sử dụng nhiều xe tăng và pháo lớn ở đây.

        - Lúc nào mới cho dùng?

        - Đợt 2. Như vậy là đợt đầu, mới tập dượt cho chiến trường miền Đông, diệt 1 vài chi khu quận lỵ. Ở các chiến trường khác: Trị Thiên-Khu 5-Tây Nguyên, chỉ hoạt động nhỏ của lực lượng địa phương, còn lực lượng chủ lực, thì chuẩn bị cho đợt 2.

        Phòng họp im phăng phắc. Mọi người đang chờ đợi một cái gì. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, bước lại gần tấm bản đồ quyết tâm treo trên giá, vừa tiếp tục báo cáo vừa chỉ:

        - Đợt 2, từ tháng 3 năm 1975 đến tháng 6 năm 1975, là đợt chủ yếu. Ta tập trung lực lượng sư đoàn 10, sư đoàn 320 và các trung đoàn độc lập 95A, 25, mở chiến dịch quy mô lớn ở nam Tây Nguyên. Đây là hướng tiến công chủ yếu của toàn miền. Tính chất của chiến dịch rất kiên quyết, nhiệm vụ của chiến dịch là tiêu diệt cụm cứ điểm Đức Lập, mở thông hành lang đường 14 nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ; diệt vài trung đoàn; đánh thiệt hại nặng sư đoàn 23 ngụy; giải phóng một số quận lỵ trong tỉnh Đắc Lắc; có thời cơ thì chiếm Buôn Ma Thuột. Trên hướng bắc Tây Nguyên, sử dụng sư đoàn 968, nghi binh, kéo dài lên hướng này, kìm chân chúng lại, tạo điều kiện cho chiến trường chính hoàn thành nhiệm vụ. Các trung đoàn 95A và 25 thì cắt đường 19, đường 21 lâu dài. Hướng phát triển là Gia Nghĩa ở phía nam, Cẩm Ga ở phía bắc Buôn Ma Thuột. Sau khi làm nhiệm vụ ở Đức Lập, hai sư đoàn sẽ đánh quân giải toả, có thời cơ thì mở rộng vùng nông thôn Phú Bổn, giải phóng Cheo Reo.

        Phối hợp với chiến trường nam Tây Nguyên, trên chiến trường Trị Thiên, Quảng Đà, Quân đoàn 2 và lực lượng địa phương đẩy mạnh hoạt động nhằm tiêu diệt và giữ chân hai sư đoàn dự bị của ngụy là sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến; đồng thời, tạo điều kiện cho lực lượng địa phương phá bình định. Trị Thiên cũng còn một nhiệm vụ rất quan trọng nữa là cắt dài ngày đường quốc lộ số 1, đoạn Huế-Đà Nẵng.

        Ở Khu 5, giải phóng các quận lỵ ở vùng giáp ranh, nằm lọt sâu vào trong căn cứ của ta như Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà. Trực tiếp, phối hợp với nam Tây Nguyên sẽ dùng sư đoàn 3 của Khu 5 cắt dài ngày đường 19 đoạn Phú Phong-An Khê.

        Ở đồng bằng sông Cửu Long, tổ chức chiến dịch tổng hợp với quy mô hai sư đoàn: sư đoàn 5 và sư đoàn 3, diệt các yếu khu, chi khu, mở rộng hành lang biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, tạo điều kiện cho đồng bằng trực tiếp phá bình định, giành dân, mở vùng, hoàn thành thế liên hoàn Vĩnh Trà-Bến đã tạo được trong đợt 1, áp sát Cần Thơ, khôi phục lại vùng 4 Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Cà Mau.

        Ở miền Đông Nam Bộ, dùng sư đoàn 9 (thiếu) và trung đoàn 26 diệt Dầu Tiếng hoặc Bến Củi, Bầu Đồn, Chà Rày, mở thông hành lang qua Hậu Nghĩa, phối hợp với mặt trận biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Mộc Hóa. Trên quốc lộ 14, sử dụng sư đoàn 7, tiêu diệt Kiến Đức; phối hợp với lực lượng ở nam Tây Nguyên, tiêu diệt Gia Nghĩa.

        Về phía Đông, dùng một bộ phận của sư đoàn 7 và lực lượng tập trung của Khu 6, giải phóng khu vực Vỏ Đắc-Tánh Linh, hoàn chỉnh cho được một khu vực giải phóng rộng lớn, đã tạo ra được trong đợt 1, cắt đường quốc lộ 1 ở đoạn Long Khánh-Bình Tuy.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Hai, 2017, 11:47:19 pm

        Đợt 3, sẽ diễn ra từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, phát triển thắng lợi đã đạt được, ta tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ở Trị Thiên, Khu 5, diệt địch, giữ vững và mở rộng hành lang, tiếp tục mở vùng mở mảng ở đồng bằng, đánh giao thông, hậu cứ; đồng thời, tranh thủ thời gian, củng cố lực lượng, sẵn sàng phương án đón thời cơ.

        Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền vừa nói đến “thời cơ”, cả hội nghị đều ngước mắt lên nhìn đồng chí.

        Thiếu tướng nói:

        Như Bộ Chính trị đã dự kiến, thời cơ có thể xuất hiện sát gần, hoặc ngay trong thời gian ta đánh mạnh nhất; cũng có thể xảy ra ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ; trong đợt 3 hoặc trong những tháng cuối năm 1975 như khi bầu cử tổng thống ngụy. Ta sẽ thực hành chia cắt chiến lược, tiêu diệt quân phòng thủ, đánh quân giải toả, đồng thời đẩy mạnh tiến công binh vận, đẩy binh biến, ly khai…

        Để được cụ thể hơn, đồng chí nhấn mạnh:

        - Tập kích những đòn thật mạnh, diệt các cơ quan đầu não, trung tâm thông tin, sân bay, căn cứ, hậu cứ, kho tàng… diệt và làm rối loạn các hoạt động ứng cứu lẫn nhau, sẵn sàng lực lượng, kịp thời hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy và binh sĩ ngụy ở những nơi có điều kiện, bung ra lớn. Các quân khu, quân đoàn, có kế hoạch kết hợp nổi dậy và tiến công ở trọng điểm và các đô thị, nhằm diệt cơ quan đầu não, diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ cho phong trào quần chúng và binh sĩ ngụy…

        Báo cáo xong thiếu tướng Lê Ngọc Hiền lui về chỗ ngồi. Tôi nhìn các đồng chí lãnh đạo, cảm thấy lo lo: rõ ràng là các đồng chí, chưa thật thỏa mãn với kế hoạch vừa trình bày. Điều này, trong bộ phận làm kế hoạch, chúng tôi cũng đã dự đoán từ trước. Kế hoạch đợt 1, đợt 2, thì xem chừng không có vấn đề gì, và cũng tương đối rõ ràng, cụ thể, nhưng đợt 3 và nhất là kế hoạch thời cơ thì chưa đạt; kế hoạch năm 1976, thì chưa hình thành.

        Tiếp đó, Thượng tướng Hoàng Văn Thái, đứng dậy, bổ sung: “Trong đợt 1, ở Nam Bộ, ta nên sử dụng lực lượng như thế nào cho đợt 2, vẫn còn được sung sức. Các đồng chí ở Miền muốn đánh Đồng Xoài ngay trong đợt đầu. Như vậy, có cái lợi là ta có cơ hội diệt từng chiến đoàn địch, từng quận lỵ ngay trong đợt đầu. Đó là bước nhảy vọt đối với Miền Đông, và tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho đòn đánh phá bình định ở đồng bằng. Nhưng vì Đồng Xoài nằm trên một địa bàn rất quan trọng, rất cơ động và là một quận lỵ lớn, nên nếu tiêu diệt ngay từ đầu, các nơi chưa có kế hoạch phối hợp, địch chưa phát hiện ra hướng tiến công chủ yếu của ta nhưng cũng rất sẵn sàng, nên có khả năng chúng sẽ tăng thêm 1-2 lữ đoàn trên hướng này. Nếu ta đánh Bù Na-Bù Đăng hay một nơi hơi xa xa hơn Đồng Xoài thì nhẹ đánh viện ngay từ đầu. Bước sang đợt 2, khi ta đánh Đức Lập, vì còn sung sức nên cũng có thể phối hợp mở luôn Kiến Đức, để tạo ra một vùng giải phóng hoàn chỉnh, một căn cứ địa rộng như thế, thì dù Mỹ có vào như trước kia, ta vẫn còn cái thế vững chắc. Đợt 2, Mỹ có thẻ nhảy vào. Khả năng này dù ít đến đâu, khi làm kế hoạch cũng vẫn phải dự tính đến. Hướng Đức Lập, ta sẽ đánh nhau sư đoàn 23 ngụy và các liên đoàn biệt động quân. Sư đoàn dù cũng có thể đến tham chiến. Phải tính như vậy, để bố trí được lực lượng. Tôi thấy nên đặt vấn đề chia cắt chiến lược mạnh hơn nữa: Trị Thiên, Quảng Đà, bắc Tây Nguyên, Miền Đông. Đợt 3, có thể có tình hình chính trị; nhưng chưa rõ sẽ diễn biến ra sao đây. Cho nên, ta không đặt vấn đề sử dụng hết lực lượng trong mùa mưa, trừ trường hợp có thời cơ thuận lợi đặc biệt. Tình huống này thì Quân đoàn 2 phải áp sát Huế, Đà Nẵng; sẽ cơ động toàn bộ lực lượng ở Tây Nguyên và miền Đông. Trường hợp thật đặc biệt, mới cơ động Quân đoàn 1.

        Dường như thông cảm với nỗi lo âu của chúng tôi, Đại tướng Văn Tiến Dũng đỡ lời trước:

        - Kế hoạch trình bày hôm trước chưa được chặt lắm, vì còn thiếu nội dung đợt 3. Cần nghiên cứu kỹ thêm để đề ra nhiệm vụ cho các chiến trường. Hiện nay, trọng tâm của ta là giành thắng lợi ở đồng bằng. Để cho được vững chắc hơn, để có điều kiện xây dựng lực lượng ở đồng bằng thành những đơn vị cấp sư đoàn, tác chiến quy mô lớn, bằng binh chủng hợp thành, nhất thiết phải có những hành lang nối liền đồng bằng với căn cứ. Chủ lực ở miền Đông, phải phối hợp, thực hiện nhiệm vụ này.

        Trong kế hoạch đợt 2, phải nghiên cứu cách đánh thế nào cho địch vỡ ra, mà ta chỉ dùng ít lực lượng thôi. Chúng ta không loại trừ khả năng ngụy suy sụp nhanh chóng. Cần phải tính đến phản ứng của địch sẽ như thế nào. Trước nguy cơ bị sụp đổ. Mỹ phải cứu. Chúng sẽ không tuyến bố gì nhưng cứ làm. Khi ta đánh mạnh, phong trào đô thị lên, thời cơ sẽ xuất hiện thì chính cũng là lúc phải cảnh giác. Phải theo dõi chặt lực lượng răn đe của chúng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 08:16:20 am

        Khi đại diện Bộ Tổng tham mưu báo cáo kế hoạch, mọi người đều có sẵn bản báo cáo trước mặt, vừa nghe vừa theo dõi từng trang, không khí hơi căng thẳng. Nhưng đến khi thảo luận, thì hầu hết không khí lại rất cởi mở, thoải mái. Từng đồng chí đại biểu, mỗi khi phát biểu, đều cầm sẵn bản Nghị quyết của cấp mình trong tay, nhưng cũng chẳng thấy ai giở ra cả, dường như đã thuộc lòng cả rồi, hoạ hoằn lắm mới lật một vài trang, tìm vài con số xác minh.

        Lúc đầu, tôi đinh ninh rằng cuộc hội nghị lịch sử này chỉ kéo dài trong mấy ngày là cùng. Lần này thì không phải thế. Cuộc họp kéo dài tới những 20 ngày!

        Chỉ riêng vấn đề đánh giá, nhận định tình hình, tuy nói là bổ sung vào bản dự thảo của Bộ Tổng tham mưu, nhưng cũng đã mất đứt cả tuần lễ rồi. Từng đại biểu điểm lại tình hình chiến trường mình phụ trách, nêu lên diễn biến từ khi có Nghị quyết 21 đến nay, và đặc biệt là tình hình gần đây nhất. Những con số thống kê kết quả diệt địch, hạ đồn, giải phóng đất đai v.v… So với bản báo cáo của Bộ Tổng tham mưu cũng không khác nhau bao nhiêu; nhưng những ý kiến nhận xét đều mang nhiều nét khá độc đáo của từng địa phương.

        Từ trước đến nay, ở Bộ Tổng tham mưu, việc nắm tình hình các đô thị không được đầy đủ lắm, và cũng nặng về hoạt động của các lực lượng vũ trang hơn là tình hình phong trào. Lần này, vấn đề này được đề ra nghiên cứu kỹ hơn.

        Những đợt sóng ngầm, trong suốt cả năm 1974, đang lay chuyển hệ thống chính quyền Việt Nam Cộng hoà ở đồng bằng sông Cửu Long, dần dần tràn về ven đô và vào thành phố. Quần chúng ở trong các khu vực đặc biệt này, mặc dù số ngày được hưởng hoàn toàn độc lập, chỉ vừa đủ đếm được trên đầu ngón tay, suốt 30 năm đấu tranh trong vùng kìm kẹp, mặc dù đối phương đã dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt nhất để mua chuộc, dụ dỗ, phân hóa, lừa bịp, đe dọa, đồng bào vẫn son sắt một lòng với cách mạng. Sau Tết Mậu Thân, dò biết ta đã xây dựng được những bàn đạp tiến công ở ven đô, nên địch đã dùng phi pháo đánh phác rất ác liệt, “đập nát vùng ven”. Họ lùa đồng bào vào các khu đồn, bắt phải mặc áo trắng khi đi ra ngoài làm đồng, để dễ phân biệt với Việt công. Thấy đồng bào tuân theo răm rắp, họ cho là chính sách gom dân đã thành công. Ngờ đâu, đồng bào mặc áo trắng, chạy vào ấp là để dễ bề đi lại, để che mắt địch, để tiếp tế cho cách mạng. Và chính bây giờ, chính những đồng bào ấy lại cởi áo trắng ra, chạy về vùng giải phóng. Họ thấy rõ hơn ai hết, Mỹ đã ra đi, thì sớm muộn gì rồi chính quyền Cộng hoà miền Nam cũng sẽ sụp đổ; thế quân sự so với trước ngày ký Hiệp định khác nhau rất nhiều. Họ muốn chiếm lại Lộc Ninh lắm chứ, nhưng đã không thể nào chiếm nổi, lại phải bỏ cả Tống Lê Chân.

        Năm 1973, chỗ mạnh của quân đội Cộng hòa là quân số, trang bị. Nhưng chỗ mạnh này, suốt cả năm 1974, cứ ngày càng giảm dần và nhất là sa sút về mặt tinh thần. Chỗ mới bây giờ là mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt, nhất là trong đám chóp bu. Từ Cao Văn Viên đến các tướng tá bên dưới đều cho rằng: nếu tiếp tục đánh nữa thì tiếp tục thua, nên chán ngán chiến tranh. Chiến lược ngày càng thua, chiến thuật ngày càng bế tắc. Ai cũng muốn thêm vây, thêm cánh, Thiệu muốn đưa người của mình vào; Khiêm cũng chẳng vừa; Mỹ thì muốn đưa những sĩ quan trẻ, huấn luyện, đào tạo theo kiểu Hoa Kỳ; gạt những người của Pháp hãy còn rơi rớt chút ảnh hưởng của Pháp ra một bên; nhưng khốn nỗi, số người này lại không có kinh nghiệm và cũng chẳng có uy tín gì.

        Đề cập đến những phương thức đấu tranh ở vùng ven, đồng chí Phạm Hùng phát biểu sôi nổi:

        - Tình hình vùng Sài Gòn khác với các nơi. Với hệ thống cứ điểm dày đặc, đường sa chằng chịt cùng với những cuộc hành quân càn quét liên miên ở bắc Củ Chi, Trảng Bàng, kết hợp với những hoạt động đêm ngày của bọn Phượng Hoàng, Thiên Nga… định cố đánh bật mọi lực lượng chính trị, vũ trang của ta ra xa thành phố. Đã có những ý kiến lo ngại. Quân uỷ Miền chúng tôi bám chắc tình hình, chỉ đạo kịp thời, chỉ rõ nguyên nhân vì sao miền Đông lại chuyển chậm hơn các nơi khác, và đề ra cách khác phục. Vấn đề là có quán triệt quan điểm bạo lực, không ngừng tiến công cách mạng hay không thì mới gọi là quán triệt Nghị quyết 21. Để phá bình định có kết quả, phải có phương thức đúng cho từng nơi. Nói quán triệt quan điểm bạo lực mà không chuẩn bị lực lượng thì chỉ nói suông mà thôi. Không như ở đồng bằng; ở đây lực lượng ta mỏng hơn, yếu hơn địch nhiều. Cho nên, muốn nhanh, phải dùng một bộ phận chủ lực đến tăng cường cho địa phương.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 08:18:19 am

        Khi toàn bộ chiến trường đều sôi nổi phá bình định, khí thế đang lên, thì không vì lý do gì mà lại rị mọ, phải lắp nguyên si các bài bản, kinh nghiệm cũ, cứ phải răm rắp tuân theo một trình tự nhất định, đi dần từ tranh chấp đến giải phóng. Phải mạnh dạn, đưa thẳng lực lượng vào. Vấn đề là phải giao nhiệm vụ cho chi bộ, đảng viên và các tổ chức quần chúng cho cụ thể, để khi có lực lượng của trên đến, thì phát huy được nhanh chóng sức mạnh tổng hợp. Vùng Chợ Gạo đã làm như thế, nên chỉ trong một thời gian ngắn, trong số 23 xã trắng thì giải phóng được 21 xã, tất cả đều có chi bộ. Cũng theo kinh nghiệm này, các vùng có nhiều đồng bào tôn giáo, hay di cư, làm đều có kết quả. Tây Ninh, Hố Nai… đều có chi bộ Đảng… “Một trong những thành tựu đáng kể là đến đầu mùa khô 1974 là sáu đoàn đặc công, mỗi đoàn tương đương một trung đoàn đứng chân được trên các địa bàn chung quanh Sài Gòn-Gia Định, Nhà Bè, Long Bình, Biên Hoà, Lái Thiêu. Đơn vị tập trung của thành phố cũng đứng sát ven đô.

        Trong nội đô Sài Gòn, phong trào đấu tranh cũng không kém phần sôi nổi. Mỹ khó, ngụy càng khó. Để thắng thế bị động, chúng đưa ra hết phong trào này đến phong trào khác. Nhưng ai còn lạ gì những phong trào gọi là để chống đối, của nhóm công giáo, phật giáo, những nhà báo đã ngốn no đô la Mỹ, do ngụy quyền Sài Gòn đưa ra, nhằm xoa dịu quần chúng, tháo gỡ ngòi nổ đấu tranh. Ý đồ của họ là rất thâm độc: đưa ra các phong trào này cốt để có sẵn lực lượng ủng hộ Thiệu trong những lúc Thiệu gặp khó khăn nhất, để tập trung lực lượng chống ta sau này nhưng trước mắt là để ngăn chặn những đòn tiến công chính trị trong mùa khô tới. Nhưng đồng bào ta rất tỉnh táo. Họ nhận ra ngay đó là con đẻ của Mỹ, nên chẳng ai thèm hưởng ứng. Những phần tử tiến bộ tỏng đồng bào công giáo, phật giáo, trí thức, tư sản khong tham gia đã đành, lại còn ra mặt phản đối. Các linh mục tiến bộ cũng thế. Rất buồn cười là ta giải thích mãi, họ mới chịu ủng hộ, dù chỉ là bề ngoài. Lợi dụng cơ hội này, ta đưa cơ sở của ta vào, kiên trì giải thích cho họ và giúp họ phát triển lực lượng, khôi phục lại các tổ chức công khai của ta trước đây: Mặt trận nhân dân cứu đói, phong trào phụ nữ đòi quyền sống, phong trào bảo vệ Hiệp định Paris, liên hiệp công đoàn đô thành, uỷ ban bảo vệ công nhân và lao động, tổ chức báo nói, v.v… lần lượt ra đời. Các khẩu hiệu do ta đưa ra đều vượt qua đầu Mỹ, ngụy. Phong trào ngày một lên cao, đi sâu vào các đường phố, các xí nghiệp, 36 chợ ở đô thành và cả những nhà cao lớn, thậm chí còn len lỏi được vào cả giữa đám ngụy quyền… những cái loa tuyên truyền, những tờ báo lá cải, ra sức xuyên tạc, nói xấu cách mạng, nhưng nói chẳng ai nghe, trái lại quần chúng cách mạng thì tin tưởng, mong chờ… các tầng lớp trung gian không ai còn sợ cộng sản nữa. Người dân Sài Gòn, đến nay vẫn còn giữ lại trong lòng những kỷ niệm sâu sắc, những hình ảnh cao đẹp của anh chiến sĩ giải phóng trong Tết Mậu Thân. Ở những phường, những hẻm, ngụy kìm rất chặt, ác ôn lùng sục đêm ngày chẳng tìm ra được gì, chỉ thấy đây đó những cái bàn thờ. Thờ ai?-Các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh trong trận tiến công. Ngụy tha hồ tô son, trát phấn cho chế độ của họ; nhưng thực tế phũ phàng cứ phơi ra trước mắt, vô cùng tai ác: một nền kinh tế què quặt dựa vào viện trợ Mỹ, kiếp theo đóm ăn tàn không làm sao ổn định nổi tình hình, để có phương hướng mà tiến lên. Cuộc sống trước mắt còn phải chạy ăn từng bữa toát mồ hôi thì còn nói gì đến việc triển khai kế hoạch hậu chiến, hứa hẹn một tương lai huy hoàng, rực rỡ? Thời kỳ vàng son, mỗi năm nhập hàng tỷ đô la đã qua rồi, nay chỉ còn một con đường trước mắt là đi xuống dốc. Những khó khăn về quân sự, chính trị, kinh tế giao thoa cộng hưởng với nhau, đặt ngụy quyền Sài Gòn đứng trước một tình thế nguy ngập, không lối thoát.

        Chúng ta không phải chỉ biết có đấu tranh quân sự, chính trị mà thôi, mà cũng hết sức chăm lo đến việc xây dựng vùng giải phóng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để cho vùng ta không những có ưu thế về quân sự, chính trị; mà còn có cả ưu thế về kinh tế nữa. Những mầm mống xã hội chủ nghĩa cũng sớm được nẩy sinh và phát triển trong lúc chiến tranh vẫn còn ác liệt. Chúng ta đã chi ruộng đất cho nông dân, đã tổ chức vần công, đổi công, hợp tác xã tín dụng. Công tác y tế, văn hóa đều được phát triển. Tuy chưa làm được bao nhiêu và đang gặp nhiều khó khăn, thiếu thôn; nhưng đồng bào thấy được tính ưu việt của chế độ ta là hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Hơn 4 vạn rưởi Việt kiều ở Campuchia chạy về, đời sống cũng dần dần ổn định.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 08:22:02 am

        Khi nói đến nguyên nhân thắng lợi của năm 1974, các đại biểu của Khu 5 phân tích sâu sắc. Các đồng chí đã đề ra câu hỏi:

        - Vì sao, sau khi có Hiệp định, chỉ trong vòng hai tháng, ở Khu 5, địch đóng thêm gần 400 đồn bốt, ta mất 20 vạn dân và gần đây, chỉ trong vòng 4 tháng, từ khi có Nghị quyết 21, ta đã bức rút được 850 đồn bốt, diệt 5 chi khu, giành lại 14 vạn dân? Nguyên nhân chính, theo các đồng chí, là phương châm tiến công còn nặng về phòng ngự. Sau đó, được sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, có uốn nắn lại; nhưng trong mùa đông cũng chưa có chuyển biến gì nhiều; vì tổ chức còn chuệch choạc. Muốn tiến công phải giải quyết một loạt vấn đề: tư tưởng, tổ chức, lực lượng, công tác bảo đảm, chỉ huy, chỉ đạo, v.v… từ trên xuống dưới. Từ tháng 9 năm 1973 ta chỉ cài lại thế, và phải đến tháng 4 năm 1974 trở đi mới có chuyển biến mạnh.

        Thắng lợi của Khu 5 tuy mới là bước đầu, nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng. Qua tiến công, thấy rõ đối phương suy yếu, bị động, tinh thần giao động mạnh, còn ta thì khí thế tiến công và nổi dậy đâu đâu cũng sôi nổi như ở Nam Bộ - Cả thế và lực đều được phát huy ngày càng mạnh lên - Tuy đối phương còn đông, trang bị mạnh, phòng ngự rộng, nhưng sức chiến đấu kém. Cũng như ở Nam Bộ, quân chiếm đóng, mỗi khi ta bị tiến công, đối phó rất yếu; nhiều nơi phải dùng chủ lực đển giải toả lại bị chủ lực ta đánh bại cuối cùng phải giãn ra, cùng với quân địa phương đi bình định, lấn chiếm, cho nên thiếu quân cơ động mỗi khi bị ta tiến công. Về ta, ở Khu 5 đã xuất hiện tình hình mới, bộ đội địa phương của ta tuy chưa mạnh, nhưng áp đảo được quân địa phương của họ, đã diệt được từng trung đội, đại đội trong và ngoài công sự khá phổ biến. Quần chúng trong nhiều khu dồn dân và nổi dậy phá kìm, trụ lại hoặc bung về vùng ta. Qua đó mà thấy khả năng đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, đánh bại âm mưu lấn chiếm bình định, và còn có thể mở ra nhiều mảng lớn.

        Song song với những hoạt động ở đồng bằng ta cũng đẩy mạnh cao trào đấu tranh ở Tây Nguyên. Ở đây, đối phương có 2 sư đoàn, 4 liên đoàn biệt động quân, và một số rất đông quân địa phương. Nhưng, sau chiến thắng Đắc Pét, Iasúp, Mang Đen, địch buộc phải co về phòng ngự ở đông bắc Kon Tum và tây thị xã Plây Cu. Ở Đắc Lắc, bộc lộ nhiều khu vực sơ khoáng. Tiếp tế cho Tây Nguyên, chủ yếu là dựa vào hai đường quốc lộ 19-21. Nhưng nhược điểm của chiến trường rừng núi đặc biệt này là chỗ khác, nơi mà những máy tính điện tử của Mỹ, dù có hiện đại đến đâu cũng đành phải bó tay: con người Tây Nguyên. Số người dân tộc trong bộ máy chính quyền Cộng hoà miền Nam họ cũng như trong quân đội khá đông, nhưng theo nhận xét thì sức chiến đấu kém vì tinh thần rất yếu. Theo nhận định của ta, tinh thần yếu không phải là do không có tinh thần mà là do mâu thuẫn rất sâu sắc giữa chính quyền Nguyên Văn Thiệu và đồng bào các dân tộc ít người. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, cũng có thể nổ ra những phong trào chống đối rộng khắp trong các tầng lớp, kể cả trong binh lính. Theo đánh giá chung trong hội nghị, thì khâu yếu nhất là Tây Nguyên, yếu cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Trong trường hợp ta đánh lớn, bị thiệt hại nặng, thì có khả năng tan rã lớn, và cũng có thể nổ ra phong trào chống Thiệu của các tầng lớp người Thượng.

        Đồng chí Võ Chí Công phát biểu tiếp:

        - Chúng tôi đang chuẩn bị cho một cuộc đồng khởi lớn và có khả năng giành lại vùng nông thôn đồng bằng trong năm 1975 này. Phương pháp tiến hành ở Khu 5, cũng gần giống như Nam Bộ: dùng chủ lực ta để thu hút, giam chân chủ lực địch. Tuy lực lượng địa phương chúng còn đông, nhưng nếu ta biết tập trung vào từng nơi, từng lúc thì vẫn có thể thực hiện được ưu thế ở nơi đó, lúc đó; làm thành trọng điểm, gỡ từng khu vực một, hết nơi này đến nơi khác. Cho đến nay, địch chưa lấp lại được những nơi mà vừa rồi ra mới mở ra. Vùng căn cứ Khu 5 đã hoàn chỉnh được một bước quan trọng. Hậu phương của ta được ổn định, quần chúng thấy ở vùng ta dễ làm ăn hơn vùng địch vì ít ác liệt hơn và rất đáng ngạc nhiên là vùng địch đói, vùng ta no. Kế hoạch năm 1975 của Quân khu, không nên chỉ đóng khung trong khu vực Phước Lâm-Tiên Phước mà thôi, tôi đề nghị Bộ Chính trị giải phóng luôn cả Sơn Hà-Trà Bồng-Sa Huỳnh. Và về kế hoạch tiến công chiến lược năm 1975 cho toàn miền Nam, Khu uỷ chúng tôi đề nghị: tranh thủ thời cơ, mở cuộc tiến công lớn, tiêu diệt địch, giải phóng Tây Nguyên, kết hợp đưa lên cao trào tiến công và nổi dậy, giành đại bộ phận nông thôn đồng bằng, tạo điều kiện và thúc đẩy bùng nổ cách mạng ở thành phố, giành thắng lợi, làm thay đổi hẳn cục diện cách mạng. Về chỉ tiêu của năm 1975, yêu cầu chủ lực của Bộ và của Miền diệt cho được từ 3 đến 5 sư đoàn bộ binh địch. Riêng để giải phóng Tây Nguyên, phải tiêu diệt cho được sư đoàn 23, sư đoàn 22 và một số tiểu đoàn biệt động quân, chủ yếu là đánh trong lúc chúng đang vận động. Giải quyết được Buôn Ma Thuột thì lực lượng Tây Nguyên vào Nam Bộ, chẳng cần phải đánh Plây Cu, Kon Tum làm gì, để cho lực lượng địa phương chúng tôi thanh toán sau. Trong kế hoạch này, Khu 5 sẽ để sư đoàn 3 tham gia trên đường 19, sau đó sẽ quay về đồng bằng, cùng với sư đoàn 2 và lữ đoàn 52 giải phóng đoạn từ Phù Mỹ ra sông Vệ, cắt địch ra từng mảnh và mở rộng vùng giải phóng dần ra từ nam Đà Nẵng đến bắc Khánh Hoà…”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 08:25:31 am

        Tôi ngồi nghe, ngây người, có nhiều lúc quên cả ghi chép. Những lúc ấy, tôi đưa mắt hỏi đồng chí Võ Quang Hồ có bỏ sót đoạn nào không? Đồng chí Hồ mỉm cười, gật đầu trả lời. Màn kịch câm của chúng tôi không lọt khỏi mắt của Trung tướng Trần Văn Trà. Đồng chí lặng lẽ, lật tấm vải trải bàn màu xanh hoà bình lên, mỉm cười, khi phát hiện ra một cái lỗ nhỏ và cái micrô đặt ở dưới gầm bàn. Đến giờ nghỉ giải lao, đồng chí đến thẳng chỗ chúng tôi nói:

        - Các cậu làm ăn kém qua; kỹ thuật rất xoàng. Trắng trợn quá!

        Tôi trả lời:

        - Chúng tôi ghi lại những lời phát biểu của các anh để rồi còn làm biên bản, thảo nghị quyết cho đỡ vất vả thôi. Và cũng để cho con cháu ta sau này nữa, chúng biết được lời ăn tiếng nói của cha ông, chứ có như ở trại David của các anh trong Liên hiệp bốn bên đâu…

        Gọi là giải lao, những chẳng thấy mấy ai nghỉ cả. Các đồng chí lãnh đạo, cứ từng đôi một, đi cặp kè bên nhau quanh hiên nhà, ngoài sân, râm ran trao đổi ý kiến: một cuộc họp lớn trong nhà chưa đủ, bỗng hoá thành nhiều cuộc họp nhỏ. Hoa quả, nước chanh, bia, nước suối để ở phòng bên hầu như không ai đụng đến.

        Có một vấn đề đã được đặt ra ngay khi mới bắt tay vào làm kế hoạch, được hội nghị thảo luận sôi nổi suốt mấy tuần liền: Mỹ có vào hay không? Mỹ vào như thế nào? Rất nhiều người phát biểu về vấn đề này. Đồng chí Võ Chí Công nói ngắn gọn và dứt khoát:

        - Chúng ta có nói một cách dứt khoát là dù Mỹ có vào trở lại, thì ta cũng quyết đánh và quyết thắng to hơn trước mà thôi. Năm 1965, Mỹ có 3 vạn cố vấn, ta còn đang ở trong thế yếu, huống gì ngày nay, với 2 vạn tên Mỹ, và lại đang ở trong thế bị động chiến lược như thế này… Năm 1965 ta dám đánh Mỹ; năm 1968 ta dám nổi dậy, thì nay ta còn sợ ai nữa?

        Ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng được cả hội nghị tán thưởng. Đồng chí đứng dậy, người hơi chờm ra phía trước, nói chầm chậm từng câu một.

        - Ta phải nghĩ đến một chữ mà ta thường nói: Giai đoạn mới. Đây là Hiệp định Paris, là Mỹ phải rút quân. Đối với Mỹ, rút được quân ra khỏi Việt Nam là một thắng lợi rất lớn. Trước kia, Kenerdy lúc mới lên, tỏ ra hăng lắm, muốn dùng chiến trường Việt Nam để đe dọa, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc, đang có nguy cơ lan rộng ra trên toàn thế giới. Nhưng nó không làm, nói mà không làm… Đến như Rích Uê mà còn không dám vào nữa là, vì biết có vào cũng chẳng được gì. Cho nên, Pháp thua, nó cứ để cho thua. Đến năm 1964-1965, do tình hình ở miền Nam bức bách quá, nên Mỹ rất lúng túng, liều lĩnh, bày trò lừa bịp quốc hội để đưa cho được lính Mỹ vào miền Nam, đồng thời ngăn chặn miền Bắc. Nhưng cuối cùng chẳng thu được kết quả gì. Miền Nam ta thắng lớn. Tết Mậu Thân rung động rất dữ. Đánh miền Bắc chỉ thu được kết quả là làm cho ta thêm cứng rắng thêm thôi. Johnson cảm thấy lung lay sự nghiệp; thấy không thể đánh được; Mc Namara dần dần cũng sáng ra; còn Oét-mo-len thì đành ngửa tay xin thêm 20 vạn quân nữa. Cuối cùng, chẳng những không đưa thêm một tên lính nào nữa sang đây, mà còn phải rút quân. Bọn ngụy thấy nguy đòi ta cũng rút ra; ta kiên quyết không rút; Mỹ đành chịu, vì có như thế thì mới ký được và Mỹ mới ra được. Nhiều dẫn chứng cho thấy, Mỹ mắc vào chiến tranh Việt Nam, bị mất không biết bao nhiêu mà kể; từ đỉnh cao tụt xuống dưới thấp. Cái chung mất đã đành, từng cá nhân cũng mất.

        Thủ tướng nắm tay, dằn từng tiếng:

        - Cuối cùng, mới rút ra được kết luận: lao vào cam kết là chết. Rút ra, để mặc Sài Gòn. Rút ra, đưa được tù binh Mỹ về là quý hóa ghê gớm lắm rồi. Có bao giờ một tổng thống mà xuýt vào tù?

        Mọi người cười ồ.

        Mỹ vào hay ra là cả một chiến lược của nó. Không phải muốn vào thì vào, muốn ra thì ra một cách dễ dàng được. Mà vào để đạt mục đích gì? Vào bằng không quân, cũng là một sự can thiệp bằng quân sự, và cũng chẳng cứu vãn được gì. Cho nên tôi nói: có cho kẹo nó cũng chẳng dám vào là thế.

        Quay về phía chúng tôi, Thủ tướng nói:

        - Các đồng chí cứ ghi đúng như thế vào biên bản đi. Tất nhiên, là ta phải đề phòng cái ngu ngốc, điên dại của nó. Đề phòng để yên chí mà làm. Thủ tướng đưa bàn tay lên trước mắt, khoát qua khoát lại, nói chầm chậm:

        - Câu kết luận cuối cùng là: Mỹ không đáng sợ. Với dư luận quốc tế, ta không lo. Ta sẽ có cách làm cho mọi người trên thế giới thấy vấn đề độc lập, giải phóng đối với chũng ta là thiêng liêng, chính đáng lắm. Về mặt ngoại giao, đối với Mỹ, ta cũng đã hết sức chủ động. Ta đề ra, bắt nó phải nghe, nếu không nghe, ta cũng có cách làm rồi, để đạt được mục đích của chiến tranh là đánh thắng và thắng vĩnh viễn… Ta có 2 cái mạnh, lợi thế chính trị và năng lực tổ chức của những người cộng sản. Đây là một cuộc chiến tranh chính trị, một cuộc chiến tranh nhân dân, thì nó cũng vô pháp…”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 08:29:06 am

        Đầu mùa Xuân 1965, cũng tại đây đã có một cuộc họp của 5 đồng chí trong Bộ Chính trị, để nghiên cứu tình hình khi có tin đích xác là Mỹ sẽ đưa quân vào miền Nam. Nhìn lại hôm nay, tôi thấy gần đủ mặt các đồng chí lãnh đạo-trừ đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Vấn đề đề ra thảo luận hôm nay, cũng gần như 10 năm về trước. Mỹ vào như thế nào và ta sẽ đánh Mỹ như thế nào? Cùng chung một đề tài, mà tư thế khác biết bao nhiêu, tuy khoảng cách thời gian chỉ vẻn vẹn trong vòng một thập kỷ. Khi nói đến những hy sinh, mất mát, thì 10 năm thật là quá dài, những nghĩ đến những sự tiến bộ, vươn lên của một dân tộc, một quân đội thì thật là quá ngắn, quá nhanh. Nhớ lại câu nói của đồng chí Nguyễn Chí Thành, với cán bộ Bộ Tổng tham mưu lúc bấy giờ; “Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm đánh Mỹ, chúng mình phải nghiên cứu tìm ra cách đánh như thế nào để thắng Mỹ?”.

        Năm 1966, trong một dịp đi công tác vào miền Nam, tôi được gặp lại anh ở miền Đông Nam Bộ. Lúc bấy giờ đã có những trận Núi Thành - Plây Me - Vạn Tường - Bầu Bàng v.v… Anh lại nói: “Nó quyết tâm đánh Mỹ thì chưa đủ; mà còn phải có phương pháp đánh Mỹ nữa. Nếu chỉ ngồi nghe người ta hù dọa thì chẳng bao giờ dám hạ quyết tâm đánh Mỹ. Nào là cao xạ 37 ly không hạ được thần sấm, con ma; một quân đoàn bộ binh của ta, đầu nhọn đuôi dài, cũng không diệt nổi một tiểu đoàn quân Mỹ v.v… Đảng mình đã cân nhắc kỹ mới hạ quyết tâm. Sau một năm, trên chiến trường miền Nam, ta đã có nhiều phương pháp đánh Mỹ rất độc đáo, phong phú. Bây giờ, thì anh em cán bộ dưới đơn vị có hỏi cách đánh thế nào, thì mình cũng đã có sẵn những câu trả lời cho họ được rồi!”.

        Trước đây, Mỹ tưởng chắc ăn nên nhẩy vào miền Nam; còn ngày này, nếu có vào cũng chỉ là để cùng với ngụy chia xẻ những thất bại, nỗi nhục nhã mà thôi. Cái “quyết” trước kia là quyết đánh; cái “quyết” hôm nay là cái “quyết” kết thúc, và kết thúc thắng lợi.

        Nếu dừng lại ở đây thôi, thì có lẽ những buổi thảo luận đã không đến nỗi kéo dài đến như vậy. Vấn đề đặt ra, còn phức tạp hơn nhiều. Làm thế nào để đánh cho ngụy nhào, mà Mỹ không vào? Yêu cầu lần này khác hẳn với trước đây một năm. Bây giờ thì đánh không phải để rồi ngồi lại thương lượng, rồi lại đánh nhau. Chiến tranh sẽ trở lại. Thậm chí, cũng không ai đặt vấn đề đánh thế nào để hạn chế sự can thiệp của Mỹ; và như vậy, không ít thì nhiều, sẽ ảnh hưởng đến tư tưởng của quân đội và nhân dân; mà phải đặt vấn đề một cách dứt khoát là phải đánh thế nào để Mỹ, dù có điên cuồng đến đâu cũng không có cách gì trở lại được. Để đạt được yêu cầu ấy, chỉ đạo chiến tranh phải hết sức sáng suốt, tài tình, phải nhìn xa trông rộng, và phải có một trình độ nghệ thuật quân sự đạt đến đỉnh cao, có thể vận dụng nghệ thuật để giành thắng lợi nhanh chóng, vững chắc, ngoài dự kiến của đối phương; và biết kết thúc chiến tranh theo ý định của mình. Cuộc họp lần này tiến hành giữa lúc chiến trường Nam Bộ vào đợt 1 năm 1975. Súng nổ giòn giã. Theo sự phân công trong Cục tác chiến, tôi phải nắm tình hình diễn biến các chiến trường thật chắc, chuẩn bị thật đầy đủ như một thí sinh trước khi bước vào phòng thi vấn đáp. Quả đúng như vậy. Đồng chí nào cũng vậy, mỗi buổi sáng, vừa bước vào phòng họp, trong lúc chờ đợi mọi người đến đông đủ là đến ngay chỗ có treo bản đồ chiến sự, hỏi han tinh tức các nơi. Các đồng chí đại diện Trung ương Cục, thì chăm chú theo dõi kỹ hơn và tỏ ra rất phấn khởi; các đồng chí khác thì vì chưa thuộc địa hình nên chủ yếu là xem trên bản đồ. Khi mọi người đến đông đủ, anh Ba bảo tôi báo cáo tóm tắt tình hình chiến sự:

        - “Sau khi có ý kiến khêu gợi của Bộ, đợt 1, Nam Bộ mở màn đánh Đức Phong, chứ không đánh Đồng Xoài như đã dự kiến trước đây. 22 giờ ngày 22 tháng 12, bộ đội đặc công Phước Bình diệt chi khu Bù Đốp. Sau 45 phút, ta dứt điểm. Ở Đức Phong, ngày 14 tháng 12 mới nổ súng, vì trước đó, pháo không chiếm lĩnh trận địa được, chậm mất một hôm. Sau 3 giờ chiến đấu, ta làm chủ chi khu quân sự. Trên hướng Vĩnh Thiện, ngày 13 tháng 12, trung đoàn 201 chưa dứt điểm được, do hiệp đồng pháo chưa khớp, chuyển sang bao vây, sáng 14 tháng 12 thì dứt điểm, đồng thời với Đức Phong. Trên hướng Bù Na, đặc công bị lộ, chuyển sang đánh bằng binh chủng hợp thành đến 1 giờ sáng ngày 15-12, địch rút chạy. Ta vây diệt, làm chủ yếu khu và phát triển tiến công đến cầu 38, bắt 120 tên, bức rút 4 chốt trên đường 14, 3 chốt trên đường 311. Như vậy là đường 14 nối thông được từ Đức Phong đến cầu 11. Kết quả chung, sau 5 ngày chiến đấu, từ 13 đến 17 tháng 12, ta đã tiêu diệt và bức rút gần 50 đồn bốt, giải phóng một đoạn đường gần 100 cây số, giải phóng chi khu Đức Phong, yếu khu Bù Na, diệt 300, bắt 500 địch, ra trình diện 400, thu 4 pháo 105, 6.000 viên đạn, giải phóng một vạn rưởi dân”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 08:32:06 am

        Đồng chí Hoàng Văn Thái cắt ngang lời tôi:

        - Lệnh cho bộ tư lệnh Mặt trận cho chuyển đạn và pháo ra khỏi đồn cho xa, đừng để máy bay ném bom mất. Sáu nghìn viên đạn pháo lúc này là quý lắm đấy nhé! Ngoài này ta phải nhồi lắp từng viên một.

        “Ở Trà Vinh, đối phương đã phải co kéo lắm mới rút được hai tiểu đoàn của sư đoàn 7 và hai chi đoàn thiết giáp về đối phó với hai trung đoàn chủ lực và bốn tiểu đoàn tỉnh. Ở Hậu Giang, đến ngày 17 tháng 12, ta dứt điểm chi khu Hưng Long, và phát triển ra chung quanh, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 21 đến giải toả. Ta đã hình thành thế bao vây Chương Thiện, lên sát lộ vòng cung Cần Thơ và mở một số vùng trong phạm vi hai tỉnh Cà Mau và Sóc Trăng. Ở biên giới Kiến Tường, Đồng Tháp Mười; địch điều hai trung đoàn của sư đoàn 9 và hai trung đoàn thiết giáp lên Mộc Hóa, Tuyên Bình, Tuyên Nhơn để tổ chức phòng thủ vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu, nhằm ngăn chặn ta từ bên kia biên giới. Ba trung đoàn của sư đoàn 7 cũng dàn ra ở Giáo Đức, kênh Nguyễn Văn Tiếp, Cai Lậy, kênh Ba Tháp. Mặc dù địa hình rất trống trải, lại phải vượt qua nhiều kênh rạch, những bãi sình lầy của bưng biền, sư đoàn chủ lực của ta vẫn dứt điểm được quận lỵ hành chính Tuyên Nhơn và các điểm chung quanh, mở rộng và đứng vững trên tuyến Vàm Cỏ Tây, một địa bàn quan trọng ở vùng đồng bằng, tạo thế uy hiếp quốc lộ 4., con đường chiến lược nối liền miền Tây với Sài Gòn-Gia Định. Chỉ trong vòng 15 ngày, triển vọng diệt 3 đến 4 vạn địch, 1.000 đồn bốt, giải phóng 40-50 vạn dân thấy có nhiều khả năng đạt được. Cái mới là ta dứt điểm được một chi khu ở đồng bằng…”.

        Chưa có lần nào như lần này, không khí hội nghị thay đổi từng ngày một, ngày sau sôi nổi hơn ngày trước. Cũng có thể là do những vấn đề đặt ra để thảo luận là những vấn đề bức xúc, nhưng một phần nữa là do những diễn biến trên chiến trường Nam Bộ trong lúc này. “Tin mừng thắng trận nở như hoa”. Điện từ chiến trường tới tấp báo tin chiến thắng: ngày 22 tháng 12 một bộ phận của sư đoàn 7, cùng với lực lượng Bình Phước diệt chi khu Bù Đốp lưu vong”. “Tội nghiệp” cho cái chi khu bất hạnh này! Trong 10 ngày, hai lần bị diệt ở hai nơi: chạy trời không khỏi nắng! Đến 5 giờ 30 ngày 26 tháng 12, một trung đoàn tăng cường của sư đoàn 7 tiến công chi khu Đồng Xoài; đến 15 giờ giải phóng toàn bộ khu vực này. Một bộ phận địch trên quốc lộ 14, chạy về tổ chức phòng ngự ở thị xã Phước Long, núi Bà Rá và chi khu Phước Bình.

        - Lực lượng địch ở khu vực Phước Long bao nhiêu? Ta sử dụng bao nhiêu lực lượng? Anh Ba hỏi:

        Trung tướng Trần Văn Trà đỡ lời cho tôi:

        - Địch có ba tiểu đoàn bảo an. Có khả năng gần đây tăng thêm một tiểu đoàn nữa. Tổng quân số khoảng 4 nghìn tên, chưa kể phòng vệ dân sự. Chúng có 16 khẩu pháo từ 105 đến 155 ly; một chi đội cơ giới; đóng trong 40 đồn bốt. Ta có sư đoàn 7 thiếu trung đoàn 3 và một số tiểu đoàn độc lập. Theo chỉ thị của Bộ, đánh Đồng Xoài chúng tôi chỉ dùng pháo 105 ly lấy của địch và pháo mang vác, còn pháo 130 ly và xe tăng T.54 thì để làm dự bị cho chắc tay. Nhưng, đánh Phước Long thì đề nghị Bộ cho sử dụng vài đại đội xe tăng và pháo 130 ly. Sau đợt này, sang tháng 1 năm 1975, sư đoàn 3 sẽ xuống đồng bằng, trên địa bàn tây sông Vàm Cỏ Tây, còn trung đoàn 429 đặc công thì thọc xuống đóng ở ven đô. Như vậy, thì ta có thể kìm chặt lực lượng của Quân đoàn 3 ngụy. Quy luật ở đây, nếu ta hoạt động mạnh ở Tây Ninh-Suối Đá, thì sư đoàn 25 ngụy phải lo giữ ở phía đó. Chúng sợ mất Tây Ninh lắm. Sư đoàn 5 ngụy thì bất cứ tình huống nào cũng không thể rời khỏi quốc lộ 13, vì chúng biết có sư đoàn 9 của ta hãy còn lởn vởn ở lọ 7-Bến Cát. Nó phải án ngữ bắc Sài Gòn và rất sợ mất Tân Uyên-Phú Giáo. Nay ta đánh Đồng Xoài thì sư đoàn 18 ngụy phải lo giữ Hoài Đức-Long Khánh, cũng không rút đi đâu được, may ra thì chỉ lấy được một trung đoàn để đối phó với Võ Đắc-Tánh Linh. Chúng tôi chỉ lo sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, trước sau rồi chúng cũng rút về trong này. Đề nghị Bộ cho các chiến trường phối hợp và cho sư đoàn 316 vào Nam Bộ sớm chừng nào hay chừng ấy.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 08:35:13 am

        Thượng tướng Hoàng Văn Thái, tay nắm tẩu thuốc, nói:

        - Hoạt động ở Nam Bộ lúc này thật sôi nổi, và cũng có phần đột xuất đấy. Nhưng, đành phải chịu vậy thôi, vì các đơn vị chủ lực trên các chiến trường khác đều đang gấp rút chuẩn bị cho đợt chỉnh là đợt 2. Tuy ta chỉ dùng lực lượng địa phương để hoạt động cầm chừng, tiêu hao địch, giữ thế nhưng sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến không rút khỏi vùng 1 được đâu. Anh không lo…

        Từ trước đến nay, sự hợp đồng tác chiến giữa Cục tác chiến và Cục quân báo luôn luôn giữ được chặt chẽ. Giữa hai cơ quan, thường xuyên có những cuộc họp để trao đổi tin tức, cùng nhau nghiên cứu tình hình, Mỗi cơ quan có nhận định riêng theo cách nhìn của mình khi báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu. Ý kiến có nhiều lúc không thống nhất; và như thế cũng có cái lợi là để cấp trên dễ cân nhắc, suy nghĩ để tìm câu kết luận cuối cùng. Lần này, các đồng chí ở Cục 2 không khỏi ngạc nhiên vì chẳng thấy Cục tác chiến thông báo gì, mà địch thì nhốn nháo cả lên: chiếc tàu chở máy bay Anh-téc-brai-đơ đang ở căn cứ Subic, bỗng nhiên chở một lực lượng đặc biệt, phóng như điên về phía bờ biển Việt Nam; sư đoàn 3, thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Okinawa cũng cấm trại và ở trong tình trạng khẩn cấp. Rõ khổ cho binh lính, sĩ quan của cái Hạm đội 7 này! Cũng như mấy đơn vị khác ở tây Thái Bình Dương; năm nào cũng vậy, họ mất đứt những đêm đón Noel về những ngày mừng năm mới, chẳng còn được ăn món thịt ngỗng cổ truyền, vì một lẽ rất dễ hiểu là những ngày, tết, ngày lễ này thường trùng hợp với những ngày mở màn của hoạt động mùa khô ở chiến trường Việt Nam. Cứ lắp đi lắp lại cái chiến lược răn đe vô tích sự này, nên mỗi khi có động dạn bất cứ ở đâu, thì Toà nhà trắng và Lầu năm góc lại lôi họ từ trong các hộp đêm ở Tokyo, Đài Bắc, Hong Kong, Bankok ra để đi làm con ngoáo ộp. Mấy hôm nay, tàu bè cứ lảng vảng ngoài khơi biển Nha Trang, hết vào lại ra. Thà không có thì thôi, chứ làm cái lối rập rình, rập rưỡi như thế này, chỉ càng làm cho ta dễ kết luận: cái thùng rỗng thì kêu nhiều. Tha hồ mà diễu võ giương oai, ta vẫn một mực, bình thản như không, “có cho kẹo nó cũng chẳng dám vào!”.

        Từ chỗ “đánh cho ngụy nhào mà Mỹ không vào”, hội nghị bước sang vấn đề thời cơ một cách rất tự nhiên. Mấy tháng nay, làm kế hoạch đến điểm này gần như bị tắc lại. Nó là cái gì đây? Lúc nào thì thời cơ đến, và sẽ đến như thế nào? Không thể nào làm kế hoạch tác chiến mà chỉ nói trong chủ trương, phương hướng không thôi-dù đó là kế hoạch tác chiến chiến lược-còn mục đích, yêu cầu, thời gian, biện pháp, sử dụng lực lượng, bảo đảm vật chất v.v… thì lại cứ nói chung chung: nếu có điều kiện thì… Như vật kế hoạch thiếu chặt chẽ, và khi giao nhiệm vụ cho các đơn vị thì cũng chưa được dứt khoát, còn có chỗ hở, được thì làm, không thì thôi. Trong một lần nghỉ giải lao, đồng chí Võ Chí Công có trao đổi với tôi: “Các đồng chí dự kiến khi có thời cơ, thì dùng bao nhiêu lực lượng để giải quyết Đà Nẵng? Lấy ở đâu ra những lực lượng ấy, và sẽ đánh bằng chiến thuật gì?”. Tôi chỉ trả lời được một cách rất chung chung là: “Đó là một căn cứ liên hiệp mạnh, địa thế rất thuận lợi cho bên phòng ngự vì có núi bao bọc chung quanh. Vả lại, địch có thể phát huy được mọi thứ hoả lực của lục quân, không quân, hải quân, nhưng nhân dân ra ở đây, vốn có truyền thống đấu tranh. Muốn đánh Đà Nẵng, phải có ít nhất 3 quân đoàn trở lên, diệt nó ở ngoài trước cho nhiều, rồi mới thọc vào trong được”. Lại đi vào nguyên tắc tác chiến rồi!

        Thực ra, trong quá trình làm kế hoạch, các đồng chí trong Bộ Chính trị, cũng như Quân uỷ Trung ương, cũng đã có những ý kiến khêu gợi, hướng dẫn chúng tôi: năm 1975, không loại trừ có khả năng sẽ có thời cơ thuận lợi. Điều kiện cụ thể là gì? Quân đội Cộng hoà bị tiêu diệt một số lớn, các sư đoàn có nguy cơ tan rã; ở nông thôn đồng bằng và vùng núi, ta căn bản diệt được lực lượng kìm kẹp; làm chủ đại bộ phận, xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị đều khắp; còn ở đô thị, phong trào quần chúng đấu tranh lên cao, buộc Thiệu phải đổ, hoặc Mỹ phải thay; hay là khi tình hình quốc tế cho phép. Có phải là chờ cho đến lúc, cả bốn điều kiện ấy xuất hiện, hay ít nhất cũng có một vài điều kiện xuất hiện, thì cục diện chiến trường mới thay đổi hẳn không? Lúc bấy giờ, ta sẽ nắm thời cơ và phát triển như thế nào?


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 09:33:43 pm

        Ý kiến trao đổi trong hội nghị lần này, tương đối rõ ràng. Tinh thần chung là ta phải tạo ra thời cơ, chứ không thể nào bị động chờ thời cơ đến, đặt hy vọng vào một sai lầm của đối phương, một sự kiện ngẫu nhiên nào đó. Tất nhiên là logic của chiến tranh không chỉ nằm tỏng cái đúng của ta mà thôi, mà còn nằm trong cái sai của đối phương nữa. Năm 1975, đối phương sẽ ở trong tình thế khủng hoảng triền miền về mặt chính trị. Nhưng phong trào chính trị ở miền Nam, chỉ có thể buộc Mỹ phải thay Thiệu, chứ trước mắt thì chưa đủ mạnh để lật đổ Thiệu. Còn Thiệu là còn đàn áp. Giá có biểu tình, xuống đường, tuyệt thực, hay là có hành động gì khác, thì nó cũng không ngại gì mà không thẳng tay khủng bố, bắt bớ, chém giết. Đưa phong trào lên chưa đúng lúc, hay quá mức, thì sẽ bị đàn áp, nhưng làm chậm, hay làm yếu một chút, thì nó lại bỏ mất thời cơ. Trong điều kiện ở miền Nam lúc này, ta có lực lượng quân sự, chính trị mạnh, để tạo thời cơ, phải đánh mạnh. Trong một thời gian ngắn, tiêu diệt cho đươc từ 3-5 sư đoàn; mà phải diệt thật nhanh, để chúng không kịp khôi phục lại, mới đánh tụt được quân sự của chúng, mới có nguy cơ tan rã lớn; ở đồng bằng, thì phải phá kế hoạch bình định, giành bảy triệu dân trở lên; ở vùng ven, thì xây dựng được các lõm du kích; các lực lượng vũ trang chính trị, bám chắc trên địa bàn quan trọng. Đạt được tình hình nói trên, mới có bung ra và mới có chuyển biến lớn có lợi cho ta. Như vậy là trong một thời gian dài, thời cơ quân sự sẽ tạo ra thời cơ chính trị; và ngược lại, thời cơ chính trị binh vận lại tạo ra thời cơ quân sự, theo kiểu nổ dây chuyền. Mỹ thay Thiệu sớm, hay chờ đến tháng 10 năm 1975 mới thay, nhân dịp bầu cử; đều do hoạt động của ta cả và cũng đều là thời cơ tốt đối với ta.

        Về vấn đề này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:

        - Lần này bàn kế hoạch 75-76, phải nắm vững yêu cầu. Tinh thần của ta là phải làm thật kiên quyết, thật tập trung. Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh sống mái với kẻ địch. Năm 1972, trong chiến dịch Quảng Trị, ta cũng đã tạo ra được thời cơ rất tốt. Lúc đó Huế cũng đã rung động dữ, nhưng ta mới chỉ đưa được một lực lượng không lớn lắm, vượt qua sông Quảng Trị; vì đường sá chưa thông, công tác bảo đảm theo không kịp, nên nó gượng lại được, đưa được sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến ra phản kích chiếm lại Thành cổ…

        Thời cơ lúc đầu có thể đến với mức bình thường. Nếu ta lợi dụng tốt, sẽ tạo ra thời cơ mới cao hơn và từ đó mà phát triển thành đột biến. Cho nên nói thời cơ, phải có kế hoạch thật sự và có sự chuẩn bị đầy đủ, để lợi dụng triệt để. Kế hoạch phải ghi rõ: Phải có trận tiêu diệt lớn ở Tây Nguyên bằng dánh địch đang vận động. Cần nói rõ diệt từ 3-4 sư đoàn trong một đợt hoạt động mạnh, chứ không được kéo dài lê thê. Kế hoạch phải đạt mức cao: diệt địch ở Tây Nguyên . Có thể sau Buôn Ma Thuột, nó rút Tây Nguyên, Trị Thiên sẽ dao động. Ta sẽ giải phóng Huế. Nếu lúc đó ta mỏi mệt, chậm chạp, thời tiết mưa xuống, thì mất cả cơ hội. Cho nên, phải có kế hoạch bao vây, chia cắt lớn ngay từ bây giờ; không để cho địch co cụm chiến lược, rút về miền Đông. Không nhất thiết trong năm 1975 này, ta sẽ không cơ động quyết định 1. Phải tập trung nó lại, huấn luyện cho tốt, luôn luôn sẵn sàng. Phải hết sức khẩn trương, hết sức tập trung. Nếu có thời cơ thì ta lợi dụng, nếu chưa thì ta càng mạnh thêm.

        Đề cập sang vấn đề đấu tranh ngoại giao, đồng chí Lê Đức Thọ nói ngay: “Năm 1975, ngoại giao chưa tạo ra vấn đề gì lớn cả. Bây giờ nếu có ngồi lại thì chắc cũng là để kéo dài đàm phán, để tranh thủ mở rộng mà thôi. Tháng giêng năm 1975 này, nó sẽ đi đó đi đây, gặp nơi này nơi kia, và sẽ đề nghị gặp ta, đưa ra một số điều kiện. Về vấn đề này, rồi đây sẽ bàn thêm. Thế ta chưa mạnh, thì ngoại giao chẳng giải quyết được vấn đề gì.

        Ta cần phải hiểu: ai xé Hiệp định Paris? Nó xé chứ ta xé à? Ai tập trung quân đánh ta trước, năm 1973? Nó đã không ngại khi đánh ta; thì ta cũng chẳng ngại gì khi đánh nó. Chiến tranh cũng đã đến mức ngang với trước rồi, có gì mà phải hạn chế?

        Kissinger có nói với tôi: “Các ông hoà hợp thế nào được với Thiệu? Lần sau các ông đánh, thì các ông đánh rất tập trung và đánh mau”. Nó còn nhắn nhủ với ta là: “Trừ Đà Nẵng, Sài Gòn ra, còn thì đánh đâu thì đánh”. Các đồng chí Ý đánh giá tình hình các nước tư bản đang trên đà khủng hoảng; ở Trung Đông tình hình cũng găng lắm. Vừa rồi Kisinger cũng có đi Ấn Độ, Afghanistan, xem ra cũng chẳng có kết quả gì”.

        Anh Ba cười, nói:

        - Trong lúc này, mà còn chạy đi đây đi đó tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam thì thật là không đúng lúc mà cũng chẳng đúng nơi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 09:38:18 pm

        Đồng chí Lê Đức Thọ nói tiếp:

        - Mỹ khó, ngụy càng khó! Nhưng trên chiến trường, địch còn tìm nhiều cách để đối phó với ta. Về quân sự thì be bờ ngăn chặn, lấn đi lấn lại chỗ nọ chỗ kia; về chính trị, thì tìm cách tháo ngòi nổ, kìm chế phong trào. Nó sẽ đối phó với ta như thế nào? Khả năng thay Thiệu, thấy rõ, trước hay trong ngày bầu cử mà thôi. Đây là một bước lùi, nhưng không phải là do ta chủ động tạo ra; mà chính là do Mỹ tạo ra, để cứu vãn tình hình. Trong cái thế bị động, nó phải làm thế nào để còn chủ động. Ai thay? Lúc nào? Và bằng cách nào? Có phải như thế này không: Thiệu sẽ từ chức, Mỹ sẽ ký với ta về kinh tế - ký nhưng chưa thi hành đâu - sẽ lập hội đồng hoà giải ba thành phần; yêu cầu ngừng bắn, nó chưa biết là ta sẽ đánh ở đâu và quy mô như thế nào; nhưng biết là ta có khả năng. Nếu ta không đồng ý, nó sẽ phản công ta về mặt ngoại giao. Điều nên chú ý là, trước khi thay Thiệu, nó chuẩn bị kỹ lắm, chuẩn bị về chính trị và tìm cách để viện trợ thêm. Trong Quốc hội Mỹ, cũng có nhiều người muốn tiếp tục viện trợ cho Thiệu. Ở Sài Gòn, bọn Martin, DAO, tìm hết cách nói láo, để đổ tiền đổ của vào miền Nam. Nó chưa hoàn toàn chịu ta đâu, vì vừa rồi, ta thắng, nhưng chưa thắng lớn lắm. Về phần mình, ta cũng sẽ có nhiều đòn ngoại giao, để tranh thủ dư luận. Tết này sẽ là tết binh vận, yêu cầu là không đánh nhau trong 3 ngày tết, để cho nhân dân vui tết. Khi nào ta đánh, lại tiến công một đòn khác, và đến cuối năm, lại làm một đòn nữa. Càng thắng về quân sự, càng đòi cao lên, đi ngay vào chính phủ liên hiệp, bỏ qua giai đoạn hội đồng, đòi rút 2 vạn 5 cố vấn. Lúc thắng rồi, con bài kinh tế là ở trong tay ta, chứ không phải ở trong tay nó đâu. Tôi cho rằng tình hình bây giờ cũng có khác so với năm ngoái, khi có Nghị quyết 21. Bây giờ ta đánh, không phải để ngồi lại một thời gian, rồi lại đánh lại; hay chiến tranh trở lại; cũng không cần phải nói đánh thế nào để hạn chế Mỹ vào, sợ ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ. Bây giờ, đã đánh là phải đánh dồn dập, diệt địch nhiều nhất, thắng lợi lớn nhất, làm cho thế ta mạnh lên rất nhanh.

        Năm nay, phải giải phóng Tây Nguyên. Nói dứt khoát là đánh Buôn Ma Thuột. Đánh vào Buôn Ma Thuột là đánh vào chỗ bất ngờ và sơ hở nhất của địch ở chiến trường Tây Nguyên. Có thời cơ là phát triển ngay. Đánh bất cứ ở đâu cũng chẳng có vấn đề gì đâu mà lo. Đánh diệt vài sư đoàn bộ binh; đồng thời tổ chức một chiến dịch phá hàng loạt kho tàng, phá các đường giao thông quan trọng. Có như thế mới rung chuyển dữ, nó mới run, mới chia cắt, cô lập nó được. Huế, Khu 5, có thể cắt được trong từng thời gian dài… Tình hình cũng có thể diễn ra thế này hoặc thế khác; nhưng dứt khoát là 2 năm phải giải quyết xong. Còn mặt trận tuyên truyền, ta cứ giữ mức độ bình thường, không cần làm rùng beng gì. “Có miếng mà không có tiếng”.

        Như mọi hôm, sáng hôm nay, khi mọi người ngồi vào vị trí, tôi báo cáo tình hình các chiến trường:

        Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 12, ta đánh Phước Bình và Bà Rá, dứt điểm trong ngày và đưa lực lượng áp sát thị xã Phước Long. Trong ngày 2 và 3 tháng 1 năm 1975, ta đánh vỡ tuyến phòng thủ nam thị xã và có hai tiểu đoàn của trung đoàn 14 đột nhập được vào trung tâm, tạo thành thế chia cắt trong thị xã.

        Dư Quốc Đống tăng cường hai đại đội của liên đoàn kiệt kích dù 81, còn ta thì ngoài lực lượng bộ binh đã báo cáo hôm trước, về binh chủng có hai tiểu đoàn pháo hỗn hợp 85 ly và 155 ly, cối 160 ly; 5 tiểu đoàn cao xạ, 12 xe tăng T.54. Vừa rồi, miền có tăng thêm 1 trung đoàn bộ binh của sư đoàn 9, một đại đội xe tăng, 6 pháo 130 ly. Phía bắc thị xã, cũng có thêm trung đoàn 16 đến tăng cường.

        Các mặt trận khác: đem 25 tháng 12, ta giải phóng Tánh Linh, còn Hoài Đức và Võ Đắc, thì chuyển sang bao vây, đánh quân giải toả.

        Trung tướng Trần Văn Trà rất phấn khởi, đứng dậy nói ngay:

        - Như vậy thì địch không thể nào rút sư đoàn 18 và sư đoàn 25 đi đâu được, nhất định ta sẽ dứt điểm được Phước Long thôi.

        Anh Ba cười, nói:

        - Sang đợt hai, ta đánh có kết quả, thì có nhiều khả năng nó phải thi hành Hiệp định ở mức cao. Phong trào ở nông thôn, đô thị sẽ lên rất cao. Ta sẽ làm gì lúc bấy giờ? Quay sang phía Đại tướng anh nói tiếp: Ta có cách gì đánh thật mạnh, như chẻ tre, làm cho chúng tán loạn và Mỹ không can thiệp không? Nhất định, ta sẽ không bỏ lờ thời cơ.

        Cuộc trao đổi tình hình kéo dài gần hết cả buổi sáng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 09:41:45 pm
         
        Trong lúc ở Hà Nội, Bộ Chính trị đang họp và Bộ Tổng tham mưu đang theo dõi tình hình chiến trường, thì ở Sài Gòn và bên kia bờ Thái Bình Dường, thầy trò bọn Mỹ-ngụy cũng nhốn nháo lên về tình hình ở phương Nam, Xin tạm ngừng giây lát để nhìn lại tấn bi hài kịch đang diễn ra bên kia trận tuyến.

        Trong đống tài liệu thu được ở Bộ Tổng tham mưu Cộng hoà Việt Nam họ đã có kế hoạch trực thăng vận đến tăng cường cho tỉnh lỵ Phước Long khốn khổ này. Ý định này không thực hiện được, vì kế hoạch hợp đồng quá tồi: không ai chịu trách nhiệm về cuộc hành quân; trực thăng đến không đủ số lượng cần thiết và cũng không đúng giờ quy định; linh sửa chữa, thì không làm nhiệm vụ; người lái chỉ biết việc thả lính biệt kích dù xuống đất rồi để mặc ai làm gì thì làm, không có nhiệm vụ và cũng không yểm trợ. Chỉ trong vài ngày chiến đấu, mất béng 20 máy bay do tên lửa phòng không mang vác bắn rơi. Thiệu cho rằng, muốn lấy lại Phước Long, phải có hai trung đoàn bộ binh và một số đơn vị nhảy dù. Lấy lại được rồi, còn phải có quân ở lại để bảo vệ. Biết đào đâu cho ra những của quý này, vì tất cả lực lượng dự bị, đều nằm ở vùng 1. Để cho số tù binh ở Phước Long được thêm đông, cuối cùng, ngụy cũng đưa được đến 2 đại đội của liên đoàn biệt kích dù. Lửa xe, nước gáo có được gì. Dư Quốc Đống gào thét, xin quân dù về cứu viện. Cao Văn Viên và Đặng Văn Quang thì trả lời dứt khoát: “Không còn đạn được, không có đơn vị nào nữa, không tăng viện được”. Cách giải quyết cuối cùng là: “sống chết mặc bay”.

        Trong số 5.400 binh sĩ ở Phước Long, chỉ còn 850 lính sống sót; và liên đoàn biệt kích cũng chỉ còn 65 người lủi thủi chạy về. Bản tường trình về Phước Long, có đoạn viết: “Với ý định thử ý chí của quân đội Sài Gòn và đặc biệt, đánh giá phản ứng của Mỹ, rõ ràng những người cộng sản đã chọn một mục tiêu dễ dàng. Sự thất thủ Phước Long đã có một ý nghĩa lớn”.

        Khi tấn bi kịch ở cái tỉnh lỵ heo hút giữa núi rừng kia vừa hạ màn, thì ở Sài Gòn và Washington, màn của tấn hài, được vén lên: tại nhà thờ Đức Bà, Nguyễn Văn Thiệu làm lễ cầu Chúa ban phước lành, cho những con người đang lặn lội giữa rừng sâu núi thẳm để “thoát khỏi sự khủng bố trả thù” của Quân giải phóng. Ông ta đã khóc sướt mướt, và lệnh cho toàn cõi Việt Nam Cộng hoà, đâu đâu cũng phải treo cờ rủ ba ngày. Trại Đavi đóng cửa không họp. Những dòng nước mắt ấy đã làm cho những người ở bên bờ sông Potomac, nức nở khóc theo. Xin hãy đọc vài đoạn trích trong bức công hàm của G.R.Ford gửi cho Nguyễn Văn Thiệu, trong những ngày rối ren tang tóc ấy:

        Tổng thống thân mến,

        Những bức thư đầy suy tư của ngài, đã đến với tôi, vào lúc mầ vấn đề Việt Nam, là vấn đề ở luôn luôn trong đầu óc tôi và những người Mỹ, cũng như nhân dân thế giới…

        Tôi đặc biệt xúc động trước hiệu lực của các lực lượng của ngài tại Phước Long và núi Bà Đen; tại đây đã bị tràn ngập khi họ bị tắc nguồn kinh tế bổ sung và quân tăng viện, vì địch quân động gấp bội về số lượng…

        … Con đường đi tới hoà bình, không bao giờ được dễ dàng, nó là con đường quá ư lâu dài và khó khăn ở Việt Nam; nhưng tôi vẫn còn hy vọng rằng, nếu chúng ta kiên trì, bền bỉ, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu hoà bình, công bằng của chúng ta, một nền hoà bình vĩnh viễn và một nền hoà bình phù hợp với ý chí của nhân dân Việt Nam, xứng đáng với sự hy sinh của dân tộc Việt Nam và Mỹ.

        Xin gửi ngài lời chào kính trọng.

Ford        

        Chỉ sau đó mấy hôm, ngày 15 tháng 1 năm 1975, khi đọc bản thông điệp liên bang trước quốc hội, và ngày 21 tháng 1 năm 1975, trong cuộc họp báo thường thường lệ, Ford tuyên bố một cách rất dứt khoát: “Dự kiến không có tình huống nào để Mỹ có thể nhảy vào cuộc chiến tranh Việt Nam nữa”.

        Thầy Mỹ chơi sỏ thật! Nhưng người mất nhiều nhất sau Phước Long cũng chẳng phải là Nguyễn Văn Thiệu, mà lại là Dư Quốc Đống. Đống mất chức Tư lệnh Quân đoàn 3 béo bở, mà phải nhường lại cho tướng Nguyễn Văn Toàn. Dù đã bị mang tiếng là đã dính líu vào các vụ tham nhũng, nhưng Toàn vẫn còn được nổi tiếng là viên Tư lệnh dũng cảm, có kinh nghiệm chiến đấu và quyết đoán.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 09:46:47 pm

        Suốt mấy ngày hội nghị, chúng tôi chú ý thấy đồng chí Trường Chinh, chưa phát biểu ý kiến, nhưng ghi chép rất cẩn thận. Đến những con số trên các bản thống kê, đồng chí cũng phát hiện ra những sai sót nhỏ, và gọi chúng tôi đến thân ái nhắc nhở, bảo kiểm tra lại. Hôm nay, thấy đồng chí cầm một tập giấy trong tay, chúng tôi đoán chắc, thế nào đồng chí cũng sẽ phát biểu ý kiến. Quả đúng như vậy.

        Đồng chí nói:

        - Địch đang gặp ba loại khó khăn, do ba sức ép gây ra.

        Một là: Mỹ đã gieo gió, thì nó phải gặt bão. Nó cố tình phá hoại Hiệp định, nên bị ta đánh lại, và phải chịu sức ép của đòn tiến công quân sự của ta.

        Hai, Mỹ thấy thế nào, sớm muộn rồi phong trào đấu tranh chính trị cũng sẽ nổ ra nên đưa tay sai ra lái phong trào, làm cho phong trào bộc lộ lực lượng, để sau này tìm cách khủng bố. Không ngờ ta nắm được ý đồ của chúng, xông vào và quấy bung nó lên.

        Ba, kinh tế ngụy bị lệ thuộc vào kinh tế Mỹ, mà kinh tế Mỹ thì đang gặp khó khăn.

        Ba sức ép đó cùng tác động đồng thời, khiến cho địch suy yếu nhanh chóng. Việc Mỹ rút quân và những hậu quả của nó, nay dần dần mới thấm và ngày càng hãm địch vào những mâu thuẫn gay gắt: mâu thuẫn giữa giữ đất, giữ dân và lực lượng cơ động. Cũng như Pháp trước đây, nó rút đến đâu, ta tràn đến đấy. Hiệp định Paris là một thắng lợi vĩ đại, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại. Chúng ta nên xem lại vai trò của hậu phương trong một cuộc chiến tranh: chính trị có ổn định không? Nhân dân có ủng hộ không? Kinh tế có vững vàng không? Điều đó cắt nghĩa vì sao, tốc độ sa sút của ngụy lại nhanh như thế… Một đội quân như vậy, thì trước mắt, còn có những chỗ mạnh nào đó, cũng chỉ là tạm thời, và sẽ xuống dốc nhanh.

        Về ta, điều cần phải thấy là dần dần ta nắm được và đã giành được quyền chủ động trên chiến trường. Việc giải phóng cả tỉnh Phước Long, giải phóng cả một quận lỵ ở đồng bằng vừa rồi, là cả một chứng cớ hùng hồn, nói lên ta đã mạnh lên nhanh chóng. Cách đây hai tháng, Bộ Chính trị nói: Ta đang lên, địch đang xuống; thế  và lực ta mạnh lên, thì bây giờ cũng vẫn nói thế, nhưng đáng chú ý là tốc độ nhanh hơn. Ta phải vươn lên một bước nữa, đồng thời cũng phải thấy hết những khó khăn mà mấy hôm nay hội nghị đã nói đi nói lại nhiều lần.

        Dư luận thế giới gần đây thế nào? Trước đây, ta đánh Chư Nghé, Thượng Đức và bây giờ ta đánh Đồng Xoài, Phước Long, ta đã tuyên bố là ta đánh ngay từ chỗ quân đội ngụy xuất phát đi càn quét, lấn chiếm; ai ai cũng đồng tình với ta. Rõ ràng là: nhân dân miền Nam giành quyền chiến đấu tự vệ và buộc địch phải thi hành Hiệp định Paris.

        Năm 1975 làm năm bản lề, năm làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, để chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho năm1976. Về nhiệm vụ, cần phải nói: Mục tiêu thuận lợi chiến lược hàng đầu của ta là tiêu diệt sinh lực địch. Clauzwitz trước đây có nói: “Chìa khóa của một nước ở ngay trong tay quân đội”. Ta nói tiêu diệt địch để giải phóng nhân dân, làm chủ đất nước mình. Phương châm công tác cần phải nhớ và thực hiện đúng như đã đề ra: củng cố miền Bắc, giải phóng miền Nam. Đánh thế nào? Phải nhấn mạnh đánh tiêu diệt, tránh đánh tiêu hao. Đánh Bến Cát vừa rồi là đánh tiêu hao. Mục tiêu của ta là tiêu diệt sinh lực địch, phá cơ sở vật chất của địch, không phải là phá vỡ phòng tuyến, vì phòng tuyến không phải là mục tiêu chiến lược. Tôi nghĩ rằng: nếu địch có thiết lập ra phòng tuyến xung quanh Sài Gòn chăng nữa, thì đến lúc nào đó, nó cũng biến thành chiến lỹ Magino như ở Pháp trước đây thôi. Còn tổng công kích tổng khởi nghĩa, tôi cảm thấy không nên máy móc đề ra ba trường hợp: công kích và khởi nghĩa, khởi nghĩa và công kích, công kích và khởi nghĩa đồng thời. Ở đây có Hiệp định Paris. Kẻ địch như thế nào, ta đánh vào đâu, nó sẽ nhận cái gì, không nhận cái gì. Đường hướng lớn vẫn là bạo lực. Phải có những đòn tiêu diệt chiến lược, mà trong đó có vài đòn chính. Ở đâu? Bộ Tổng tham mưu phải nghiên cứu phải chọn nơi bắt nó phải đánh với ta; chuẩn bị cho tốt; khi đánh thì nhất định nó phải đến; mà đến tức là rơi vào cạm bẫy của ta đã giăng sẵn. Phải tạo ra cơ hội để thực hiện đòn tiêu diệt chiến lược. Không chờ cho nó hớ hênh sai lầm. Chiếm lấy đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5, kho người, kho thóc, giải phóng một vùng rộng lớn như thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

        Tình hình sẽ phát triển theo những khả năng nào?

        - Ta đánh thẳng một mạch, hai năm toàn thắng?

        - Ta đánh đến một chừng mực nào đó, địch núng nhưng chưa thua. Nó sẽ thay Thiệu, dựng lên một chính quyền khác, đề nghị rồi lại bàn, cốt làm để hoãn binh, ngăn chặn ta đánh lớn.

        Nếu ta bác hẳn thì không lợi, tuỳ tình hình mà đặt giá cao; nhưng cuối cùng cũng phải có một đòn chiến lược, thì mới giải quyết được.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 09:49:22 pm

        Mỹ có vào hay không? Mỹ còn trên hai vạn cố vấn. Nó chưa ra hết đâu. Nói rằng từ 115 năm nay, hiện không có một quân đội xâm lược nào trên đất nước ta, thì cũng đúng. Nó sẽ can thiệp bằng cách gì? Bộ binh chăng? Bằng hải quân, không quân chăng? Có thể và cũng có mức độ. Kissinger cần phải cân nhắc xem có thể đảo ngược được tình hình không đã chứ. Quyết tâm của ta là, can thiệp bằng cách gì, mức độ nào, cũng phải đánh thắng. Vấn đề là, ta phải chuẩn bị cho tốt. Kho tàng, đường sá, nhất là lực lượng. Phải có đủ lực lượng dự trữ để bổ sung khi cần thiết, và ngay ở các chiến trường cũng phải có dự trữ. Phải đặc biệt chú ý đến lực lượng đặc công, lực lượng tinh nhuệ. Về lực lượng chính trị, đảng, chính quyền cũng phải chú ý củng cố hơn nữa…”

        Sáng ngày 8 tháng 1 năm 1975, bế mạc hội nghị!

        Khi mọi người đến đông đủ, cuộc họp bắt đầu. Thành phần hội nghị vẫn không thay đổi, nhưng hôm nay cảm thấy có cái gì khác thường.

        Sáng hôm nay, đồng chí Bí thư thứ nhất kết luận hội nghị:

        “Thưa các đồng chí! Mấy hôm nay, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã họp và hạ quyết tâm: trong hai năm phải hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước. Cuộc họp này, có đông đủ các đồng chí ở Nam Bộ, Khu 5 ra dự; và chúng ta rất phấn khởi, vì cuộc thảo luận đã đưa đến sự nhất trí cao về nhiều mặt; đánh giá tình hình, so sánh nhiệm vụ chiến lược và bước đi của chiến tranh cách mạng, và phong trào cách mạng trong năm 1975-1976.

        Tôi xin tóm tắt trình bày ý kiến chung và phát biểu một số ý kiến để khẳng định quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương.

        Trước hết, nhận định tình hình miền Nam hiện nay, hai năm sau khi có Hiệp định Paris và quân đội Mỹ rút ra.

        1. Hiện nay ở miền Nam đang diễn ra cuộc chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, để giải quyết vấn đề ai thắng ai. Đặc điểm là có hai sự kiện nổi bật rất quan trọng:

        Một là hai chính quyền, hai quân đội đang đánh nhau, quy mô ngày càng lớn, trong giai đoạn quyết liệt cuối cùng.

        Hai là quần chúng nhân dân trong vùng địch và trong vùng ta, đang dấy lên một phong trào đòi hoà bình, cơm áo, dân chủ, độc lập dân tộc, đánh đổ ngụy quyền, giải phóng cho mình.

        Hai sự kiện ở miền Nam gắn bó chặt chẽ với nhau, thức đẩy lẫn nhau, lại có sức mạnh độc lập dân tộc trong cả nước, có chỗ dựa to lớn, là lực lượng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

        Cần phải nhận rõ, tình hình đó, đã trải qua các giai đoạn như thế nào, mới được như ngày nay, để thấy rõ hơn nữa thời cơ của cách mạng.

        Ở miền Nam khi đồng khởi, 1959-1960, lực lượng vũ trang còn rất yếu kể cả thời kỳ chiến tranh đặc biệt. Khi chống Mỹ thì ngược lại: lực lượng quân sự khá mạnh nhưng phong trào quần chúng yếu. Bây giờ Mỹ ra rồi, quần chúng cókhí thế vùng dậy, lại có sẵn quân đội mạnhs của ta ở trong đó. Có thể nói, đó là tập hợp sự trưởng thành của các giai đoạn cách mạng miền Nam. Mặc dù xưa nay, ta nó quân sự, chính trị song song, nhưng chưa bao giờ có điều kiện đầy đủ, quân sự, chính trị như ngày nay. Nội dung thời cơ là như vậy, Bộ Chính trị quyết định hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong hai năm, là trên cơ sở sự phân tích ấy.

        2.Cần phải năm vững quy luật của đất tranh vũ trang, của chiến tranh cách mạng, của phong trào cách mạng, của khởi nghĩa vị trí, đề ra nhiệm vụ cách mạng, phương pháp và bước đi cho thích hợp, các hình thức đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao.

        Bây giờ, có khả năng rồi, còn phải có biện pháp, thích ứng, phải nắm chắc quy luật, nắm cả hai cái quân sự, chính trị hơn nữa. Cả hai cái, kết hợp với nhau, khi thì quy luật kia là chính, kết hợp với quy luật này; cả hai quy luật, tổng hợp thành một, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đây là một đặc điểm của cách mạng miền Nam. Từ cách mạng tháng Tám đến bây giờ, đây là một cao trào, vừa rồi ta không những có quân sự, chính trị mà còn có ngoại giao nữa. Ngoại giao cũng giúp sức thúc đẩy phong trào đi lên.

        Bộ Chính trị nói: nắm quân sự, chính trị, ngoại giao là như vậy.

        Chúng tôi nói: hai năm chuẩn bị cho một cuộc cách mạng, tuy ngắn, nhưng cũng là dài. So với cách mạng Nga, từ tháng 2 đến tháng 10. Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất nước nhà, thực chất là đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và cùng hai nước anh em Lào và Campuchia tiến lên. Cố nhiên, trong bước đi, cũng có thể còn có bước quá độ nào đó, nhưng mục tiêu chính của chúng ta vào khả năng của chúng ta, là như thế đó. Sự nghiệp của chúng ta là như vậy đó.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 09:51:15 pm

        Anh Ba dừng lại hồi lâu, ngước mắt nhìn khắp gian nhà. Tất cả mọi người ngồi lặng yên, chăm chú nghe Anh nói. Vẻ đồng tình, tán thưởng, hiện rõ trên nét mặt, cử chỉ từng người, bằng những cái gật đầu khe khẽ, và những nụ cười.

        Vì máy ghi âm bị hỏng, nên đồng chí Võ Quang Hồ và tôi cặm cụi ghi chép.

        Anh tiếp tục:

        Hiện nay tình hình giữa ta và địch ở miền Nam như thế nào. Đánh giá ta đã mạnh lên như thế nào, và địch đã yếu đi như thế nào?

        Lúc đầu, có lúc, có nơi, đã để cho ngụy lấn tới, vì có sự đánh giá không đúng giữa ta và địch, nắm không đúng mục tiêu và quyết tâm tiến lên của ta. Khi ký Hiệp định Paris, chúng ta đã đề ra nhiệm vụ: thắng địch một bước để tiến lên, để hoàn thành cách mạng. Do đó, ta quyết tâm nắm vững những cơ sở thắng lợi của ta là quân đội, vùng giải phóng; buộc địch thực hiện hoà bình, tranh thủ, mở rộng hoà hợp dân tộc. Mỹ ra rồi, ngụy cứ tiếp tục chiến tranh. Ta nắm ngọn cờ hoà bình, dân chủ, dân tộc, để đưa cách mạng tiến lên; tiến công địch với sức mạnh quân sự, chính trị, ngoại giao. Mọi người, ngay cả bọn phản động cũng đều nói: Chính Thiệu đã phá Hiệp định Paris, vì ta muốn hoà bình, hoà hợp dân tộc. Nhờ vậy, mà ta có thế mạnh mới rất lớn.

        Một là, ta đã giành được quyền chủ động trên chiến trường, dành lại dân, giành quyền làm chủ các vùng bị lấn chiếm và mở rộng thêm ra.

        Hai là, ta đã tạo ra một thế chiến lược, có tính chất liên hoàn từ băc chí nam, từ rừng núi Tây Nguyên đến Trị-Thiên, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, tạo ra những bàn đạp xung quanh các đô thị.

        Ba là, ta đã củng cố, xây dựng những quả đấm chiến lược cơ động ở vùng rừng núi.

        Bốn là, ta đã tạo ra được quả đấm ở vùng nông thôn, đồng bằng Nam Bộ, xưa nay chưa từng có. Tuy còn nhỏ, nhưng đang phát triển.

        Năm là, ta đã tạo ra được bàn đạp xung quanh đô thị.

        Sáu là, đô thị có phong trào quần chúng, do đó ảnh hưởng và kết quả thắng lợi của ta. Đó là những nhược điểm giành được trên chiến trường.

        Bảy là, thế giới ủng hộ ta về mặt chính trị rất mạnh. Tất cả mọi người trên thế giới đều cho rằng Việt Nam là chính nghĩa. Về phía Mỹ, thất bại rất lớn về chính trị.

        Đó là thế mạnh của ta và từ đó mà đề ra nhiệm vụ cho năm 1975-1976.

        Nhưng chúng ta còn một số nhược điểm:

        Về xây dựng lực lượng, thì chưa được như ý muốn. Chất lượng chưa tốt lắm; về tổ chức, quân số, trang bị, cán bộ, kỹ chiến thuật, cả chủ lực và địa phương.

        Về cách đánh, cũng còn có vấn đề, nhất là phương pháp đánh với quy mô lớn và liên tục.

        Bộ đội địa phương và dân quân du kích còn yếu. Phong trào đô thị, tuy có nhưng chưa mạnh.

        Về lãnh đạo sự phối hợp chiến lược tổng hợp thì chưa chặt chẽ, nên tác dụng còn bị hạn chế.

        Do đó, ta chưa phát huy được hết sức mạnh tổng hợp quân sự, chính trị, chưa đạt được chiến lược tổng hợp. Sắp đến phải tổ chức lại lực lượng tổng hợp.

        Trong lúc đó thì địch ngày càng yêu đi rõ rệt. Về quân sự:

        Một là quân đội của địch, từ chủ lực đến địa phương, đã bị kìm kẹp tại chỗ, ở trong thế phòng ngự; có cơ động phần nào đó, nhưng khó khăn, rất yếu; yếu đến nỗi không bảo vệ được phòng vệ dân sự.

        Hai là lực lượng phong vệ dân sự, không thành lực lượng dự trữ như trước nữa.

        Ba là sự hợp đồng binh chủng cũng không có sức mạnh như trước nữa; đặc biệt là không quân, hải quân, pháo binh, xe tăng, bị hạn chế rất nhiều.

        Bốn là, quân đội bị sa sút về tinh thần, tan rã ngày càng nhiều; cán bộ, tướng tá bị thay đổi, xáo trộn lớn, rõ ràng là quân đội ngụy đang đi vào con đường thất bại: mất tin tưởng, mất sức chiến đấu; chiến lược, chiến thuật bế tắc. Chính sách bình định bị phá sản; co cụm, cô lập, chia cắt, mất đất, mất dân.

        Về kinh tế, thì không có đường ra. Hơn 30 năm, sống ỷ lại vào đế quốc Mỹ; nay Mỹ ra rồi, mọi mặt đều bị hỗn loạn xáo trộn, dân không sống nổi. Về chính trị, thì mâu thuẫn gay gắt giữa chính quyền và nhân dân với các tầng lớp trên, với các giáo phái và giữa các phe phái ngay trong nội bộ địch. Thiệu không thể cai trị được nữa.

        Cố nhiên, hiện nay địch còn có những chỗ mạnh của nó: Lực lượng quân sự còn 13 sư đoàn, gần 70 vạn quân; chúng còn nắm đô thị, cảnh sát, còn nắm được một số vùng nông thôn, còn được Mỹ viện trợ mọi mặt, còn có Mỹ cầm đầu chỉ huy. Nhưng cái mạnh đó đang trên đà đi xuống.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Hai, 2017, 09:53:02 pm

        Rõ ràng là địch đang xuống dốc về mặt quân sự, chính trị và kinh tế. Một mặt do ta đánh nên tác động vào; mặt khác do mâu thuẫn khó khăn nội tại; tự bản thân nó tác động lẫn nhau. Sự rối loạn về kinh tế, chính trị, thúc đẩy sự suy yếu về quân sự. Cho nên có thể có những bước xuống dốc nhanh chứ không phải tuần tự. Do đó, ta thấy rõ thời cơ, khả năng cách mạng, có thể tiến lên lên tiến công, vừa chiến thắng quân sự, vừa chiến thắng chính trị theo những bước nhảy vọt. Lần trước cũng như lần này, Bộ Chính trị đã bàn, thấy chính xác và rất nhất trí. Làm sao cho đảng viên, quần chúng thấy rõ điểm này; chứ hiện nay thì sau Hiệp định Paris, Mỹ ra rồi, nhiều nơi khó khăn, nên đánh giá không rõ.

        Đứng trước tình hình hiện nay, nhiệm vụ của ta là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Để thực hiện nhiệm vụ lớn lao đó, chúng ta cần nhận rõ: mục đích đế quốc Mỹ nhảy vào chiến tranh như thế nào, với mục đích gì và trong trường hợp nào Mỹ đã rút ra, thì mới thấy rõ đế quốc Mỹ có thể đối phó lại như thế nào.

        Mỹ thất bại ở Việt Nam là thất bại chiến lược toàn cầu, mà cuối cùng là học thuyết Nixon ứng dụng vào Việt Nam. Nay Nixon phải đổ. Trước kia, Mỹ hơn Liên Xô, bây giờ Liên Xô tiến lên mạnh. Dừng lại đây để ngang hàng với Liên Xô, mà nếu nhảy vào đây thì Liên Xô và các nước khác, sẽ trồi lên; Mỹ sẽ tuột xuống hàng thứ tư chăng? Nó sẽ mất hết và không được gì cả.

        Nhưng chúng ta phải đề phòng; có chuẩn bị đối phó với không quân, hải quân của Mỹ, cả ở miền Nam và miền Bắc. Cần phải đề phòng: nó sẽ tìm mọi cách, để duy trì chủ nghĩa thực dân mới. Nhưng cũng có mức độ thôi. Mỹ có làm gì, cũng chỉ là tăng viện trợ tài chính, hoặc dùng không quân, hải quân Mỹ mà thôi, với điều kiện là ngụy có khả năng kéo dài.

        Nhiệm vụ của chúng ta là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Nhưng mục tiêu quân sự, chính trị của ta là gì? Một là đánh bại chiến lược bình định, thực hiện tiến công nổi dậy trên quy mô lớn ở đồng bằng Nam Bộ và Khu 5, áp sát đô thị. Đây là một đòn chiến lược quan trọng, làm cho chúng yếu đi, làm cho thế ta mạnh lên, cho nên, đánh bại bình định, giành quyền làm chủ rất vững chắc.

        Hai là, tiêu diệt sinh lực, tiêu diệt trung đoàn, sư đoàn, đánh mạnh các lực lượng chủ lực của ngụy, bẻ gãy xương sống của chúng. Bằng cách tiến công và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng hơn nữa quyền làm chủ mạnh trên các vùng chiến lược quan trọng; nắm vững các vùng chiến lược, để đẩy mạnh tiêu diệt chủ lực địch nhiều hơn nữa.

        Ba là, uy hiếp vùng đô thị, đặc biệt là Sài Gòn. Kết hợp phong trào nông thôn, với phong trào ven đô thị mà đẩy mạnh phong trào đô thị lên quy mô lớn; vũ trang đô thị để hình thành quả đấm mạnh mẽ ngay trong lòng đô thị.

        Bốn là, phá huỷ các cơ sở hậu cần, phương tiện chiến tranh của địch; đánh vào cơ quan đầu não của địch, đánh giao thông, tạo thế cắt địch về chiến lược, làm cho địch không có dự trữ về mọi mặt, cả người và vật chất; làm mất hẳn hậu phương quân địch, ngay trong lòng đô thị.

        Tóm lại, phải nắm vững chiến lược tổng hợp, để tạo sức mạnh tổng hợp; luôn luôn ra sức mạnh mới, tạo ra thế mới, đánh liên tục và bất ngờ.

        Đây là chiến lược toàn diện, mà ta đã từng vận dụng, để tiến lên chiến thắng quân thù.

        Các đòn chiến lược quân sự sẽ diễn ra trong năm 1975-1976 như thế nào? Chúng ta đồng tình với kế hoạch chiến lược năm 1975 mà Bộ Tổng tham mưu đã trình bày.

        Nam Bộ phải thắng bình định mạnh mẽ nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Khối chủ lực ở miền Đông, giúp vào đó để tạo thế liên hoàn giữa miền Đông và đồng bằng Khu 8, Khu 9. Hai cái đó phối hợp với nhau. Phải đánh kẹp trên xuống, dưới lên, mở đồng bằng, đồng thời, phải đánh làm sao ép được Sài Gòn hơn nữa. Muốn vậy, phải tiêu diệt một bộ phận, đánh cho chủ lực của địch ở miền Đông yêu đi. Như thế, ở Nam Bộ có ba nhiệm vụ quan trọng: vừa đánh đồng bằng, vừa đánh chủ lực, vừa ép đô thị. Đồng bằng Nam Bộ; phải ép Mỹ Tho hơn nữa. Tôi tin rằng, năm nay đồng bằng Nam Bộ có thể được giải phóng, liên hoàn hơn.

        Về mặt xây dựng lực lượng làm sao cho các đơn vị tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn vững mạnh lên; làm sao cho địa phương đủ sức bung ra, khi có thời cơ.

        Khu 5, Tây Nguyên: đồng ý đánh mạnh Tây Nguyên, nếu có khả năng thì mở ra từ Buôn Ma Thuột xuống đến Tuy Hoà. Lấy được vùng này quan trọng lắm. Cắt nó ra, tạo địa bàn ép Sài Gòn; còn đồng bằng Khu 5, thì giải phóng từ Bình Định trở ra.

        Ở Trị Thiên, làm chủ vùng từ nam Huế đến Đà Nẵng.

        Thực hiện được như vậy, sẽ làm cho so sánh lực lượng thay đổi hẳn, phong trào đô thị sẽ lên cao hơn nữa. Ta đã đánh được quận lỵ, chi khu rồi phải tiến lên đánh diệt trung đoàn, sư đoàn địch. Khả năng này ta đang có. Với cách đánh này, có thể liên tục đến mùa mữa, tạo ra thắng lợi dồn dập.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:22:08 am

        Kế hoạch năm 1976 là dựa trên kết quả của năm 1975.

        - Cần đẩy mạnh phong trào đô thị hơn nữa, nắm vững hơn nữa nghị quyết của Bộ Chính trị về đô thị.

        - Đẩy mạnh cao trào binh vận: phải có người theo dõi từng sư đoàn ngụy. Khi ta đánh mạnh, ngụy có nguy cơ tan ra lớn. Tiến hành binh vận quy mô lớn. Ta có khả năng thúc đẩy mạnh binh biến, ly khai.

        Để bảo đảm các nhiệm vụ trên, Trung ương, Nhà nước ngoài này, phải đảm bảo vật chất, kỹ thuật cho bộ đội. Chuẩn bị đầy đủ là bảo đảm được nửa phần thắng lợi rồi.

        Cuối cùng, vẫn là con người quyết định, phải tuyển đủ số tân binh theo yêu cầu: hai năm tuyển 30 vạn. Phải tổng kết xem có cách nào đẩy nhanh hơn nữa công tác huấn luyện cán bộ và chiến sĩ được không? Về công tác chính trị, cần phải xây dựng khí thế ra trận để chiến thắng.

        Nắm vững hơn nữa đấu tranh ngoại giao để lung lạc, để thắng địch dễ nhất, nhanh nhất và chắc chắn nhất; bất cứ thời cơ nào cũng thắng. Nếu ta thắng lớn, nó muốn ngồi lại với ta, ta cũng ngồi. Ngồi để đẩy mạnh đô thị hơn nữa, để thâm nhập đô thị sâu hơn nữa và mục đích cuối cùng là để đánh tan quân đội đó, bắt nó phải theo các điều kiện do ta đưa ra. Cách làm thì có nhiều. Chúng ta không loại trừ khả năng có nơi nào đó, dùng lực lượng chính trị để khởi nghĩa, có lực lượng vũ trang làm hậu thuẫn, nhưng cái chính là phải nắm vững quân đội mạnh, chuẩn bị tổng công kích, bao vây xiết chặt đô thị, đập tan khối chủ lực ở ngoài, rồi vào đô thị đập tan cơ quan đầu não. Làm thế nào, để khi ta vào Sài Gòn, ta vẫn nắm vững ngọn cờ hoà bình, độc lập, dân chủ. Nhất thiết phải tiêu diệt quân đội ngụy để giành chính quyền và nắm lòng dân để giữ chính quyền. Ta yêu dân, chủ trương hoà bình; nó là phát xít, giết người. Ta mạnh, nhưng ta làm một cách vững chắc, nhẹ nhàng, để ngăn chặn Mỹ.

        Mỹ còn mắc nợ ta, ta đòi nó phải trả.

        Thưa các đồng chí,

        Những điều chúng ta bàn và kết luận hôm nay hết sức trọng đại, hết sức quan trọng.

        Trọng đại và quan trọng vì 30 năm nay, từ ngày giành được chính quyền, chúng ta đã phải trải qua chiến tranh liên miên, chống chủ nghĩa đế quốc, và hiện nay đang đương đầu với tên đế quốc mạnh nhất, hung ác nhất, là đế quốc Mỹ.

        Từ trước đến nay, cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

        Bây giờ, cách mạng Việt Nam thành công, có nghĩa là chủ nghĩa cộng sản đã thành công trên toàn cõi Việt Nam… Ba dòng thác cách mạng hiện nay, đang cuồn cuộn dâng cao, tiến công vào dinh luỹ bọn đế quốc; đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á này, nơi hội tụ của những mâu thuẫn gay gắt nhất của thời đại. Cuộc chiến tranh ngày càng gay go và quyết liệt. Cách mạng thế giới đã giao nhiệm vụ cho ndn Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam chặn bàn tay của đế quốc Mỹ lại, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở trên vị trí chiến lược này của thế giới. Đế quốc Mỹ đánh Việt Nam, là để dập tắt ngọn lửa đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, đang bùng lên trên toàn thế giới; nó đánh Việt Nam, để cho không còn ai dám đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai trăm năm nay, từ khi dựng nước, Mỹ chưa biết thua ai; nhưng bây giờ thì nó đã thua. Thắng lợi này, không phải chỉ ảnh hưởng trong nước ta mà thôi, mà cả Đông Nam Á và trên thế giới. Cũng có thể nói bây giờ là kỷ nguyên Việt Nam; bởi vì sau Việt Nam, rồi đây trên thế giới, sẽ dấy lên một làn sóng cách mạng sôi nổi và rộng khắp; chủ nghĩa đế quốc không tài nào ngăn chặn nổi; và cũng như trước đây, nó cũng đã ra sức ngăn chặn ở Việt Nam, mà cuối cùng rồi, chủ nghĩa cộng sản cũng xuống được đến mũi Cà Mau.

        Mười tám tháng nay, từ khi có Hiệp định, Bộ Chính trị đã theo dõi chặt chẽ, nắm chắc tình hình, đánh giá đúng so sánh lực lượng, cân nhác khả năng của ta, tìm ra phương pháp đúng mới hạ quyết tâm này, rất mạnh bạo và cũng rất lớn lao.

        Phải thấy hết cái trọng đại của nó, đồng thời cũng thấy hết cái khó khăn, phức tạp của nó. Vì nó có ý nghĩa quan trọng như vậy, cho nên phức tạp lắm. Sau khi đánh nhau với MỸ mấy mươi năm, ta đánh lui được một tên đế quốc mạnh như vậy, buộc nó ra được, rất là gay go. Có thể nói cuộc chiến tranh này là đau khổ nhất, gay go nhất, mà bây giờ chúng ta đã thắng. Tôi cho rằng, thắng xong rồi ở Việt Nam có lẽ cả 10 năm sau, cả thế giới còn sẽ chịu ảnh hưởng đến thắng lợi của ta. Chúng ta đã thấy hết những khó khăn, đồng thời phải thấy hết khả năng của ta, để hạ quyết tâm này, với trí thức và sự hiểu biết của 30 năm cộng lại, không phải của từng người mà của tất cả chúng ta.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:24:52 am
     
        Thưa các đồng chí! Ta là chính nghĩa, trách nhiệm của ta lớn như thế đó! Nhưng chúng ta có quyết tâm, Đảng ta xứng đánh đảm nhiệm vai trò: làm thay đổi cục diện ở Đông Nam Á và trên thế giới. Đó là sứ mệnh lớn của Đảng ta.

        Vừa rồi, ý kiến của chúng ta đều thống nhất như vậy. Lần này nhất trí cao. Còn nhiều vấn đề còn phải bàn nữa. Bộ Tổng tham mưu phải làm việc nhiều hơn nữa, nghiên cứu sâu hơn nữa và có vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện nghị quyết này…

        Trước khi mọi người đứng dậy ra về, Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn dặn thêm:

        - Những điều mà chúng ta bàn mấy hôm nay, phải hết sức giữ bí mật. Biên bản hội nghị này, chỉ được làm thành hai bản: đồng chí Phạm Hùng nhận một bản, còn một bản lưu. Những người khác, trách nhiệm của ai, nhớ mà làm…

        Sau hội nghị Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tham mưu họp với các chiến trường, để bàn kế hoạch triển khai nghị quyết. Không khí làm việc ở các cơ quan trên Bộ,vô cùng tất bật, nhộn nhịp.

        Khi đã có sự nhất trí và quyết tâm chiến lược, toàn bộ các chỉ tiêu đều được nâng lên và kế hoạch cũng có những điểm thay đổi.

        Theo tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị xác định hướng tiến công chiến lược ở Buôn Ma Thuột, như thế là Bộ Tổng tham mưu phải đặt vấn đề chuẩn bị chiến trường ở Buôn Ma Thuột một cách gấp rút hơn nữa và có lực lượng chuyên trách.

        Cách đây hai tháng, khi trực tiếp hướng dẫn cho đồng chí thượng tá Nguyễn Quốc Thước, tham mưu phó mặt trận Tây Nguyên, Bộ Tổng tham mưu đã xác định phương hướng, nhiệm vụ trước mắt đều nhằm vào Đức Lập, vì lúc bấy giờ lực lượng chỉ có hai sư đoàn 10 và 320; còn sư đoàn 968 thì mới ở Lào sang. Hướng phát triển, có thể là Gia Nghĩa, Kiến Đức, Buôn Ma Thuột, có thể làm nhiệm vụ tiếp sau. Do đó, Bộ tư lệnh Tây Nguyên, đã cử các đoàn cán bộ của sư đoàn 10 đi chuẩn bị chiến trường trên hướng Đức Lập, cán bộ của sư đoàn 320 đi trinh sát trên hướng đường 14 thậm chí, đã có một bộ phận công binh, đang làm đường trên hướng Gia Nghĩa. Cơ quan hậu cần, cũng lót được một ít lương thực, đạn dược trên hướng ấy rồi. Nay theo yêu cầu của Bộ Chính trị đề ra, tung thâm và chính diện của chiến dịch sâu rộng hơn nhiều; đến cả mục tiêu chủ yếu ban đầu cũng thay đổi. Tuy nhiên, nhiệm vụ của các đơn vị thì không thể thay đổi được. Mặc nhiên, sư đoàn 316 phải nhận lãnh trách nhiệm chính trên mục tiêu chính Buôn Ma Thuột. Điều này, không phải làm cho các đồng chí trong Bộ tư lệnh phải lo lắng. Mặc dù được xây dựng từ hồi kháng chiến chống Pháp, có truyền thống và kinh nghiệm chiến đấu tốt, nhưng sư đoàn 316 cũng có một số nhược điểm nhất định. Sau một thời gian đi làm nhiệm vụ quốc tế về, đơn vị đang trong thời kỳ củng cố. Gần đây, có chủ trương sẽ đưa vào tăng cường cho Nam Bộ, nên phải rút số cán bộ và chiến sĩ lớn tuổi ra, để giải quyết chính sách, cho phù hợp với chiến trường hơn. Do đó, số tân binh chiếm một tỷ lệ khá cao. Bộ tư lệnh sư đoàn, gần như mới hoàn toàn. Cấp trên giữ lại đại tá Đàm Văn Ngụy, vừa có kinh nghiệm chiến đấu, vừa quen thuộc với chiến trường Nam Bộ làm tư lệnh; cán bộ tiểu đoàn, một nửa là mới, còn cán bộ trung và đại đội, thì phần lớn, mới ở trường ra. Nỗi lo lắng của Bộ Tổng tham mưu lúc bấy giờ là làm thế nào để điều chỉnh lại kế hoạch chuẩn bị chiến trường theo quyết tâm mới. Nguyên tắc là phải tuyệt đối giữ bí mật, không ai được tiết lộ tí gì về kế hoạch qua điện đài. Được sự đồng ý của trên, hôm sau, thiếu tướng Lê Ngọc Hiền lên đường, cấp tốc hành quân chẳng kể ngày đêm, để vào Tây Nguyên sớm ngày nào hay ngày ấy, để cho kịp với thời gian quy định.

        Nhiệm vụ cắt đường 19, muốn được bảo đảm hơn, không thể giao cho một mình trung đoàn 95A. Quân khu 5 phải giao cho sư đoàn 3 (thiếu) nhiệm vụ quan trọng này. Khó khăn của quân khu là, một mặt phải chuẩn bị cho các lực lượng của quân khu hoạt động từ Quảng Ngãi trở ra hướng bắc, mặt khác lại phải vận chuyển một khối lượng vũ khí, đạn dược khá lớn vào sâu thêm hàng trăm cây số, giữa mùa mưa lũ và đường sá thì cũng chỉ mới khai thông. Mặt trận Trị Thiên có nhiều thuận lợi hơn; nhưng kế hoạch cũng có bị xáo trộn ít nhiều. Lúc đầu, thì hướng vào các mục tiêu trên đường 12 như Đồng Tranh, Bình Điền; nhưng để phối hợp chiến trường có hiệu quả hơn, kìm chế chặt các sư đoàn dự bị địch hơn nữa, theo quyết tâm mới, lại phải quay về các mục tiêu cũ, Núi Bông, Mỏ Tàu. Đối với Quân đoàn 2 thì không có vấn đề gì lớn, nhưng với quân khu Trị Thiên thì công tác chuẩn bị trở nên vô cùng phức tạp; ngoài việc phải chuẩn bị cho các trung và tiểu đoàn của mình, quân khu còn phải tổ chức ra hàng trăm đội công tác, để tung vào vùng địch, khuấy động vùng sâu, mở vùng, mở mảng, phối hợp chiến trường với các nơi. Hôm giao nhiệm vụ cho quân khu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị:

        “Mở rộng đồng bằng, diệt một số chi khu quận lỵ, giải phóng 10 vạn dân, đưa lên tranh chấp 20 vạn. Quân khu và Quân đoàn phải chuẩn bị điều kiện để giải phóng Huế, khống chế cửa Thuận An”.

        Nam Bộ là chiến trường sôi động nhất. Ngày 10 tháng 1 năm 1975, khi bàn kế hoạch cụ thể, đồng chí Phạm Hùng nói:

        Tình hình phát triển nhanh hơn lần trước, toàn bộ các chỉ tiêu trước đây đề ra cho cả năm 1975, có thể hoàn thành ngay trong đợt 2 này, và như thế, có thể có chuyển biến lớn. Trong đợt 1, ta đánh Phước Long ngoài dự kiến, nên không có kế hoạch cụ thể. Rút kinh nghiệm đó, cần phải điều chỉnh lại kế hoạch cho đợt 2, nâng các chỉ tiêu lên và có kế hoạch dự phòng. Tất nhiên, đấy cũng chỉ là ước lượng. Nhưng tinh thần của Trung ương Cục là liên tục tiến công liên tục nổi dậy, liên tục xây dựng, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng ven. Phải thực hiện cho được toàn bộ yêu cầu mở vùng, giành dân tạo thế, tạo lực như kế hoạch đề ra. Ở miền Đông, thì liên tiếp mở các chiến dịch, nhằm hình thành thế bao vây, uy hiếp Sài Gòn mạnh hơn, tạo bàn đạp triển khai lực lượng, và bảo đảm hậu cần, sẵn sàng chớp thời cơ khi xuất hiện.

        Sau khi tổng hợp các kế hoạch, nhìn vào bản thống kê nhân, vật lực, thây con số lên cao quá. Tuy vậy, cũng không làm cho ai choáng ngợp cả. Mọi khả năng về lương thực, thực phẩm, sắt thép, xăng dầu, xe cộ, đều dồn phần lớn ra phục vụ cho tiền tuyến. Ở hậu phương, nhiều nơi phải tăng ca, tăng kíp, thực hiện khẩu một người làm việc bằng hai.

        Sau này, trong lần tổng kết chiến dịch, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã nói lên cảm nghĩ của mình: “Tình hình trong nhân dân lúc bấy giờ thật là tuyệt diệu. Những vướng mắc, những biểu hiện tiêu cực không hề thấy ở bất cứ nơi nào. Tất cả mọi người đều đồng tâm nhất trí và nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, nhất định sẽ chiến thắng”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:29:39 am

Chương 8

TRỞ LẠI CHIẾN TRƯỜNG

        Đầu năm 1975, đối phương đã hiểu rõ về ta như thế nào? Qua các tài liệu thu được ở Bộ Tổng tham mưu ngụy sau ngày 30 tháng 4, để lại là:

        Tháng 1 năm 1975, ta sẽ tiến công, nhưng quy mô không lớn, chủ yếu là phá bình định, giành dân.

        - Giai đoạn đầu: Tiến công toàn diện trên toàn chiến trường nhằm mở rộng vùng giải phóng, giành dân, đẩy mạnh xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích.

        - Sau đó: Tiến công có hợp đồng binh chủng vào một số thị xã. Các mục tiêu được lựa chọn là: ở Nam Bộ: Phước Long, An Lộc, Tây Ninh; ở phía bắc: Quảng Trị; ở Tây Nguyên: Kon Tum, Plây Cu; ở Khu 5: miền duyên hải tỉnh Bình Định.

        Lực lượng sử dụng: 12 trung đoàn bộ binh, 3 trung đoàn đặc công, 5 trung đoàn thiết giáp, 14 trung đoàn pháo, 18 trung đoàn phòng không, hai trung đoàn công binh.

        Điều làm cho họ tin tưởng như đinh đóng cột là trong các tài liệu bắt được, thời gian có chênh lệch nhau, trên nhiều địa điểm xa nhau và bằng nhiều phương thức khác nhau - cái thì do các điệp viên tin cẩn nhất cung cấp, cái thì nhặt được trong một trận càn quét đâu đó v.v… nhưng đều khớp với nhau như một. Họ càng tin hơn nữa là giai đoạn một đã diễn ra ở đồng bằng sông Cửu Long gần đúng như những điều đã nắm được. Các trận đánh ở Vinh Trà Hậu Giang, Chương Thiện và ở vùng biên giới Kiến Tường, Đồng Tháp Mười có gây tổn thất cho vùng 4 chiến thuật, thương vong ngót 3.000, nhưng công tác phòng thủ ở đây tỏ ra là “hữu hiệu”. Chỉ có một vài triệu chứng báo trước tình hình an ninh ở nông thôn cứ ngày một xấu dần, nhưng căn bản, vẫn chưa có gì thay đổi lớn.

        Ở miền Đông, trận Phước Long đã diễn ra hơi sớm hơn một it theo như họ dự kiến, nhưng căn bản không sai lệnh bao nhiêu. Càng xác thực hơn nữa là sau Phước Long, ta chiếm luôn núi Bà Đen, đặt đài quan sát trông xuống thị xã Tây Ninh rõ mồn một như ngồi trên nóc nhà trông xuống dưới sân. Kể ra thì chọn Tây Ninh làm mục tiêu chủ yếu cũng là điều rất hợp lý. Về mặt quân sự, Tây Ninh cũng có tác dụng chiến lược. Nếu làm chủ thị xã này, Quân giải phóng sẽ đánh thẳng một mạch, dọc quốc lộ 22, xuống Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, Hóc Môn, Củ Chi, rồi nhân đà thắng lợi, mà chọc ngay vào Tân Sơn Nhất, thì Sài Gòn chịu sao nổi? Về mặt chính trị, Tây Ninh lại càng quan trọng hơn. Trong những buổi tranh cãi với các phái đoàn ta ở Paris cũng như ở trại Đavi, mỗi khi nhắc đến chính phủ cách mạng lâm thời, họ thường đề ra câu hỏi để khiêu khích: “Thủ đô các ngài ở đâu?”. Họ sợ nhất là cái “chính phủ ma” này lại có một thủ đô; và sau Phước Long vị trí của Tây Ninh càng trở nên đột xuất. Tướng Nguyễn Văn Toàn, vừa thay Dư Quốc Đống làm tư lệnh Quân đoàn 3 vừa bị mất chức sau Phước Long đã khẳng đinh: “Mục tiêu số 1 của Quân giải phóng là Tây Ninh”. Để tỏ ra mình là một người chỉ huy có bản lĩnh, Toàn không nằm chết dí một chỗ mà chủ trương liên tục tiến công vào vùng giải phóng. Những tin tức tình báo cho biết ở Tây Ninh chỉ có 2 trung đoàn Quân giải phóng, còn “công trường 3” thì đang trong quá trình xây dựng, đang tập hợp lực lượng, và cũng nằm xung quanh khu vực này. Ông ta còn được biết thêm là trung đoàn 6 của sư đoàn 5 Quân giải phóng, một trung đoàn độc lập không rõ phiên hiệu và 3 tiểu đoàn địa phương khác khi thì cũng đang hoạt động ở dọc quốc lộ 1, quốc lộ 22, trong vùng Gò Dầu Hạ. Ngày 17 tháng 1, sư đoàn 25 mở cuộc tiến công vào núi Bà Đen, được sự chi viện rất mạnh của không quân, trực thăng vũ trang và pháo binh, các toán biệt động bung ra lùng sục, cố tìm cho ra các đài quan sát, các trận địa pháo của ta đang giấu kín trong các khu rừng. Toàn còn dự định dùng cả quân đổ bộ đường không vào khu vực này, nhưng vì gặp phải lưới lửa phòng không rất mạnh của ta, nên kế hoạch phải huỷ bỏ. Suốt 10 ngày ròng rã trong tháng 1 năm 1975, không đem lại kết quả gì, mới chịu chấm dứt cuộc hành quân. Gần đến tết con mèo, chiến sự lắng xuống; nhưng Toàn vẫn đinh ninh rằng trước sau rồi Tây Ninh cũng sẽ là mục tiêu tiến công. Tình báo lại vừa phát hiện thêm các sư đoàn 5, 9, một số tiểu đoàn pháo và cao xạ cũng đang trên đường và tập kết ở khu vực này. Toàn thay đổi cách bố trí: giao số đồn bốt đóng dọc tuyến giao thông cho 8 tiểu đoàn và 7 đại đội quân địa phương, còn tập trung  toàn bộ sư đoàn 25 để cơ động: trung đoàn 46 ở phía đông thị xã; trung đoàn 49 ở phía bắc và trung đoàn 40 ở Khiêm Hạnh. Toàn nắm trong tay một chi đoàn thiết giáp để làm đội dự bị. Bộ tư lệnh và cá đơn vị trực thuộc đóng ở toà Hành chính và tiểu khu Tây Ninh. Đêm và ngày, tung gián điệp, thám báo, biệt kích đi lùng sục các nơi; đoán chắc là ta sẽ phát động tấn công vào dịp tết con mèo, lặp lại kinh nghiệm của tết con khỉ.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:32:06 am

        Trên chiến trường phía Đông, sau khi sư đoàn 18 chiếm lại Võ Xu, tình hình trở nên im ắng. Toàn cũng chẳng mong gì hơn là cố giữ cho các đường quốc lộ 1, 20 và sân bay Biên Hoà được yên lành. Phần lớn sư đoàn 18 ở Bình Tuy, trung đoàn 43 ở Hoài Đức, trung đoàn 52 ở Xuân Lộc và trung đoàn 48 ở Long Bình. Với cách bố trí này, Toàn đã nắm được một lực lượng dự khá lớn, sẵn sàng ứng cứu cho các nơi và nếu ta ngừng tiến công thì cũng đã có sẵn lực lượng mạnh để giành giật với ta những khu vực còn đang tranh chấp.

        Sang tháng, ván bài coi như đã lật ngửa rồi; nhưng còn phải tìm biết cụ thể thêm ngày N, ngờ G. Hai nơi cần đặc biệt đề phòng là Kon Tum và Tây Ninh.

        Ở Tây Nguyên, chưa phát hiện được gì thêm ngoài hai sự kiện đột xuất: thứ nhất, ngày 9 tháng 1 năm 1975, đặc công đột nhập vào kho xăng Plây Cu đốt cháy một triệu rưỡi galông nhiên liệu đã lọc. Đây là một đòn chết tươi, đánh vào cơ sở hậu cần, làm cho họ phải choáng váng, nhất là trong lúc đang gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn này. Thứ hai, là sự xuất hiện của sư đoàn 968, với hai trung đoàn, mới ở Lào sang. Theo họ đánh giá, thì sức chiến đấu của sư đoàn này không bằng các sư đoàn đang đứng sẵn ở Tây Nguyên như sư đoàn 10, sư đoàn 320. Nhưng khi tài cực kỳ tinh xảo, những tốp thám báo năng nổ nhất, dũng cảm nhất, đã phát hiện vào giữa cuối tháng giêng năm 1975, những cuộc di chuyển bất bình thường, khá rầm rộ của các đơn vị xe tăng, pháo binh, trên hướng bắc Kon Tum, cộng với sự xuất hiện của sư đoàn 968 đã dẫn dắt tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh vùng 2 chiến thuật đi đến một kết luận dứt khoát: Tây Nguyên là chiến trường chính trong mùa xuân 1975, mà Kon Tum là một phá khẩu.

        Lúc bấy giờ Charle Times trong đại sứ quán Mỹ, có khêu gợi Phạm Văn Phú: “Hãy chú ý theo dõi những sự chuyển quân của Việt Cộng từ Plây Cu đi Buôn Ma Thuột”. Phú để ngoài tai vì hai lẽ: Kon Tum quá quan trọng. Tỉnh này nằm ngay trên đường thâm nhập từ miền Bắc vào, đồng thời cũng là một bàn đạp rất tốt để tiến công ra hướng biển, cắt đôi miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, bộ phận kỹ thuật của Phú còn bắt được những bức điện mới nhất của ta, chứng tỏ rằng sư đoàn 10 và sư đoàn 320 vẫn còn ở bắc Kon Tum và tây Plây Cu.

        Chính trong lúc họ căng mắt ra để xỉa xói, tìm hiểu khắp nơi thì Bộ tư lệnh chuẩn bị cho sư đoàn 316 đang ở Quân khu 4 lên đường vào chiến trường nam Tây Nguyên.

        Sau khi đi kiểm tra về, Đại tướng Văn Tiến Dũng chỉ thị cho Cục tác chiến làm kế hoạch hành quân cho cả sư đoàn với đầy đủ các binh chủng kỹ thuật, với những yêu cầu cụ thể: nhanh, gọn, an toàn. Đại tướng đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề giữ bí mật mọi hành động của đơn vị, từ phiên hiệu đến tổ chức, trang bị, ngày giờ xuất phát từ địa điểm tập kết cuối cùng. Phải xem đây là những yếu tố quyết định thắng lợi cho chiến dịch sắp đến. Đại tướng còn chỉ thị thêm là phải nắm tình hình diễn biến trên đường hành quân hàng ngày, theo dõi chặt những phản ứng của đối phương nếu có, và kịp thời báo cáo lên Bộ.

        Được đi tham gia chiến dịch sắp đến, anh em trong đoàn A75 vô cùng sung sướng mà cũng không khỏi có băn khoăn lo lắng. Tuy nó không phải là một sở chỉ huy tiền phương của Bộ trùm lên Bộ tư lệnh chiến dịch, nhưng Đại tướng Văn Tiến Dũng ở đây, thì hàng ngày phải nắm tình hình các chiến trường, đặc biệt là đối với chiến trường Tây Nguyên thì phải nắm cụ thể như một cơ quan chiến dịch và phải liên lạc thường xuyên với Bộ. Đại tướng còn là Uỷ viên Bộ Chính trị nên ngoài công tác quân sự ra còn phải theo dõi và có ý kiến trên các mặt công tác khác trong cả nước. Bên cạnh Đại tướng, còn có Trung tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần và Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền Tổng tham mưu phó. Ngoài đồng chí Thượng tá Nguyễn Tuyến thư ký riêng của Đại tướng, còn có thêm đồng chí trợ lý ở Cục tác chiến: trung tá Hoàng Dũng. Cơ quan chỉ có thế thôi mà phải làm biết bao nhiêu công việc. Lúc còn ở Hà Nội dự kiến chiến dịch sẽ phát triển trên một phạm vi khá rộng, đồng chí Hoàng Dũng đã chuẩn bị mang theo mấy bộ bản đồ; đặc biệt là các bản đồ, sơ đồ các thành phố, thị xã ở Tây Nguyên như: Buôn Ma Thuột, Plây Cu, Kon Tum, Đà Lạt… tưởng như thế cũng đủ rồi, chứ trước mắt cũng chưa cần đến làm gì, mang nhiều thêm nặng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:34:13 am

        Trước khi lên đường vào chiến trường, tôi đến gặp được Đại tướng chỉ thị thêm:

        - Đồng chí vào chờ tôi ở bộ tư lệnh Trường Sơn. Bàn trước với đồng chí Đổng Sĩ Nguyên về vấn đề bảo đảm hậu cần cho chiến dịch và bảo đảm cơ động lực lượng… nhớ bố trí đón cho được đồng chí Lê Ngọc Hiền đang trên đường từ Tây Nguyên ra. Chúng ta sẽ họp ở đấy bàn tiếp một số vấn đề.

        Như vậy, có nghĩa là phương án đã được thông qua hôm 9 tháng 1 thì cứ thế mà tiến hành, không mảy may thay đổi. Đối với Buôn Ma Thuột, dù có khó khăn thế nào cũng phải dứt điểm.

        Khi tôi đến bộ tư lệnh Trường Sơn thì đồng chí Hiền đã có mặt ở đấy rồi. Đồng chí rất lo lắng: việc chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột Bộ đề ra gấp quá, đoàn cán bộ 316 thì vào chậm, nên mãi đến ngày 6 tháng 2 mới bắt đầu đi trinh sát địa hình, chưa biết ngày nào về kịp để hạ quyết tâm lần cuối cùng. Với tình hình như hiện nay, nghĩa là chỉ có vài trung đoàn chủ lực quân đội Cộng hoà ở Đắc Lắc, số còn lại là quân địa phương thì lực lượng ta, ngoài sư đoàn 316 ra, cần phải có thêm một sư đoàn bộ binh nữa hay ít ra là hai trung đoàn. Các đơn vị thuộc Bộ tư lệnh Tây Nguyên thì đều đã có nhiệm vụ cả rồi, cũng đang xúc tiến việc chuẩn bị, nên không còn lấy đâu ra được nữa. Nếu để chậm lại mươi ngày, nửa tháng nữa để điều cho được sư đoàn 10 ra Buôn Ma Thuột, sau khi giải phóng xong Đức Lập, thì tình hình sẽ khác đi nhiều, đối phuơng sẽ tăng thêm lực lượng, như trước đây họ đã từng làm, thì rồi chẳng biết tình hình sẽ ra sao đây.

        Vấn đề bảo đảm vật chất, cũng khá nan giải. Số lượng hậu cần chiến dịch tiếp nhận được còn quá ít, lại còn để ở đâu đâu. Với khả năng hiện có, từ lúc hạ quyết tâm đến lúc triển khai được công tác vận chuyển, đưa vật chất đến địa điểm theo yêu cầu của kế hoạch, phải mất cả tháng nếu mọi việc đều được trót lọt. Đặc biệt công tác đưa được một số gạo, đạn tối thiểu vào phía Nam và phía đông Buôn Ma Thuột, trên đường quốc lộ 21 và 21 Bis thì hầu như không thực hiện nổi vì các hành lang vượt qua đường quốc lộ 14 đều bị phong toả rất chặt.

        Đồng chí Hiền muốn xin trực thăng, ra ngay Hà Nội, dù chỉ một buổi chiều thôi, để báo cáo hết các vấn đề với Quân uỷ Trung ương và xin ý kiến. Đại tướng trả lời qua điện thoại: không đồng ý vì Quân uỷ cũng đã có sự cân nhắc kỹ trước khi hạ quyết tâm, và một khi đã hạ quyết tâm thì Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Hậu cần phải tìm đủ mọi cách khắc phục khó khăn mà triển khai lực lượng.

        Sáng hôm sau Đại tướng cùng vào. Đoàn lấy bí danh là A75. Cùng đi, có đồng chí Đinh Đức Thiện vừa là uỷ viên Quân uỷ Trung ương vừa là chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Cuộc họp diễn ra chóng vánh. Sau khi nghe đồng chí Hiền báo cáo tình hình chuẩn bị và nêu lên những khó khăn như trên, Hội nghị thảo luận kỹ và đi đến kết luận: chủ động điều địch hơn nữa, tăng cường công tác nghi binh, giữ nguyên hiện trang ở Buôn Ma Thuột để bằng mọi cách nổ súng đánh Buôn Ma Thuột sớm, chậm nhất là 24 tiếng đồng hồ sau Đức Lập. Về lực lượng, sau khi đã cân nhắc kỹ, Đại tướng đồng ý tăng cường thêm cho chiến dịch trung đoàn bộ binh 95B, lấy ở mặt trận Trị Thiên đưa vào ngay; còn về vấn đề bảo đảm vật chất, bảo đảm cơ động thì các đồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Đổng Sĩ Nguyên hứa sẽ giải quyết đầy đủ các yêu cầu.

        Một buổi sáng đầu năm 1975, đoàn A75 từ Sở chỉ huy đoàn Trường Sơn, trên bờ sông Bến Hải, lên đường vào chiến trường. Tuy đoàn chỉ có 7 chiếc xe con, nhưng vẫn chia làm hai bộ phận để hành quân cho đỡ lộ bí mật. Đồng chí Hiền và tôi đi trước, nửa tiếng đồng hồ sau anh Dũng xuất phát. Chúng tôi đi theo đường 49 vào đường 9 lên Hương Hóa rồi rẽ vào đường Trường Sơn Đông. Trời nắng ráo, quang cảnh trên đường vô cùng nhộn nhịp: những đoàn xe vận tải, xe chở quân bổ sung nối đuôi nhau chạy vào không ngớt. Hai bên đường, trên những bãi đất trống, cao ráo, là những đống bao gạo xen kẽ giữa các trạm tiếp nhận hàng viện trợ của các tỉnh, các quân khu ở miền Nam. Những chiếc máy húc, máy ủi, sơn màu vàng để la liệt, bên cạnh các máy cày, máy kéo sơn màu đỏ chói. Giá như những năm trước, thì những thứ này là những mục tiêu rất ngon lành của các loại máy bay Mỹ; nhưng bây giờ thì đã khác trước rất nhiều. Máy bay của quân đội Cộng hoà, thoảng hoặc mới có lảng vảng đến đây; mà có đến thì cũng bay tít trên cao, vì thừa biết rằng ở đây đã có mấy trung đoàn tên lửa ngày đên ở trong tư thế sẵn sàng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:36:14 am

        Vượt qua hai cái dốc nổi tiếng A Pông, xe chúng tôi đi vào thung lũng A Sầu, A Lưới. Mấy năm qua, chất độc hóa học đã làm biến dạng hẳn cái thung lũng sầm uất, đẹp đẽ này. Những thân cây cao trơ trụi, cháy đen như những cánh tay khẳng khiu nổi bật lên giữa đám lau lách, bạt ngàn, như muốn tố cáo với đất trời, tội ác của quân thù.

        Hình như đại tá Phan Khắc Hy, phó tư lệnh binh đoàn Trường Sơn, người có nhiệm vụ hướng dẫn A75 trên đường hành quân, muốn gián tiếp báo cáo với Đại tướng về kết quả làm đường trên một năm nay, nên có nhã ý đưa chúng tôi đi theo con đường mới làm, vì đường cũ thì chật ních những đoàn xe vận tải đang nghìn nghịt chạy vào, len lỏi lách lên cho được, tốn rất nhiều thì giờ và rất vất vả. Đường rộng thênh thang, thẳng tắp, xe lao vun vút với tốc độ 60 kilômét/giờ. Lán trại của các đơn vị công binh dựng san sát hai bên đường. Không còn nhớ đã vượt qua bao nhiêu công trường, nơi làm cầu, nơi đúc cống, nơi đắp nền dường, nơi nghiền đá, nơi rải nhựa. Ở một vài đoạn, anh em còn phải sử dụng các dụng cụ thô sơ như xẻng, cuốc, xe ba gác v.v… nhưng chủ yếu vẫn là máy móc. Chỉ vào những cỗ máy sơn màu vàng, to lớn, cao lênh khênh, đồng chí Hy nói:

        - Máy móc của Cu Ba giúp ta đấy? Bạn phải bán đường, lấy đô la mua của Nhật rồi gửi sang đây cho ta. Ông cha mình thường nói: “Khó giúp nhau mới quý!”. Thật đúng như vậy. Gặp khó khăn, mới hiểu hết lòng bạn bè. Ban đầu vừa rời cái xẻng, cái cuốc, anh em đơn vị từ chỉ huy đến chiến sĩ, chưa ai biết gì về thi công cơ giới cả. Nói cho đúng, thì cũng có một số, nhưng trước nay, chỉ quen với máy móc của phe ta thôi. Nhưng nhờ có kinh nghiệm của tổ chức và lãnh đạo, chỉ huy, anh em ra đều thấy trách nhiệm nặng nề của mình phải nhanh chóng nắm lấy kỹ thuật, làm chủ các máy móc này. Xây dựng được càng nhanh bao nhieu tức là thiết thục góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam sớm bấy nhiêu, nên ra sức học tập, “học ngày chưa đủ, tranh thủ học đêm”, có hôm học cả dưới trời mưa tầm tã. Công trường và lớp học là một. Các đồng chí Cu Ba, nhiệt tình và hăng hái hết chỗ nói, hết lòng hướng dẫn từng ly, từng tý, đem hết sự hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân từng người ra dạy. Anh em ta tiếp thu cũng rất nhanh, nhờ vậy chỉ sau 4 tháng tay nghề đã khá vững; đến nay đa sử dụng được tất cả những máy móc này, bạn khen lắm. Thử tính xem với một vạn mét khổi đá trên một kilômét như thế này mà cuốc với choòng thì đến bao giờ mới làm ra được đường? Một khí thế thi đua sôi nổi, tưng bừng nhộn nhịp bừng lên từ đầu đến cuối thung lũng A Sầu này, biến nó thành “A Vui” vui lắm anh ạ! Các anh xem nhé, núi rừng hiểm trở như thế này mà trên bắt phải đạt cho được các chỉ tiêu làm đường cơ bản núi cấp cấp bốn, trên một kilômét không được quá 8 cái cua, độ dốc dưới 8 độ, bán kính đường vòng không dưới 20 thước. Trên đường Trường Sơn, có thể nói đây là đoạn đường khó ăn nhất vì nó có dãy núi Xương cá chắn ngang chạy ra đến biển. Mấy tháng nay, có thêm sự cộng tác, giúp đỡ của các giáo sư, sinh viên trường Đại học giao thông phái vào đây, vừa tăng cường cho đoàn, vừa thực tập luôn thể. Anh em cũng cơm đùm cơm nắm, lặn lội suối sâu, đèo cao, đi khắp cả vùng núi mới tìm được tuyến đường lý tưởng này. Kể ra, nếu các anh trong Bộ Tổng tham mưu cho trực thăng đi khảo sát, thì cũng nhanh hơn và cũng đỡ vất vả hơn nhiều. Đằng này thì tư lệnh cũng như anh em, đều phải xắn quần móng lợn, băng núi, lội rừng khảo sát đến đâu, duyệt luôn tại chỗ. Như vậy thì tất nhiên là nganh chuyên môn người ta có ý kiến, nhưng biết làm thế nào được. Thời gian quá gấp cho nên ở đây phải lấy yêu cầu của quốc phòng làm chính. Nếu chỉ ngồi ở nhà, chờ các đoàn khảo sát đi về báo cáo, rồi mới bắt tay vào nghiên cứu, duyệt đi duyệt lại thì đến năm 1980, chưa chắc đã thi công được. Đấy, các anh em như A Pong, Pé Ker, vừa rồi các anh đi qua thấy đấy, độ dốc 10 phần trăm. Như vậy là phải khảo sát lại, chọn tuyến khác hay tìm cách hạ độ dốc hơn nữa. Có thế thì các binh khí kỹ thuật nặng mới cơ động được.

        Chỉ vào những đống gạo to tướng, phủ ni lông, đồng chí Hy cười nói:

        - Những thứ này là của quân đoàn cả đấy chứ, chúng tôi có gì đâu? Rồi đồng chí chỉ vào chúng tôi, con đường đất đỏ ở lưng chừng dãy núi trước mặt, nói tiếp:

        - Đường 96 đấy. Đường này do cán bộ của quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 cùng làm, nó chạy về Tả Trạch-Nam Đông, Khe Tre, rồi bắt mối vào đường 14 cũ, chạy vào đèo Mũi Trâu, ở phía tây bắc Đà Nẵng.

        Mấy tháng nay, xe của quân đoàn chạy về hướng đấy nhiều lắm. Có cả mấy đơn vị phòng nòng dài nữa. Hình như họ đang lập chân hàng ở núi Bạch Mã thì phải.

        Và đồng chí cười to, nói tiếp, với một giọng rất Quảng Bình:

        - Như rứa thì con đường chiến lược Huế-Đà Nẵng bị cắt đến nơi rồi, còn chi mô?


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:38:33 am

        Đoàn lại tiếp tục cuộc hành trình. Đến ngã ba đường 12, đi về thành phố Huế, lác đác đã có những chòm nhà của đồng bào, mới từ nơi sơ tán về, chen lấn giữa những trại sản xuất của quân khu, quân đoàn. Một sức mới đang vươn lên trên cảnh điêu tàn, hoang dại, mà Mỹ-Thiệu đã có tình gieo rắc trong cái thung lũng phì nhiêu, đẹp đẽ này. Những làn khói lam, nhè nhẹ lướt trên nóc các nhà tranh; tiếng gà gáy nghe vọng từ trong khe núi, làm cho khách bộ hành cứ ngỡ mình đang đi giữa một vùng đồng bằng trù phú. Một đám trẻ con người dân tộc, vừa tan học về, cách sách chạy lon ton trên đường. Quần áo bết đầy bùn và đất, đa số để đầu trần; chỉ có một vài em đội mũ tai bèo, vành trẽ xuống tận vai, có lẽ là quà của các chú giải phóng hành quân qua đây. Có em mặc cái áo của người lớn, dài đến đầu gối, chẳng còn một cái cúc nào, hai vạt áo quét gần sát mặt đường. Gần một nửa số em quàng khăn đỏ. Cảnh tượng này làm cho tôi vô cùng xúc động. Nhớ lại buổi chiều mùa thu năm 1963, tôi đang báo cáo tình hình miền Nam với Thượng tướng Văn Tiến Dũng tại phòng làm việc của đồng chí thì chợt tiếng gõ cửa.

        Bác đến bất thình lình, Bác đội mũ cát két bằng dạ, mặc cái áo cổ kín màu xanh công nhân, chân đi dép cao su. Thượng tướng chạy ra, rước Bác vào ngồi trên ghế dựa đặt ở giữa phòng. Sau vài lời thăm hỏi thường lệ, Bác lấy thuốc ra hút, nhìn quanh cả một lượt rồi đứng dậy, lại gần tấm bản đồ nổi gắn trên tường. Đột nhiên, Bác quay lại hỏi tôi:

        - Chú hãy chỉ cho Bác con đường mòn Hồ Chí Minh.

        - Báo cáo Bác, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, con đường ấy chạy qua Bà Rền - U Bò rồi vào đến chiến khu Dương Hoà - Nam Đông - Bút Lốp - Hiên, vượt dốc Giảm Thọ, sang đèo Le…

        Bác cười:

        - Ai đặt cho cái tên quái gở thế? Thế ngày nay?

        Tôi lúng túng, và để cho được thật chính xác, đề nghị thượng tướng cho gọi đồng chí Thượng tá Võ Bẩm, người đầu tiên phụ trách Đoàn Trường Sơn, từ ngày mới thành lập-tháng 5 năm 1959-đến.

        Một lát sau, đồng chí Võ Bẩm đến, vừa thở vừa báo cáo:

        - Ngày nay, ta vào làng Ho, vượt đỉnh một nghìn linh một vào Bản Đông, La Hạp, đi trên đất Lào rồi lại A Ró - Tang Non trên đất ta. Cháu cũng vừa ở trong ấy ra.

        Bác chăm chú nghe, nhìn theo ngón tay của đồng chí Bẩm đang di chuyển trên bản đồ.

        - Đời sống của đồng bào ta trên đường dây dạo này còn cực khổ lắm không?

        - Báo cáo Bác, cực lắm ạ. Gạo không đủ ăn, phải ăn sắn, ngôi, mà có lúc cũng không đủ, phải ăn củ rừng. Thường xuyên lạt muối, quân sự thì không có, chỉ được cái khố, mà cũng rách bươm…

        Bác có vẻ đăm chiêu, suy nghĩ. Tôi thấy Bác lấy khăn tay ra lau kính và lau mắt. Tôi đâm hoảng, nháy mắt, ra hiệu cho đồng chí Bẩm, dịu dịu bớt lại, vì sợ Bác buồn.

        Ngón tay của Bác lần lần chỉ vào Khe ve, Xuân Sơn, Bản Đông; rồi lại đưa về Làng Ho, Tà Cơn, A Sầu, Bù Lệch, Bến Giằng… ở những nơi có cứ điểm như Tà Cơn, A Sầu, hay những nơi mà mặt bản đồ nổi lên cao như A Pông - Bù lếch, ngón tay của Bác dừng lại gõ nhè nhẹ. Bác gật đầu khe khẽ, chòm râu bạc rung rinh. Bác tháo kính rồi quay về chỗ ngồi.

        - Các chú phải làm như thế nào đưa được muối, vải và nếu đuợc thì thêm một ít gạo cho đồng bào nhé!

        - Thưa Bác, được ạ.

        Chờ không thấy chỉ thị gì thêm, đồng chí Bẩm và tôi bước ra khỏi phòng để Bác và Thượng tướng làm việc. Tôi không được biết sau đó Bác có chỉ thị gì thêm cho thượng tướng nữa hay không; nhưng cũng từ ngày ấy, Quân uỷ Trung ương hạ quyết tâm kéo dài đường Trường Sơn, và mở rộng thêm để thông xe cơ giới vào đến Tây Nguyên. Nhiều đơn vị công binh lần lượt được điều động đến, trước tiên là trung đoàn 98 - cả người và xe máy - và sau đó là nhiều đơn vị khác nhau nối tiếp nhau, kéo dài con đường cho đến ngày hôm nay. Đường đã thông, có nhiều đoạn chưa tốt lắm, nhưng nhìn đám trẻ con đang đi kia, tôi nhận thấy đã có sự đổi đời rồi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 11:39:09 am

        Có thể là chưa được như ý Bác mong muốn, nhưng được tiếp xúc với anh em dân tộc trên suốt dải Trường Sơn, tôi chưa thấy ở đâu trẻ con được như thế này. Ở những nơi, mà năm nào, Bác đã lấy ngón tay gõ nhẹ lên mặt bản đồ vì có địch đóng hay vì núi quá cao, thì nay, địch cũng đã chạy rồi, mà núi cũng đã bị xẻ dọc, san bằng, xe cộ qua lại dễ dàng hơn. Cái vạch dài mà năm nào Bác đã lướt nhẹ ngón tay, nay đã có ít nhất hai trục đường lớn, đủ rộng cho xe chạy hai chiều công khai; và 5, 7 trục đường nhỏ, kín, chạy song song với nhau để chạy một chiều, bí mật, giữa ban ngày, trong những ngày đánh phá ác liệt  nhất. Ở những đoạn vượt sông, đã có sãn 5, 6 cái ngầm hoặc cầu. Hôm đoàn xe đầu tiên bắt đầu lăn bánh đến đây, đồng bào ở các buôn làng xung quanh, kéo ra xem rất đông. Dân ở các huyện Nam Giang, Bắc Giang này, không ai lạ gì với chiếc xe ô tô, và trước đây, thực dân Pháp cũng đã làm đường xuyên ngang Trường Sơn, từ Đà Nẵng sang Lào. Nhưng không bao giờ đồng bào lại nghĩ rằng, có ngày giải Trường Sơn hùng vĩ lại bị xẻ dọc, và xe ô tô lại đến được giữa núi rừng sâu thẳm trong những ngày âm u mưa lũ như thế này. Đường vươn dài đến đâu, ấm no hạnh phúc đến đấy. Con cháu chúng ta sau nếu có dịp đi dọc Trường Sơn, để tìm lại dấu vết của chiến trường, của cha ông đánh Mỹ, có thể sẽ phê phán chúng ta đã làm những việc phi kinh tế: làm đường vận chuyển thế nào mà cứ chạy song song với nhau trên một trục, trùng lặp lung tung như một trận đồ bát quái, đến nỗi chỉ trên một đoạn đường chưa đến 1.000 cây số đường chim bay; từ Lao Bảo đến Lộc Ninh, mà tổng khối lượng đã xây dựng, duy tu bảo dưỡng lên đến trên một vạn cây số. Chính đây là chỗ làm cho đế quốc Mỹ phải điên đầu, cam chịu thất bại trong chiến lược ngăn chặn và làm cho cả thế giới phải kinh ngạc và khâm phục. Đế quốc Mỹ đã bỏ ra bao nhiêu triệu đô la để kiểm soát khoảng không gian dài ngót 1.000 cây số, rộng 60-70 cây số cũng chẳng làm gì nổi ta, mặc dù hết đưa ra thủ đoạn “săn đuổi” lại bày ra trò “tìm diệt sinh lực cơ động trên hệ thống đường vận tải”, v.v… Họ đã phải huy động đến 500-600 lần chiếc máy bay trong ngày, trong đó có cả hàng trăm lần chiếc B.52, đánh phá rất điên cuồng, làm sụt từng mảng núi đã, lấp cả từng đoạn khe, rồi lại đưa ca bộ binh ra càn quét chiếm lĩnh dài ngày. Nhưng tất cả mọi thủ đoạn đều tỏ ra vô hiệu: hàng ngày, xe vẫn nối đuôi xe mà chạy vào, chạy ra, và xe ta đã đi là khắc đến. Năm 1972, tiểu đoàn xe vận tải 101, xuất phát 146 xe, đến đích 144 là một bằng chứng hùng hồn. Không có một sức mạnh nào có thể ngăn chặn nổi ý chí của một dân tộc, khi dân tộc ấy đã thấm nhuần chân lý: Không có gì quí hơn độc lập tư do. Chúng ta có thể sung sướng báo cáo với Bác rằng: xẻ núi, ngăn sông  là việc khó, nhưng con cháu của Bác, dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh và được sự giáo dục của Bác, đã đứng lên đạp bằng mọi khó khăn gian khổ; và với trí thông minh, đầu óc sáng tạo của mình; với sự nỗ lực phi thường, quyết thực hiện cho kỳ được những điều mà Người mong muốn và Người đã chỉ ra.

        Cho đến nay, nhìn chung trên toàn miền Nam Việt Nam, hệ thống đường chiến lược Bắc-Nam vẫn mang cái tên vô cùng trìu mến và vĩ đại-đuờng mòn Hồ Chí Minh-đã căn bản hoàn thành; chỉ còn phải nâng cấp lên, bảo dưỡng, quản lý cho tốt để hiệu suất ngày càng cao hơn. Từ đương chiến lược này, đã toả ra trên địa bàn từng quân khu, từng mặt trận, một hệ thống đường chiến dịch, mỗi trục có đôi ba đường. Báo chí phương Tây cũng thường nhắc khéo đối phương phải thường xuyên theo dõi và hết sức cảnh giác đối với những con đường này. Nó hướng về đồng bằng, bò dần ra sát biển. Đó là những lưỡi  kiếm đang ẩn mình dưới tán cây, bóng núi để chờ đến lúc nào đó, sẽ được vung lên và trong nháy mắt, sẽ cắt đứt “khúc ruột miền Trung dằng dặc” từ Quảng Trị đến Nam Bộ, ra làm nhiều mảnh, để lần lượt tiêu diệt quân thù. Lúc ấy, sẽ không còn một sức mạnh nào có thể ngăn chặn nổi. Đường bò ra đến đâu các trận địa pháo, kho tàng, v.v… nhích dần theo đến đấy. Chỉ cần có lệnh là bão lửa khủng khiếp sẽ dội lên đầu thù, dù chúng có trốn tránh bất cứ nơi nào cũng không thoát khỏi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 11:41:36 am

        Trong hành quân lần này, thì yếu tố giữ bí mật phải đặt lên trên hết. Nếu đối phương phát hiện ra có Đại tướng vào, thì nhất định toàn chiến trường miền Nam sẽ báo động. Vì vậy, kế hoạch bảo mật phải hết sức chu đáo. Đồng chí Phan Khắc Hy, đồng chí cán bộ bảo vệ thường vượt lên trước, để bàn với các Bộ chỉ huy binh trạm thật tỷ mỷ về cách đưa đón.

        Qua khỏi Khâm Đức, đường bắt đầu xấu. Người ta đang mở rộng đường 14 cũ. Xe húc, xe ben và cả xe ba gác dàn ra chật cả lối đi. Đại tướng cho dừng lại xuống xe và tặng cho anh chị em thanh niên xung phong mấy gói quà: nam thì vài gói thuốc lào, nữ thì mấy cuộn chỉ khâu, mấy cái kẹp tóc. Giá trị của một món quà không nên tính bằng tiền. Giữa rừng núi âm u này mấy gói thuốc lào-lại là thuốc lào Vĩnh Bảo chính cống-như đáp ứng được sự mong mỏi của anh em, chỉ một tiếng gọi nhau, họ đổ xô lại, bất chấp lệnh của chỉ huy, mỗi người lấy cái điếu cày dắt sẵn bên lưng, chuyền tay nhau rít mạnh từng hơi dài, như muốn cho cả khói thuốc, lẫn mùi vị của quê hương thấm vào tận tim phổi.

        Đoàn đón giao thừa ở binh trạm 470, một địa điểm gần biên giới Việt-Miên-Lào. Từ đây trở vào, thỉnh thoảng máy bay đánh phá, nên tổ chức binh trạm vẫn còn giữ hình thức cũ, nghĩa là còn đủ các binh chủng. Cũng từ đây, đường vận tải chiến lược và chiến dịch chồng lên nhau; cho nên các lực lượng của binh trạm; bộ binh, cao xạ, pháo binh, công binh đều trực tiếp tham gia vào các chiến dịch sắp đến trên các chiến trường Tây Nguyên cũng như miền Đông Nam Bộ.

        Trong một dịp tổng kết công tác của Đoàn Trường Sơn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: “Phải đánh giá cho đúng khả năng và sức mạnh của Đoàn. Rồi đây, đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ chuyển dần sức mạnh tổng hợp của khối lực lượng dự trữ này về phía Đông. Lúc đó, chỉ trong một thời gian ngắn, nó có thể tăng cường cho bất cứ khu vực nào làm cho so sánh lực lượng ở khu vực ấy, đột nhiên có lợi cho ta”.

        Trong lúc hai bên ngồi bàn cãi ở Paris, đoàn đại biểu Mỹ cứ một hai đòi cho được lực lượng “Bắc Việt” phải rút về miền Bắc. Ta nhất định không nghe, nên mới có thắng lợi ngày nay. Có điều là chẳng bao giờ thấy họ đả động gì đến Binh đoàn Trường Sơn-lực lượng dự trự chiến lược này cả. Có lẽ họ đinh ninh rằng, đây chẳng qua là lực lượng vận tải, không có gì đáng kể? Dư luận phương Tây còn cho rằng: sau khi ký Hiệp định Paris, Chính phủ cách mạng lâm thời bị hãm vào một tình thế rất bất lợi; một vùng giải phóng chỉ có đất mà có rất ít dân. Nếu tổ chức một cuộc tổng tuyển cử tự do, thì đa số phiếu sẽ rơi vào tay ngụy quyền Sài Gòn. Để khắc phục tình trạng bất lợi này “Bắc Việt” phải đưa hàg vạn người và đóng chốt ở miền Nam, để sau này có thêm một số phiếu cho Chính phủ cách mạng lâm thời, một cái nêm nhỏ trong các chốt lớn.

        Đúng là họ vào đây gần chục vạn bộ đội, mấy vạn thanh niên xung phong, nhưng không phải nhằm mục đích để đi bỏ phiếu, mà để đảm bảo cho việc đưa người, đưa binh khí kỹ thuật, đạn dược, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, v.v… nói gọn là tất cả nhu cầu cho chiến tranh, vào cho nhân dân miền Nam. Chỉ tính riêng lực lượng chiến đấu của Đoàn Trường Sơn, cũng đã xấp xỉ một Quân đoàn.

        Như vậy, có phải đây là một cái nêm nhỏ, trong các chốt lớn, như họ nói không?


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 11:45:59 am
         
Chương 9

TRƯỚC GIỜ NỔ SÚNG

        Vượt qua khỏi đèo Lò So, một cái đèo khá cao ở nam Khâm Đức, mùa xuân lùi lại ở sau tôi. Từ đây trở đi là thời tiết cao nguyên. Mùa hè như đã đến từ lâu. Nắng hơi gắt. Đi đường không gì khổ hơn là bụi. Bụi phủ dày hai bên, cứ tưởng như mặt đường được trải rộng thêm ra, trông trên mặt thì phẳng phiu, nhưng những tay lái xe cứng nhất cũng phải kiềng dè chừng với những ổ voi giữa đường. Vô phúc mà để bánh xe lọt xuống đấy thì ngập lút bụi, chẳng khác gì rơi xuống bãi lầy; dấn thêm ga, máy nổ như muốn vỡ, bánh xe cứ quay tít, bụi bay mù mịt mà xe vẫn đứng im. Bụi bám vào những ngọn cây làm thành một vệt đỏ dài, nổi bật lên tàn lá xanh. Đứng dưới đất tưởng đã kín, nhưng trên trời nhìn xuống, thì con đường rõ mồn một. Khách bộ hành không quen, mỗi khi gặp máy bay bắn xăm đường, đứng nép vào gốc cây, tưởng an toàn, hóa ra đứng trong vòng mục tiêu mà không biết. Khổ nhất là những ai đi xe đoàn. Qua cửa kính, đất trời mù mịt, cách nhau 3, 4 thước đã chẳng thấy nhau. Mọi người đều phải đeo khẩu trang. Ngang lỗ mũi, 2 chấm tròn hiện rõ trên nền vải trắng. Không ai biết bụi đã lọt vào buồng phổi bao nhiêu. Ngôi trên xe, ai cũng đều đội mũ, thế mà, mỗi lúc đến trạm nghỉ, rửa mặt, mái tóc hoa râm gội đến 3 chậu nước mà nước vẫn còn đục ngầu như nước sông Hồng trong ngày mưa lũ.

        Gần đến Plây Cần, đoàn A75 vượt một đoàn xe chở quân. Chỉ cần một vài cái nháy đèn, đã nhận ra được ngay đó là trung đoàn vận tải 574 và những người ngồi trên xe là quân của sư đoàn 316. Được giáo dục kỹ về ý nghĩa, mục đích của cuộc ra quân lần này, được chuẩn bị tư tưởng chu đáo và được chỉ huy chặt chẽ nên các chiến sĩ lái xe, cũng như anh em các đơn vị, đều chấp hành rất nghiêm những quy định bảo mật: ngồi đúng vị trí, yên lặng tuyệt đối, giữ đúng tốc độ, giữ đúng cự ly, v.v… Sau này nắm lại tình hình, được biết thêm là suốt cả cuộc hành quân đường dài trên một nghìn cây số, toàn sư đoàn không để xảy ra va quệt nhỏ, một sự chẫm trễ nào. Cho đến ngày nổ súng, đối phương vẫn không hề phát hiện ra phiên hiệu của đơn vị này.

        Thiếu tướng Vũ Lăng và đại tá Đặng Vũ Hiệp ra tận bãi xe đón đoàn. Không phải vì thành phần của đoàn có khách quý, nhưng chắc là hai anh đều nôn nóng, muốn biết kết luận của hội nghị ở sở chỉ huy binh đoàn Trường Sơn vừa rồi thế nào. Các đồng chí trợ lý Cục tác chiến Thăng, Truyền, Lý, v.v… nghe tin đoàn đến, cũng chạy ra đón, tay bắt, mặt mừng.

        Đồng chí Lê Ngọc Hiền vui vẻ nói: Lần này Cục tác chiến ra quân đông nhỉ! Đồng chí Hiền cũng như đồng chí Vũ Lăng đều là cán bộ cũ của Cục này cả. Đồng chí Vũ Lăng gầy hơn lúc ở Hà Nội, nước da sạm hơn và mái tóc cũng bạc hơn. Nghỉ ngơi một lát, chúng tôi bắt tay ngay vào việc. Đồng chí Vũ Lăng nói:

        - Tôi vừa đi chuẩn bị chiến trường về hôm kia. Cùng đi có đầy đủ cán bộ của sư đoàn 10 và sư đoàn 316, chủ nhiệm các binh chủng và cán bộ của ba cơ quan. Mất gần một tháng trời. Với các cứ điểm Đức Lập, Núi Lửa, thì đã có đủ tài liệu; cán bộ sư đoàn đã mò vào được đến bờ rào ngoài cùng để quyết định điểm đột phá, còn trinh sát thì cũng đã vào được bên trong các cứ điểm đó rồi. Các trận địa hoả lực cũng đã chọn xong, đường triển khai thuận lợi.

        - Đắc Song thế nào?

        - Chúng tôi chủ trương, ngày thứ nhất chỉ dùng một đơn vị bộ binh nhỏ cùng với một đơn vị cối bao vây, nên không điều tra kỹ, sẽ giải quyết nó trong quá trình phát triển chiến đấu. Cán bộ của trung đoàn 174, sư đoàn 316 cũng đã chọn xong nơi đánh viện, từ cầu Srepok đến Đức Lập, mấy cái chốt lớn của địch nằm rải rác, dọc đường 14 cũng đã điều tra xong. Chúng tôi đã đắp sa bàn của các mục tiêu nói trên, sau đây mời các anh đến xem. Đối với nhiệm vụ diệt các cứ điểm nói trên, mở hành lang, như quyết tâm ban đầu của Bộ Chính trị, thì có thể bảo đảm chắc chắn còn với nhiệm vụ diệt vài ba chiến đoàn trên đường 14 trong vận động thì phải nghiên cứu kỹ hơn, vì địa hình ở đây tuy dễ đánh những rất khó diệt gọn. Núi rừng miên man, đường sá như mạng nhện.

        Đồng chí Hiền hỏi:

        - Đường gì mà nhiều thế, không thấy có trên bản đồ?

        - Đây là đường người ta đi làm gỗ, làm theo kiểu đường quân sự làm gấp, để cho xe bò vàng đi. Chỗ nào xe cũng chạy được. Cho nên ở đây, vấn đề giữ bí mật là rất đáng lo. Nhân dân đi làm ăn trong rừng rất sâu, thậm chí có khi còn vào cả đến khu chúng ta đang trú quân là khác. Anh em cán bộ của sư đoàn 316, phần thì chưa quen chiến trường, phần lại quen với lối đánh ở nơi khác, đánh xua địch nhiều, nên rất khó diệt gọn, và sẽ có hiện tượng đánh tan ra nhiều hơn…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 11:49:01 am

        Ngừng một lát, đồng chí Vũ Lăng báo cáo tiếp:

        - Trên đường 14, cán bộ của sư đoàn 320 cũng đã đi trinh sát địa hình chiến trường đánh viện xong, đoạn từ cầu Eo Hleo trở về và nhân thể cũng có nghiên cứu luôn cả quận lỵ Thuần Mẫn nữa. Nói chung thì không có vấn đề gì lớn lắm. Nhưng vừa rồi, có một thượng sĩ của đơn vị thông tin bị địch bắt trong lúc đi nghiên cứu địa hình.

        Đồng chí Lê Ngọc Hiền mở đôi mắt, cặp lông mày nhíu lại. Anh rút khăn lau mồ hôi trán và nói giọng bực tức:

        - Thôi, bỏ mẹ rồi! Và dồn dập hỏi luôn một thôi, một hồi: tên tuổi, tư tưởng, công tác, tính tình, trường hợp bị bắt, những điểm mà người bị bắt được biết trong lúc đi làm nhiệm vụ, v.v…

        Đồng chí Vũ Lăng trả lời từng điểm một: nhưng điểm sau cùng, thì không được rõ ràng lắm.

        Ngừng một lát, đồng chí tiếp:

        - Trung đoàn 198 đặc công, đi trinh sát sân bay Hoà Bình ở phía nam thị xã Buôn Ma Thuột, thì có nhiều khó khăn lắm. Chỉ có một việc trinh sát đường hành quân cũng chật vật lắm rồi. Có lẽ hôm nay đoàn cán bộ mới đến nơi, mất gần nửa tháng ròng rã, và gạo thì cũng sắp hết rồi. Phải đi vòng xuống phía nam thị xã gần đến quận lỵ Lạc Thiện, rồi mới vòng lên, vì đồng bào đi làm rẫy rất đông, rất xa, đi đâu cũng dễ gặp, để lộ bí mật. Trung đoàn 25 bộ binh, đi chuẩn bị trận địa chặn viện, trên đường 21, thì khó khăn nhất vẫn là vấn đề tiếp tế. Các đường ô tô của địa phương làm trước đây, chạy ngang qua quốc lộ 14 để bảo đảm tiếp tế cho các đơn vị đứng ở phía đông đường, thì nay địch đã rải mìn, đủ các loại dày đặc và phục kích thường xuyên. Cho nên ta chỉ có thể đưa được một số ít lực lượng qua đông đường được thôi, chứ đưa cả trung đoàn thì tiếp tế khó khăn. Nhưng nếu đưa ít lực lượng thì làm thế nào để đánh chặn địch từ Ninh Hoà, Khánh Dương, lên được. Đây cũng sẽ là một cánh quân phản kích quan trọng của chúng, một khi đường 19 bị cắt.

        - Thế còn “A”?

        - “A” à. Sau khi được biết Bộ Chính trị và Quân uỷ hạ quyết tâm phải diệt “A”, ngay trong đợt đầu của chiến dịch và hơn nữa phải xem đó là nhiệm vụ chính của chiến dịch, chứ không phải là diệt khi có điều kiện thuận lợi, thì như anh đã biết, chúng tôi phải thay đổi cả kế hoạch chuẩn bị, nhưng không kịp, giá biết như thế này, thì chúng tôi sử dụng sư đoàn 10 vào Buôn Ma Thuột cho chắc tay, chứ sư đoàn 316 là đơn vị xưa nay chúng tôi chưa hề chỉ huy, không nắm chắc đưởc trình độ tác chiến của nó đến đâu. Mãi đến ngày 6 tháng 2, đồng chí Nguyễn Năng, tư lệnh phó, mới kéo đoàn cán bộ đi chuẩn bị; đến nay mới được nửa tháng. Vả lại, đoàn đồng chí Năng cũng chỉ có kế hoạch đi trinh sát ở cánh tây bắc thị xã với đồng chí Thơi, tư lệnh phó sư đoàn; còn cánh đông bắc cũng là một cánh chủ yếu trong kế hoạch tác chiến, thì mãi đến hôm nay cũng chưa thấy tăm hơi đâu cán bộ của trung đoàn 95B. Cánh tây nam do đồng chí Đàm Văn Ngụy, tư lệnh trưởng sư đoàn 316 đi chuẩn bị, thì chưa thấy ai về cả. Hẹn nhau đến ngày 20 tháng 2 thì về báo cáo, thế mà mãi đến hôm nay, gần hết tháng rồi vẫn chưa thấy gì, chúng tôi sốt cả ruột. Các anh xem cơ quan chúng tôi có bao nhiêu người đâu, mà đi sạch ráo, không còn lấy một mống ở nhà. May nhờ có các đồng chí Nguyễn Đức Nguyên, đồng chí Hoà ở Học viện và các đồng chí ở Cục tác chiến vào tăng cường cho cơ quan tham mưu, nếu không thì rối to… các đồng chí ở Bộ làm việc tốt lắm, vừa có kinh nghiệm công tác, mà cũng chẳng nề hà gì, xếp vào việc là làm đêm làm ngày thôi, nhờ đó mà công việc cũng đã bắt đầu đi vào nền nếp. Tôi lo nhất là vấn đề vật chất. Xe vào thì rất nhiều, nhưng họ cứ đi thẳng tuốt vào Nam Bộ, chứ có đổ hàng cho chúng tôi đâu?

        Đồng chí Vũ Lăng vừa nói, vừa nghiêng nghiêng gọng kính trắng nhìn vào tôi, nửa muốn thăm dò, nửa muốn trách móc.

        Tôi trả lời:

        - Yên trí! Đâu sẽ vào đấy cả.

        Các đồng chí trong bộ tư lệnh mỉm cười, chưa tin. Riêng đồng chí chính uỷ, đại tá Đặng Vũ Hiệp thì đưa tay ra nắm chặt lấy tôi:

        - Nhớ nhé! Yên chí nhé!

        Buổi chiều, cơm nước xong, đồng chí Hiền và tôi đi thẳng về sở chỉ huy tiền phương, còn đồng chí Vũ Lăng và đồng chí Đặng Vũ Hiệp thì ra bờ sông Srepok để kịp đêm nay đón Đại tướng vào.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 11:53:50 am

        Vượt qua suối Dakdam, ngoặt ra hướng bắc 3 kilômét rẽ vào A75, đường quân sự làm gấp, chạy dưới rừng khộp trụi lá. Thực ra thì công binh chỉ mới phát dọn qua loa thôi, vì tuyệt đối không được đào đắp, để trên trời nhìn xuống không thấy dấu đất mới. Ngồi trên xe, xóc không thể tả. A75 cũng mới được xây dựng cách đây vài hôm, dưới một rừng cây xăng lẻ. Tán dầy, thân cây thẳng, cao, vỏ cây trắng, nên vừa kín trên đầu, nhưng dưới thì thoáng, không ám u như những nơi khác. Chỉ có tám cái nhà cách biệt nhau, nhà họp và giao ban rộng hơn các nhà khác một chút. Nhà của Đại tướng thì âm đến bung, chung quanh đắp đầy đất dầy. Trước nhà, có một cái sân rộng vừa đủ để chiều chiều, đội bóng chuyền nghiệp dư-mà Đại tướng là một thành viên chính thức-ra búng bóng, một môn thể thao rất được anh ưa thích.

        Sở dĩ phải đặt A75 ở đây, cũng là để giữ bí mật, không phải đối với địch, mà lại đối với ta. Nếu đặt gần sở chỉ huy chiến dịch thì không tiện, cán bộ chiến sĩ sư đoàn 316 mà biết được có sở chỉ huy của Đại tướng ở sau lưng mình, thì chắc chắn là sẽ rất phấn khởi, tin tưởng; nhưng không khỏi có những lời bán tán thì thầm, nhỡ đến tai đối phương thì nguy hiểm vô cùng. Chúng tôi đều biết, Đại tướng nhất định sẽ không bằng lòng với địa điểm này nên bàn với nhau chọn một địa điểm dự bị, ở gần Buôn Ma Thuột hơn.
        Từ nay trở đi, ta bắt đầu làm quen với cái bí danh mới của Đại tướng: Anh Tuấn.

        Vì đêm qua đoàn đến chậm, nên sáng hôm sau họp muộn.

        Đồng chí Vũ Lăng báo cáo tình hình đã chuẩn bị. Để ý thấy anh Tuấn hỏi rất tỷ mỷ về tình hình và hành động của địch gần đây, những quy luật hoạt động của chúng. Anh rất ít hỏi về hai khu chiến thuật chủ yếu là Buôn Ma Thuột và đường 14; vì biết rằng đồng chí Vũ Lăng cũng chưa nắm chắc được gì nhiều hơn khi các đoàn đi chuẩn bị chiến trường chưa về, chờ nghe những ngườ đến tận nơi, mắt thấy tai nghe về báo cáo, thì mới chắc chắn được. Đây cũng là một cách làm việc riêng của anh.

        Báo cáo về tình hình chuẩn bị của bộ đội, đồng chí Vũ Lăng đánh giá sư đoàn 10 và sư đoàn 320 đều đã làm tốt mọi việc. Cán bộ từ cấp sư đoàn trở xuống đều được tập huấn về kỹ thuật đánh công sự vững chắc, vận động tiến công kết hợp chốt, có diễn tập thực binh đến cấp tiểu đoàn, trung đoàn, riêng về chiến thuật đánh thành phố thì mới chỉ nghiên cứu qua được mấy hôm, nhờ các đồng chí ở Bộ vào phổ biến, tập huấn cho. Đối với sư đoàn 316, đồng chí Vũ Lăng có nhiều lo lắng, cán bộ mới nhiều mà cơ quan thì không được mạnh. Về kỹ chiến thuật, trước ngày lên đường nửa tháng, thiếu tướng Tổng tham mưu phó Cao Văn Khánh có đến kiểm tra và lên lớp một số loại hình chiến thuật, nhưng với chiến thuật đánh thành phố thì chưa được học qua tí gì.

        Đề cập đến vấn đề này, đồng chí Vũ Lăng báo cáo:

        - Chúng tôi đã cho thẩm tra lại, thì 65 phần trăm quân số, kể từ cán bộ trung đội trở xuống, anh em phần nhiều sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Tuyển quân vào, huấn luyện mấy tháng, thì cũng quanh quẩn ở các thôn xóm, núi, đồi rồi đi ngay, chưa hình dung được cái thành phố ra sao cả. Một số khá lớn chưa hề thấy chiếc xe tăng, và cũng chưa hành quân bằng cơ giới bao giờ. Vì vậy, vừa rồi, trong hành quân, có được bao nhiêu gà tự túc, nhốt vào lồng, khi lên xe lại đặt ngay trên miệng ống xả,lúc đến nơi, hoá thành gà quay tất…

        Cả phòng họp phá lên cười. Anh Tuấn cũng cười.

        - Các đồng chí đã có cách gì khắc phục chưa?

        - Vừa rồi đồng chí Nguyễn Thế Nguyên ở học viện vào có mang theo tài liệu đánh thành phố vừa mới biên soạn và cũng mới được Bộ duyệt. Lại có mấy bộ phim huấn luyện kỹ thuật đánh thành phố, cũng đã đưa ra chiếu cho anh em xem rồi.

        Khi báo cáo về các mặt bảo đảm, đồng chí Vũ Lăng lại được thêm một dịp “tố khổ” nữa. Đủ thứ lo trên đời: đạn pháo, đạn xe tăng, đạn cối, thuốc nổ, gạo, thực phẩm, xăng dầu.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 11:57:08 am

        Anh Tuấn quay sang hỏi tôi:

        - Những vấn đề này đã giải quyết đến đâu rồi?

        - Hôm ở sở chỉ huy binh đoàn Trường Sơn, tôi đã hợp đồng với đồng chí Đổng Sĩ Nguyên và cũng làm việc cụ thể với cơ quan tham mưu vận tải của đồng chí ấy rồi. Từ nay đến thượng tuần tháng 3, sẽ giao đủ cho mặt trận tại các điểm đã quy định trong kế hoạch. Các đội điều trị và các đơn vị cao xạ, bộ binh, công binh lấy của binh đoàn Trường Sơn để tăng cường cho chiến dịch, cũng sẽ giao đầy đủ, các đồng chí phó tư lệnh đoàn, hiện đang đi xuống các binh trạm để đôn đốc đưa nhanh vào. Những mặt hàng nào không có trên tuyến đường Trường Sơn thì đồng chí Đinh Đức Thiện đã điện cho Hà Nội biết, để hoả tốc đưa thẳng vào. Để cho thật bảo đảm, tôi cũng đã bàn với cơ quan hậu cần chiến dịch huy động tất cả các xe tải hiện có của mặt trận, kể cả 100 xe dự trữ còn niêm cất cho vận chuyển tất cả các loại đạn lớn ở các kho phía bắc Kon Tum, đưa hết xuống. Như vậy, nếu cộng cả hai nguồn lại, thì khối lượng vật chất sẽ vượt yêu cầu của chiến dịch. Về xe cộ thì sau khi trung đoàn 25 vận tải đưa trung đoàn bộ binh 95B vào, tôi sẽ giữ lại một tiểu đoàn cho chiến dịch. Giữ lại tất cả thì lãng phí, mà tuyến ngoài hiện cũng đang cần rất nhiều xe. Khi nào cần cơ động lực lượng thì tôi sẽ tập trung xe trên tuyến giao liên, dùng tạm mấy hôm, cũng bảo đảm được.

        Đến giờ giải lao, đồng chí Vũ Lăng đứng giữa sân thấy tôi, nói ngay:

        - Này, cậu moi vừa vừa chứ! Cậu đáo để lắm. Ai có của để dành dự trữ, để ở đâu cũng biết, lấy hết kho của chúng mình đi à?

        - Sẽ còn moi nữa, moi cho đến khi chúng mình cạn chén với nhau giữa dinh Độc Lập mới thôi.

        Chính uỷ Hiệp nghe chừng yên tâm hơn nói:

        - Tôi đã ghi vào sổ tay câu nói của đồng chí Phan Hàm rồi: “Các anh cứ yên chí”.

        Thượng uý Võ Văn Sáng, cán bộ bảo vệ luôn luôn ở bên cạnh anh Tuấn từ bao nhiêu năm nay, mang cái máy ảnh Rolek Plet, chạy đi chạy lại, ra vẻ một phóng viên. Anh Tuấn cười nói:

        - Tất cả lại đây. Chụp một vài bức ảnh lưu niệm cho vui.

        Tôi không bao giờ nghĩ rằng, những bức ảnh nghiệp dư này lại có ngày được in trên các báo chí trong và ngoài nước như ngày nay…

        Vào họp tiếp, đồng chí Vũ Lăng báo cáo kế hoạch chiến dịch. Sau khi nói về tình hình, cách bố trí của địch trên toàn bộ chiến trường, đồng chí kết luận.

        Nếu ta giữ được bí mật, thì tình hình vẫn như hiện nay, nghĩa là rất sơ hở trên hướng Đắc Lắc là hướng tiến công chủ yếu của ta; nhưng địch phát hiện được ý định của ta thì có thể tăng cường ngay cho Buôn Ma Thuột vài trung đoàn và 1 thiết đoàn.

        Khi ta tiến công Buôn Ma Thuột, nếu các đường bộ bị cắt đứt thì sau 3 ngày địch có thể đưa đến 1 trung đoàn bằng đường không.

        Để thực hiện ý định tiêu diệt địch, giải phóng Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Thuần Mẫn mà mục tiêu chủ yếu là tiến tới giải phóng Cheo Reo, Gia Nghĩa, chúng tôi đề nghị hai phương án: đánh địch trong tình huống sơ hở như hiện nay hoặc có thay đổi chút ít nhưng không đáng kể; hoặc đánh địch đã có phòng ngự dự phòng. Từ đó có 3 thời cơ hạ quyết tâm dứt điểm Buôn Ma Thuột.

        Một là: bất ngờ đánh nhanh, giải phóng Buôn Ma Thuột, Đức Lập, trước khi địch tăng cường. Bước đầu sư đoàn sư đoàn 316 cùng với trung đoàn bộ binh 95B, trung đoàn đặc công 198, tăng cường binh khí kỹ thuật mạnh đánh chiếm những mục tiêu quan trọng trước. Saukhi đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ ở Đức Lập, dần dần cơ động lực lượng đến Buôn Ma Thuột để nâng dần sức đột kích lên và có lực lượng dự bị ngày càng mạnh thêm để đánh địch phản kích, giải toả.

        Hai là: nếu địch tăng thêm lực lượng cho Buôn Ma Thuột trước, thì diệt Đức Lập xong, kéo địch ở Buôn Ma Thuột ra giải toả mà đánh và nhân lúc chúng tan tác chạy về mà phát triển thẳng vào thị xã phối hợp với một lực lượng bộ binh nhỏ đã ém sẵn sát gần, nhằm khi có thời cơ, thì xông lên chiếm ngay các mục tiêu quan trọng bên trong.

        Ba là: địch cố thủ trong thị xã với một lực lượng mạnh. Ta chuyển sang bao vây, tranh thủ giải phóng các quận lỵ thị trấn xung quanh để tạo điều kiện dứt điểm Buôn Ma Thuột.

        Phương án 1 là tốt nhất. Yêu cầu là phải triệt để cô lập Buôn Ma Thuột ngay từ đầu. Sư đoàn 3 của Quân khu 5 và trung đoàn 95A có nhiệm vụ cắt đường 19 trong suốt cả thời gian chiến dịch; trung đoàn 25 cắt quốc lộ 21 còn đường 14 là hướng chi viện chủ yếu từ Plây Cu xuống thì giao cho sư đoàn 320.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2017, 12:00:19 pm

        Anh Tuấn và mọi người đều chăm chú lắng nghe. Sau khi có một số ý kiến trao đổi qua lại. Anh chỉ thị:

        - Tôi đồng ý với nhận định, đánh giá và các phương án chiến dịch của các đồng chí. Phương án 1 là tốt nhất, phải quyết tâm nỗ lực, bảo đảm thực hiện cho kỳ được. Điều thuận lợi rất lớn đối với ta ở đây, là các chiến trường trong toàn Miền đều có kế hoạch phối hợp: Miền Đông đánh Dầu Tiếng; Khu 5 đánh Phước Lâm-Tiên Phước; Trị Thiên đánh Núi Bông-Mỏ Tàu. Có thể các nơi bắt đầu hoạt động trước sau một vài hôm, cái đó không thành vấn đề gì. Như vậy lực lượng cơ động của địch, đặc biệt là sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến sẽ bị kìm chặt ở vùng chiến thuật 1. Cho nên, sau khi ta nổ súng, chưa phải là địch sẽ đến ngay đâu, chúng còn chờ xem hướng chính của chúng ta ở đâu đã; nhận ra được rồi thì còn phải điều động lực lượng, mất một số thời gian. Nếu ta dứt điểm nhanh Buôn Ma Thuột, Đức Lập, thì sau đó chúng có đến bao nhiêu cũng sẽ là cơ hội để chúng ta tiêu diệt được càng nhiều thôi. Về Mỹ thì Phước Long chúng đã không can thiệp thì Buôn Ma Thuột dù có lớn hơn, quan trọng hơn, chắc cũng thế thôi. Cái khó chính của Mỹ là do tình hình ở ngay trong nước Mỹ, chứ không phải ở đây đâu. Tuy vậy về kế hoạch chiến dịch, chúng ta phải đề phòng chúng can thiệp bằng không quân chiến lược.

        Anh quay sang hỏi tôi:

        - Các đơn vị tên lửa của đồng chí Quang Hùng, đưa vào đến đâu rồi?

        - Bộ phận tiền trạm mới đến. Ngày kia anh Quang Hùng và cơ quan tham mưu sẽ đến đây nhận nhiệm vụ.

        - Đưa tên lửa vào đây là nhằm để đối phó với không quân chiến lược B.52 của Mỹ; còn đối với không quân của ngụy thì không cần, có đủ cao xạ rồi.

        Vấn đề tiêu diệt quân cơ động là một vấn đề then chốt trong chiến dịch này. Không phải chỉ đặt vấn đề chặn viện để bảo đảm cho trận đánh Buôn Ma Thuột mà thôi. Ta phải đặt vấn đề loại khỏi vòng chiến đấu cả sư đoàn 23 và các liên đoàn biệt động quân đứng ở Tây Nguyên thì cục diện chiến trường mới có chuyển biến lớn. Lực lượng địch ở Buôn Ma Thuột hiện nay chưa phải sinh lực lớn; nếu có bị tiêu diệt toàn bộ chăng nữa, thì ít hôm sau, chúng sẽ khôi phục lại thôi, và bất quá, cũng chỉ mất một thị xã, một số quận lỵ, mùa mưa đến sẽ phản kích lấy lại như: Kom Tum, Quảng Trị năm 1972 thôi. Vì vậy tôi không đồng ý đề nghị của các đồng chí rút bớt một trung đoàn của sư đoàn 320 xuống đứng gần Buôn Ma Thuột, để làm lực lượng dự bị cho trận đánh thị xã. Sẽ tính cách khác: Sư đoàn 10 phải dứt điểm cho nhanh Đức Lập. Tôi cũng không đồng ý, chờ khi giải quyết xong Đức Lập rồi mới chuyển lực lượng sang đánh Đắc Song, phải đánh đồng thời. Đồng chí Phan Hàm phải nắm chắc các đơn vị xe và chịu trách nhiệm về việc cơ động lực lượng và bảo đảm vật chất. Chậm nhất là 24 tiếng đồng hồ sau khi nố súng đánh Đức Lập, ít nhất phải có một trung đoàn của sư đoàn 10 rút ở Đức Lập ra, phải có mặt ở Buôn Ma Thuột, chứ không phải chờ đến 9 hay 10 ngày sau mới đến như các đồng chí tính toán. Đó là hành quân bộ kia. Sử dụng xe cộ như vậy, tất nhiên là sẽ có ảnh hướng ít nhiều đến việc giao quân bổ sung cho Nam Bộ. Tôi biết ở trong ấy, các anh cũng đã mong quân đến sớm, nhưng được cái này thì đành phải chậm cái kia mất mấy hôm. Tôi sẽ trao đổi với anh Phạm hùng. Vì lợi ích chung chắc các anh Trung ương Cục cũng vui lòng thôi. Ngoảnh về phía đồng chí Lê Ngọc Hiền, anh Tuấn tiếp:

        - Đặt vấn đề như thế, nên tôi muốn có một đường dây trực tuyến từ đây đến chỗ Bộ tư lệnh sư đoàn 320 có được không?

        Đồng chí Lê Ngọc Hiền đáp:

        - Được ạ. Đồng chí Hoàng Niệm có nhiều khó khăn nhưng rồi cũng phải khắc phục mà làm thôi.

        Anh Tuấn nói tiếp:

        - Vấn đề nghi binh quan trọng lắm. Giai đoạn đầu, các lực lượng nghi binh có nhiệm vụ thu hút cho được sư đoàn 23 và các liên đoàn biệt động quân hướng về Kon Tum, Plây Cu, giữ chặt chúng ở đó; nhưng sau khi ta giải quyết xong Buôn Ma Thuột, thì nó sẽ chuyển thành một hướng tiến công. Các đồng chí cần xem lại kế hoạch của sư đoàn 968, nếu anh em có gì khó khăn, phải giải quyết cho tốt… Tôi đang suy nghĩ nhiều về đòn nổi dậy và binh vận. Chưa rõ lắm. Tôi sẽ gặp anh Chín Liêm và các đồng chí trong tỉnh uỷ Đắc Lắc để tìm hiểu thêm tình hình nhân dân, kế hoạch của địa phương, nắm lại tình hình các cơ sở binh vận. Dân số khu chiến bao nhiêu nhỉ?


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 12:24:00 am

        Đồng chí Đặng Vũ Hiệp trả lời:

        - Khoảng trên 40 vạn, riêng Đắc Lắc đã đến 36 vạn.

        - Cúng phải nghĩ đến vấn đề tiếp tế cho nhân dân vùng mới giải phóng. Nghe đâu Khu uy Khu 5 cũng đã có kế hoạch rồi.

        - Lương thực thì còn thể được ít nhiều, nhưng còn để trong các kho ở tít ngoài Khâm Đức. Cái khó khăn là làm thế nào để đưa đến tay người tiêu dùng. Lực lượng vận tải của khu rất yếu, và cũng chưa tổ chức được chặt chẽ, thế nào rồi quân đội cũng phải đưa giam gia giúp thôi. Đồng chí Đặng Vũ Hiệp trả lời.

        - Đúng, cái gì họ không làm được thì ta phải giúp. Giải phóng được dân, phải nghĩ đến đời sống của họ, không thể để cho họ đói rấch, bệnh tật, nhếch nhác mãi thế này được.

        Cuối cùng, anh tuyến bố quyết định của Bộ Chính trị cử đồng chí Trung tướng Hoàng Mình Thảo làm tư lệnh chiến dịch, đại tá Đặng Vũ Hiệp làm chính uỷ; thiếu tướng Vũ Lăng, đại tá Phan Hàm, đại tá Nguyễn Năng, đại tá Nguyễn Lang làm phó tư lệnh, đại tá Phí Triệu Hàm là phó chính uỷ.

        Về đến lán của mình, tôi chưa kịp nghỉ, đã thấy đồng chí Hoàng Niệm, phó tư lệnh thông tin, từ ngoài xăm xắm bước vào, vứt cái xà cột xuống mặt bàn làm bằng tre đập ngồi phịch xuống ghế, thở dài nói ngay:

        - Tình hình này, chết thật!

        Chỉ mới có vài hôm thôi mà trông người đồng chí thấy khác hẳn, nước da cháy nắng, mắt sâu như người mất ngủ lâu ngày.

        - Gì thế? Tôi hỏi.

        - Đồng chí xem: hôm ở Hà Nội, bàn với các đồng chí, thì chỉ có một sở chỉ huy thôi, và chúng ta cũng dự kiến rằng, cái A75 này, nằm ngay bên cạnh Bộ chỉ huy chiến dịch các anh thôi. Bây giờ đồng chí Lê Ngọc Hiền vừa chỉ thị, sẽ đẻ thêm một cái A75 dự bị ở tây sông Srepok, lại thêm một đường dây trực tuyến với sư đoàn 320 trên đường 14, thì tôi làm thế nào bảo đảm cho nổi. Thêm mấy trăm cây số nữa chứ ít của đâu? Dây đã thiếu, lại còn thêm cái nạn cháy rừng, voi càn, đứt nối lung tung, và còn phải thêm bao nhiêu là tổng đài, máy lẻ, người phục vụ, v.v… ối chà, trăm thứ chứ có đơn giản đâu?

        Là một cán bộ thông tin kỳ cựu, có nhiều kinh nghiệm trong công tác và có tinh thần phục vụ cao, trong những lần đi chiến dịch trước đây, đồng chí Niệm đã lãnh đạo chỉ huy các đơn vị thông tin hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Nhưng lần này, thì yêu cầu lớn và gấp quá. Đường trục từ Hà Nội đến Lộc Ninh, trước kia dự kiến đến năm 1976 mới hoàn thành. Đầu năm nay, khi nhận nhiệm vụ đi phục vụ chiến dịch này, đường dây mới kéo đến Khu 5. Chỉ có vài thàng nữa thôi, đến vắt chân lên cổ mà chạy, cũng vẫn không kịp. Đã có ý kiến khắc phục bằng hệ thống tiếp sức, nhưng có cấp chỉ huy nào lại cho phép dùng biện pháp này. Đối phương sẽ nắm được hết. Kể ra thì trong các chiến dịch nhất là trong quá trình phát triển chiến đấu, Bộ Tổng tham mưu chỉ huy vượt cấp cũng là điều bình thường. Những lần này, chính diện rộng gần 300 kilômét, tung thâm ngót 150 kilômét, thì so với khả năng hiện có, quả là điều vô cùng khó khăn. Tôi không biết nên góp ý kiến như thế nào, nhưng vẫn cứ trả lời.

        - Thì các anh đã có sẵn một tiểu đoàn thông tin dự bị trong tay rồi, còn gì.

        - Xin lỗi, tiếng rằng chúng tôi có thêm được một tiểu đoàn, nhưng toàn là tân binh, chưa biết tý gì về nghiệp vụ cả. Chỉ có số tiểu đội trưởng là cũ thôi. Chúng tôi phải cho anh em vừa làm vừa học, nhưng thời gian thì hết mất rồi, mới chết chứ.

        - Anh còn một nguồn bổ sung lớn nữa mà chưa thấy nói đến đấy thôi. Lực lượng thông tin của đoàn Trường Sơn là lực lượng lớn nhất và thiện chiến nhất, lại quen thuộc chiến trường, có phải thế không nào? Từ trước đến nay, Bộ tư lệnh các anh đã dành cho nó nhiều thứ ưu tiên. Bây giờ, tạm điều động một vài đơn vị, một số phương tiện, đưa ra phục vụ chiến dịch như các quân binh chủng khác, có được không nào?

        Như chợt nhớ ra điều gì, đồng chí Niệm đứng dậy, với tay lấy cái xà cột vắt lên vai, rồi bước ra khỏi lán. Tôi cũng thu xếp ba lô để rời A75 đi nhận nhiệm vụ mới.

        Đến sở chỉ huy cơ bản của chiến dịch, tôi gặp trung tướng Hoàng Mình Thảo vừa ở Khu 5 mới lên. Cả đồng chí Chín Liêm (tức Bùi San) cũng đã ở đấy từ mấy hôm nay. Đi cùng đồng chí Chín Liêm, có một vài cán bộ được Khu uỷ điều động đến, tăng cường cho tỉnh uỷ Đắc Lắc để trực tiếp chỉ đạo cuộc nổi dậy, phối hợp với đòn tiến công quân sự sắp đến. Chúng tôi quen biết nhau từ hồi kháng chiến chống Pháp. Lúc bấy giờ, đồng chí ở trong Ban thường vụ khu uỷ và cũng thường đi tham gia với tôi trong các chiến dịch lớn. Đồng chí cũng đã lăn lộn ở Tây Nguyên từ trước Cách mạng tháng Tám, đã có lần ở tù ở Buôn Ma Thuột, nên rất am hiểu tình hình Tây Nguyên.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 12:26:29 am

        Vừa gặp mặt, đồng chí vào đề ngay, nói luôn một thôi dài:

        - Gay quá đồng chí ơi! Chúng tôi ở đây chỉ có mấy anh em và cũng chưa đi xuống được địa phương nào cả. Các “ông” quy gắt quá. Chỉ có các đồng chí trong thường vụ mới được biết kế hoạch này thôi, chưa dám phổ biến cho ai biết. Tôi cứ cho tập hợp anh em cán bộ, được khoảng 100 gọi là đi dự lớp chỉnh huấn đặc biệt ở khu, rồi kéo cả lên đây cái đã. Ngay đồng chí Huỳnh Văn Mẫn, tức Cần, bí thư tỉnh uỷ Đắc Lắc, cũng chỉ mới nghe loáng thoáng thôi. Khi nghe tôi nói đến việc giải phóng Buôn Ma Thuột, anh ta vừa như trên trời rơi xuống, ngớ người ra, chẳng biết việc gì mà làm, thấy cái gì cũng cần làm cả, và cũng không biết nên làm cái gì trước, cái gì sau, mới mẻ quá. Tỉnh uỷ Đắc Lắc thì xưa nay ở mỗi người một nơi, triệu tập nhau lại cho được để ngồi bàn, cũng mất cả tháng, chứ có phải như các anh đâu? Trong các tỉnh ở Tây Nguyên thì Đắc Lắc là nơi phức tạp nhất mà cũng là nơi phong trào có khó khăn nhất. Ngoài Kon Tum, Gia Lai, dù sao thì cũng gần như sự chỉ đạo của khu hơn, chủ lực lại đứng chân ở đấy, tỉnh uỷ cũng đông hơn, nên làm gì cũng có bài bản hơn. Ở đây, thiếu thốn trăm bề. Đồng bào di cư ở đây rất đông, phần lớn là người quê ở Bùi Chu, Phát Diệm, vào đây từ năm 1954. Từ trước đến nay, bị tuyên truyền xuyên tạc dữ lắm; nên đồng bào cả tin, chứ căn bản họ vẫn là nhân dân lao động cả, cũng tốt như mọi người khác thôi. Dân địa phương thì chịu ảnh hưởng của phong trào FULRO cũng khá nặng. Ngoại kiều cũng nhiều hơn các nơi: phần lớn là Hoa kiều, họ buôn bán còn làm gì gì nữa chưa biết, một số Pháp kiều thì là chủ đồn điền cao su, cà phê, còn một số nữa là linh mục, mục sư, v.v… Phật giáo ở đây cũng kha khá, nhất là ở những nơi có đồng bào Quảng Nam, Quảng Ngãi di cư lên. Tôi nói phức tạp là như thế đấy.

        - Đắc Lắc là một tỉnh giàu của Tây Nguyên chứ anh. Được Thiệu đánh giá cao lắm đấy.

        - Đúng là như vậy. Đây là nơi lý tưởng để trồng cây công nghiệp. Hiện nay chúng đã tổ chức ra những trại nghiên cứu trồng cây công nghiệp, trại chăn nuôi ở trong tỉnh. Nhưng trước mắt, ta cần có ngay lương thực để bảo đảm đời sống cho nhân dân. Cao su, cà phê là những cây công nghiệp quý, cà phê Đắc Lắc ngon có tiếng-nhưng cái ta cần có ngay là gạo, là ngô, là sắn, cốt cho no cái bụng để đánh giặc đã. Ngày kia tôi sẽ đi A75 gặp anh Tuấn, không biết báo cáo như thế nào đây, đồng chí có biết không?

        - Tôi không biết. Anh Tuấn muốn gặp các anh lắm, nhưng nội dung thì không rõ.

        Kinh nghiệm năm 1972, trước ngày mở chiến dịch, anh ấy phái tôi vào Quảng Trị để nắm tình hình, nắm kế hoạch chính trị của mặt trận về báo cáo. Anh ấy đặt ra rất nhiều câu hỏi, tôi chẳng biết đâu mà trả lời. Đại để như thế này: tình hình nhân dân, tình hình cơ sở - cơ sở hành động và đã qua thử thách, chứ không phải là loại đánh trống ghi tên - khi kế hoạch quân sự tiến công vào nơi này, thì kế hoạch nổi dậy của nhân dân ở đó thế nào, sẽ huy động được bao nhêu cơ sở quần chúng và sẽ hành động thế nào? Mít tinh, xuống đường, đấu tranh liên tục, v.v… nghĩa là yêu cầu của kế hoạch chính trị cũng phải cụ thể như kế hoạch tác chiến của chúng tôi vậy. Về địch  vận cũng phải như thế: có bao nhiêu cơ sở, cấp gì, công tác gì, khả năng làm được việc gì, khi ta đánh vào hay nổi dậy thì kế hoạch binh vận phối hợp ra sao, nội ứng, binh biến, ly khai, đòi chồng con, v.v… anh em cán bộ tham mưu chúng tôi chủ yếu dựa vào các anh, vào địa phương thôi. Kế hoạch diệt tề trừ gian cũng phải cụ thể đến như vậy: diệt ai, ai diệt, vì sao, biện pháp gì cũng phải nói cho rõ ràng. Ngoài ra, anh ấy đã hỏi về cách giải quyết đời sống cho nhân dân vùng mới giải phóng, cách tổ chức của uỷ ban quân quản, các chính sách, v.v…

        - Những vấn đề đó, chúng tôi cũng sẽ chuẩn bị, cũng có thể báo cáo được. Nhưng có điều là phải cho chúng tôi về cơ quan, triệu tập nhau lại mà bàn, rồi phân công nhau đi xuống mà làm với các cấp uỷ địa phương, thì mới kịp. Không cho đi đâu cả như thế này thì làm ăn thế nào? Đồng chí nhăn mặt, cười. Những nét chân chim hiện ra dày và rõ ở đôi khéo mắt trên một khuôn mặt hiền từ nhưng dày dạn, làm cho tôi càng thêm mến phục một chiến sĩ cách mạng bậc đàn anh. Anh nói tiếp:

        - Giữ bí mật là vấn đề nguyên tắc, nhưng biết mà cứ để trong bụng như thế này, cảm thấy cực lắm đồng chí ơi. Lại còn vấn đề này nữa chứ: hôm nổ súng ở “A”, nếu chúng tôi ở đây, các đồng chí xem có tiện không? Các đồng chí thì kéo ra sở chỉ huy tiền phương cả, còn chúng tôi thì nằm lỳ ở đây, để nghe điện thoại suông, thì có tác dụng gì? Đề nghị tôi sẽ đến chỗ anh Tuấn, dựa vào A75 để nắm tình hình, và có gì cần, thì sẽ xin luôn chỉ thị anh ấy, giải quyết cho nhanh; còn các đồng chí ở tỉnh thì hoặc đến chỗ các anh, hoặc đến chỗ đồng chí Năng và đồng chí Phí Triệu Hàm trực tiếp với các cánh phía bắc, thì mới được.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 12:30:59 am

        Tôi đáp:

        - Chỉ huy tiến công cũng như chỉ huy nổi dậy. Vị trí của người chỉ huy rất quan trọng. Thế nào cũng phải bảo đảm cho các anh nắm tình hình diễn biến về mặt chính trị, binh vận ở trong thị xã, cũng như chúng tôi nắm các đơn vị đang đánh nhau chứ. Tôi sẽ bàn với các đồng chí thông tin, anh không phải lo.

        Thượng tá Thanh Sơn và thượng tá Trần Trác, tư lệnh và chính uỷ sư đoàn 968, xếp gọn tài liệu bỏ vào xà cột, đảo mắt nhìn qua một lượt trên mặt bàn, mặt ghế, dưới đất, xem có còn sót mẩu giấy nhỏ bị rơi vãi không, rồi đứng dậy, chào anh Tuấn.

        - Ở lại ăn cơm rồi hãy về.

        - Thưa thôi ạ, hãy còn sớm, chúng tôi xin phép tranh thủ về cho kịp.

        Hai người vội vã ra xe. Từ trong lán bên cạnh, thượng tá Nguyễn Tuyến lật đật chạy ra, gọi giật lại:

        - Xin mời vào đây đã, rồi hãy đi. Chờ nhận quà Tết của Quân uỷ gửi vào cho sư đoàn: thuốc lá, trà, kẹo và rượu.

        Sư đoàn trưởng và chính uỷ mải trao đổi, đến khi đồng chí Tuyến cho biết quà của Quân uỷ đã chuyển hết ra xe mới vội vã tạm biệt chúng tôi.

        Sư đoàn trưởng Thanh Sơn vẫn mải mê với những ý nghĩa về nhiệm vụ quay sang hỏi chính uỷ:

        - Những công việc anh Tuấn vừa chỉ thị, chúng ta đã thực hiện được phần lớn rồi nhỉ?

        - Ừ, nhưng mà tinh thần có khác đấy đồng chí ạ. Nghị quyết của Bộ Chính trị: Vấn đề “A” không phải đặt ra như trước nữa đâu. Do đó nhiệm vụ của cánh ta, cũng phải quán triệt tinh thần mới này. Phải kéo cho được sư đoàn 23 lên phía bắc và giữ nó lại với chúng mình bằng bất cứ giá nào. Phải suy nghĩ, tìm tòi những biện pháp tích cực hơn nữa. Tôi lo nhất là hướng trung đoàn 29.

        - Đúng. Mà đề nghị chính uỷ gọi theo cái bí danh mới của trung đoàn. Từ nay trở đi, nó là “f10” đấy nhé. Với hai tiểu đoàn bộ binh, hai khẩu 85, hai khẩu 105 và một khẩu 155, tôi tin rằng nó sẽ làm nổi đình nổi đám ở phía Kom Tun được. Anh xem, cuộc “diễn tập” xe tăng của nó vừa rồi trên hướng ấy, cũng có kết quả đấy chứ. Động viên mấy trăm dân công đi làm đường, xây dựng trận địa rồi tải đạn thì làm gì mà chẳng đến tai địch?

        - Cái khó không phải ở đấy. Đưa cho được một “thằng con” của f10 ra cắt cho được đường 14, giữa Plây Cu-Kon Tum mới là gay go. Gạo đâu? Đạn đâu? Mà phải cắt cho được dài ngày để phối hợp với các lực lượng ở phía bắc mà anh vừa nói, lại phải còn làm rùm beng lên trên hướng tây bắc thị xã, coi như là giải phóng KonTum đến nơi, thì mới hòng giữ chân được 4 liên đoàn biệt động quân trên hướng này. Tinh thần của anh Tuấn là như thế. Rồi đây, ta phải cử người sang thảo luận thêm với huyện, xin thêm ít trăm dân công nữa cho rôm rả thêm.

        - Vừa rồi tôi có gặp. Việc huy động dân công có nhiều khó khăn. Chả là dạo này ở đây người ta lo phát rẫy, để có nắng, sang tháng 3 tháng 4 mới đốt được, mới gieo tỉa được, chứ để sang tháng 5 mưa xuống, đốt rẫy không cháy, thì lỡ mất thời vụ. Nhưng, tôi thì tôi biết họ muốn qua chúng mình mà thăm dò, tìm hiểu ý định của cấp trên, trong đợt sắp tới để kịp chuẩn bị về mặt chính trị, nổi dậy cho đỡ bị động. Nói thế thôi, chứ các đồng chí ở đây quá tốt. Mỗi khi mình có yêu cầu gì, thì họ đều làm đến nơi đến chốn cả.

        - Tôi thì tôi lo nhất hướng đường 19 kéo dài. Không rõ trung đoàn 29 - à tôi lại nhỡ mồm rồi - “f320” và tiểu đoàn pháo của nó đã chuẩn bị được gì thêm nữa không? Thế nào chúng mình cũng phải ghé qua, kiểm tra các con đường từ làng Gà đi Thanh An, ra đường quốc lộ 14, xem đã làm đến đâu rồi. Với trận địa pháo để bắn vào chốt Mỹ ở Thanh An, tôi ngại anh em cho là nghi binh, nên làm qua loa cho xong chuyện. Nó sẽ phản pháo ác liệt vào đấy chứ chơi à? lơ mơ để thương vong vô ích.

        - Tôi chẳng hiểu sao vừa rồi đồng chí chỉ xin có 100 viên đạn ĐKB và 30 cây số điện thoại thôi? Không nhân lúc này moi cái túi của ông Hàm ra thì còn chờ đến lúc nào nữa? Này nhé, tôi có tay trong vừa mách cho biết: Anh Tuấn đã chỉ thị cho ông Hàm rồi, Sư đoàn 968 có khó khăn gì, cũng phải giải quyết cho tốt.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 12:32:58 am

        - Ừ thì cũng nghĩ rằng mình đã có 250 viên đạn pháo và 200 viên ĐKB rồi. Ngoài ra cối 82 và 120 ly cũng được thêm vài ba nghìn viên nữa, thế cũng đủ. Đời thuở nào, một mặt trận thứ yếu như thế này mà được trên cho phép sử dụng từng ấy đạn? Anh xem, cách đây vài tháng, bắn một viên đạn pháo, Mặt trận cũng phải xin chỉ thị của Bộ. Bây giờ, thấy anh Tuấn giao nhiệm vụ, mới thấy như thế là ít. Nhưng được rồi, sẽ xin thêm. Về thông tin liên lạc, chỉ thị của Bộ là vẫn phải giữ nguyên các mạng thông hữu tuyến, vô tuyến cũ của mặt trận Tây Nguyên, từ báo vụ, cơ yếu đều không được thay đổi. Đặc biệt là báo vụ, vì bọn địch ở đây cũng tinh lắm, chúng nắm được cách đánh ma-níp của từng báo vụ viên của từng đơn vị, như kiểu ta nhìn chữ viết để nhận người, thay đổi khác đi một tý là chúng nhận ra ngay thôi. Lần này thì các ông ở Bộ làm nghiêm lắm. Anh có xem mấy bức điện vừa rồi không? Các ông ở Cục tác chiến thảo ra cả đấy chứ, điện đi cũng của các ông ấy, điện trả lời cũng của các ông ấy, chứ có phải chúng mình làm ra đâu? Có như thế nó mới yên chí là chẳng có gì mới, cứ bám riết “f10” ở bắc Kon Tum và “f320” ở tây Plây Cu.

        - Trên đã cho dùng máy 2 oát chưa? Khó quá, muốn liên lạc với các đơn vị chẳng biết có cách gì?

        - Cách gì thì cách, chứ đừng dùng đến điện đài mà phiền. Bây giờ mà dùng các loại này, thì dù anh có dùng mật danh mật ngữ, dù là nội dung gì chăng nữa, nó cũng sẽ mã ra được tuốt và cũng đoán được ý đồ lớn của mình, không khéo lại “lạy ông tôi ở bụi này”, chả dại, chả chơi. Trên quy định, khi ở hướng chính nổ súng rồi thì mới được dùng, mà dùng rất hạn chế. Anh đã bàn với tỉnh về kế hoạch nổi dậy chưa?

        - Chưa, đi chuyến này về mới bàn. Nhưng nếu huy động dân sớm quá mà không thấy động tĩnh gì, nó cũng sẽ đoán được ý đồ của ta ngay. Hãy để đến sát ngày ấy, mới huy động. Kinh nghiệm là chỉ sau mấy tiếng đồng hồ, chẳng những Plây Cu mà cả Sài Gòn và Washington đều biết ngay thôi. Phải biết sử dụng cái nhanh, cái hiện đại của đối phương để phục vụ cho mục đích của mình chứ… Không biết anh Hồng Sơn đi chưa nhỉ?

        - Chưa đâu, hôm kia trước khi đi họp tôi có dặn anh ấy chờ chúng mình về xem anh Tuấn có chỉ thị gì thêm không rồi hãy đi.

        - Nhiệm vụ của Trung đoàn 95A lần này nặng quá. Cho nên anh ấy phải đến tận nơi, quán triệt cho ban chỉ huy trung đoàn và địa phương mới được, đồng chí tỉnh đội phó Gia Lai cũng đã ở bên ấy rồi. Với thời gian thế này, kịp chán, đơn vị đã sẵn sàng cả rồi. Chỉ ngại anh ấy đi xa tội nghiệp, lớn tuổi rồi.

        - Bí danh của Trung đoàn 95A là gì nhỉ?

        - Không có và cũng không nên có. Địch còn lạ gì nó nữa và cũng đã từng réo đích danh nó ra rồi. Chả nhẽ ta lại cho xuất hiện một phiên hiệu nào mới nữa sao? “f10”, “f320”, “f968” chăng? Đều vô lý cả. Cái bất ngờ đối với địch ở đây không phải là cái tên, mà là mấy khẩu pháo, kể ra thì đáng phục anh em mình thật, không có đường sá, vừa phát cây, vừa dọn đường, vừa đi, vừa kéo thế mà vẫn đưa được tới đích 2 khẩu 105 ly và 1 khẩu 155 ly là việc xưa nay chưa hề có. Với lực lượng như thế, thì bảo đảm cắt đường 19 dài ngày được. Cũng có cái tốt là Khu 5 đưa được Sư đoàn 3 thiếu vào phối hợp, cắt đoạn An Khê-Quy Nhơn, chứ không thì với một mình trung đoàn 95A, tôi sợ dưới đánh lên, trên đánh xuống, cuối cùng cũng phải bức thôi.

        - Mình mới khó, chứ Khu 5 họ trường sức và cũng nhiều thuận lợi hơn mình.

        - Đâu mà chả khó! Họ phải thay đổi cả kế hoạch của Sư đoàn 3 đấy. Lúc đầu, họ cũng chỉ sử dụng một lực lượng nhỏ thôi, nhưng bây giờ Bộ quyết khác, phải xoay 180 độ, khướt lắm chứ.

        Lúc này trời vừa tối hẳn. Xe của họ đến phà Srepok chừng nửa đêm, vẫn còn kịp chán thời gian vì gần sáng, cầu qua sông đã phải dỡ đưa đi cất giấu rồi.

        Trong khu vực sở chỉ huy của chiến dịch, có một ngôi nhà khá to, ẩn mình dưới những vòm cây rậm rạp. Cũng không hẳn gọi là nhà được: bốn mái to bằng nhau, lợp lá rừng, úp lại, chấm gần sát mặt đất. Ánh sáng vốn đã yếu sau khi xuyên qua các lớp lá cây, leo lét lọt vào nhà qua mảnh giấy ni lông. Từ ngoài nhìn vào, ai cũng tưởng đấy là một cái kho, nên ít người để ý đến. Kỳ thực, bên trong là một cái sa bàn của thị xã lớn nhất ở Tây Nguyên: Buôn Ma Thuột.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 12:35:43 am

        Đoàn đi trinh sát thực địa do đồng chí đại tá Nguyễn Năng, Phó tư lệnh, phụ trách, vừa về hôm trước thì tập trung chỉnh lý lại sa bàn để Đảng uỷ và Bộ tư lệnh chiến dịch kịp họp tại đây.

        Tham gia họp còn có các đồng chí trong các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật chiến dịch và các đồng chí trong bộ tư lệnh sư đoàn 316. Đồng chí Năng báo cáo:

        - Trước đây, chúng tôi cũng tưởng Buôn Ma Thuột chỉ là một cái thị xã như các nơi khác ta thường thấy. Ai ngờ đến nơi xem, mới thấy nó lớn như một cái thành phố. Chiều dài - vì không phân biệt được nội thành với ngoại ô - ước tính 4-5 kilômét; chiều ngang khoảng vài kilômét. Tám vạn dân chứ ít đâu? Chính đồng chí Đoàn, năm 1968, Tết Mậu Thân, đã từng chỉ huy đơn vị đặc công đánh và làm chủ thị xã trong một thời gian, bây giờ vào đây nhìn lại cũng phải ngạc nhiên. Nhà cửa, phố xá, phát triển rất nhanh. Đây cũng là một đặc điểm của chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ. Nó dồn người từ các nơi về rất đông, rất nhanh trong thành phố, ở ngoại ô và rộng ra chung quanh đến hàng chục kilômét, tạo ra cái phồn vinh giả tạo, để kìm kẹp nhân dân.

        Từ trong cặp vải, đồng chí lấy ra từng tập bản đồ, yếu đồ, sơ đồ, ảnh chụp và nói tiếp:

        - Đây là biệt điện của Bảo Đại, đây là Sư đoàn bộ 23 khi thiết giáp, tiểu khu Đắc Lắc. Sa bàn này có nhiều chỗ chưa đúng, chúng tôi cũng chưa chỉnh lý kịp. Nhìn từ xa, những mục tiêu quân sự hiện lên trên nền trời rất rõ, và đáng chú ý là đều tập trung vào một khu vực trong thành phố; Bộ tư lệnh thiết giáp, khu pháo binh, khu thông tin, khu tiếp vận, kho Mai Hắc Đế…

        Quay về phía các đồng chí cán bộ pháo binh, đồng chí Năng cười nói:

        - Cứ lấy những cột thông tin, cao lêu nghêu, làm vật chuẩn, thì pháo binh chỉnh hoả rất dễ. Đạn không thể rơi vào khu dân đuợc. Sư đoàn bộ 23, tiểu khu Đắc Lắc, thì nằm ngay giữa phố, phải diệt bằng đạn bắn thẳng mới bảo đảm. Sân bay thị xã nằm chếch sang phía đông. Anh em đặc công đã lọt vào hẳn bên trong, nơi để các trực thăng và rada, nên nắm tình hình các mục tiêu rất chắc.

        Theo tôi, khó khăn không phải ở chỗ trong thị xã có những công sự vững chắc, hay có một lưới lửa được tổ chức nghiêm mật như ta thường thấy ở các cứ điểm lớn, trừ một vài nơi như căn cứ thiết giáp; mà cái chính là ở vòng ngoài. Việc chiếm lĩnh các trận địa phức tạp vô cùng. Hầu như xung quanh thị xã, từ 10 đến 20 kilômét, hướng nào cũng có cứ điểm của địch: phía bắc có Quảng Nhiên, Méval; hướng đông có Buôn Hồ, sân bay Hoà Bình; hướng tây có cầu Srepok, các cao điểm Chư Duệ, Chư Bua; hướng nam có cao điểm 491. Ngoài ra có một vành đai ấp chiến lược, khu tập trung đồng bào di cư. Rải rác trên hướng nào cũng thấy dấu vết của dân vệ chốt, gác ban đêm, nhất là trên các trục đường đi vào thị xã. Giữa các khu đồn là rẫy của đồng bào, ban đêm cũng có người ở trong các chòi. Đất thì khô rắn, nhưng có rất nhiều gốc cây to, cưa ngang thắt lưng. Đây là rẫy của đồng bào, xe tăng ta vô phúc cưỡi lên, thì dễ bị hỏng xích, không đi được. Loại chướng ngại vật này còn khó khắc phục hơn là khe suối, vì đâu đâu cũng có. Đáng chú ý là con sông Srepok ở phía tây. Chỗ chúng ta vượt sông, lại ở ngay cái đập nước Drây Ling có nhà máy thuỷ điện. Ở đây có một tiểu đội lính bảo an canh gác đêm ngày. Không thể chọn nơi nào khác được, vì đấy chính là đầu mối đường để đi vào thị xã. Nếu chọn nơi khác thì sau khi vượt được sông rồi cũng chẳng có lối đi. Chúng tôi dự định chuyển hướng đột kích sang phía đường 14, nhưng không xong, vì phải qua cầu treo Srepok, xe tăng không đi được. vả lại, ở đấy cũng có tiểu đoàn công binh ngụy chiếm giữ rồi, chúng đóng ngay tại đầu cầu phía đông. Các cao điểm Chu Duệ, Chư Bua, chỉ cách xa thị xã 3, 4 kilômét thôi. Ở đây thỉnh thoảng cũng có địch chốt. Chiếm được hai cao điểm này, làm thành hai trận địa pháo 85 bắn trực tiếp vào trung tâm thị xã thì tuyệt vời lại khống chế được cả dãy lô cốt phía tây, khu thiết giáp, khu pháo binh… điều quan trọng là phải chiếm ngay từ đầu trong đêm N, nếu để chậm, địch chiếm trước, thì cánh quân của ta trên hướng tây bắc, tây nam đều không thể triển khai được.

        Ở phía nam, từ núi Chư Blom, cách 10 kilômét về đến thị xã, cũng toàn là rẫy của đồng bào; lại có con suối Ea Tam cũng là một vật chướng ngại cho xe tăng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 12:38:24 am

        Đồng chí Đặng Vũ Hiệp nói:

        - Âm mưu của địch thâm độc thật. Nó xây dựng xung quanh thị xã một hàng rào người mà chúng tin rằng đã nắm chắc, cho hưởng đặc quyền đặc lợi; tha hồ chiếm hữu ruộng rẫy mà suốt mấy chục năm qua không hề đóng cho chúng một xu thuế nào. Đây là chưa nói đến những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, những thói hư tật xấu mà chúng đưa vào, cố tình làm cho nhân dân chống lại cách mạng, biến thị xã này thành một hậu phương đại an toàn của chúng. Chúng mình phải thông cảm với các đồng chí địa phương, làm công tác cơ sở rất khó. Biết bao nhiêu cán bộ ưu tú đã hy sinh trên mảnh đất này. Vấn đề nổi dậy ở khó vô cùng.

        Đồng chí Vũ Lăng:

        - Tư tưởng chỉ đạo của trận đánh này là phải hết sức tranh thủ bất ngờ. Tình hình triển khai khó khăn như thế này, thì vị trí tập kết phải lùi ra xa nữa, ngoài cái hàng rào bằng người kia. Như vậy thì nhiệm vụ của các đơn vị đặc công ém sẵn có khó khăn hơn: chiếm được các mục tiêu quan trọng trong đêm rồi, phải bám trụ cho chắc để cho thê đội ở sau đến kịp. Cho nên, phải tính toán thật kỹ: hai giờ sáng, đặc công đánh sân bay thị xã, pháo chế áp các mục tiêu quan trọng, đồng thời xe tăng bắt đầu xuất kích, công binh bắt đầu bắc cầu. Chậm nhất là 4 tiếng đồng hồ sau, nghĩa là đến 6 giờ sáng thì xe tăng phải đến ngay rìa thị xã, bắt đầu công kích; nếu chậm, địch sẽ tung quân ra phản kích, đánh bật các bàn đạp ta đã chiếm lĩnh trong đêm thì sẽ có khó khăn. Trong thị xã, địch có cả một tiểu đoàn tăng, chứ có ít đâu. Đây là chưa nói đến bọn ác ôn, phòng vệ dân sự, cảnh sát, v.v… Cho nên công tác hợp đồng rất phức tạp, phải tổ chức chu đáo, chặt chẽ, mấu chốt là vấn đề thông tin liên lạc.

        Tôi quay sang hỏi đồng chí Quỳnh, chủ nhiệm pháo binh chiến dịch:

        - Đồng chí chuẩn bị được bao nhiêu đạn pháo?

        - Hai cơ số.

        Tôi nói:

        - Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải bắn dồn dập ngay từ loạt đạn đầu mà không qua bắn thử, bắn kiểm nghiệm. Có như vậy thì tổ chức phòng thủ của địch mới bị rối loạn ngay từ đầu. Với hai cơ số đạn, bắn dồn dập được bao nhiêu lâu; 30 phút là nhiều. Từ 2 giờ 30 đến 6 giờ sáng địch sẽ phản ứng ra sao? Chắc chắn là chúng sẽ không bao giờ nằm yên để chờ xe tăng ta đến, mà thể nào cũng cố khôi phục lại tổ chức phòng ngự. Ta phải làm cho tổ chức này bị rối loạn suốt cả đêm, chúng không thể tập họp nhau lại được, thì mới không tổ chức phản kích lại ta được. Ta cũng không thể lùi giờ nổ súng cho đến gần sáng, vì xe tăng tập kết ở xa, đường sá thì không có lại phải vượt sông nữa. Vả lại xe tăng cũng phải lợi dụng tiếng nổ của pháo binh mà hành tiến thì mới bất ngờ. Tóm lại là pháo phải tiếp tục bắn, tiếp tục khống chế, không bắn dồn dập thì phải xem kẽ với lối bắn tốc độ đều; pháo ít thì dùng cối, ĐKB, vì lúc bấy giờ chúng chẳng còn đứa nào phân biệt được đâu là đạn pháo, đâu là đạn cối, cứ nghe tiếng nổ ùng oàng là nằm chết dí, không dám ngóc đầu dậy.

        Thượng tá Tạ Vân, cán bộ pháo binh được Bộ phái vào tăng cường cho mặt trận đáp:

        - Đạn thì không thiếu, nhưng còn để ở các kho cách trận địa 100 kilômét. Phải có xe đưa đến một cự ly nhất định nào đó; rồi lại phải có đủ người để khiêng vác, lót trước, ngay từ đầu hôm. Chúng tôi, dù có huy động tất cả anh em cơ quan ra làm, cũng không thể giải quyết được. Bộ tham mưu chiến dịch cũng đành bó tay. Còn pháo không bắn thử mà bắn cấp tập ngay, thì chúng tôi cũng có cách khắc phục rồi: đo đạc kỹ tính toán thật chính xác, chọn các phần tử tốt nhất, bắn dồn dập loạt đầu, quan sát kỹ lấy kết quả đó mà hiệu chỉnh. Đồng chí Vũ Lăng nói:

        - Giữa núi rừng này, bây giờ mà huy động hàng nghìn dân công ra để vác đạn thì làm sao có được.

        Đồng chí Đặng Vũ Hiệp thăm dò:

        - “Bộ” đặt vấn đề, thì “Bộ” phải có ý kiến giải quyết chứ. Cứ yên chí mà.

        Tôi đáp:

        - Cũng có cách giải quyết, nhưng tôi chưa dám hứa trước, vì còn phải xin ý kiến anh Tuấn đã. Cách nhanh nhất là bẻ ghi một số đoàn quân bổ sung hiện đang đi trên đường giao liên, tạm trưng dụng ít hôm mỗi người vác hai viên cối, đánh xong trận này thì trả lại như cách làm cũng như đối với xe ô tô như nói hôm trước thôi. Như vậy có chậm mất mấy hôm. Nếu anh Tuấn đồng ý thì được.

        Xong vấn đề pháo binh lại đến vấn đề công binh. Cả hội nghị sôi sục hẳn lên: có ý kiến đề xuất là phải bất ngờ tập kích bọn lính gác đập nước Drây Ling ngay từ đầu hôm; cũng có ý kiến là nên lợi dụng tiếng nổ của pháo để làm cầu, địch dù có biết cũng sẽ không đối phó kịp…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 12:42:26 am

        Trung tướng Hoàng Mình Thảo từ tối đến giờ, ngồi chăm chú nghe mọi người phát biểu. Anh ghi chép, không bỏ sót một ý kiến nhỏ nào. Mắt đăm chiêu, tay mân mê que chỉ bản đồ, anh nói:

        - Tư tưởng chỉ đạo là bí mật, bất ngờ. Còn phải mạnh dạn thọc sâu, ngay từ đầu đánh vỡ đầu nào của địch. Lực lượng thọc sâu lần này là cả một binh đoàn lớn, có binh chủng hợp thành. Ta phải đưa pháo, tăng đến ngay trước mặt địch mà chúng không hay biết gì. Xưa nay, ta đã từng làm như thế này đối với đặc công, bộ binh, pháo binh; nhưng đối với các binh chủng khác, nhất là các loại cơ giới, thì ta có ít kinh nghiệm. Chúng ta không nên nghĩ rằng đối với binh khí kỹ thuật hiện đại, thì không cần phải làm như thế, với ưu thế binh hoả lực, thì cứ việc công khai dàn đội hình ra rồi dùng hoả lực áp đảo mà tiến lên. Như vậy sẽ tốn kém nhiều, đánh không nhanh, không gọn. Nắm vũ khí hiện đại trong tay, phải biết sử dụng theo cách đánh của ta. Với máy bay, tên lửa mà ta cũng đã làm được như thế thì tại sao ta lại không vận dụng tư tưởng tác chiến ấy vào đây được? Đây không phải là tư tưởng du kích, mà là rất hiện đại; hiện đại vì chưa ai nghĩ đến, chưa ai làm, mà hiệu quả thì tăng lên gấp bội, giảm rất nhiều thương vong. Ta thử xem nếu đặc công đưa được bộc phá vào đặt trong lô cốt địch hay dưới bụng mấy chiếc trực thăng đậu ở sân bay thị xã, xe tăng xuất hiện ngay ở cổng sư đoàn 23, thì tình hình địch sẽ ra sao? Vấn đề là phải tìm mọi cách đưa những thứ này đến vị trí mà ta muốn đặt. Ở Tây Nguyên trước nay ta đã từng làm như thế. Trong trận đánh Plây Cần trước đây, đặt pháo bắn phá hoại mấy ngày liền, hết đạn mà không kết quả, đến khi đưa pháo đến trước bờ rào, chỉ bắn vài phát là vỡ tung. Yêu cầu các đồng chí phát biểu thêm ý kiến về xe tăng, công binh.

        Cuộc tranh luận càng về khuya càng sôi nổi, nhất trí với nhau là trong đêm N, công binh ta ngoài việc lắp được phà nặng cho xe tăng và pháo binh vượt sông, lại còn phải bắc thêm cho được một cầu phao cho bộ binh đi cho đỡ vướng…

        Đồng chí Nguyễn Năng đến A75 trước một ngày để báo cáo tình hình với anh Tuấn. Hôm sau, đồng chí Hoàng Minh Thảo, Vũ Lăng, Đặng Vũ Hiệp và tôi đến nhận chỉ thị.

        Anh Tuấn nói:

        - Hôm trước, tôi đã có phát biểu một số ý kiến về phương án của chiến dịch. Nay nhờ nắm được tình hình Buôn Ma Thuột, cụ thể hơn, tôi có mấy ý kiến về cách dánh thị xã.

        Chúng ta phải quán triệt quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, đặc điểm tình hình, cần nhận rõ ý nghĩa, mục đích của trận đánh, đồng thời phải thấy cho hết tính chất phức tạp, khẩn trương của trong công tác chuẩn bị; tính chất kiên quyết, triệt để, linh hoạt trong quá trình tiến hành chiến dịch.

        Lực lượng ta sử dụng lần này tương đối lớn. Đến nay, các công tác chuẩn bị mọi mặt đã căn bản hoàn thành. Phải chuẩn bị theo phương án phức tạp nhất, nhưng khi đánh phải cố dẫn dắt kẻ địch, để thực hiện phương án có lợi nhất, nghĩa là phương án địch không có phòng ngự, dự phòng. Chuyển từ phương án 2 sang phương án 1 tất nhiên là có cái phức tạp của nó. Cho nên hết sức giữ bí mật, bất ngờ dứt điểm Buôn Ma Thuột ngay từ đầu, phải đẩy mạnh hoạt động ở Plây Cu, Kon Tum hơn nữa để củng cố thêm sai lầm của địch. Hôm qua gặp các đồng chí bộ tư lệnh 968, tôi đã nhắc nhở rồi, các đồng chí cần theo dõi cho chặt.

        Cách đánh thị xã phải thế nào? Không phải là sẽ đánh theo lối bóc vỏ, lần lượt đột phá từ ngoài vào trong, mà phải táo bạo đánh thẳng vào cơ quan đầu não của địch, làm cho chúng rối loạn ngay từ đầu, phối hợp chặt lực lượng binh chủng hợp thành đánh mạnh từ ngoài vào và lực lượng ém sẵn bên trong.

        Tôi đồng ý: cánh đông bắc có Trung đoàn 95B và xe tăng, pháo binh chi viện, phối hợp với đặc công, đánh chiếm sân bay thị xã ngay từ đầu, rồi chọc thẳng vào sư đoàn bộ 23; chú ý bộ binh phải theo sát đặc công, chiếm được đến đâu, bám giữ đến đấy.

        Cánh bắc, với một trung đoàn bộ binh được tăng cường, đánh vào căn cứ thiết giáp,pháo binh, phát triển hợp điểm tại sư đoàn bộ 23.

        Cánh tây nam, dùng một trung đoàn bộ binh chiếm cao điểm Chư Duê rồi đánh vào khu tiếp vận, thọc vào trung đoàn thị xã. Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo tác chiến nói trên, các đồng chí tổ chức một mũi thọc sâu thật mạnh, dùng một tiểu đoàn bộ binh mạnh, ngồi sẵn trên xe tăng. Khi bắt đầu công kích là chọc thẳng vào trung tâm thị xã, sư đoàn bộ 23, bỏ qua các mục tiêu trên đường, kịp thời phối hợp với cánh nam.

        Cánh nam cũng tổ chức hai mũi, hai tiểu đoàn đánh vào đấy, chứ không phải chỉ có một tiểu đoàn như kế hoạch các đồng chí vừa trình bày. Vì sao vậy? Vì cánh này, chỉ có vượt qua con suối Ea Tam là đến ngay trước mặt sư đoàn bộ 23 rồi, nhanh lắm. Phải nhằm vào chỗ sơ hở này của địch mà khoét sâu vào. Dùng hai tiểu đoàn, vì còn đề phòng trường hợp địch phản kích trên hướng này. Nếu các đồng chí không đủ lực lượng, thì rút bớt lực lượng ở Đức Lập ra cũng được. Phải nắm lấy cái chính.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 07:02:56 pm

        Đánh như vậy thì có táo bạo đấy, nhưng mà vững chắc. Ta không ngại các mũi thọc sâu của ta bị chia cắt, cô lập, vì địch còn phải lo đối phó với ta ở sân bay Hoà Bình và ở các nơi khác… Địch phản kích lớn trong thị xã thì khó, vì muốn phản kích lớn phải dùng lực lượng lớn từ bên ngoài đánh vào, cho nên chỉ có thể dùng từng bộ phận nhỏ chia cắt ra mà thôi, mà như thế thì không lo.

        Lực lượng lớn thì lấy đâu ra? Nhưng ta vẫn phải đề phòng chỗ này, có thể có một lực lượng nằm ngoài từ trước. Cho nên, các đồng chí phải suy tính kỹ hơn nữa, phải tính toán cho chặt chẽ để nắm chắc trong tay hai tiểu đoàn dự bị để đối phó với mọi bất trắc xảy ra ngay trong đêm N. Đến đêm hôm sau, thì đã có một trung đoàn bộ binh ở Đức Lập ra rồi. Phải chỉ thị cho trung đoàn đặc công 198 chiếm cho được sân bay Hoà Bình, hay ít nhất, là không để cho địch dùng được sân bay này để đưa quân tiếp viện đến. Có triệt được đường không, thì bộ phận đánh viện trên đường 14, mới có cơ hội thắng lớn.

        Trong lúc ta đánh các mục tiêu quân sự, thì các đội vị trí công tác của đồng chí Chín Liêm cũng sẽ đột nhập vào các khu phố nơi đông dân, để làm công tác tuyên truyền. Trong lúc hai bên đánh nhau, thì không thể tổ chức mít tinh, xuống đường gì được, nhưng họ có thể diệt tề, trừ gian, truy lùng ác ôn… phải cố bắt liên lạc với họ, phải phối hợp với họ để làm việc này.

        Các đồng chí đã nghe tiếng nhà tù Buôn Ma Thuột rồi đấy chứ? Các bậc đàn anh của chúng ta, cũng đã trải qua đấy rồi. Nay, anh em mình cũng ở trong đấy. Cho nên, đánh vào đây phải thận trọng. Tuyệt đối không được để đạn lạc vào đấy, mà phải dùng biện pháp khác: uy hiếp lính gác, dùng loa kêu gọi, v.v… để đưa anh em ra được an toàn. Đồng chí Chín Liêm sẽ cử người đến hiệp đồng, dẫn đường cho bộ đội, phân loại tù nhân. Đối với anh em này, thì họ sẽ là cán bộ ngay tại đấy; nhưng đối với bọn lưu manh, trộm cướp thì phải có cách xử lý khác.

        Các đồng chí cũng cần nhớ Buôn Ma Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế, dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên. Tình hình chính trị rất phức tạp. bộ đội vào thị xã phải nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách và kỷ luật đã đề ra, giúp đỡ cấp uỷ địa phương, xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân.

        Công tác thu chiến lợi phẩm lần này quan trọng lắm đấy. Kho Mai Hắc Đế là kho đạn chung cho cả Tây Nguyên. Lấy được và bảo vệ cho tốt thì sẽ giải quyết được nhiều khó khăn cho ta sau này, nhất là vấn đề đạn được, xe cộ, xăng dầu, v.v… trong Bộ tư lệnh phải có người phụ trách. Tôi quyết định đồng chí Phan Hàm, ngoài công việc chung ra, phải đặc trách vấn đề này.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 07:06:24 pm
           
Chương 10

MỞ MÀN

        Sang tháng 3 năm 1975, mọi người trong sở chỉ huy tiền phương đã sống những ngày cực kỳ căng thẳng. Đầu óc không lúc nào được thảnh thơi. Tất cả các giác quan đều làm việc hết mức, lắng nghe từng nhịp đập của chiến trường. Trong các lán dựng tạm chung quanh nhà họp của Bộ tư lệnh chiến dịch, đèn sáng thâu đêm. Công tác chuẩn bị trên hướng Đức Lập, coi như đã hoàn thành; nhưng trên hướng Buôn Ma Thuột, thì thực sự mới bắt tay vào làm được vài hôm. Cả đến sư đoàn 316 là đơn vị chủ công đánh vào thị xã, cũng chỉ mới làm công tác tổ chức chiến đấu cho trận đánh then chốt này được một ngày, vì trước đây, sư đoàn vẫn còn phải làm nhiệm vụ chặn viện, bảo đảm cho trận đánh Đức Lập. Các cơ quan chiến dịch, thâm nhập xuống các tiểu đoàn, trung đoàn, để giảm bớt những động tác trung gian, bớt các cuộc họp hành. Sẵn có tinh thần trách nhiệm cao lại có trình độ công tác khá vững, nên mặc dù thời gian hạn chế, mọi công việc đều hoàn thành trôi chảy nhanh chóng.

        Nhưng lúc này, ai ai cũng đều cảm thấy sốt ruột với cái ngày đáng ghi nhớ kia trông mãi chưa thấy đến: ngày 4 tháng 3 năm 1975, ngày khóa các con đường lên Tây Nguyên, quốc lộ 19 và quốc lộ 21.

        Một buổi sáng giao ban, thiếu tá Nguyễn Minh Thông phụ trách cơ quan quân báo chiến dịch báo cáo:

        - Trung đoàn 45, từ Plây Cu, đang hành quân về phía nam.

        - Từ lúc nào, bằng phương tiện gì, đến đâu rồi, lý do vì sao, bao nhiêu câu hỏi như dồn cả một lượt và chờ trả lời.

        Trong lúc đồng chí Thông còn đang lúng túng, nhiều câu hỏi khác lại dồn dập đưa ra.

        Thượng tá Nguyễn Quốc Thước, tham mưu phó chiến dịch báo cáo:

        - Trung đoàn 45 ngụy từ Plây Cu xuống Eo Hleo từ mấy hôm nay rồi, để phối hợp hoạt động với trung đoàn 53 ở khu vực Buôn Hồ-Quảng Nhiên; đông và bắc Buôn Ma Thuột. Mấy hôm nay, đơn vị này chỉ quanh quẩn trên các mỏm đồi, hai bên đường 14. Đáng chú ý là hôm nay, các mũi lùng sục có đi sâu hơn về phía tây đường. Sư đoàn 320, đang xuất kích, không khéo thì bộ phận đi đầu có thể chạm địch.

        Lại hội ý chớp nhoáng…

        Lệnh ngay cho sư đoàn 320 dừng lại; phái mấy tổ trinh sát lên phía trước, nắm tình hình, đồng thời củng cố lại mấy cái chốt cho thật chắc. Nếu chúng mò đến, thì đánh bằng súng trường, tiểu liên, lựu đạn… Kiên quyết không cho chúng tiến sâu vào để chúng phát hiện ra lực lượng lớn của ta. Nhắc các đơn vị phải giữ bí mật đến cùng, nếu chúng đi lùng gặp bộ phận nào thì chỉ bộ phận ấy đánh thôi, cố gắng bao vây diệt gọn mà không được dùng đến hoả lực lớn. Ở vị trí chờ đợi, mọi người đều phải có công sự cá nhân, đề phòng địch oanh tạc, làm rối đội hình, giữ vững thông tin liên lạc bằng điện thoại.

        Một con hổ, ngồi thu mình rình mồi, giữa bụi rậm, chắc cũng đơn giản thôi; nhưng hàng vạn con người với bao nhiêu binh khí kỹ thuật, phải thu mình trong mấy ngày liền, quả thật là có nhiều khó khăn.

        Sự việc làm “đứng tim” chưa phải đã hết. Ngày 2 tháng 3, đồng chí Thông, lại hớt hơ hớt hải, ba hơi nhập một, chạy đến báo cáo:

        - Địch vừa bắt được một chiến sĩ của ta…

        Đã mấy đêm liền thức trắng, dáng mệt mỏi, đồng chí Vũ Lăng đang ngồi đăm chiêu suy nghĩ, mắt lim dim, gọng kính trắng trễ trên sống mũi, ngón tay vuốt nhẹ mấy sợi tóc hoa râm, bỗng nảy người lên như bị điện giật:

        - Ai? Bị bắt ở đâu? Lúc nào? Đơn vị nào?…

        Lại một trận mưa câu hỏi giội xuống đồng chí cán bộ quân báo trẻ tuổi này.

        Trung đoàn 53 bắt ở Quảng Nhiên, bắc Buôn Ma Thuột 15 kilômét.

        - Đã khai báo gì chưa?

        - Hình như bị thương nặng nên chưa khai báo gì. Chúng đã đưa về Buôn Ma Thuột.

        Một cuộc họp của Bộ tư lệnh chiến dịch mở rộng, có tất cả các chủ nhiệm tham gia được triệu tập cấp tốc, để hỏi cho ra người bị bắt là ai, thuộc đơn vị nào?

        Khi mọi người đến đông đủ, vừa nghe tuyên bố lý do xong, tôi liếc nhìn vẻ mặt mọi người, thấy chủ nhiệm xe tăng và chủ nhiệm pháo binh, sắc mặt hơi thay đổi, rút khăn lau mồ hôi trên trán, đoán biết ngay là có vấn đề gì rồi đây. Tình hình này, thì đến chết mất thôi, vì việc xuất hiện cán bộ tăng, pháo ở bắc Buôn Ma Thuột thì ý đồ của ta quá rõ rồi.

        Cảm thấy hơi chột dạ, vì bao nhiêu cái nhìn, nghi ngờ, trách móc đều đổ dồn cả vào mình, đồng chí chủ nhiệm xe tăng đứng lên nói cứng:

        - Đơn vị của chúng tôi không có ai ở đấy. Mà chúng tôi cũng đã chỉ thị cặn kẽ cho anh em là chỉ được làm đường, sửa đường về ban đêm thôi, còn ban ngày thì phải rút ra thật xa, có tài thánh địch cũng chả bắt được người của tôi đâu. Đồng chí từ từ ngồi xuống, nhưng lại lấy khăn ra lau mồ hôi, chừng như chưa vững tin lắm.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 07:10:16 pm

        Vừa lúc ấy, nhận được một bức điện của đồng chí Nguyễn Năng ở cánh bắc nói lóng qua điện thoại, cho biết đó là một chiến sĩ thuộc đơn vị Lâm Đồng, đơn vị pháo lớn của ta. Nỗi lúng túng, bối rối lại chuyển sang các đồng chí pháo binh. Hóa ra đấy là những anh em đi đo đạc trận địa… Được thể, đồng chí chủ nhiệm công binh đứng lên, dõng dạc phân trần:

        - Tôi xin quả quyết trước Bộ tư lệnh và địch không có tài gì mà phát hiện ra được dấu vết làm đường, sửa đường của chúng tôi. Làm đến đâu xoá ngay vết và ngụy trang đến đấy. Mấy hôm nay trung đoàn 53 dạo qua dạo lại, nát cả khu vực này, mà có tìm ra được dấu vết gì đâu. Mà dù có thấy được chăng nữa, thì cũng chẳng hiểu ai đã làm gì mà nghi với ngờ.

        Trung tướng Hoàng Mình Thảo trao đổi với tôi:

        - Đồng chí nên hỏi Bộ, xem các chiến trường hoạt động như thế nào?

        - Vừa rồi, nghe đâu có đồng chí Vũ Long, cán bộ ở Miền ra báo cáo kế hoạch với anh Tuấn. Miền Đông không thể nổ súng sớm hơn ta được đâu, cố gắng lắm là làm đồng thời. Còn địch thì đang đề phòng ta áp xuống đồng bằng và nống lên hướng Tây Ninh. Chút ít. Ở Trị Thiên thì chắc chắn là sẽ chậm hơn. Hôm ở Hà Nội, tôi có gặp đồng chí thiếu tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn 2. Đồng chí ấy cho biết có nhiều khó khăn lắm. Tuy nhiên, theo tôi, hướng phòng thủ chính của địch hiện nay vẫn còn là vùng 1 chiến thuật, vì các sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến vẫn còn đứng nguyên ở vị trí cũ.

        Quyết tâm mới của bộ chỉ huy chiến dịch, sau cuộc họp bất thường này là lệnh cho toàn bộ các đơn vị trên hướng bắc tạm ngừng mọi công tác chuẩn bị. Chờ đến sau ngày 4 tháng 3, khóa đường xong sẽ tiếp tục. Sẽ cố gắng làm thật nhanh để bù lại số thời gian đã mất trong những ngày này.

        Báo cáo quyết tâm này lên anh Tuấn.

        Nhìn qua bên kia trận tuyến, trong những ngày này. Đầu tháng 2 năm 1975, cảm thấy có mối đe dọa ở phía bắc Đắc Lắc, tướng Phạm Văn Phú đã đưa toàn bộ trung đoàn 45 ngụy ra khu vực biên giới Đắc Lắc-Phú Bổn nhằm phát hiện và tiêu diệt các bộ phận của sư đoàn 320. Cuối tháng 2, một đơn vị nhỏ của trung đoàn 53, phục kích một tổ tuần tra của ta ở bắc Buôn Ma Thuột. Đại tá Trịnh Tiêu, trưởng phòng 2 của Quân đoàn 2 ngụy phán đoán rằng Buôn Ma Thuột sẽ là mục tiêu chính trước mắt; các mục tiêu bổ trợ sẽ là Buôn Hồ và Đức Lập. Dựa vào một vài dấu hiệu, Trịnh Tiêu còn báo cáo với Phú là các hoạt động của ta ở Kon Tum, Plây Cu và trên đường 19 kéo dài đều là nghi binh cả. Bọn quan thầy Mỹ hình như cũng đã đánh hơi, biết được tin này. Nhưng Phú thì lại khẳng định: Sư đoàn 320 vẫn còn ở Plây Cu, còn sư đoàn 10 vẫn ở Đắc Tô-Tân Cảnh. Lý lẽ của Phú không chỉ dựa vào tín hiệu điện dài thu được mà thôi, các trận pháo kích mấy ngày qua vào trung đoàn 44 ở Thanh An, việc đánh vào chốt Mỹ, bức rút đồn Tầm, chiếm các cao điểm Chư Kra, Chư Gơi, cũng như cắt đường 14 giữa Kon Tumm, Plây Cu đều chứng mình cho lý lẽ mà Phú đưa ra là có cơ sở. Vì chỉ có 2 trung đoàn để bảo vệ các con đường từ phía tây tiến vào Plây Cu, nơi có chỉ huy sở của Quân đoàn 2, nên Phú không thể rút bớt lực lượng, làm yếu mặt trận này hơn nữa, để tăng cường cho Buôn Ma Thuột, là nơi chưa xảy ra sự kiện gì đáng kể.

        Trong cung tù binh sau ngày giải phóng, lời khai của Võ Ấn, đại tá, trung đoàn trưởng trung đoàn 53 xác nhận: sau khi bắt được một chiến sĩ thuộc đơn vị Lâm Đồng, Ấn phán đoán là ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột và có báo cáo lên trên. Nhưng với tầm nhìn bao quát cả Tây Nguyên, với định kiến sẵn có từ trước đến nay, Phạm Văn Phú đã đi đến kết luận: nhất định Plây Cu là hướng tiến công chủ yếu. Ở Buôn Ma Thuột cũng sẽ có hoạt động phối hợp, phá rối bằng đặc công, pháo kích, nhằm phối hợp với chiến trường chính.

        Ngày 3 tháng 3 Phú ra lệnh điều động toàn bộ trung đoàn 45 đang càn quét trong khu vực biên giới Đắc Lắc-Phú Bổn về Plây Cu để cùng với các liên đoàn biệt động quân càn quét xung quanh thị xã này.

        Khi được tin này, anh em trong bộ chỉ huy, thở phào, nhẹ nhõm:

        - Sư đoàn 968 làm ăn đắc lực thật.

        Trong chiến tranh, thỉnh thoảng có những trường hợp lạ lùng như thế này: cùng một tình huống, mà cả hai bên đối địch đều cho là mình thắng lợi. Vui mừng phấn khởi thực sự, chứ không phải để nhằm mục đích tuyên truyền. Việc Phú rút 2 trung đoàn 44 và 45 về Plây Cu, chiều 3 tháng 4 là một ví dụ điển hình.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 07:13:55 pm

        Chả là trong đêm ấy, khi cả 2 trung đoàn về đến Plây Cu, thì đường 19 và đường 19 kéo dài-từ Bình Định đến biên giới Việt-Miên đã như một con giun đất, bị quằn quại dưới những trận bão lửa kinh hồn, xưa nay chưa từng có. Đoạn từ Lệ Trung đến Plây Cu, cầu bị phá; ngay tại thị xã, sân bay Cù Hanh bị pháo kích, bị thiệt hại nặng; đoạn từ Plây Cu đi An Khê nhiều cứ điẻm như A Dun, suối Đỗi, nhiều điểm chốt bị “tràn ngập”; còn đoạn từ An Khê đi Bình Định thì chỉ trong một đêm cả 9 cái chốt của tiểu đoàn 2, trung đoàn 42 ngụy đều bị sư đoàn 3 Quân giải phóng san bằng. Cầu cống bị phá sập khá nhiều.

        Sau một đêm thứ 7 và suốt ngày chủ nhật, vui chơi ở Nha Trang, Vũng Tàu, không ai nghĩ rằng tình hình Tây Nguyên lại xoay chuyển nhanh đến thế. Thị xã Plây Cu, trong nháy mắt đã như “trứng để đầu đẳng”, bốn chung quanh nơi nào cũng có Quân giải phóng. Phú cho là mình đã sáng suốt, có quyết tâm cao nên mới nắm chắc được hai trung đoàn bộ binh trong lúc này. Sáng hôm sau, lập tức tung liên đoàn 4 biệt động quân là lữ 2 kỵ binh ra để khai thông đường 19, bắt liên lạc với sư đoàn 22 ở Bình Định.

        Ngờ đâu, có khai mà chẳng có thông. Trên đường 19, hết điểm này đến điểm khác, lần lượt rơi vào tay Quân giải phóng. Nhưng Phú vẫn không hề nao núng, với một lực lượng hùng hậu như thế này, ông ta tin là có thể giữ vững Plây Cu. Mãi đến lúc này vẫn cứ đinh ninh là mục tiêu chính của chiến dịch này.

        Ngồi ở sở chỉ huy chiến dịch, trong giờ phút này, lòng dạ mọi người đều cảm thấy bồn chồn, ngồi đứng không yên. Một tiếng cành cây khô gãy sau nhà, tiếng chân người thình thịch dẫm trên đường mòn khô cứng ở chung quanh, một hồi chuông điện thoại ngắn, đều làm cho mọi người, nghiêng tai, nghe ngóng. Trung tướng Hoàng Mình Thảo phá tan sự im lặng:

        - Liên lạc với anh Kim Tuấn (sư đoàn 320) vẫn tốt chứ?

        - Đồng chí trực ban tác chiến đáp: tốt, anh ấy hiện đã ra đến sở chỉ huy chính thức rồi.

        Nhìn vào bản đồ chiến sự đang trải rộng giữa bàn trước mặt, tôi như thấy hiện ra trước mắt cái dây thòng lọng, đang từng phút từng giây xiết chặt mấy vạn quân ngụy trên chiến trường nóng bỏng này. Nỗi lo sợ xưa nay vẫn ám ảnh đối phương là bị chia cắt chiến lược, đã đến với họ như thế đó: ngày 4 tháng 3 hằng mong đợi, đến đây rồi. Từ giờ phút này trở đi, Tây Nguyên hoàn toàn bị cô lập. Trên đường 21, tuy chưa nổ súng, nhưng trung đoàn bộ binh 25 cũng đã sẵn sàng.

        Để cho trận đánh vào Buôn Ma Thuột được thuận lợi hơn nữa, A75 chỉ thị phải cho 1 tiểu đoàn bí mật vượt qua bố trí ở phía đông đường 14, cắt đứt con đường tỉnh lộ 487 chạy từ Cheo Reo đến Thuần Mẫn; còn toàn bộ sư đoàn 320 thì dịch dần đội hình ra gần đường hơn, nhưng vẫn phải nằm im, trong tư thế hổ rình mồi.

        Đáng buồn cười là phen này hổ xám lại đi sợ một con chuột nhắt. Cả sư đoàn 320 phải thu mình, lo né tránh những loạt đạn pháo, những loạt rocket của máy bay bắn thăm dò vu vơ dọc đường; hay những tên thám báo, biệt kích, khờ khạo, lăm le đổ bộ lùng sục vào sau đội hình của sư đoàn. Chúng muốn vuốt râu hùm ư?

        Ý định của cấp trên là tuyệt đối không được để lộ ý định chiến dịch, đặc biệt trong những ngày này. Các lực lượng đánh Buôn Ma Thuột đang bắt đầu triển khai đội hình. Sự xuất hiện một lực lượng ở phía bắc thị xã sẽ cộm ngay và tình hình sẽ thêm phức tạp. Cho nên, những trận chiến đấu nhỏ ở trong khu vực này, nhằm xua đuổi bày ruồi nhặng bám chung quanh sư đoàn đều phải có sự tính toán cân nhắc rất kỹ càng và nhất nhất đều phải thỉnh thị cấp trên, cả ở sát gần.

        8 giờ sáng. Sau cuộc họp ngắn gọn, bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: ta đã chủ động đưa địch vào thế trận, ta mong muốn. Trung đoàn 45 đã bị thu hút về Plây Cu, tình hình Buôn Ma Thuột vẫn không có gì thay đổi. Đã đến lúc hạ quyết tâm cuối cùng là đánh địch ở Buôn Ma Thuột theo phương án địch không có phòng ngự dự phòng.

        Tuy vậy vẫn phải đẩy mạnh hoạt động nghi binh hơn nữa, để giữ chặt địch ở Plây Cu, Kon Tum; nhanh chóng và bí mật triển khai lực lượng đánh Buôn Ma Thuột. Biện pháp thực hiện cụ thể là:

        - Nắm chắc sư đoàn 320.

        - Tăng thêm đạn được cho sư đoàn 968.

        - Lệnh cho trung đoàn 149, sư đoàn 316 vượt đường 14 để hành quân đến vị trí tập kết cuối cùng ở nam thị xã Buôn Ma Thuột.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 07:28:41 pm

        Ngày 5 tháng 3, trung đoàn 25 diệt một đoàn xe 80 chiếc trên đường 21. Lúc bấy giờ, Phú mới thấy rõ được là cả Tây Nguyên chứ không riêng gì Plây Cu đã hoàn toàn bị cô lập với đồng bằng. Thế bị bao vây về chiến dịch đã rõ, nhưng hướng chủ yếu là đâu thì vẫn còn cân nhắc: trong khi đường 14 vẫn còn thông, thì chưa thể kết luận là Plây Cu hay Buôn Ma Thuột. Trưa hôm ấy, một đoàn xe địch từ Plây Cu xuống đến bắc Thuần Mẫn, sư đoàn 320 phán đoán có lực lượng tăng cường cho Buôn Ma Thuột nên cho xuất kích một bộ phận nhỏ diệt 8 xe, thoát 7 xe trong đó có phó tư lệnh sư đoàn 23, thu 2 pháo. Cung tù binh cho biết đây cũng chỉ là sự vận chuyển bình thường, chiến trường lại yên tĩnh.

        Trên hướng tây nam thị xã Buôn Ma Thuột, bắc cầu Srepok 1 kilômét, trung đoàn 149 thuộc sư đoàn 316 đang chỉnh đốn lại đội hình trong một khu rừng rậm. Đã hai hôm rồi, ra bố trí ở đây, chờ địch. Đến nay các ngả đường đã khóa chặt, có nghĩa là lực lượng địch ở Buôn Ma Thuột sẽ không tăng thêm nữa, Bộ tư lệnh chiến dịch mới có lệnh dứt khoát trở về phương án 1. Trung đoàn 149 có hai tiểu đoàn phải làm nhiệm vụ từ phía nam thị xã đánh lên, hợp điểm tại sư đoàn bộ 23. Cách đánh có thay đổi, nên tổ chức chiến đấu cũng có sự thay đổi. Do nhiệm vụ của trung đoàn phức tạp như vậy, nên sư đoàn trưởng, đại tá Đàm Văn Ngụy phải trực tiếp chỉ huy đơn vị này. Theo chỉ thị của anh Tuấn, còn phải tăng cường thêm một số pháo cơ giới và pháo cao xạ có xe kéo. Đường hành quân nằm lọt giữa hai vị trí pháo của địch. Đơn vị phải dựa vào đường đi làm gỗ của đồng bào, nên rất dễ lạc và cũng rất dễ lộ. Nhìn vào bản đồ 1 trăm phần nghìn, chỉ thấy một đoạn ngắn thôi, theo đường chim bay, nhưng trên thực tế, sau khi vượt qua khỏi đường 14, tiếp tục đi suốt cả đêm mà chưa vượt nổi sông Srepok. Ở thượng nguồn sông này, nước vẫn sâu, chảy xiết, phương tiện vượt sông hoàn toàn không có. Khó khăn chưa phải là hết. Điều mà đại tá Đàm Văn Ngụy lo lắng nhất là vấn đề thông tin liên lạc. Bằng điện thoại ư? Làm thế nào căng được dây? Bằng vô tuyến điện ư? Ai cho lên tiếng? Làm cách nào mà báo cáo tình hình lên Bộ tư lệnh xin ý kiến giải quyết? Làm thế nào mà hợp đồng với cánh quân phía bắc? Trong một trận đánh lớn như thế này, đảm nhiệm một nhiệm vụ quan trọng là ngay từ đầu đánh thẳng vào quả tim địch, vấn đề thông tin liên lạc phải luôn luôn được thông suốt chứ không phải như trường hợp độc lập tác chiến được.

        Sau hai đêm hành quân ròng rã, sáng sớm ngày 7 tháng 3, bộ phận đi đầu vừa từ dưới sông Srepok bước lên, đã thấy hàng trăm đồng bào, già, trẻ, lớn, bé chạy đến niềm nở bắt tay, đón mừng. Loáng thoáng thấy có người mang chiêng trống, mấy lá cờ mặt trận phấp phới giữa lùm cây. Sư đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy chưa hiểu tình hình ra sao, còn đang ngơ ngác, thì bỗng thấy hai thanh niên, một nam, một nữ, căng lên một tấm biểu ngữ đỏ to tướng mang dòng chữ vàng: “Hoan nghênh bộ đội giải phóng Buôn Ma Thuột”.

        Mặc dù vừa ở dưới nước lên, chân tay còn cóng, mặc dù sương sớm của núi rừng Tây Nguyên lạnh tê người, đại tá vẫn cảm thấy nóng ran, toát mồ hôi. Thế này là thế nào nhỉ?

        - Đồng bào đi đâu đấy?

        - Nổi dậy, nổi dậy chứ đi đâu. Nổi dậu phối hợp với bộ đội giải phóng Buôn Ma Thuột.

        Một người đàn ông trạc 50 tuổi, có chòm râu khá đẹp, mặc một chiếc áo vét đã sờn vai, đóng khố, bồng bột trả lời.

        - Chết, chết, ai bảo thế?

        - Cấp trên.

        - Cấp trên nào?

        - Cấp trên là trên huyện, trên tỉnh, chứ còn cấp trên nào?

        - Yêu cầu đồng bào cuốn hết cờ băng lại, về buôn thôi.

        - Không được. Cấp trên đã có lệnh nổi dậy là lũ làng phải đi thôi.

        Trong lúc đồng chí Ngụy còn đang bối rối chưa biết xử trí ra sao, thì đồng chí Đoàn cũng vữa ở dưới sông bước lên, chạy đến. Đồng chí Đoàn là cán bộ của tỉnh Đắc Lắc, từ trước đến nay hoạt động ở vùng này nên được đồng bào quen biết nhiều. Vừa rồi đồng chí Đoàn cũng đã tham gia đi trinh sát thực địa ở cánh bắc với đồng chí Nguyễn Năng, nhưng hôm nay, thấy nhiệm vụ của đồng chí Ngụy rất phức tạp, nên Bộ tư lệnh lại cử đến giúp đỡ trung đoàn.

        Thuyết phục hồi lâu, đồng chí Đoàn phải cam đoan sẽ chịu trách nhiệm với cấp trên, mới giải tán nổi đám người quá bồng bột, hăng hái này, sau khi đã căn dặn, hết sức giữ bí mật những điều tai nghe mắt thấy ở đây. Thấy đồng chí Ngụy hãy còn chưa an tâm, đồng chí Đoàn nói ngay:

        - Đồng bào Tây Nguyên như thế đấy. Một là một, hai là hai, dặn như thế đủ rồi.

        Ở sở chỉ huy không ai biết tí gì về việc này.

        Sáng hôm sau, thiếu tá Thông, lại cũng đồng chí Thông-chạy đến báo cáo:

        - Đêm hôm qua trong lúc vượt đường 14, một cán bộ của trung đoàn 149 có đánh rơi một quyển sổ tay.

        - Sao biết? Ai nhặt được?

        - Địa phương quân Quảng Đức.

        - Lộ hết cả rồi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 07:38:06 pm

        Tuy đường đã bị khóa chặt cả rồi, nhưng phải đề phòng chúng tăng cường bằng đường không.

        - Đơn vị A72 có nhiệm vụ khống chế sân bay Hoà Bình đã hành quân đến đâu rồi?

        - Còn ba ngày nữa mới đến nơi, và còn phải chuẩn bị chiến đấu, mất thêm một ngày nữa.

        - Lệnh ngay cho đơn vị Lâm Đồng,, đơn vị pháo nòng dài, phải gấp rút chuẩn bị trận địa, chuẩn bị phần tử để khống chế sân bay Hoà Bình.

        Báo cáo ngay về A75. Đề nghị: quyết tâm không thay đổi.

        Sau này trong lời khai của đại tá Võ Ấn, có đoạn viết:

        “Ngày 4 tháng 3, nghĩa quân đồn trú tại Doris có bắn pháo vào những nơi nghi ngờ có quân của đối phương tập trung. Sáng hôm sau đi lục soát, lấy được một quyển sổ tay, ghi đầy đủ công tác và nhiệm vụ tác chiến Buôn Ma Thuột vào khoảng từ 7 đến 10 tháng 3 năm 1975. Bản tin này do tỉnh Quảng Đức phổ biến đến cấp quân đoàn, sư đoàn, tỉnh Buôn Ma Thuột, trung đoàn 53 và tất cả các đơn vị trực thuộc.

        Qua các tin tức trên, chúng tôi nghi chắc chắn Quân giải phóng sẽ đánh Buôn Ma Thuột. Quan niệm của tôi là:

        - Tỉnh Buôn Ma Thuột là một tỉnh ở cao nguyên trù phú nhất. Quân giải phóng cần phải hạ, để nền kinh tế ở đó không thể đóng góp một phần lớn ngoại tệ cho chính phủ Nguyễn Văn Thiệu.

        - Về chiến lược và chiến thuật, chiếm Buôn Ma Thuột thì tỉnh Quảng Đức sẽ bị cô lập cũng như tỉnh Phước Long. Hơn nữa, tỉnh Quảng Đức, kinh tế cũng gần như Buôn Ma Thuột, đã đóng góp một phần lớn cho chính phủ.

        - Có một cạnh sườn để đánh vào Plây Cu, Kon Tum và Phú Bổn.

        Ba yếu tố trên là điều kiện thuận lợi để chiếm hoàn toàn cao nguyên, mà một khi đã chiếm được cao nguyên, thì duyên hải là ở trong tầm tay, bởi vì chúng tôi cũng đã nghĩ: quân đội nào thắng cao nguyên, thì quân đội đó nắm chắc phần thắng miền Nam”.

        Lệnh tạm ngừng mọi công tác chuẩn bị ở phía bắc thị xã Buôn Ma Thuột đã làm cho anh em dưới rất lúng túng, các chủ nhiệm pháo binh, xe tăng, công binh, thông tin và cả ban chỉ huy trung đoàn 95B mới vào, ngồi đứng không yên. Ai nấy đều lo lắng có khả năng không thực hiện đúng theo yêu cầu của kế hoạch. Hướng bắc là hướng tiến công chủ yếu bằng hai mũi: đông bắc và tây bắc, lại cũng là nơi tập trung nhiều binh khí kỹ thuật hơn, thì cũng là hướng mà đối phương đề phòng nhiều nhất. Ngoài hệ thống cứ điểm dày đặc: Thuần Mẫn, Chư Nga, Me Van, Bản Đôn và những khu tập trung dân, khu nào cũng có ít nhất một trung đội dân vệ, từ đầu tháng 3 đến nay, liên tục đi sục sạo. Càng gần đến ngày nổ súng càng phát hiện thêm nhiều triệu chứng, càng đề phòng tợn.

        Sau khi đã cân nhắc kỹ, để hạn chế bớt những hoạt động nói trên của đối phương ta chủ trương dùng một lực lượng nhỏ, vừa đủ bảo đảm diệt gọn cứ điểm Chư Xê ngày 7 tháng 3. Sau 40 phút, dứt điểm. Trung đoàn 53 co ngay về thị xã.

        A75 còn khêu gợi, cần mở rộng địa bàn hơn nữa để được rảnh tay khi đánh vào mục tiêu chính, đồng thời chuẩn bị điều kiện để sau này đánh viện được thuận lợi. 6 giờ sáng ngày 8 tháng 3, một trung đoàn thuộc sư đoàn 320, được tăng cường ba khẩu pháo 85 và hai khẩu 105 đánh quận lỵ Thuần Mẫn ở bắc Buôn Ma Thuột. Sau 20 phút chiến đấu diệt 1 tiểu đoàn bảo an, cơ quan chi khu, hai trung đội cảnh sát, bắt 121, giết 219. Quận trưởng chạy thoát.

        Lúc bấy giờ, Phú mới giật mình, thấy Buôn Ma Thuột bị uy hiếp nghiêm trọng. Lập tức ông ta dùng máy bay đưa liên đoàn biệt động quân 21 đến sân bay Hoà Bình, rồi từ đấy tiến về Buôn Hồ. Mặc khác, khẩn thiết xin Sài Gòn tăng viện thêm cho Tây Nguyên một liên đoàn biệt động quân nữa.

        Pháo nòng dài của ta, đến giờ phút này vẫn chưa chiếm lĩnh xong trận địa, chưa đặt được đài quan sát, nên không khống chế được.

        Sáng ngàu 9 tháng 3, Phú dùng trực thăng đi thị sát thị xã Buôn Ma Thuột và chỉ thị ba điểm:

        - Cử đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn 23, làm tư lệnh chiến trường Đắc Lắc.

        - Kiểm soát lại hệ thống phòng thủ thị xã.

        - Phân phối và phân tán các kho xăng, kho đạn.

        Rồi chuồn thẳng. Kể ra, cách đối phó như vậy, giản đơn thật. Liền trong đêm đó, ta nổ súng đánh Đức Lập.

        Trời vừa hửng sáng. Nhưng trong thung lũng âm u này, sương mù còn dày đặc. Bầu không khí tĩnh mịch trước giờ nổ súng làm rạo rực lòng người. Những lô cốt địch dần dần hiện ra rõ nét trong các kính ngắm của pháo 85 và 122. Trong sở chỉ huy, đồng chí trợ lý tác chiến, ghì lấy ống nghe, cho dính chặt vào tai, nheo mắt như muốn loại trừ mọi ảnh hưởng của các giác quan khác, để cho thính giác được tập trung hơn, cố không để sót một từ nào của đầu dây nói bên kia.

        - A lô, a lô, thấy rồi hả? Mấy lô cốt? Lô cốt nào? Đã xác định được lô cốt mẹ chưa?

        Lật cánh tay, vén áo lên xem, nhìn đồng hồ: 5 giờ 30 phút.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 07:50:06 pm

        Theo sự phân công trong bộ chỉ huy, trung tướng Hoàng Mình Thảo và đại tá Đặng Vũ Hiệp đã ra sở chỉ huy tiền phương chiến dịch, cạnh bờ sông Srepok từ đêm hôm trước, thiếu tướng Vũ Lăng và tôi vẫn còn phải nằm lại ở sở chỉ huy cơ bản để trực tiếp chỉ huy trận đánh Đức Lập, đồng thời chỉ huy việc chiếm lĩnh các cánh quân đánh vào Buôn Ma Thuột, vì trong lúc này, đường dây thông tin giữa sở chỉ huy tiền phương với tất cả các cánh chưa nối được.

        Ở hướng Đức Lập phải diệt một lần 5 cứ điểm có cái có cả một tiểu đoàn quân Cộng hoà, đâu có phải là một trận đánh nhỏ. Nhưng thiếu tướng Vũ Lăng cũng như tôi, đều đặt rất nhiều tin tưởng vào sư đoàn 10. Một khi đã chiếm lĩnh được thuận lợi, thì chắc chắn là sẽ giải quyết xong thôi. Dù đối phương có sớm biết đề phòng, cơ động cả hai tiểu đoàn của trung đoàn 53 và hai chi đội thiết giáp đang ở thị xã Buôn Ma Thuột ra đây, để phản kích cứu nguy cho Đức Lập; dù bộ tư lệnh sư đoàn 10, gần như đã trắng tay, không còn một đơn vị nào làm lực lượng dự bị, chúng tôi cũng không một chút lo ngại, vì cự ly Đức Lập-Buôn Ma Thuột khá xa, những trên 50 kilômét; nếu có ra đến đây, thì cũng phải mất nhiều thời gian. Nơi đang có nhiều vấn đề phải xử trí hơn, vẫn là Buôn Ma Thuột. Và sự tính toán của chúng tôi đã không sai. 5 giờ 35 phút ngày 9 tháng 3 năm 1975 pháo bắn dồn dập theo kế hoạch hoả lực đã vạch ra từ trước, nhất là ở căn cứ hành quân 23 ở Đức Lập. Địch chống trả yếu ớt. Hơn một giờ sau, mấy chiếc xe tăng xông ra phản kích, bị trung đoàn 66 hạ ngay tại chỗ. Sau hai tiếng đồng hồ, giải quyết xong. Ở cứ điểm Núi Lửa, nơi có một tiểu đoàn bảo an đóng, trung đoàn 23 cũng dứt điểm sau 20 phút chiến đấu. Chỉ riêng tại quận lỵ Đức Lập, cuộc chiến đấu kéo dài. Một phần vì địch ở đây rất ngoan cố, viên chỉ huy tiểu khu nhất định không đầu hàng - phần khác, vì sau khi giải quyết xong căn cứ 23, lực lượng phải vận động sang, đánh trong hành tiến, nên việc chỉ huy, hợp đồng có phức tạp hơn. Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, tăng thêm hai tiểu đoàn bộ binh nữa mới dứt điểm được. Cùng ngày một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 28 và một tiểu đoàn đặc công đánh chiếm Đắc Song, còn ở Đắc Sác thì vừa nghe pháo ta bắn, địch đã bỏ chạy rồi. Kết quả sau hai ngày chiến đấu ở khu vực Đức Lập, ta diệt tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 53, một tiểu đoàn bảo an, thu 14 pháo, 20 xe tăng. Trung đoàn phó trung đoàn 53 và quận trưởng Đức Lập chạy thoát. Đúng theo kế hoạch, khi giải quyết xong căn cứ 23, Núi Lửa, thì tiểu đoàn 6 trung đoàn 24, sư đoàn 10 lập tức cơ động bằng ô tô để mờ sáng ngày hôm sau có thể tham gia chiến đấu ở thị xã Buôn Ma Thuột và sau đó hai ngày thì toàn bộ trung đoàn 66 cũng ra đến nơi.

        Đồng chí Vũ Lăng và tôi vô cùng sốt ruột, muốn đến ngay sở chỉ huy tiền phương, vì biết rằng đêm nay, các đơn vị bước vào chiếm lĩnh, là giai đoạn rất phức tạp, thường hay phát sinh vấn đề. Báo cáo xin ý kiến anh Tuấn thì nhận được chỉ huy như sau: “Các đồng chí chỉ được rời sở chỉ huy cơ bản khi nào giải quyết xong Đức Lập, và anh Thảo nắm được tất cả các cánh quân”. Lại kẹt về vấn đề thông tin liên lạc đây. Nguyên nhân là vì, sở chỉ huy cơ bản đã được thiết lập từ trong thời kỳ chuẩn bị chiến dịch, mạng lưới thông tin liên lạc với tất cả các nơi đều đã được tổ chức vững chắc; trái lại sở chỉ huy tiền phương thì mới xây dựng được mấy hôm gần đây thôi. Hôm làm kế hoạch hiệp đồng, bộ tư lệnh đã nhấn khá mạnh đến vấn đề thông tin, nhất là vấn đề liên lạc giữa sở chỉ huy và các cánh quân trên hướng bắc. Do đó, suốt từ sáng ngày 8 tháng 3, khi được lệnh tiếp tục làm công tác chuẩn bị, để cho thật bảo đảm, chính uỷ và chủ nhiệm chính trị của trung đoàn thông tin, kẻ ở phía đông sông Srepok, người ở phía tây sông, cách nhau mấy chục cây số, mỗi người cầm một đầu dây tìm gặp nhau tại bờ sông, để móc nối với nhau. Mặc dù hai người đã quy định từ trước điểm gặp nhau, nhưng suốt cả ngày hôm ấy vì phải tránh đồng bào, nên đi lạc. Trong một đêm, phải chỉ huy chiếm lĩnh 12 đơn vị trung đoàn trên tất cả các hướng, cách nhau 30-40 kilômét, vừa bộ binh vừa binh chủng, vừa chiến đấu, vừa phục vụ chiến đấu, trong điều kiện đường sá, tuy có phần dựa vào đường có sẵn, nhưng phải khắc phục mìn, lựu đạn và những tốp địch chốt lẻ tẻ dọc đường; có hướng phải vượt sông, v.v… nên khá vất vả.

        Trên hướng bắc, các đồng chí Nguyễn Năng và Phí Triệu Hàm trực tiếp chỉ huy. Vừa chập tối, công binh đã toả ra làm đường cơ động; còn bộ đội đặc công, thì đã lọt vào sân bay thị xã, nằm nép mình dưới bụng các trực thăng. Các đơn vị bộ binh nhích dần đội hình lên theo. Pháo binh yểm hộ cho cánh này cũng chiếm lĩnh được sớm. Đạn dược thì đã có các đoàn bộ binh đi bổ sung, ùn ùn đưa lên. Trên hướng tây bắc, bộ đội đi lạc suốt cả đêm. Pháo binh của cánh này đến cách vị trí một kilômét, không thấy người đến đón, hạ càng nằm chờ.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 11:14:07 pm

        Trên hướng tây, bộ đội đặc công cũng đã lọt vào “túc trực” trong các kho Mai Hắc Đế, còn pháo thì đang bị sa lầy.

        Ở hướng nam, trong lúc hành quân chiếm lĩnh, gặp đồng bào. Phải tạm giữ hàng trăm người và tạm dừng cạnh đồn tiền tiêu địch, cách thị xã 10 kilômét.

        Vào khoảng quá nửa đêm, trên hướng đông bắc, khi vừa đến vị trí chiếm lĩnh, còn cách mục tiêu 3 kilômét, một chiến sĩ vô ý làm nổ một quả lựu đạn, 3 hy sinh, 7 bị thương. Địch chưa có phản ứng gì. Hình như chúng đã quen tai với những tiếng nổ giữa đêm khuya. Cùng lúc ấy một đơn vị cao xạ của ta vào chiếm lĩnh trận địa, cách thị xã 7 kilômét, gặp dân vệ gác đường. Bọn này chạy về ấp báo cáo. Cả thị xã đang ngủ yên, bỗng nhiên ở các khu quân sự náo nhiệt hẳn lên: báo động. Lúc này là 1 giờ 55 phút ngày 10 tháng 3.

        Bộ phận đặc công, ém ở sân bay thị xã, chớp thời cơ đánh luôn. Theo kế hoạch, các cánh đều lấy tiếng bộc phá nổ làm hiệu lệnh tiến công. Lập tức các pháo thì nhau nhả đạn vào các mục tiêu đã được phân công. Đèn vụt tắt, địch chống trả yếu ớt. Trong nháy mắt, ta làm chủ các mục tiêu quan trọng sân bay thị xã, kho Mai Hắc Đế và một số nơi khác.

        Những loạt phát sáng, từ các căn cứ của địch vút lên. Những đèn dù lơ lửng, soi sáng kêu cứu liên tục. Đối với các đơn vị chúng ta, ánh sáng này quý hoá vô cùng: pháo dễ dàng chỉnh hoả lực, các đơn vị bộ binh tranh thủ nhích đội hình lên. Trên hướng tây bắc, các pháo thủ xúm nhau mới lôi được một khẩu pháo bị sa lầy từ hồi đầu hôm. Đến 5 giờ sáng, cánh đông bắc đã chiếm lĩnh được các vị trí có lợi, một bộ phận đã thọc sâu vào đến ngã sáu, trung tâm thị xã. Lợi dụng lúc pháo bắn, xe tăng mở hết tốc lực, tiến. trời sáng dần, địch cũng gượng lại dần, sự chống cự cũng càng quyết liệt hơn. Bộ binh trong các lô cốt, trước cổng các doanh trại, ở các ngã ba, ngã tư đường, có trang bị tên lửa chống tăng và có cả xe thiết giáp, điên cuồng phản kích, nhưng không kết quả. Hết đợt này đến đợt khác, ta liên tục tiến công và cố phát triển rộng đầu cầu ra, đến 15 giờ chiếm được tiểu khu, một mục tiêu quan trọng trong thị xã, sau đó chiếm luôn khu hành chính và khu quân cảnh. Riêng cánh đông bắc này, trong ngày diệt 400, bắt 500, bắn cháy 5 xe tăng, bắt sống 5 xe tăng, bắn rơi 3 máy bay A37, phá huỷ 8 trực thăng.

        Trên hướng đông bắc, trung đoàn 2, sư đoàn 316 có nhiệm vụ đánh vào căn cứ pháo binh và khu thiết giáp. Đồng chí Hải Bằng chỉ huy cánh này, chỉ mới nắm được hai tiểu đoàn, tăng pháo vẫn chưa tìm ta. Khi bộ binh lên mở cửa, hoả lực trong ba cứ điểm bắn ra rất rát, đơn vị bị thương vong vì thiếu yểm trợ, cả buổi không nhích lên được một bước nào. Trung đoàn đề nghị pháo chiến dịch chi viện. Sau nửa giờ, kho đạn giữa trận địa pháo của địch nổ tung. Lợi dụng kết quả này ban chỉ huy trung đoàn 148 - lúc bấy giờ mới nắm thêm được mấy chiếc xe tăng - nhảy lên xe, dẫn tiểu đoàn 4 xung phong vào khu thiết giáp, đồng thời tung lực lượng dự bị ra cùng với xe tăng tiến công vào khu pháo binh. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 16 giờ thì bắt được liên lạc với trung đoàn 95B, ở giữa thị xã.

        Trên hướng tây nam, sáng sớm ngày 10 tháng 3, trung đoàn 174 chiếm được cao điểm Chư Duê. Địch từ hậu cứ sư đoàn 23 ra phản kích quyết liệt. Vì không nắm được xe tăng và pháo binh, trung đoàn phải dùng hoả lực đi cùng, diệt từng hoả điểm, tiến rất chậm. Đến trưa, báo cáo đã chiếm được sư đoàn bộ 23, kỳ thực chỉ mới đánh đến khu tiếp liệu, còn cách mục tiêu một khoảng khá xa. Việc nhầm lẫn này đã gây ra khá nhiều rắc rối trong sở chỉ huy: các trợ lý tác chiến thì báo cáo đã chiếm được rồi, nhưng bên quân báo thì bảo chưa. Ngồi nghe, chẳng biết đâu mà lần.

        Tiến song song với trung đoàn 174 là mũi thọc sâu gồm có tiểu đoàn 4 của trung đoàn 24 và một tiểu đoàn xe tăng. Bộ binh đã hành quân bộ từ đầu hôm, còn cơ giới thì lợi dụng pháo bắn và pháo sáng của địch, mở hết tốc lực, từ vị trí tập kết, lao nhanh trên đường cái lớn, tiến một mạch về thị xã, nhờ có đường điện cao thế làm lộ tiêu. Khi còn cách mục tiêu 3 kilômét, tạm dừng, đón bộ binh lên xe, 7 giờ đến tuyến bắn. Tất cả các loại súng của hai binh chủng thì nhau nhả đạn. 8 giờ mở cửa, thọc sâu. Địch tập trung hoả lực bắn vào đội hình, nhưng xe tăng cứ thọc thẳng vào sâu bên trong, bỏ qua khu Mai Hắc Đế và các lô cốt dọc đường, rồi đánh quật trở lại. Máy bay lồng lộn ném bom bừa bãi vào các dãy nhà trong khu truyền tin, quân y nhưng không ngăn nổi sức tiến công của đoàn quân sắt thép này. Đến chiều, báo cáo là đã chiếm được sở chỉ huy sư đoàn 23, kỳ thực cũng chỉ đến khu thông tin thôi. Lần thứ hai trong ngày cuộc tranh luận giữa hai cơ quan tác chiến và quân báo lại nổ ra, và phần đúng lại thuộc về những người đã nghe lỏm được địch đang ra lệnh cho nhau chuẩn bị đánh phản kích. Tuy nhiên, trong đây ấy, tiểu đoàn 4 cũng áp sát được vào rìa phía tây sư đoàn bộ 23.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 11:17:58 pm

        Ở hướng nam, năm giờ sáng, ta đánh vào một đại đội địa phương trên cao điểm 491. Chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ, giải quyết xong. Để lại 1 tiểu đoàn chiếm lĩnh, còn đại bộ phận thuộc 2 tiểu đoàn 7 và 8 thuộc trung đoàn 149 thì tiến thẳng về thị xã, đánh vào khu hành chính và nhà thờ quân đội. Đến 8 giờ sáng, một tiểu đoàn thuộc liên đoàn biệt động quân 21 của địch, từ Đắc Lý, đông bắc thị xã tiến vòng về phía nam, phản kích định chiếm lại sư đoàn bộ 23 và kho Mai Hắc Đế. Ý định trước tiên của chúng là phải chiếm lấy điểm cao 491 để làm bàn đạp. Được mấy chiếc xe tăng chi viện, nên chúng đánh rất quyết liệt. Tình huống rất gay go. Trước một kẻ địch đông hơn ta gấp bội, tiểu đoàn phòng ngự ta chiến đấu rất ngoan cường, sư đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy đã phải tung đại đội dự bị ra và động viên mọi người trong sư đoàn bộ quyết giữ lấy cao điểm. Máy bay rà sát ngọn cây để chi viện cho bộ binh, vì so với các hướng khác thì lực lượng cao xạ của ta ở đây yếu hơn nhiều nên chúng mặc sức tung hoành.

        Ở sở chỉ huy, khi được tin này, mọi người lấy làm ngạc nhiên, vì không nắm được liên đoàn biệt động quân đã về đây từ trước, nên các đồng chí quân báo, sau khi ra soát xét lại, vẫn chưa xác định được đơn vị nào lại có thể ra phản kích; còn các cơ quan tác chiến thì lại căn cứ vào báo cáo của các đợt phản công. Mãi đến chiều, sau khi đánh lui các đợt phản công, bắt sống được 2 xe tăng và tên đoàn trưởng, sự việc mới rõ ràng. Khai thác ngay tại trận, vừa nói rõ phiên hiệu, tên này vừa chửi ngay bọn cấp trên. Hắn nỏi:

        “Bộ chỉ huy sư đoàn 23 là cả lũ ăn hại. Chúng tôi đã nói với họ, kinh nghiệm Tết Mậu Thân là các ông sẽ đánh từ phía nam lên, vì các ngả đường trên các hướng bắc, đông, tây đều đã bị chặn cả rồi. Lẽ ra phải chiếm phía nam này trước đây vài ngày:, ý hắn muốn nói rằng chiếm phía nam là giữ được Buôn Ma Thuột. Trong lúc đang đánh nhau, không ai buồn để ý đến ý kiến của nó cả.

        Khu nhà lao, tuy không kiên cố, chỉ có mấy cái lô cốt, ít dây thép gai, nhưng rất khó giải quyết. Theo chỉ thị của anh Tuấn, không được để đạn lọt vào trong nhà vì có anh em ta ở đây. May quá, khi tiểu đoàn 8 từ nhà ngân khố phát triển sang, vừa nổ một vài loạt súng, bắn chỉ thiên, lính gác đã ù té chạy. Ta nhanh chóng chiếm ngay các lô cốt. Cơ sở đã đưa được anh em tù ra an toàn.

        Ở sở chỉ huy tiền phương, Trung tướng Hoàng Mình Thảo và đại tá Đặng Vũ Hiệp đã nắm được các cánh quân trước giờ nổ súng. Chiến sự ở Đức Lập cũng đã căn bản kết thúc, nên sáng ngày 10 tháng, anh Tuấn đồng ý cho anh Vũ Lăng và tôi rời sở chỉ huy cơ bản để đến đấy. Tất cả chúng tôi đều muốn bay ra đấy ngay. Các đơn vị đang đánh nhau quyết liệt, tình hình diễn biễn từng giây từng phút, mà mình thì ngồi rục trong xe. Để cho nhanh, chúng tôi đi theo đường triển khai của xe tăng đếm hôm trước. Đường xấu quá, xóc kinh người. Mặc, vẫn phải phóng hết tốc lực.

        Càng tiến ra phía trước, tiếng súng nghe càng rõ, gan ruột cứ lồng lên. Vừa đến nơi, Bộ tư lệnh chiến dịch họp ngay để nhận định tình hình trong ngày. Ta đã chiếm được đại bộ phận các mục tiêu trong thị xã: sân bay, tiểu khu, khu hành chính, hậu cứ của thiết giáp, pháo binh, khu truyền tin, quân y và các vị trí quan trọng ở cùng phụ cận như cao điểm Che Duê, Chư Bua, 491, 576, v.v… thế rất vững. Tuy vậy, đầu não của địch và một bộ phận lực lượng vẫn còn trong thị xã. Chúng còn kiểm soát được một số nơi quan trọng, đặc biệt là lực lượng cơ động ở ngoài rìa thành phố. Lúc này ta đã phát hiện được liên đoàn biệt động quân 21 từ Đắc Lý về căn cứ 45. Chúng còn có khả năng phản kích mạnh. Chủ trương của ta lúc bấy giờ là tập trung lực lượng, nhanh chóng giải quyết sư đoàn bộ 23 và các mục tiêu còn lại, đồng thời triển khai nhanh đánh quân giải toả, khống chế bằng được sân bay Hoà Bình hãy còn chống cự mạnh và những nơi địch có khả năng đổ bộ bằng đường không.

        Có một việc làm cho mọi người phải suy nghĩ lúc bấy giờ. Vào khoảng giữa trưa hôm ấy, có ba chiếc trực thăng ở thị xã, bay lên: một chiếc bị bắn rơi ngay tại chỗ, một chiếc lủi trốn, còn một chiếc đã bốc lên rồi, lại cố sống cố chết hạ xuống ngoài rìa phía đông thị xã, trong nháy mắt, bốc lên ngay rồi chuồn thẳng về hướng bắc.

        Ai đến? Ai đi? Để làm gì? Nhân vật nào mà quan trọng đến thế?


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 11:19:43 pm

        Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân đoàn 2 chăng? Không thể liều được. Ai mà dám liều lĩnh xông ra trước lửa đạn như thế này? Đến để làm gì? Đến để tăng cường chỉ huy sao lại bốc đi ngay? Như vậy, thì có thể kết luận là trực thăng bốc người đi, chứ không phải người đến. Tư lệnh phó sư đoàn 23 chăng hay là tiểu khu trưởng? Đều không đúng cả, vì hai người này, đang còn phải chỉ huy. Giữa cảnh nước sôi lửa bỏng như thế này, mà chỉ huy đánh bài chuồn, thì sự đề kháng ở thị xã, ngày mai ra sao? Cuối cùng, chúng tôi nghiêng về giả thuyết, có một nhân vật nào đó, không phải là người chỉ huy trực tiếp-nhưng rất quan trọng-có thể là một trùm CIA đánh bài chuồn.

        Câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Ít lâu sau trong báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ có đoạn viết: “Liên đoàn biệt động quân 21 đi giải vây cho Buôn Ma Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975 bị Lê Trung Tường, tư lệnh sư đoàn 53 ra lệnh huỷ bỏ cuộc phản kích, để rút một tiểu đoàn, bảo đảm bãi đáp ngoài rìa tỉnh lỵ để bảo đảm cho vợ con y di tản”. À ra thế! Tính tò mò do nghề nghiệp bắt các đồng chí quân báo đi tìm cho được mấy tù binh là nhân chứng câu chuyện này để hỏi cho rõ ngọn ngành. Thì ra, báo cáo của DAO cũng chỉ đúng được một nửa sự thật mà thôi. Chẳng là trong những ngày đầu tháng 3 năm 1975, Tường cũng như Phú, đinh ninh rằng, ta sẽ đánh Plây Cu, nên vội vã đưa vợ về Buôn Ma Thuột, với một sư mệnh cực kỳ quan trọng và bí mật, la mang theo một số quỹ công rất lớn. Nếu Plây Cu bị đánh, thì sư trưởng đã có sẵn trực thăng trong tay, vèo về Buôn Ma Thuột, và khai báo với Thiệu là số tiền này, đã rơi vào tay Việt Cộng. Có trời mà điều tra ra. Ai dè, Buôn Ma Thuột mới là nơi có chiến sự, cho nên lệnh của sư trưởng là phải cứu cho được phu nhân bằng bất cứ giá nào. Theo lời khai của Vũ Thế Quang, sư đoàn phó, thì suốt cả buổi sáng hôm đó, phần lớn cán bộ tham mưu của sư đoàn phải tập trung vào để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này. Chỉ huy đã rối, càng rối thêm.

        Đã có người hỏi Quang:

        - Thế lúc bấy giờ, nếu để mặc con mẹ ấy, tập trung vào chỉ huy có được không?

        - Không được, Tường là sư trưởng, tôi là sư phó, kỷ luật nhà binh mà.

        Trở lại phòng tập họp của Bộ chỉ huy chiến dịch, trong một góc phòng, một đồng chí cán bộ áp sát tai vào máy thu thanh bán dẫn, cố nghe cho được bản tin buổi chiều của đài BBC.

        - Tin nói về Buôn Ma Thuột đấy.

        Trung tướng Hoàng Mình Thảo nói:

        - Vặn to lên cho mọi người cùng nhe. Ta nghỉ một tý.

        “Tại thành phố Buôn Ma Thuột, thủ phủ cao nguyên trung phần, Việt Cộng đã pháo kích suốt đêm. Một bộ phận đặc công đã lọt được vào thành phố, nhưng sáng ra, đều bị đánh bật ra xa. Tình hình trong thành phố trở lại yên tĩnh. Quân đội Cộng hoà đang truy quét tàn quân…”

        Chưa hết. Tiếp đó, đài phát thanh của quân đội Cộng hoà còn loan báo một tin giật gân hơn. Cũng trong ngày 10 tháng 3, quân đội Cộng hoà có bắt được mấy chiếc xe tăng của Quân giải phóng ở Buôn Ma Thuột và Thiệu đã đặt giải thưởng đặc biệt cho những đơn vị nào đã lập được những kỳ công như thế nữa.

        - Kể ra thì các đài phát thanh nói trên, có lúc cũng có ích đấy chứ, vì trong lúc này, chúng ta đang cần “miếng” hơn là “tiếng”.

        Cả phòng họp cười ran. Họ lừa bịp nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ, lừa bịp luôn cả với tổng thống Mỹ nữa.

        Màn đên phủ lên trên cái thị xã hẻo lánh này, mới đêm trước, hãy còn rực sáng ánh đèn neong. Chốc chốc lại một loạt hoả châu, từ những ổ đề kháng còn sót lại, vút lên giữa bầu trời tối om. Một vệt ánh sáng vút lên giữa không trung xé toác không gian u ám, lơ lửng bay theo chiều gió, hạ dần, yếu dần rồi tắt hẳn. Cảnh vật như ngập sâu hơn dưới màn đêm dày đặc. Đây không phải là những dấu hiệu báo động như đêm hôm trước, mà là cách kêu cứu của địch. Chúng báo tin cho nhau bằng ánh sáng. Từng loạt đạn pháo rít lên trong không trung, trên đỉnh thị xã, tiếng nổ từ các sân bay Hoà Bình, căn cứ 45 ở hướng đông vọng lại; những tràng liên thanh đanh và giòn chở rộ lên ở các khu vực quân sự… Đêm nay, bọn ngụy ở đây sống với tâm trạng hãi hùng của con cá nằm trên thớt.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 11:22:06 pm

        Về phía ta, bộ tư lệnh sư đoàn 316, suốt cả tuần lễ nay, từ lúc chia tay nhau, mỗi người đi theo một hướng, một cánh quân, đến giờ phút này, vẫn chưa liên lạc được với nhau bằng điện thoại. Làm thế nào mà tổ chức trận chiến đấu ngày mai cho tốt? Một vài lời trao đổi ngắn gọn trong lúc này, vàng ngọc biết bao nhiêu! Những người chiến sĩ thông tin của sư đoàn, cảm thông với nỗ lo lắng băn khoăn của cấp chỉ huy, đã thấy được trách nhiệm rất nặng nề của mình. Những chàng trai này, mới năm ngoái còn ngồi trên ghế nhà trường, nghe kể chuyện cổ tích. Thế mà nay chính họ lại là những người trong cuộc. Sinh ra và lớn lên trên đồng ruộng lúa, sau luỹ tre xanh, lần đầu tiên họ đặt chân lên mảnh đất nóng bỏng này, bàng hoàng, bỡ ngỡ như bước vào một thế giới huyền ảo: nhà cao, cửa lớn nguy nga, đường sá thênh thang, ngõ ngách chằng chịt. Tất cả đều vắng tanh, vắng ngắt, không một bóng người. Trận địa ban đêm không rộn rã, náo nhiệt như ban ngày, thậm chí có những lúc còn lặng lẽ đến kinh hoàng, nhưng cái chết không ở ngoài gang tấc: một khẩu tiểu liên, một quả lựu đạn gài đâu đó… Sương khuya phủ xuống đôi vai người chiến sĩ một cảm giác lành lạnh, nhưng họ vẫn cảm thấy nóng ran cả người, một sức mạnh vô hình, một sự thôi thúc cấp bách, đòi hỏi họ, nhất định trong đêm nay, phải tìm cho ra các sở chỉ huy đặt tạm đâu đó, trong một góc vườn tối om hay một căn nhà bỏ trống… Mỗi lần móc nối được một đầu mối, nghe bên kia đầu dây tiếng nói quen thân trả lời, là họ quên tất cả mọi gian lao, nguy hiểm. Chiến công của họ lặng lẽ, âm thầm, nhưng to lớn vô cùng. Họ đã làm dịu bớt nỗi lo âu của các cấp chỉ huy đang hồi hộp trông chờ, mà nhất định trận đánh ngày mai sẽ được tăng thêm sức mạnh rất nhiều, vì được hợp đồng chặt chẽ, trận chiến đấu sẽ kết thúc chóng vánh, chắc thắng.

        Quá nửa đêm, tư lệnh trưởng Đàm Văn Ngụy đã nói chuyện được bằng điện thoại với tư lệnh phó Hải Bằng. Ôi! Còn vui sướng nào hơn!

        Ngày 11 tháng 3, trời vừa sáng, chưa nhìn rõ mặt người. Không hiểu len lỏi từ ngõ ngách nào, tên Luật, đại tá tiểu khu trưởng Đắc Lắc, đã có mặt tại sư đoàn 23. Luật gặp Quang để tìm cách đối phó; nhưng quân lính đã rã rời về tinh thần và tổ chức, nên không giải quyết được vấn đề gì. Hy vọng duy nhất của chúng đều đặt vào liên đoàn 21 biệt động quân ở phía đông thị xã.

        Đến 6 giờ sáng, ta bắt đầu tiến công vào sư đoàn bộ 23 từ bốn mặt. Đây là một cuộc hợp điểm vô cùng đẹp mắt. Một đại đội của trung đoàn 95B, với bốn xe tăng, từ ngã sáu đánh vào mặt đông. Máy bay đến ném bom chặn đường. Hai xe tăng bị hỏng nhẹ, lập tức hai chiếc khác ở sau tiến lên thay thế.

        Tiểu đoàn 4 thọc sâu, với hai xe tăng, xông vào mở cửa. Kho xăng gần đấy bốc cháy, chắn ngang lối đi. Vòng lên phía bắc, bắt liên lạc với trung đoàn bộ binh phối hợp tiến công. Máy bay đến ném bom vào phía tây, trúng ngay đội hình bọn chúng. Luật và Quang ù té chạy ra rừng cà phê. Cơ quan của trung đoàn 24 đã chờ sẵn ở đây từ lâu, đón bắt được Luật, còn Quang thì chạy về hướng Nam.

        Trung đoàn 174, thành một mũi từ phía tây nam đánh lên, bắt liên lạc với tiểu đoàn 4 thọc sâu. Đài quan sát báo cáo có hai chiếc xe gíp, mở hết tốc lực, chạy về hướng Thọ Thanh ở tây nam thị xã, tiểu đoàn được lệnh truy quét hướng này đánh vào đài phát thanh. Chuột chạy cùng sao, Quang bị bắt, lúc 12 giờ tại Buôn A Lê. Trong đám người bị bắt, ngoài 2 đại tá, còn có nhiều người nước ngoài: hai thành viên của uỷ ban quốc tế núp trong nhà đại diện tổng lãnh sự Mỹ, cùng với 8 người dân ngoại quốc, một số nhà truyền giáo và gia đình…

        Chập tối, đài BBC vẫn còn ra rả: “Chiến sự đang diễn ra ác liệt, hai bên đang đánh nhau trên đường phố…”

        Ở dinh Độc Lập, Thiệu họp với Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang. Ông ta trải rộng tấm bản đồ lên mặt bàn và khẳng định: Buôn Ma Thuột quan trọng hơn Plây Cu nhiều và Quân đoàn 2 phải tử thủ bằng mọi giá. Quyết định này, theo Thiệu là xuất phát từ cán cân lực lượng bất lợi ở trong nước và khả năng viện trợ của Mỹ trong tương lai.

        Với ý định như, đài phát thanh quân đội Cộng hoà, ra rả hô hào: “Tử thủ, tử thủ Buôn Ma Thuột…”. Rủi thay, vì không nắm được ý đồ của Thiệu, nhà báo Pháp Paul Leandri đã dám nhạy bén và liều lĩnh đưa tin: Buôn Ma Thuột đã bị thất thủ.

        Lập tức, được gọi đến và bắn ngay tại chỗ.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 11:25:01 pm

Chương 11

TẠO THỜI CƠ MỚI

        Sáng ngày 11 tháng 3 trong lúc Buôn Ma Thuột, tiếng súng truy quét tàn quân địch còn đang nổ giòn, thì ở Hà Nội, thường trực Quân uỷ Trung ương họp.

        Trở lại nền nếp cũ của những năm trước đây, mỗi lần bước vào những đợt hoạt động lớn, có ý nghĩa chiến lược như tết Mậu Thân, chiến dịch Quảng Trị, hàng ngày, đến giờ giao ban. Thường trực Quân uỷ nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo tình hình. Để giảm bớt bận rộn cho dưới, các đồng chí trong Bộ Chính trị cũng đến dự họp, trao đổi tình hình, thảo luận chủ trương và có ý kiến chỉ đạo kịp thời các chiến trường. Lần này có một số đồng chí vắng mặt, nên chỉ có anh Ba, anh Trường Chinh, anh Sáu Thọ, anh Văn, anh Hoàn và anh Nghị. Ngoài ra còn có anh Thái, anh Tấn và anh Đạo.

        Anh Thái và anh Tấn báo cáo rất ngắn gọn diễn biến trận đánh ngày hôm qua và nhận xét: ta chuẩn bị tốt, nghi binh giỏi, nên giữ được bất ngờ, nổ súng đúng thời gian. Địch không phán đoán nổi ý đồ của ta, sư đoàn dù vẫn còn đang bị giam chân ở Đà Nẵng, tinh thần chiến đấu xuống rất nhanh. Đề nghị phương hướng phát triển là Phú Bổn, đường 19, bao vây Plây Cu, Kon Tum. Trong lúc chưa điều động lực lượng lớn đến kịp thì dùng lực lượng đặc công và pháo binh đánh vào thị xã, làm cho địch nguy khốn, tiến tới dứt điểm hai thị xã này. Trước mùa mưa năm 1975, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp biểu lộ sự đồng tình, nhất trí, nói:

        - Mặc dù ta đã có dự kiến, nhưng vẫn chưa thấy được hết vấn đề là địch sẽ suy sụp nhanh. Mới chỉ là trận đánh mở đầu thôi, mà đã thấy xuất hiện tình hình mới… tình hình thường phát triển trước sự suy nghĩ của chúng ta. Đối với Phú Bổn, tôi đồng ý với đề nghị của Bộ Tổng tham mưu. Nhưng chưa nên lấy danh nghĩa của Bộ Chính trị hay Quân uỷ, mà chỉ lấy danh nghĩa của Bộ để khêu gợi với anh em trong đó trước đã. Còn chờ vài hôm nữa xem ra sao. Trong lúc này, ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc phối hợp chiến trường. Trị Thiên bao giờ mới nổ súng? Khu 8 hãy còn im ắng quá. Bộ Tổng tham mưu cần giúp đỡ những nơi nói trên. Đối với chiến trường Tây Nguyên bây giờ không nhất thiết phải đánh vào công sự vững chắc, mà phải tìm cách bao vây rồi truy kích để tiêu diệt. Như vậy, ít tốn xương máu hơn.

        Đồng chí Lê Đức Thọ đứng dậy nói rất sôi nổi:

        - Phải mạnh dạn hơn nữa, thắng đến đâu, đẩy tới đó. Khu 5 phải tập kích vào Đà Nẵng, còn ở nam Tây Nguyên thì nên thực hiện đề nghị của Bộ Tổng tham mưu, nhưng trong tháng 5 này chứ không nên để chậm. Trước đây, ta dự kiến đến tháng 11, thì nay đã lạc hậu rồi. Ở miền Đông, sư đoàn 7 nên hướng ngay về phía đường 20, Bảo Lộc, Đà Lạt.

        Anh Trường Chinh:

        - Nắm vững tư tưởng cách mạng tiến công. Về cách đánh thì vẫn phải lấy vấn đề tiêu diệt là chính. Phải nắm vững mối quan hệ giữa tiêu diệt và tiêu hao: tiêu diệt và giải phóng đất đai.

        Anh nói tiếp:

        - Trong lúc này, nếu chỉ nắm vấn đề tiêu diệt không thôi, thì chủ quan, cứng nhắc và máy móc; nói tiêu diệt là bao gồm cả giết, bắt sống, làm tan rã, gọi hàng. Đánh rồi thì phải chiếm. Trong lúc này, ở miền Nam, hoàn toàn có khả năng mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng. Làm như vậy thì có vấn đề phải giải quyết đời sống cho nhân dân. Phải sớm nghĩ đến việc giải phóng Huế, Đà Nẵng, giải phóng Quảng Trị đến Quảng Nam.

        Khoan thai, anh Ba đứng dậy phát biểu, giọng đầy xúc động:

        - Trước đây ta đặt vấn đề hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ giải phóng miền Nam trong hai năm. Năm ngoái ta có Khu 9, Thượng Đức; năm nay ta có Phước Long, Buôn Ma Thuột. Ta còn có thể đẩy mạnh hơn nữa. Đây có phải là bước đầu của cuộc tổng tiến công không? Các đồng chí hãy suy nghĩ đi…

        Nhìn lên tấm bản đồ treo trên tường, anh vừa chỉ vừa nói:

        - Dân ta, quân đội ta phấn khởi. Ở Sài Gòn, nhân dân rất phấn khởi. Phía bắc: Huế, Đà Nẵng, ta có hai quân đoàn, phía nam ta cũng có hai quân đoàn… lúc này, phải nắm chắc lực lượng chủ lực trong tay, không nên phân tán nắm lấy thời cơ, đẩy mạnh Sài Gòn… chuẩn bị phát triển nhanh.

        Hội nghị bế mạc lúc 11 giờ 30 phút.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 11:30:13 pm

        Cùng lúc ấy ở thị xã Buôn Ma Thuột tiếng súng truy quét địch cũng chấm dứt.

        Sự nhất trí cao độ của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đem đến sức mạnh vô cùng to lớn cho các chiến trường và tạo nên bước ngoặt lịch sử này. Dân tộc Việt Nam, lại phát huy truyền thống của Phù Đồng Thiên vương thuở trước, vươn mình đứng dây, cầm gậy sắt, nhảy lên ngựa sắt, lao lên phía trước.

        Hôm sau, anh Tuấn nhận được điện của Quân uỷ Trung ương hướng dẫn thêm:

        - Ở Buôn Ma Thuột, vừa phát triển ra xung quanh, chú ý tiêu diệt các đơn vị còn lại, và sẵn sàng đánh phản kích. Càng tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, càng mở rộng phạm vi vùng giải phóng, thì khả năng chi viện của địch càng giảm.

        - Nhanh chóng phát triển về hướng Cheo Reo. Nên cho lực lượng đi trước bao vây ngay thị trấn này, đồng thời tiêu diệt địch ở trong vùng.

        - Từ bây giờ, hình thành ngay thế bao vây Plây Cu, khống chế chặt các con đường tiếp tế, chuẩn bị tiêu diệt thị xã này. Đối với Kon Tum thì cô lập để tiêu diệt sau.

        - Phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho chiến trường nam Tây Nguyên, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ thị cho Khu 5 lệnh cho sư đoàn 3 mở rộng phạm vi kiểm soát trên đường 19, thực hiện chia cắt chiến lược, bao vây và chuẩn bị tiêu diệt An Khê.

        Hướng phát triển về phía nam sẽ làm sau một bước.

        Trong quá trình phát triển tiến công, chú trọng nắm vững chủ lực, tránh phân tán. Phải có kế hoạch nhanh chóng củng cố và đảm bảo hậu cần. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhiệt liệt khen ngợi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, anh chị em công nhân viên, đã nêu cao tinh thần quyết thắng, chiến đấu anh dũng, mưu trí và sáng tạo, táo bạo và khẩn trương, giành thắng lợi lớn trong những ngày đầu của chiến dịch. Cần kịp thời nắm thời cơ thuận lợi, giành thắng lợi to hơn nữa.

        Như đã nói trên, dưới con mắt của ngụy quyền Sài Gòn, Buôn Ma Thuột không phải chỉ có giá trị về mặt chiến lược quân sự, mà về kinh tế cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Bản thân một số tướng tá ngụy, cũng có nhiều người có của chìm, của nổi ở đây cho nên việc phản kích để giành lại địa bàn quan trọng này phải đặt lên hàng đầu.

        Hai mươi bốn tiếng đồng hồ, sau khi ta làm chủ hoàn toàn thị xã, Thiệu vẫn còn ra lệnh “Phải giữ Buôn Ma Thuột bằng bất cứ giá nào; trách nhiệm chỉ huy thống nhất mặt trận này do tư lệnh sư đoàn 23, chuẩn tướng Lê Trung Tường đảm trách”.

        Phú nghĩ khác. Thị xã Plây Cu và con đường 10 đã ghi một ấn tượng rất sâu sắc vào đầu óc ông ta. Ông ta cứ nơm nớp lo sợ thị xã Plây Cu sẽ bị tiến công bằng xe tăng, ông ta có thể bị bắt làm tù binh một lần nữa, lo sợ chia cắt chiến lược; thậm chí đến ngày 12 tháng 3 sau khi mất Buôn Ma Thuột, ông ta vẫn đinh ninh cho đó là hoạt động nghi binh, chần chừ và do dự, chưa muốn tung lực lượng đi cứu viện; phải chờ đến lúc Thiệu ra lệnh, mới chịu thi hành.

        Về phần ta, nhiệm vụ chính trong lúc này là tiêu diệt địch còn lại trong vùng, chuẩn bị đánh phản kích, hai nhiệm vụ có liên quan chặt chẽ với nhau.

        Ở ngoại vi thị xã Buôn Ma Thuột, địch vẫn giữ các hậu cứ 45, 53, trường huấn luyện, Chư Nga, Châu Sơn, sân bay Hoà Bình… xa hơn một chút là Bản Đôn, Đạt Lý, Buôn Hổ, Phước An v.v… Trong ngày, trung đoàn 24 cùng một đại đội xe tăng tiến công vào hậu cứ 45 và trung tâm huấn luyện của sư đoàn 23. Sau hai giờ, giải quyết xong. Cùng lúc đó một bộ phận của trung đoàn 174, sư đoàn 316, tiến công địch ở cầu Srepok, bắt 300 tù binh. Ở phía đông, trung đoàn 9, sư đoàn 320 tiến công vào Buôn Hồ, đến 9 giờ sáng phát triển sang Chư Pao, Đắc Lý. Ngày 13 tháng 3, ta đánh chiếm Châu Sơn, giải phóng quận lỵ Lạc Thiện trên đường đi Đà Lạt; ngày 14 tháng 3 địch ở Bản Đôn ra hàng. Như vậy, chỉ trong vòng 2 ngày, tỉnh Đắc Lắc gần như hoàn toàn giải phóng.

        Thế nhưng ở sân bay Hoà Bình, trận chiến đấu kéo dài suốt cả một tuần lễ. Trong khu vực này có nhiều cứ điểm. Bên cạnh sân bay là các hậu cứ của các trung đoàn 44 và 53. Trước kia, đây là một trại lực lượng đặc biệt của Mỹ. Tất cả đều xây dựng trên địa hình bằng phẳng, trống trải, chung quanh có ba lớp dây thép gai, bên trong có một vành đai ụ đất, cách 15 thước có một hay hai cái hầm có bao cát chung quanh. Trong căn cứ của trung đoàn 53 lại có 10 chiếc hầm lớn, giành cho ban chỉ huy, có thể chống lại được các loại pháo cỡ lớn. Chu vi khoảng 1 kilômét, toàn bộ ở đây khoảng 1.000 tên.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Hai, 2017, 11:33:34 pm

        Ngày 10 tháng 3, sau khi ta nổ súng đánh vào sân bay thị xã, thì trung đoàn đặc công 198 đánh vào sân bay Hoà Bình. Ngay phút đầu, căn cứ trung đoàn 44, 53 bị tê liệt hoàn toàn. Ta làm chủ trận địa. Nhưng đến sáng, đặc công rút ra, thì địch hồi phục lại được và bắt đầu chống cự có tổ chức. Ngày hôm sau, trung đoàn 149, được tăng cường xe tăng, mở nhiều đợt tiến công, nhưng không có kết quả. Ngày 13 cũng không có tiến bộ gì hơn mà số thương vong thì cứ tăng dần. Máy bay địch cũng tập trung vào khu vực này để chi viện cho bộ binh chiến đấu. Sức chống trả của địch dường như được tổ chức chặt chẽ hơn những ngày trước. Ngày 14 tháng 3 Phú tung ra lực lượng đặc nhiệm gồm có trung đoàn 45, một tiểu đoàn của trung đoàn 44, một tiểu đoàn của liên đoàn biệt động quân 21, nhằm đánh vào phía tây đường 21, phối hợp với lực lượng còn lại trong sân bay Hoà Bình: một tiểu đoàn của trung đoàn 53 và bộ phận còn lại của các tiểu đoàn 72, 92 của liên đoàn biệt động quân 21.

        Trong sở chỉ huy chiến dịch, chúng ta theo dõi từng giờ, từng phút mọi hoạt động của địch, phán đoán thế nào chúng cũng sẽ đưa nốt lực lượng còn lại của sư đoàn 23 đến đây. Tôi nhớ trong Hố Nai Bộ Chính trị, lời phát biểu của đồng chí Trường Chinh, trước đây: “Phải tìm cách dăng một cái bẫy, buộc địch phải xông vào, để ta tiêu diệt”. Thì giờ đây cái bẫy ấy đang cài ra trước mắt đây rồi. Tất cả các ngả đường đều bị khóa chặt. Phương tiện duy nhất mà địch có thể đưa quân đến đây là trực thăng. Dù chúng có đông đến bao nhiêu, thì cũng chỉ là bộ binh đơn thuần với những vũ khí mang vác, nhiều lắm là mấy khẩu súng cối, súng không giật và nhất định phải nhỏ giọt đợt một. Mấy hôm đầu, còn được 7-8 chiếc Chinok, nhưng con số ấy cứ hao hụt dần xuốn 3 rồi 2, rồi 1 vì “lý do kỹ thuật”. Có một điều mà các tướng tá ngụy không bao giờ nghĩ ra: trên địa bàn Buôn Ma Thuột vốn có các hậu cứ, các trung đoàn của sư đoàn 23, cho nên, mỗi lần trực thăng đến đổ quân, thì một số lính vội vứt bỏ súng ống, cởi áo, cải trang làm thường dân, tìm cách móc nối, đưa cho được vợ con ra ngoài vòng lửa đạn.

        Về phần ta, thì sau khi giải phóng Đức Lập, sư đoàn 10 bàn giao toàn bộ chiến trường lại cho bộ đội địa phương và các lực lượng bảo vệ đường dây của đoàn Trường Sơn, đang ùn ùn kéo đến Buôn Ma Thuột. Sư đoàn 320, trung đoàn 95, trung đoàn 25 cũng đứng sát gần. Về vũ khí, đạn được, phương tiện thông tin, xe cộ thì chỉ tính riêng số chiến lợi phẩm thu được còn lớn hơn số dự trù cho toàn bộ chiến dịch gấp nhiều lần. Lần đầu tiên trong cuộc đời làm công tác chi viện ở Bộ Tổng tham mưu, tôi mới thấy lần này các đơn vị xin 1, yêu cầu nhận 2, 3…

        Khi hai tiểu đoàn 1, 2 của trung đoàn 45 vừa đổ bộ, tiến về phía sân bay, thì bị ngay trung đoàn 24 được tăng cường xe tăng pháo binh rất mạnh, đánh cho tan tác, phải rút về co cụm ở khu vực cao điểm 581, trong một vườn cà phê. Ngày 16 tháng 3, ta tiếp tục tiến công, chúng chạy về Phước An; đến hôm sau, sư đoàn 10 diệt nốt Phước An, địch lại lui về Chư Cúc. Sáng hôm sau, lại bị đánh, địch chia thàn từng tốp nhỏ chạy tản vào rừng.

        Nói đến vấn đề chỉ huy trong trận phản kích này, Legro, tuỳ viên quân sự Mỹ ở Sài Gòn viết: “Tư lệnh Lê Trung Tường bị thương nhẹ khi máy bay trực thăng chở ông ta bị trúng đạn ngày 10 tháng 3 và chính ông ta đã di tản, chuyển quyền chỉ huy sang đại tá Đức, thuộc lực lượng đặc nhiệm”. Như vậy là sau khi biết phu nhân đã lên trực thăng với túi tiền khá lớn, như đã nói trên thì Tường cũng bỏ cuộc. Vết thương chỉ cần băng bó qua loa, nhưng Tường vẫn đi nằm bệnh viện, tránh trách nhiệm về sự thất bại của sư đoàn.

        Sáng ngày 12 tháng 3, tiếng súng ở thị xã vừa chấm dứt thì ở sở chỉ huy chiến dịch cũng rời lên phía trước, gần quận lỵ Thuần Mẫn. Trung tướng Hoàng Mình Thảo và đại tá Đặng Vũ Hiệp, ở sở chỉ huy, phụ trách chun; Thiếu tướng Vũ Lăng đi theo sư đoàn 10, chỉ huy đánh địch phản kích, ở hướng đông; đại tá Nguyễn Năng đi chuẩn bị chiến trường ở hướng bắc; đại tá Phí Triệu Hàm và tôi ở lại thị xã Buôn Ma Thuột. Chúng tôi được giao nhiệm vụ giúp uỷ ban quân quản một số công tác trong những ngày đầu mới giải phóng: giữ gìn trật tự an ninh, phát triển lực lượng tại chỗ và chuẩn bị cho các lực lượng chủ lực phát triển chiến đấu trên các hướng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:13:28 pm

        Có một số ít người, trong lúc hỗn quân hỗn quan, chạy từ Buôn Ma Thuột về Nha Trang, đã không tiếc lời vu cáo Quân giải phóng trên đài Sài Gòn. Họ đã vẽ lên một bức tranh rất rùng rợn, hỗn loạn ở các thị xã, thị trấn mới được giải phóng. Sự thật là, chiều hôm ấy, khi bước chân đến nơi, chúng tôi lấy làm ngạc nhiên trước quang cảnh yên lành của một vùng đông dân còn mù mịt khói đạn. Những trận đánh nhau lẻ tẻ còn đang tiếp diễn cách thị xã không đầy 2 kilômét và xa hơn một chút, chiến sự ở sân bay Hoà Bình vẫn còn ác liệt; nhưng trong thị xã hoạt động đã gần như trở lại bình thuờng. Ở các căn cứ của quân đội Cộng hoà thì đổ nát hoàn toàn, những đám cháy còn âm ỉ dần dần bị dập tắt, nhưng ở các khu phố đông dân, nhà cửa hãy còn nguyên vẹn. Trên đường phố, lẻ tẻ đã có người đi lại. Chợ không đông, những cửa hiệu lớn cửa đóng kín mít, nhưng những quán hàng nhỏ lác đác đã có người mua bán. Trường Bồ Đề tấp nập người ra vào. Uỷ ban quân quản tạm dùng nơi này để cho ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện, đăng ký và nạp súng. Ngay tối hôm sau, cơ sở điện nước đã hoạt động trở lại bình thường. Cuộc truy quét tàn binh, ác ôn tiến hành êm ả. Bằng cách này hay cách khác, đồng bào đã phát hiện chỗ chúng ẩn nấp cho bộ đội, hoặc tự tổ chức thành đội ngũ để truy lùng. Những đội tự vệ cũng nhanh chóng được thành lập, đêm ngày tuần tra canh gác, bố phòng, cứu chữa. Nhờ vậy mà sau vụ oanh tạc, trưa ngày 12 tháng 3, vào khu vực đông dân của thị xã, chỉ gây ra một vài đám cháy nhỏ và không có thương vong lớn.

        Dưới bóng râm một lùm cây, trên bờ một đoạn giao thông hào và mấy cái hố cá nhân đào vội, chúng tôi gặp đồng chí Chín Liêm, đồng chí Y Blốc, nay đã là đại tá, chủ tịch Uỷ ban quân quản và đồng chí Huỳnh Văn Mẫn, bí thư tỉnh uỷ Đắc Lắc. Chúng tôi vồ lấy nhau, ôm hôn nhau, xiết chặt người vào nhau. Mới cách đây mấy hôm, còn nằm cùng một lán với nhau ở sở chỉ huy cơ bản, hôm nay gặp nhau, không hiểu sao, chúng tôi cảm thấy có cái gì mới, khác khác, quấn quít với nhau một cách lạ thường. Quen biết nhau ngót 30 năm trời, trong kháng chiến chống Pháp, chúng tôi đã từng sát cánh bên nhau, chia bùi sẻ ngọt trong những lúc khó khăn, trong những giờ chiến thắng, cũng trên mảnh đất này, nhưng hôm nay, niềm hân hoan phấn khởi đến quá đột ngột. Trong chúng tôi, không ai ngờ, chiến thắng lại đến rất nhanh, rất to lớn như thế này.

        Từ chỗ làm chủ được mấy nghìn dân, ở rải rác khắp nơi trong rừng sâu, núi thẳm; đến nay làm chủ hàng bao nhiêu đất đai, giải phóng hàng chục vạn dân, làm sao mà khỏi choáng ngợp. Không ai bảo ai, chúng tôi đều nghĩ rằng, giải phóng lần này là vĩnh viễn, ít nhất là với mảnh đất thân yêu này.

        Đồng chí Chín Liêm vừa cười, vừa ứa nước mắt. Tôi biết trong niềm vui hôm nay, đồng chí không khỏi không nhớ đến những người bạn chiến đấu trong cảnh tù đày, đã ngã xuống, trong gần nửa thế kỷ qua, trong nhà lao nổi tiếng này. Thông báo đầu tiên của đồng chí với chúng tôi là:

        - Tốt quá, anh em mình được cơ sở đưa ra, an toàn cả. Đêm đầu, trong lúc bộ đội đánh nhau thì cán bộ cơ sở cũng đột nhập vào các khu đông dân trong thị xã, các khu tập trung ở ngoại ô, để làm công tác tuyên truyền, tổ chức v.v… Nhờ có một ít cơ sở bên trong, nên việc móc nối cũng khá nhanh, lại nhờ có số anh em ở nhà tù mới ra, nên có ngay được một số cán bộ làm việc mấy hôm nay, nếu khong thì gay gó lắm đồng chí ạ. Khu uỷ có chuẩn bị sẵn 100 cán bộ ở dưới xuôi, như tôi đã nói hôm trước, để đưa lên tăng cường cho Tây Nguyên, nhưng tình hình phát triển nhanh như thế này chắc chưa kịp.

        Sẽ là không thực tế, nếu trong ngày đầu, đòi phải có những cuộc mít tinh lớn, những cuộc xuống đường rầm rộ, thì mới gọi có đòn tiến công chính trị, mới có nổi dậy, binh vận, phối hợp. Đối với một nơi gần 30 năm trời sống dưới sự kìm kẹp của đối phương, hàng ngày bị bộ máy chiến tranh tâm lý, gieo rắc nọc độc, chống lại cách mạng, mà chỉ trong thời gian rất ngắn, tình hình đã được ổn định đến mức như thế này, thì nếu chỉ riêng có lực lượng quân sự, sẽ không có thể nào làm được. Ở đây có sức mạnh của chính trị, của tổ chức tác động rất lớn, mặc dù không có ồ ạt, rầm rộ. Ngay từ lúc súng bắt đầu nổ, sức mạnh này cũng đã được phát huy.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:15:51 pm

        Việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trước nay làm rất chật vật, thì nay tiến hành thuận lợi hơn, khác trước rất nhiều, từ chỗ lèo tèo chỉ có vài đại đội, có đầu đơn vị mà thiếu cả quân số, trang bị, không làm thế nào để bổ sung được đầy đủ theo biên chế, thì nay, chỉ trong vài ngày đã phát triển lên thành nhiều tiểu đoàn, được trang bị đầy đủ. Lực lượng này trình độ kỹ thuật còn thấp, nhưng trong công tác truy lùng ác ôn, bảo vệ trật tự trị an, thì tác dụng còn lớn hơn bộ đội chủ lực nhiều, vì quen người, thông thạo chiến trường. Chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ đã đem lại kết quả như thế đấy. Mỹ muốn thay đổi màu da trên xác chết, tung vũ khí, tiền bạc ra, dùng người bản xứ trị người bản xứ; thế mà hôm nay, chính những thứ vũ khí mang nhãn hiệu USA đó, lại sẵn sàng nhả đạn vào đầu chúng. Các đơn vị địa phương này, trước mắt đã nhanh chóng thay thế cho bộ đội chủ lực để cho lực lượng này được rảnh tay, mở rộng hoạt động sang các chiến trường mới.

        Thực hiện phương châm càng đánh càng mạnh, các sư đoàn, mặc dù thương vong mấy ngày qua không nhiều, cũng được củng cố, chấn chỉnh lại. Đặc biệt các đơn vị công binh, pháo binh, thiết giáp, thông tin vận tải, lấy vũ khí, phương tiện, xe cộ của địch trang bị cho mình, nên sức chiến đấu được nâng lên gấp bội, so với lúc bước vào chiến dịch. Nhờ được huấn luyện cơ bản tốt từ trước, nên việc thay đổi trang bị không mất nhiều thì giờ, chỉ sau một vài buổi huấn luyện, các đơn vị pháo binh đã sử dụng thành thạo vũ khí của địch. Phấn khởi nhất là có rất nhiều đạn và sức cơ động được nâng lên rõ rệt.

        Lệnh của Bộ phát triển chiến đấu lên hướng bắc, tiêu diệt Cheo Reo và bao vây Plây Cu. Chúng tôi huy động toàn bộ lực lượng vận tải kể cả xe kéo pháo, trong một đêm, chuyển toàn bộ trung đoàn 95B lên phía trước, thay thế cho sư đoàn 320, đang đứng ở bắc Thuần Mẫn.

        Trong những ngày chiến trường nam Tây Nguyên sôi sục thì ở các nơi khác, sự phối hợp cũng rất nhịp nhàng. Vùng giải phóng như một vết dầu đang loang rộng ra bốn chung quanh: ở phía nam, một bộ phận của trung đoàn 271, ngày 9 tháng 3 đánh chiếm Nhân Cơ, áp sát sân bay Gia Nghĩa; ngày 11, trung đoàn 25 diệt một số khá nhiều xe ở đông Chư Cúc, chặn đứng bộ phận địch từ Khánh Dương lên, định tham gia giải toả Buôn Ma Thuột; ngày 12 tháng 3, một bộ phận của sư đoàn 968 diệt hai chốt ở tây nam Plây Cu uy hiếp Thanh An, cùng ngày 13 tháng 3, trung đoàn 95A tiến công diệt quân cứ điểm ở ngã ba Plây Bong trên đường 19 và sau đó, đánh tan hai chi đoàn xe thiết giáp rồi phát triển về đèo Mang Giang. Về phía đông An Khê, sư đoàn 3 của Quân khu 5 diệt các chốt trên đường 19 và phát triển lên hướng Vườn Xoài. Con đường chiến lược này vĩnh viễn bị chia cắt. Những đơn vị pháo binh của ta, đêm ngày bắn vào các sân bay Kon Tum, Plây Cu. Mọi đường chi viện bị cắt đứt.

        Trong phạm vi toàn miền Nam, các chiến trường lần lượt vào đợt. Điều làm cho mọi người không khỏi ngạc nhiên là chỉ mới trong một vài ngày thử lửa, với hơn một triệu quân trong tay, đối phương đã tỏ ra vô cùng bối rối. Ở vùng 1 chiến thuật, hai nơi bị đánh: Chúc Mao ở Thừa Thiên; Tiên Phước, Phước Lâm ở Khu 5, Ngô Quang Trưởng đang bối rối, hốt hoảng, thì lại nhận được lệnh thứ hai của Bộ Tổng tham mưu, phải đưa ngay sư đoàn dù về miền đông gấp, vì Dầu Tiếng cũng bị tràn ngập.

        Đã có lần Thiệu nói với quan thầy: “Nếu cho tôi đầy đủ viện trợ, tôi sẽ giữ toàn bộ lãnh thổ, nhưng nếu cho tôi một nửa, tôi cũng chỉ có thể giữ được một nửa lãnh thổ mà thôi”.

        Với tâm trạng rối bời như vậy, ngày 14 tháng 3, Thiệu ra Cam Ranh để gặp Phú. Cùng đi có Khiêm, Viên, Quang, Đức, nhằm phổ biến cho Phú biết ý định chiến lược mà ông ta vừa chợt nghĩ ra.

        Từ Plây Cu, Phú bay về Cam Ranh một mình. Trong điện triệu tập đã nói rõ: Thiệu chỉ gặp riêng Phú mà thôi, không có sĩ quan tham mưu nào được phép dự họp.

        Phú cũng đoàn biết được chuyến đi này dũ nhiều lành ít. Cái tội để mất thủ phủ quan trọng của cao nguyên trung phần sờ sờ ra đó. Ngồi trên trực thăng, Phú suy tính cách trình bày, báo cáo thế nào để chống chế được chừng nào hay chừng ấy. Địa điểm họp cũng làm cho Phú suy nghĩ nhiều. Tại sao lại không họp ở Nha Trang? Ở Cam Ranh thiếu gì nhà cao cửa lớn mà lại chọn ngôi nhà này, ở một nơi rất hẻo lánh, rất ít người biết đến.

        Đó là một ngôi nhà hai tầng độc nhất, không lớn, nằm lọt thỏm giữa rừng phi lao thưa, trông ra cái hồ nước ngọt nằm gần mép biển. Vợ chồng Nixon, có lần sang, đã tắm ở đây, nên gọi là cái hồ Nixon. Đứng về mặt bảo mật, thì đây là nơi rất lý tưởng. Ý nghĩa của việc lựa chọn địa điểm này, có thể là như vậy.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:19:31 pm

        Trời nắng đẹp. Gió biển lồng lộng thổi vào trong phòng quá rộng, đối với một nhúm người dự họp, nhưng bầu không khí sao mà ngột ngạt, nặng nề, cái ngột ngạt từ phía tây đưa lại. Thiệu đã đến từ lâu, đứng trên lầu nhìn Phú nặng nề bước lên cầu thang. Họ không săn đón với nhau như lệ thường, lạnh nhạt là khác. Vào họp, vào đề ngay.

        Phú trình bày rất ngắn gọn:

        - Lực lượng địch đã biết trước: sư đoàn 10, sư đoàn 320 và các đơn vị địa phương. Mới phát giác: sư đoàn 968, sư đoàn 316, 2 trung đoàn đặc công, một trung đoàn pháo.

        Tình hình các mặt hiện nay: địch cố đẩy trung đoàn 45 và liên đoàn biệt động quân 25 về hướng Thanh An, tây Plây Cu. Nhờ một tiểu đoàn của trung đoàn 45 tăng viện và nửa tiểu đoàn có sẵn ở Bầu Cạn, tây Thanh An, nên sư đoàn 968 không chọc thủng được phòng tuyến. Phi trường Cù Hanh bị pháo kích 4 ngày liền. Không có lực lượng tăng viện, tuy nhiên, vẫn cố gắng cho phi trường hoạt động để tiếp tế nhiên liệu và đạn dược hàng ngày.

        - Hương đông: quốc lộ 19 liên đoàn 4 biệt động quân bị pháo kích, quân số đơn vị này chỉ còn 50 phần trăm và thiết đoàn 3 kỵ binh đã bị mất 12, 13 chiếc xe tăng.

        - Trên hướng bắc: trung đoàn 8, thuộc sư đoàn 10 tiếp tục tiến công liên đoàn 23 biệt động quân, tại Kon Tum. Quân số phòng thủ có thể chặn được địch tại thị xã.

        - Ở Bình Định: trung đoàn 41, trung đoàn 2 và trung đoàn 13 sư đoàn 3 Quân giải phóng nỗ lực từ phía đông để chiếm phi trường Phù Cát. Tin tưởng sư đoàn 22 quân đội Cộng hoà có thể giữ được…

        Thiệu có vẻ sốt ruột:

        - Ông báo cáo ngay tình hình Buôn Ma Thuột đi.

        Phú vừa tố khổ, vừa kể công:

        - Phía bắc như thế là vững vàng. Tôi đã điều liên đoàn biệt động quân từ Kon Tum về để tăng cường cho mặt trận phía đông, phía tây Plây Cu, chuẩn bị chiến đấu đến người lính cuối cùng. Còn phía nam, chấp hành mệnh lệnh của tổng thống quyết giữ Buôn Ma Thuột bằng bất cứ giá nào, nên đã tăng cường cho nơi này hai trung đoàn 44 và 45.

        Hiện nay, phi trường Phụng Dực (tức sân bay Hoà Bình) vẫn giữ vững, các chiến sĩ của quân đội Cộng hoà đã tỏ ra vô cùng anh dũng trước một đối phương thiện chiến và đông hơn gấp bội. Được Bộ Tổng tham mưu tăng phái trực thăng của quân đoàn 1 đến để chuyển quân, nhưng phải mất ba ngày mới chuyển được một trung đoàn 1.500 người. Trực thăng bị hư hại nhiều, nên chuyển quân ngày càng chậm.

        Một người khác nói chen vào:

        - Không quân xuất kích 70 phi vụ ngày, tập trung yểm trợ tối đa cho quân phòng ngự.

        Phú như muốn trút tất cả tội lỗi lên đầu những người đang ngồi nghe, nên mỉa mai:

        - Yểm hộ tối đa à? Lúc 8 giờ ngày 11 tháng 3, họ đã thả bom làm sập trung tâm hành quân của sư đoàn 23, và ban chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc, trong lúc quân ta đang kịch chiến với đối phương; lúc 16 giờ ngày 13 tháng 3, họ lại thả bom nhầm vào vị trí pháo binh của ta ở trong căn cứ-căn cứ pháo duy nhất còn sót lại-2 quả bom. Kết quả tai hại là hai khẩu pháo 155 ly hoàn toàn bị tê liệt, quân trú phòng chỉ còn sống sót 15 người chạy về. Vì vậy mà chiến xa, bộ binh họ thừa cơ vượt lên, băng qua được trận địa pháo, đến tối, khó khăn lắm mới đánh bật ra được.

        Vẻ mặt Thiệu tưởng đã rạng rỡ bỗng xịu xuống.

        Ông ta ngước mắt nhìn lên bức ảnh nửa thân, được phóng đại, treo trên tường, giữa phòng họp. Thiệu trong ảnh trông có vẻ bảnh trai, thản nhiên, vô tư; còn Thiệu ngồi đây sao mà trông buồn rầu, thiểu não… Hôm trước ông ta được tin tảng đá nhọn như mũi dao trước ngôi chùa mẹ ông ta đang trù trì, tu nhân tích đức, có 30 lính mặc quân phục trắng, đêm ngày canh gác, ở làng Tri Thuỷ cạnh cảng Ninh Chữ, bỗng nhiên bị sét đánh vỡ đôi. Trước khi lên máy bay đi Cam Ranh, ông ta đã cho mời thầy chiêm tinh đến để hỏi thăm cho biết vận mệnh, trong những ngày tới. Thầy đã nói lên cái điềm gở: “Thời gian đã hết”. Thế là thế nào?

        Thiệu hỏi Viên:

        - Mất bộ tham mưu, thì phải tìm cách lấy lại. Còn quân trù bị để tăng viện cho Quân đoàn 2 không?

        - Sư đoàn 22 bị dàn ra quá mỏng rồi. Không có quân dự bị.

        Thiệu lại quay sang hỏi Phú:

        - Nếu không có quân tăng viện, ông giữ được bao lâu?

        - Tôi có thể giữ được một tháng với điều kiện là: không quân yểm hộ tối đa, tiếp tế bằng không vận đầy đủ vũ khí, đạn dược, nhiên liệu và được bổ sung quân số đủ để bù lại số bị thiệt hại vừa qua.

        Thiệu lẩm bẩm, gần như nói với mình mình:

        - Quân viện bị cúp, thiếu đạn và tiền, địch lại đánh mạnh hơn năm 1968, 1972. Sẽ phải bỏ Plây Cu, Kon Tum. Rút lui như vậy là cần thiết, để dồn lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuột. Đây mới la điểm then chốt.

        Trông ra ngoài cửa sổ hướng đông, một mảnh chân trời bị núi che khuất, phần còn lại là đại dương bao la, thăm thẳm, trên bờ bên kia Thái Bình Dường, các quan thầy có thấu cho nỗi lòng của tôi tớ hôm nay? Nước Mỹ vừa gần lại vừa xa.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:23:20 pm

        Tấm bản đồ chiến sự treo trên giá, làm cho ông ta mất cảm tình. Viên sĩ quan nào trong Bộ Tổng tham mưu hành quân đã vẽ lên đây, những mũi tên đỏ quái ác, khác nào như những mũi kiếm nhọn hoắt, xuyên thẳng vào tim. Ông ta khẽ gật đầu, nói to lên như tìm ra được điều gì mới lạ:

        - Kon Tum, Plây Cu, người ít, kinh tế không có, rút quân về cứu Buôn Ma Thuột và giữ vững vùng duyên hải. Dù sao, Buôn Ma Thuột cũng vẫn là then chốt, như những nhà chiến lược Pháp đã nói cách đây 20 năm. Nếu chiếm lại được nơi này, tôi tin rằng chúng ta sẽ có cơ hội để chiếm lại Plây Cu, Kon Tum.

        Phú bàng hoàng, kinh ngạc giương to đôi mắt lên nhìn Thiệu, Thiệu làm như không biết, quay sang hỏi Viên:

        - Rút bằng đường 19 có được không?

        Nhớ lại đến cảnh rùng rợn cách đây 20 năm, khi binh đoàn cơ động 100 của Pháp bị hoàn toàn tiêu diệt ở khúc quẹo Dak Pơ và những trận đánh nhau trong 10 năm gần đây, Viên đáp:

        - Lúc Mỹ còn, đã phải cắm ở đây cả 3 sư đoàn quân Nam Triều Tiên và mấy sư đoàn của Mỹ: kỵ binh bay, America mà còn bị đánh liên tục, huống nữa là bây giờ… trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà khỏi bị tiêu diệt?

        - Thế thì đường 14 ra sao?

        - Lại càng không thể đi được.

        - Đường số 7?

        - Từ lâu không dùng đến, nên không rõ. Có thể là xấu nhưng có hai cái lợi: một là không có địch ở đây, hai là bất ngờ, không có người nào làm công tác tham mưu mà lại có thể dự kiến, sẽ có một cuộc chuyển quân lớn, trên đường đó.

        Đã đến lúc cần phải có những quyết định dứt khoát. Người ta thấy Thiệu đứng dậy, tay cầm mảnh giấy viết sẵn, dõng dạc tuyên bố:

        - Điều 1: các lực lượng thường trực, các đơn vị còn lại của sư đoàn 23, các liên đoàn biệt động quân, và lữ đoàn thiết giáp, phải rút lui khỏi Kon Tum, Plây Cu và đi về hướng biển, với mục đích là để tái chiếm Buôn Ma Thuột.

        - Điều 2: các lực lượng địa phương và dân vệ cùng gia đình binh lính, dân sự và các đơn vị thuộc cơ cấu hành chính, Plây Cu, Kon Tum phải ở lại, để yểm hộ cho cuộc rút lui của các lực lượng nói trên.

        - Điều 3: việc triển khai phải tiến hành hết sức bí mật và thực hiện trong một vài ngày để gây bất ngờ cho địch.

        - Điều 4: con đường lui quân sẽ là con đường 7B. Việc lựa chọn con đường này cũng nhằm tạo thế bất ngờ. Các ông thiết kế cuộc rút quân ngay đi.

        - Bao giờ rút lui?

        Tuỳ anh quyết định. Có một điều cần phải chú ý là phải hết sức giữ bí mật, không được cho các lực lượng địa phương hoặc người Thượng biết việc này.

        Thiệu từ từ ngồi xuống ghế, đưa tay lên nới cổ cà vạt cho dễ thở hơn. Bỗng nhiên như sực nhớ ra điều gì rất quan trọng, vụt đứng dậy nhắc thêm:

        - Phải hết sức giữ bí mật, không được cho lực lượng địa phương hoặc người Thượng biết việc này. Cả người Mỹ nữa nhá, không cho họ biết làm gì.

        Sau khi trao đổi thêm một vài ý kiến nhỏ với Phú, Thiệu bước ra khỏi phòng, lên trực thăng đi thẳng về Sài Gòn.

        Có thư từ Washington gửi đến.

        Trong lúc tình hình ở miền Nam Việt Nam rối như canh hẹ, thì từ Washington đại sứ Graham Martin đã giao cho đại diện lâm thời W.I.Lehman một bức thư để chuyển cho Thiệu, toàn văn như sau:

        Thưa tổng thống thân mến!

        Khi đọc những tin tức mới đây từ Washington về hành động của quốc hội đối với vấn đề viện trợ cho Đông Dương, chắc chắn ngài và các đồng nghiệp trong chính phủ cảm thấy không phấn khởi, không biết đường lối của Mỹ có giữ vững hay không? Tin tức từ Phnôm Pênh quả là xấu và góp phần làm cho quốc hội Mỹ có cảm giác thất vọng, không tin rằng viện trợ sắp đến sẽ làm thay đổi tiến trình của các sự kiện. Mặc dù chính quyền Mỹ vẫn giữ những nỗ lực nhằm viện trợ cho Campuchia, nhưng giờ đây, rất có thể là khoản viện trợ đó sẽ không đủ, tuy cá nhân tôi, không nghĩ rằng Phnôm Pênh sẽ thất thủ trước mắt. Điều nguy hiểm cho Việt Nam sẽ là quốc hội sẽ quan niệm tình hình Campuchia giống như tình hình Nam Việt Nam. Để giảm tới mức tối thiểu khả năng xảy ra xu hướng này, tôi không muốn khoản 300 triệu đôla viện trợ bổ sung, sẽ được bỏ phiếu ngay. Quốc hội sẽ nghỉ lễ phục sinh từ 21 tháng 3 đến 6 tháng 4. Trong thời gian đó, tất cả chúng tôi ở đây, sẽ thầm lặng vận động, để công chúng hiểu rằng, Nam Việt Nam khác hẳn với Campuchia và rất có khả năng tự lực, nếu như chúng ta giúp họ khoản viện trợ, mà chúng ta hứa giúp trong vài năm nữa. Tôi tin rằng trong vài tuần tới, chúng tôi sẽ có những thành công trong việc vận động để công chúng hiểu như vậy. Như tôi đã nói với ngài từ trước, tôi không nghĩ rằng, hiện nay, người Mỹ thực sự được đủ tiêu chuẩn pháp lý, để giúp ý kiến cố vấn về quân sự. Để có tác động lớn, nếu như có thể có cơ hội, trong vài tuần tới, quân lực Việt Nam Cộng hoà, phải đánh một trận đẹp mặt với quân Bắc Việt Nam, để công chúng thấy rõ, thì điều đó rất có tác dụng: Phản ứng chín trị ở Mỹ sẽ rất tốt, nếu như có sự kiện như vậy. Có thể các trận đánh sắp tới, ở Tây Ninh hoặc ở nơi khác trong quân khu 3, sẽ tạo một cơ hội nói trên.

        Ở đây, có một số người lo rằng, có thể ngài muốn dùng quá nhiều lực lượng để chiếm lại Buôn Ma Thuột. Tôi đã nói là tôi hoàn toàn tin vào các quyết định quân sự của ngài, là tiêu diệt các bộ phận chủ lực của đối phương, sau đó, ngài sẽ lấy lại những vùng mà ngài cho là sinh tử, đối với chính phủ Nam Việt Nam.

        Tôi có một ý kiến đề xuất, tôi có cảm tưởng rằng, đại tướng Cao Văn Viên, rất thận trọng trong việc cho phép chi dùng đạn dược. Chùng nào mà còn chưa có những khoản chuẩn chi thông thường, thì đó là một phương hướng khôn ngoan. Nhưng nếu nhân dân Mỹ thấy quân lực Việt Nam Cộng hoà không những giữ vững vị trí mà còn thắng một vài trận lớn, thì điều đó sẽ góp phần đưa đến những khoản chuẩn chi nói trên, với số lượng đầy đủ. Tôi có thể bảo đảm với ngài rằng sẽ có đạn dược cho Việt Nam; và chúng tôi cũng có thể đạt được những khoản này nhanh hơn, với số lượng nhiều hơn, nếu chúng ta có một vài chiến thắng vang dội để làm bằng cớ, chứng tỏ khả năng thực sự của quân lực Việt Nam Cộng hoà. Trong tình hình hiện tại, một canh bạc có thể đem lại lợi ích tốt đẹp…

        Trên chiến trường miền Nam, thời gian tới sẽ là một thời kỳ gay go. Tôi chắc rằng Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ mau chóng đồng ý với ngài là hiện nay, ngài đang vấp phải một cuộc tiến công mà cường độ rất có thể vượt cường độ của của cuộc tiến công năm 1972. Ở Washington, mặt trận đấu tranh trong thời gian tới, cũng sẽ gay go và tôi tin rằng, nếu tôi ở lại đây một thời gian nữa, tôi sẽ có thể phục vụ cho lợi ích chung của hai nước chúng ta. Tôi có thể bảo đảm chắc chắn với ngài rằng tổng thống và các ông bộ trưởng Bộ Quốc phòng và bộ ngoại giao đều quyết tâm rằng, khi các cuộc tranh cãi ở Washington chấm dứt, thì các ngài cũng sẽ nhận được những nguồn của cải cần thiết. Với những nguồn của cải này, tôi chắc rằng ý chí và quyết tâm của nhân dân Việt Nam, muốn sống trong tự do, sẽ chiến thắng.

        Nếu ngài muốn liên lạc trực tiếp với tôi, thì ông Lehman có thể chuyển bất kỳ một bức điện nào qua kênh sóng tuyệt đối an toàn của Nhà Trắng.

        Kính thư


Martin       


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:25:40 pm

        Đại tá Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng biệt động quân, Quân đoàn 2, sáng ngày 14 tháng 3 đến thăm bộ tư lệnh lữ 2 kỵ binh và liên đoàn 4 biệt động quân, ở căn cứ 92, gần đèo Mang Yang. Báo cáo của liên đoàn trưởng 4 xám xịt. Chỉ trong vòng 10 ngày, từ 4 tháng 3 đến nay, trang bị vũ khí mất béng một nửa.

        - Tạm ngừng mọi cuộc tấn kích, hãy lo bảo vệ cho các điểm đang chiếm giữ. Có thể sẽ cho liên đoàn 3 đến thay thế, để các ông về Phước Long để chỉnh bị.

        Vừa nói xong, Tất được điện của Quân đoàn 2, triệu tập về họp gấp ở Plây Cu. 16 giờ ngày hôm đó, về đến nơi đã thấy đông đủ; cả tư lệnh quân đoàn Phạm Văn Phú, phụ tá hành quân: chuẩn tướng Trần Văn Cẩm; tư lệnh sư đoàn 6 không quân; chuẩn tưởng Phạm Ngọc Sang và tham mưu trưởng Quân đoàn 2, đại tá Lê Khắc Lý.

        Như trên trời rơi xuống đất, Tất được vinh thăng lên cấp chuẩn tưởng. Nừa mừng nửa lo, vì đã có vay thì phải có trả. Biết trả thế nào đây?

        Phú phổ biến quyết định của Thiệu, rút các lực lượng ở Plây Cu, Kon Tum về Nha Trang, theo đường 7B để tái chiếm Buôn Ma Thuột. Tất chỉ huy cuộc rút lui, Cẩm và Lý làm kế hoạch, lệnh tuyệt mật, không được đánh máy, không được dùng điện đài, mà chỉ dùng mật hiệu, để chỉ huy từng giai đoạn rút lui.

        Nghe xong, Lý đứng dậy chất vấn:

        - Xin Trung tướng cho tôi một tuần hay ít nhất 3 ngày để nghiên cứu chuẩn bị và trình bày kế hoạch.

        - Không được để cho bất cứ một sĩ quan tham mưu nào biết, để nghiên cứu kế hoạch trước.

        Lý vẫn chưa chịu buông tha. Ông ta đề nghị với Phú, thử rút theo đường 19, cho rằng có thể khai thông được đường này, bằng cách cùng một lúc mở hai cuộc hành quân sục sạo ra phía Plây Cu và phía đông Hàm Rồng, căn cứ của sư đoàn 23. Lập luận của Lý là đường 19 tốt hơn nhiều, còn đường 7B thì phải có một lực lượng công binh rất lớn mới khai thông được, bởi vì có rất nhiều mìn của cả hai bên đối địch; cầu cống bị sập hoàn toàn và đã lâu lắm không sử dụng đến. Yêu cầu là phải có lực lượng, có thời gian. Lý nói:

        - Nếu quân Mỹ còn ở đây, họ còn có thể dùng cần cẩu bay để chở trang bị công binh đến khu vực này rất dễ dàng. Nhưng hiện nay ta không có các phương tiện ấy. Đấy là một khó khăn rất lớn.

        - Nhưng mà địch sẽ bất ngờ. Phú lặp lại ý kiến của Thiệu.

        - Lúc đầu, đối phương có thể bị bất ngờ, nhưng thời gian kéo dài, yếu tố bất ngờ sẽ không còn nữa.

        - Tổng thống đã quyết định, tổng thống và tổng tham mưu trưởng, đại tướng Cao Văn Viên, đều thừa biết những khó khăn đó; nhưng sở dĩ chọn đường 7B là dựa vào yếu tố bất ngờ, bất ngờ ông rõ chưa? Khi địch biết được, thì chúng ta đã đến Tuy Hoà rồi, và sẽ được không quân yểm trợ. Còn thời gian, thời gian gì? Chúng ta không còn thời gian. Ngày mai mọi việc sẽ phải bắt đầu. Mệnh lệnh hành quân chỉ được phổ biến trước một giờ cho các đơn vị trưởng. Nhớ đấy nhé.

        - Thế còn các cán bộ tỉnh, quận, quân địa phương, gia đình binh sĩ và nhân dân thì sao?

        - Hãy bỏ mặc họ. Phú thản nhiên trả lời. Các anh không có trách nhiệm về họ. Nếu các anh cho họ biết tin này, các anh sẽ không thể chỉ huy nổi cuộc hành quân và cũng không thể về đến Tuy Hoà. Tình hình sẽ rất lộn xộn cho mà xem.

        Bảy giờ sáng hôm sau, Phú lên máy bay đi về Nha Trang, mang theo một số sĩ quan tham mưu chủ chốt.

        Tức giận với những sự sắp xếp và chỉ huy của Phạm Văn Phú, Trần Văn Cẩm cũng rút lui nốt bằng máy bay đi Tuy Hoà, và dặn lại:

        - Ông Lý, ông hãy điều khiển mọi việc. Tôi sẽ gặp ông ở Tuy Hoà vì tôi chỉ là người giám sát, mà thôi, ở lại đây không tiện…

        Lý cảm thấy bản thân phải chịu hết trách nhiệm điều khiển một cuộc rút lui của trên 160 nghìn người, bơ vơ không có một ban tham mưu, không có lấy một kế hoạch nhỏ, và cũng chẳng có sự chỉ đạo của tham mưu cấp trên Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 05:43:28 am

        Những tư liệu ta bắt được trong toà đại sứ Mỹ sau ngày giải phóng, đã bổ sung thêm một chi tiết về cuộc rút lui có một không hai này.

        Tình hình ở đại sứ quán Mỹ trong lúc này.

        Một nhân chứng đã viết:

        “Sau cuộc họp, một nhân viên CIA, trong bộ tham mưu của Phú, báo cáo cho người sĩ quan Mỹ chỉ huy mình ở địa phương là sắp có việc rút bỏ Tây Nguyên. Viên sĩ quan không tin và gửi ngay một điện thượng khẩn về Nha Trang yêu cầu giải thích đồng thời báo cáo về Sài Gòn. Trùm CIA ở đây hốt hoảng và chạy đến phòng của đại sứ để báo cho Lehman phó đại sứ biết, nhưng Lehman đi vắng. Ông này lại gọi điện thoại ra Nha Trang yêu cầu xác nhận lại tin này, đồng thời yêu cầu tổng lãnh sự quán Mỹ ở Nha Trang, Spear, rút hết những người Mỹ còn lại ở Plây Cu, Spear hỏi: đây có phải là lệnh không?

        - Tất nhiên là không, nhưng tôi báo cáo ông biết: ông phải rút những người đó ngay lập tức, nếu không thì sẽ có nguy cơ mất họ. Nếu có sự lộn xộn ở Plây Cu, thì trong vòng vài giờ nữa sẽ không dùng được sân bay.

        Ít lâu sau, Lehman trở về sứ quán, nhưng ông ta không muốn ra lệnh rút lui. Ông ta nghi ngờ giá trị của tin tức tình báo, vì trước đó mấy giờ, đã gặp Thiệu mà không thấy nói gì về việc rút lui cả. Ngoài ra, nếu đóng cửa tiền đồn cuối cùng của Mỹ ở Tây Nguyên, thì đó sẽ là một liều thuốc nổ về chính trị…

        Đến trưa, sốt ruột quá, những người chỉ huy CIA ở Sài Gòn, trực tiếp ra lệnh cho máy bay của Air America cất cánh, rút tất cả các quan chức CIA ra khỏi Plây Cu…”

        Rõ ràng là Nguyễn Văn Thiệu đã có những quy định rất nghiêm ngặt về giữ bí mật. Còn đối với người Mỹ, thì như ông ta bà ta xưa nay đã từng nói: “Thà làm tớ thằng khôn, còn hơn làm thầy kẻ dại”.

        Ở Sài Gòn, thầy đã vậy thì ở chiến trường, tớ rối rắm đến dường nào.

        Tình hình như một nồi nước đang đun, lúc đầu chỉ mới sủi tăm nhưng trong nháy mắt, đã sôi lên ùng ục, và khi áp suất đã vượt qua mức cho phép thì nổ tung lên. chiều ngày 14 và suốt cả ngày 15 tháng 3, thực hiện giai đoạn đầu của cuộc rút lui, Lý ra lệnh cho 2 liên đoàn biệt động quân 6 và 23 rút khỏi Kon Tum. Nhiệm vụ của hai đơn vị này là cùng với 1 tiểu đoàn công binh mở đường từ Phú Túc đến Sơn Hoà giáp giới với Phú Yên và bảo đảm cạnh sườn phía Thuần Mẫn, chiếm lĩnh trước các trận địa có lợi như đèo Chu Tsê trên đường 7B. Vấn đề bảo đảm an ninh cho cuộc hành quân, chẳng thấy đề ra kế hoạch cũng chẳng có ai để phê chuẩn. Từ Sơn Hoà trở đi, thì có lực lượng của địa phương Phú Yên đảm trách. Tại Kon Tum, chỉ còn lại có 2 liên đoàn biệt động quân thuộc quyền chỉ huy của tiểu khu trưởng.

        Nhưng dột từ trên nóc dột xuống. Sau khi Phú rời khỏi đại bản doanh, thì sư đoàn 6 không quân, với phương tiện rất hiện đại nắm sẵn trong tay, cũng ồ ạt theo chân Phú. Một số gia đình binh sĩ không quân ở trong thị xã, được đưa vào sân bay để di tản, đã làm tiết lộ việc rút bỏ thị xã này. Tin giật gân lan ra rất nhanh chóng, như một bệnh dịch, chẳng mấy chốc mà cả thị xã và các vùng lân cận đều biết cả. Những cảnh tượng rùng rợn mà trong mấy ngày qua người ta đã có tưởng tượng ra để mô tả trên đường phố Buôn Ma Thuột đã làm cho mọi người hoang mang khủng khiếp. Cuộc tắm máu mà xưa nay họ thường rêu rao ai ngờ nay lại diễn ở đây và như thế này. Mới 8 giờ sáng, nhân dân đã tràn vào sân bay Cù Hanh. Khi thấy chiếc máy bay C-130 chở thương binh vừa cất cánh, họ thấy rõ ngay là cuộc rút bỏ Plây Cu không còn là tin đồn đại nữa. Thế là một đi, hai đi, ba bốn cũng đi. Giá vé máy bay lên dần từng phút một. Lý phải để lại tất cả các máy bay và trực trăng, các trang bị nặng, quan trọng, những phương tiện, khí tài của lực lượng đặc biệt, hàng vạn tấn đạn dược, xăng dầu…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 05:50:01 am

        Biết là bị bỏ rơi, các đơn vị địa phương và dân vệ cũng bắt đầu làm loạn. Nhân dân, binh lính trở nên vô kỷ luật. Đục nước béo cò, bọn kiêu binh bại trận tha hồ đi hiếp dâm, đốt nhà, cướp của. Mạng người rẻ như bèo. Sân bay ở trong tình trạn hỗn loạn. Một chiếc máy bay vận tải vừa hạ cánh, nhưng rồi lại không tài nào cất cánh lên được, người ta chen lấn xô đẩy, đấm đá nhau túi bụi, giẫm lên nhau, chửi bới kêu khóc, để được lọt vào cửa máy bay quá hẹp. Lý đã phải dùng đến súng ngắn để lấy lại trật tự cũng không xong. Không có máy bay thì đi xe. Xe nhà binh, xe tải, xe du lịch, xe honda, không đi xe thì đi bộ: gồng, gánh, bồng bế dắt nhau mà đi. Tai nạn có thể xảy đến với bất cứ ai và bất cứ lúc nào. Nhiều nhân chứng đã kể lại: cả thị xã hỗn loạn như mặt biển trong ngày mưa bão, còn trên đường đi, từng đợt sóng người, xô tới đẩy lui, ùn lại rồi dạt dần về phương nam: tắc nghẽn. Cảnh tượng thật là kinh khủng. Nhiều ông già, bà già, trẻ con, chết gục bên đường; xe tăng, xe thiết giáp cán qua người họ mà đi. Dòng người gần như tự nhiên, trôi lên phía trước, chẳng còn ai chỉ huy ai. Từ các căn cứ quân sự ở dọc hai bên đường, rải rác một vài đám cháy lớn. Những tiếng nổ ghê rợn càng làm cho quang cảnh đã hỗn độn càng thêm hỗn độn trên hàng chục cây số, cả một biển người quằn quại dưới ánh nắng như thiêu đốt đầu hè. Đói khát, chết chóc và kinh hoàng, khủng khiếp.

        Cuộc hành quân kéo dài lê thê vì việc sửa chữa đường sá, cầu cống mất rất nhiều thì giờ, các đơn vị biệt động quân đi ở cuối đường muốn tìm cách vượt lên phía trước để ngăn chặn áp lực của ta đối với Cheo Reo, nhưng vô cùng vất vả vì đường sá bị tắc nghẽn.

        Các liên đoàn 7 và 25 còn đang bảo vệ phía tây Plây Cu thì bị sư đoàn 968 đánh cho tan tác. Nhiệm vụ nghi binh của sư đoàn này đã chấm dứt và nó hiện nguyên hình trước kẻ thù là một đơn vị hừng hực khí thế tiến công: pháo, rocket liên tục bắn vào đội hình, bộ binh thì bám chặt thắt lưng chúng mà truy kích, các chốt ở đèo Thanh Bình và phía tây Thanh An đều bị đánh bại. Chi khu Thanh An bị hạ. Chỉ trong một ngày, cả ba tiểu đoàn của liên đoàn biệt động quân này đã bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, toàn bộ pháo bị huỷ diệt. Nhưng tai họa lại không đến được một cách đơn độc; một đơn vị thiết giáp đi mở đường ở đông Cheo Reo, bị máy bay A37, vì bay quá cao ném bom nhầm: 4 xe tăng bị phá huỷ và một số dân chúng bị giết chết? Ai? Hoá ra những người bị ngồi trong các xe vỏ thép, đâu phải là lính chiến đấu, mà phần lớn là vợ con của các tướng ta. Cho nên hỗn loạn càng thêm hỗn loạn.

        Chưa phải đã hết, ở hướng bắc một trung đoàn khác của sư đoàn 968 đang truy kích sát gót địch rút chạy từ Kon Tum về Plây Cu phối hợp rất nhịp nhàng với trung đoàn 95A từ Phú Mỹ, ở phía đông thị xã đánh quật trở lại. Plây Cu trở thành nơi hội tụ của các lực lượng tác chiến ở phía bắc.

        Những tình tiết về cuộc rút lui có một không hai, trong lịch sử chiến tranh ở Việt Nam này đều không lọt khỏi tai mắt của các đơn vị trinh sát của ta, bố trí trên các cao điểm dọc đường 14 và số 7; được trang bị ống nhòm có bội số lớn và cả máy vô tuyến điện thoại đến lúc này thì được dùng rộng rãi. Ngay từ ngày 15 tháng 3, Quân uỷ Trung ương đã nhận thấy Phước An và đường 21 là những cái bẫy để thu hút địch và Phú Bổn là cái túi để dồn địch vào đấy mà tiêu diệt rồi. Trong bức điện gửi cho anh Tuấn hôm ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “tập trung lực lượng để tiêu diệt sư đoàn 23 ở Phước An, đồng thời sẵn sàng diệt địch ở Phú Bổn (Cheo Reo). Việc tiêu diệt sinh lực địch lớn ở đây sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chiến dịch trên cả chiến trường Tây Nguyên v.v…

        Thời cơ lớn đến rồi. Như đã nói trên, nếu ở Phước An, địch dù có bao nhiêu quân cũng không có sức mạnh, vì phần lớn binh khí kỹ thuật đã lọt vào tay ta cả rồi; thì ở Phú Bổn, ngược hẳn lại, địch cứ dồn vào đây biết bao nhiêu thiết đoàn xe tăng, thiết giáp, bao nhiêu lữ đoàn pháo binh, trước sau rồi cũng sẽ nộp cả cho ta mà thôi. Ở đây, chúng chết vì có quá nhiều vũ khí nặng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 05:50:09 am

        Kết hợp ý kiến của A75, khẳng định việc địch sẽ rút lui và chỉ thị cho Bộ tư lệnh chiến dịch phải nắm chắc thời cơ để hoạt động cùng với những điều mà các đơn vị trinh sát báo cáo về, Bộ tư lệnh chiến dịch đã nhạy bén, kịp thời tung lực lượng ra, ghìm địch lại. Mới nửa chiều ngày 16 tháng 3, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64, sư đoàn 320 đã tìm cách lách núi, luồn rừng, để sáng hôm sau ra cắm chốt trên đường giữa Cheo Reo và đèo Tân Á, cắt đôi địa hình của liên đoàn 7 biệt động quân, vừa ở phía sau lách tới. Toàn bộ sư đoàn 320, được tăng cường thêm trung đoàn 95B làm lực lượng dự bị và được một tiểu đoàn xe tăng một cụm pháo binh của chiến dịch chi viện. Đơn vị nào ở phía trước cứ đi, đơn vị ở sau vừa hành quân vừa chấn chỉnh đội hình, không có đường lớn thì đi đường vòng, không có đường vòng thì dùng bản đồ, địa bàn, xẻ rừng, cắt núi mà đi. Từ cán bộ chỉ huy đến anh em chiến sĩ, mọi người đều cảm thấy phải mang hài 7 dặm, nhất tề xông lên phía trước với một quyết tâm sắt đá là tiêu diệt sạch sành sanh quân thù, nhất định không để một tên nào chạy thoát về xuôi để có cơ hội phản kích lại ta sau này. Tiếng chân giẫm trên lá khô xào xạc, tiếng chim hót trên cây, tiếng thác nước đổ xa xa trước mặt nghe như những tiếng còi xung trận, tiếng reo hò, tiếng cổ vũ của non sông đất nước. Họ biết cả mặt trận, cả nước đang hồi hộp theo dõi từng bước đi của từng đơn vị. Chỉ cần một tổ nhỏ 3 người, với một khẩu B.40 và vài viên đạn, một khẩu AK là có thể xông lên phía trước nổi lên một điểm chốt trên đường ghìm địch lại, tạo điều kiện cho các đơn vị sau kịp thời xông tới, bao vây, tiêu diệt hàng vạn tên địch, diệt hàng trăm xe tăng, phá huỷ hàng trăm đại bác, ai trong họ là người sẽ đón nhận niềm vinh dự cao quý ấy? Cũng có đói khát, mệt mỏi, nắng nóng; một mấu lương khô, một bi đông nước lã, trong lúc này quí giá vô cùng, nhưng sẵn sàng nhường nhịn nhau để giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ. Họ hiểu rằng ta khó một, địch còn khó gấp nghìn vạn lần. Cuộc săn đuổi này đã đem đến kết quả làm nức lòng người.

        10 giờ ngày 17 tháng 3, tiểu đội của Nguyễn Vi Hợi trong trung đội do Đoàn Việt Hùng chỉ huy, chỉ huy, thuộc đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 đã có mặt trên đường số 7, nổ phát súng đầu tiên, ghìm địch lại. Tiếp theo đó là cả tiểu đoàn và sang ngày 18, lại có thêm tiểu đoàn thứ hai của trung đoàn này, cắt ngang đội hình hành quân của địch, một nửa lọt qua khỏi đèo Tân Á; còn một nửa bị hất ngược về phía thị xã, phối hợp tuyệt đẹp với trung đoàn 48, cũng hôm ấy, bỏ rừng xông thẳng ra đường cái lớn để truy kích cho nhanh, diệt một tiểu đoàn bảo an ở Cầu Cháy, tây Phú Bổn 7 cây số và phát triển tiến công vào cái thị trấn đông nghịt người này.

        Nói đến tình cảnh của bọn địch ở Cheo Reo, đại tá Đặng Đình Siêu, lữ đoàn phó lữ đoàn 2 kỵ binh đã thú nhận:

        “Ngày 17 tháng 3, buổi sáng:

        Thiết đoàn biệt động quân liên đoàn 7 và chiến đoàn 1 với 14 chiến xa có nhiệm vụ mở đường, thanh toán chốt tại nam Cheo Reo. Lúc 9 giờ, đụng chốt. Một chiếc xe cháy xin không quân oanh kích: máy bay A37 ném bom nhầm vào tiểu đoàn này. Một đại đội bị loại khỏi vòng chiến đấu.

        Chi đoàn báo cáo không qua được. Bộ tư lệnh lữ đoàn ra lệnh phải tìm đường vòng phía trước mặt chốt, tìm cách qua khỏi, để bảo đảm an ninh đến chân đèo. Kết quả: 3 xe bị cháy, kể từ đó, mất liên lạc.

        Buổi chiều, bộ tư lệnh lữ đoàn lại ra lệnh cho chiến đoàn 3/1CX theo vết cũ mà đi. Chỉ liên lạc được lúc xuất phát, sau đó cũng mất liên lạc.

        Ở sở chỉ huy bộ tư lệnh lữ đoàn bị pháo 130 ly từ hướng Thuần Mẫn bắn đến xối xả.

        13 giờ, lệnh cho rút các lực lượng trong đêm. Hoả Long được điều động đến để thả hoả châu yểm trợ. Vẫn đi theo các đơn vị trước. Vì trời tối, và bị thiệt hại gần chục chiến xa, nên bộ tư lệnh lữ đoàn lệnh cho các đơn vị trở lại làng Buôn Bleck đông nam thị trấn Cheo Reo, để phòng thủ. Tại đây, cảnh hỗn độn vì có quá nhiều xe của quân và của dân nên không thể lui tới gì được. Tư lệnh lữ đoàn rời xe và không có lệnh gì khác cho các đơn vị. Không một ai biết đương sự đi đâu… các đơn vị biệt động quân, cũng chia thành toán nhỏ rời xe thiết giáp tự động tìm đường đi bộ theo gia đình…”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 05:53:32 am

        Nói về nguyên nhân thất bại trên quãng đường từ Cheo Reo đến đèo Tân Á, Siêu viết tiếp:

        “Có sự bất đồng ý kiến trong kế hoạch phối trí lực lượng và điều quân giữa lữ đoàn và quân đoàn. Giữ quá nhiều thiết giáp ở Cheo Reo, lẽ ra phải sớm đưa ra bố trí dọc đường.

        - Tinh thần binh sĩ hoang mang dao động vì có tin, chính phủ đã ký, giao lại mặt trận, các tỉnh miền cao nguyên, trong thời hạn 3 ngày phải rút hết quân.

        - Việc yểm trợ bằng không quân ít, lại không chính xác, gây tổn thất cho bạn. Khi đụng chốt, không giải quyết được, mà tổn thất quá cao. Địa thế độc đạo, chỉ có đường duy nhất để xuống duyên hải. Hơn nữa, các xe quân sự bị các xe dân sự cản trở quá nhiều hầu như không thể điều động được.

        - Các tướng tá đã dùng các chiến xa để chở gia đình nên không có sức chiến đấu. Các quân nhân cũng quá bịn rịn vợ con, nên không tác chiến được.

        - Một số cấp chỉ huy chấp hành kỷ luật không nghiêm: đáng lẽ sau khi vượt qua khỏi chốt, phải ở lại giữ an ninh, lại bỏ chạy luôn mà không báo cáo.

        - Khi tư lệnh rời cuộc hành quân, bộ tham mưu bỏ trốn, các đơn vị tự động rời xe thiết giáp, tìm đường đi bộ. Các đơn vị còn lại không ai chỉ huy, dần dần tan rã…”

        Sông Ba là một con sông lớn ở miền Nam Trung Bộ. Nguồn của nó rải khắp Tây Nguyên nên ít khi có lụt lớn. Nó phát nguyên từ chân núi Ngọc Linh, bắc Tây Nguyên chảy từ bắc vào nam, dọc theo sườn phía tây Trường Sơn, đến Cheo Reo được thêm nước sông A Yun đổ vào nó trở thành một con sông lớn, cắt ngang dãy núi Trường Sơn, dòng chảy chuyển huớng về phía đông rồi ra biển. Ở nơi chuyển hướng này, hình thành một cái thác, nước chảy hơi xiết đổ vào một cái vực sâu, có lắm cá sấu. Không có nhiều bờ cao, thác dữ. Một vài nơi có những bãi phù sa rộng rãi, trên mặt sông rất hiền lành, nhưng ở dưới là nền da ban phong hóa.

        Nhưng ngày đầu, khi những liên đoàn biệt động quân đi tiên phong của đoàn quân rút lui vượt sông bằng một chiếc cầu phao thì an toàn; nhưng đến lúc đại quân lếch thếch kéo đến, xe người hỗn độn, chen nhau vượt sông, cầu gãy. Bãi cát bờ phía tây sông hóa thành một khối nam châm khổng lồ, bao nhiêu xe cộ đi qua đấy đều bị hút xuống lòng sông: xe trước vừa dừng lại, xe sau lách lên, cả hai đều chết cứng. Càng rồ máy càng lún sâu thêm. Xe xếp hàng 4, hàng 5, hàng 6; xe chồng đôi, chồng ba, vài chiếc trực thăng cần cẩu cẩu những tấm vỉ sắt đến để chống lún, nhưng lửa xe nước gáo, thấm vào đâu. Hì hục mãi không nhích lên được nửa bước, ngoái cổ về phía tây đã thấy trung đoàn 64 của sư đoàn 320 đang đuổi gâp. Lại giẫm lên nhau mà chạy. Từ đây trở đi quân ta cứ đường cái mà truy kích, nhanh như vũ bão. Ngày 22 tháng 3, phân đội phái đi trước của trung đoàn 64 gồm bộ binh và xe bọc thép đã ghìm được địch ở quận lỵ Phú Túc, trong nháy mắt diệt ngay một bộ phận. Một vài đơn vị của sư đoàn đã nhanh chóng bơi vị trí vượt sông Ba và đến ngày hôm sau thì bắt liên lạc được với tiểu đoàn 96 địa phương Phú Yên, đang chặn đầu địch rút chạy. Chủ lực phối hợp với địa phương hình thành thế trận bao vây Củng Sơn rất đẹp. Tại đây đối phương đã có sẵn liên đoàn 6 biệt động quân về đóng chốt từ trước. Cùng số quân, lóp ngóp từ Tây Nguyên mới chạy về, lực lượng phòng thủ khá mạnh: trên 6 nghìn quân, 40 xe tăng thiết giáp và hàng trăm xe vận tải. 13 giờ ngày 24 tháng 3, ta bắt đầu tiến công, địch chống trả điên cuồng, tập trung hoả lực của pháo binh và trực thăng vũ trang quyết ngăn chặn ta. Xe tăng, xe bọc thép, dựa vào số lượng đông hơn gấp bội, phản kích liên tục. Bộ binh và xe tăng đã chiến đấu vô cùng anh dũng, vượt qua lưới lửa dày đặc của địch, theo đường cái tiến công vào Tịnh Sơn. Bộ đội cao xạ bắn rơi 1 máy bay A37 tại trận, đến chiều thì chiếm được quận lỵ. Trên hướng bắc ta tiến công vào Hòn Một, địch phản kích bị ta đánh bật, phải tháo chạy; 15 giờ ngày, Hòn Một rơi vào tay ta. Cùng lúc ấy, nắm được tình hình địch đang hoang mang cao độ, bộ tư lệnh sư đoàn 320 hạ lệnh tiến công đồng loạt vào các mục tiêu đã được phân công, sau một đợt pháo bắn chuẩn bị ngắn, ta chiếm được Hòn Ngang, rồi phát triển sang sân bay cùng với tiểu đoàn 96 dứt điểm mục tiêu này.

        Củng Sơn hoàn toàn được giải phóng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 05:56:28 am

        Sau Tây Nguyên, ta đã tạo được một bước ngoặt chiến lược. Thế của địch đã bị sụt hẳn, nhưng lực lượng của chúng vẫn còn đông. Chỉ tính riêng ở vùng 1 chiến thuật, một nửa độ dài của khúc ruột miền Trung, đã giữ chân một lực lượng quân đội Cộng hoà không phải nhỏ: 24 vạn quân chính quy, nghĩa là 1 phần 3 tổng quân số với đầy đủ các binh chủng: 5 sư đoàn, 2 lữ đoàn bộ binh, 9 liên đoàn biệt động quân tổ chức thành 93 tiểu đoàn quân chủ lực, 155 tiểu đoàn và 77 đại đội bảo an, 1842 trung đội dân vệ. Pháo binh có 24 tiểu đoàn và 10 đại đội với 544 khẩu pháo các loại; 7 trung đoàn xe tăng với 741 chiếc; 3 sư đoàn không quân với 760 chiếc. Ngoài ra còn có trên 10 vạn phòng vệ dân sự có vũ trang và 3 vạn cảnh sát.

        Toàn bộ lực lượng chiếm đóng gần 2.000 cứ điểm, 90 chi khu và quận lỵ.

        Nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ là phải nhanh chóng tiêu diệt sạch sành sanh toàn bộ lực lượng địch ở đây, không cho chúng kéo về Sài Gòn. Trong lúc tiếng súng đuổi địch trên chiến trườn Tây Nguyên chưa tắt, thì trên toàn Miền, tiếng súng phối hợp chiến trường đã trở thành tiếng súng tiến công. Từ một chiến dịch có tính chiến lược, chuyển thành một cuộc tiến công để hoàn thành sứ mệnh giải phóng toàn bộ đất nước, trong một thời gian ngắn, chưa đầy hai tháng, là một việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.

        Suốt cả tuần lễ ròng rã, Bộ Tổng tham mưu đêm ngày làm việc với các Tổng cục, các cơ quan để nắm tình hình nghiên cứu các phương án cho bước phát triển mới để đề đạt lên Bộ Chính trị.

        Trong cuộc họp lần này anh Ba nêu vấn đề:

        - Địch muốn co cụm để cho mạnh lên; nhưng ta phải làm thế nào để ch nó co cụm mà lại yếu đi hơn thì mới đúng, và phải làm ngay từ bây giờ. Phải đánh chúng trong quá trình phân tán, nhất là lúc chúng rút lui, thì ta mới có thể đánh như che tre… Phải có đơn vị đánh, đơn vị đuổi, bám thắt lưng nó mà đánh.

        Chỉ vào bản đồ, anh nói tiếp:

        - Nó nghĩ rằng ta đánh từ Bắc vào Nam, nhưng ta lại không làm như thế, ta đánh từ phía Nam đánh ra kia… Phải giải phóng ngay đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long…

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp thong thả nói:

        - Trước đây mấy tháng, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Thực tiễn trong 10 ngày qua, đã xuất hiện ý đồ co cụm chiến lược của địch. Tình hình chuyển biến quá nhanh. Lần này, Mỹ cũng có chuẩn bị lực lượng không quân, đưa tàu chở máy bay đến ngoài khơi Nha Trang để răn đe, nhưng vì có nhiều khó khăn, nên giữa chừng phải thay đổi ý định.

        So sánh lực lượng hiện ta đang có nhiều thuận lợi: địch tuy mới bị diệt 1 sư đoàn, nhưng tinh thần sa sút thêm một bước mới; chúng đang bị phân tán còn ta thì đang sung sức và ở trong thế tập trung. Đề nghị Bộ Chính trị: hoàn thành nhiệm vụ cơ bản trong năm 1975 này thôi. Hướng quan trọng nhất là Sài Gòn; thứ hai là quân khu 1 bao gồm Thừa Thiên-Quảng Đà; thứ ba là đồng bằng Khu 5.

        Về sử dụng lực lượng: xung quanh Sài Gòn hiện có 1 quân đoàn và 3 sư đoàn độc lập, nay đưa thêm Quân đoàn 3 vào và tăng thêm 2 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn pháp, 5 trung đoàn cao xạ. Cũng có thể lấy vũ khí vừa rồi thu được của địch để tổ chức thêm một đơn vị nữa.

        Chiến trường Trị Thiên, tập trung vào nhiệm vụ chia cắt địch.

        Khu 5 thì nhanh chóng phát triển ra hướng Đà Nẵng.

        Quân đoàn 1 sẵn sàng, khi có lệnh là đi ngay.

        Phương châm hành động là: mạnh bạo, khẩn trương và chắc thắng.

        Biện pháp: bao vây, chia cắt, tiêu diệt tiến hành đồng thời hay trước sau là tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định linh hoạt.

        Thời gian: Trong tháng 4 năm 1975 phải có biến động việc chia cắt chiến lược.

        Đối với miền Bắc: phải cảnh giác đề phòng nhưng chỉ làm trong nội bộ quân đội và nam Quân khu 4 mà thôi. Đối với nhân dân, thì chưa nên đụng chạm đến. Nhân dịp này, đề nghị cho thành lập một số tiểu đoàn dự bị ở huyện, tỉnh. Phải xây dựng, huấn luyện sẵn sàng để khi cần có mà bổ sung. Đây chỉ mới là tác động của đòn tiến công quân sự. Cần đẩy mạnh hơn nữa đòn phá bình định, giành dân ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5.

        Đồng chí Lê Đức Thọ tiếp lời:

        - Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1976 thì bây giờ cơ bản vẫn là quyết tâm ấy. Vấn đề đặt ra hiện nay là thời gian. Từ năm 1973 đến nay, thực tế đã diễn ra trên chiến trường đều vuợt quá thời gian của Quân uỷ Trung ương dự kiến. Mỹ rút thì ngụy suy sụp lớn; Hiệp định Paris đã tác động to lớn đến bọn ngụy. Sự sụp đổ lần này là cơ bản, chúng đã mất chỗ dựa là Mỹ, thì lấy gì mà gượng lại được.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 07:28:22 pm

        Mỹ bây giờ thế nào? Khó khăn của Mỹ cũng vuợt ra ngoai sự suy nghĩ của ta một phần. Cứ tưởng ký xong Hiệp định Paris thì Nixon sẽ gượng lại được; thực tế thì ngược lại hẳn: Tình hình lạm phát thất nghiệp vẫn tiếp tục trầm trọng và Nixon bị hạ bệ. Ford đã phải thú nhận: Tình hình Mỹ còn rất khó khăn; đã ra rồi thì không thể quay trở lại được nữa. Về Campuchia, thái độ của Mỹ và Pháp đã chuyển rồi. Thực tiễn học thuyết Nixon mà chỉ bằng viện trợ không thôi, thì chắc chắn cũng không giải quyết được vấn đề gì. Còn nói nó có thể đưa máy bay vào can thiệp thì tốn kém biết bao nhiêu. Ta phải cảnh giác là đúng nhưng đồng ý là phải mạnh dạn, phải khẩn trương và chắc thắng. Ta phải nhận định về khả năng Mỹ không thể vào cho dứt khoát. Nó mà có vào cũng đánh thôi. Đây là cuộc chiến tranh cơ mà! Nó vào một lần nữa đẻ làm gì? Nó có chiến lược của nó, vào để gây lại chiến tranh ở miền Nam một lần nữa à? Trong mười lăm năm chống Mỹ không lúc nào thuận lợi như bây giờ. Bây giờ thì phải táo bạo, táo bạo có cơ sở. Trong chiến lược co cụm, địch mạnh yếu như thế nào? Ta cũng có dự kiến là nó sẽ co cụm. Bây giờ thì nó làm sớm hơn thôi. Nó muốn giữ được lực lượng để khỏi bị tiêu diệt, nhưng đây là một thất bại rất lớn. Ta phải đánh trong quá trình co cụm, làm cho nó yếu dần đi. Nó co cụm ở đâu? Nó cố giữ đường chiến lược, ven biển và đồng bằng. Ta phải phá bằng hai mặt trận: Chủ lực và lực lượng tại chỗ của ta ở đồng bằng. Ta có đầy đủ cơ sở để nói rằng ta sẽ hoàn thành cuộc cách mạng trong năm 1975. Địch đang hết sức, ta quyết không để cho địch nghỉ để xả hơi, củng cố, ta hoàn toàn có khả năng làm việc này vì ta giải phóng Tây Nguyên sớm hơn, ta cũng sẽ xuống miền Đông sớm hơn. Vấn đề bây giờ là vấn đề tổ chức, hậu cần và cán bộ. Ở miền Bắc chỉ nên tổ chức phòng không trong quân đội thôi.

        Thủ tướng Phạm Văn Đồng hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại mặt cúi xuống đất. Đây là một cử chỉ quen thuộc mỗi khi đồng chí tập trung trí tuệ để suy nghĩ một vấn đề gì quan trọng. Thỉnh thoảng đồng chí lại dừng lại, ngước mắt nhìn về phía anh Sáu Thọ đang phát biểu ý kiến và gật đầu tỏ vẻ đồng tình. Thủ tưởng Phạm Văn Đồng nói:

        - Đồng ý tôi không nói lại nhiều. Năm nay ta dứt khoát làm Sài Gòn thì rồi Huế, Đà Nẵng cũng rụng thôi. Ta phải nhanh thì ta mới mạnh, mới áo đảo địch. Ta không thiếu lực lượng, hơn nó rồi đấy. Vấn đề là phải chuẩn bị cho tốt, có cách đánh thật táo bạo, linh hoạt, phải quả cảm, kiên quyết. Vấn đề tổ chức trang bị bây giờ quan trọng vô cùng. Phải có đầy đủ vũ khí tiến công, có hoả lực mạnh. Trong 3 sư đoàn của địch ở chung quanh Sài Gòn, phải diệt cho được 2. Bịt cho được đường biển. Phải giải phóng ngay đồng bằng Khu 5 lấy dân, lấy gạo. Địch rời rụng, bại hoại, ta vừa đánh tiêu diệt lực lượng quân sự của nó, vừa gọi hàng. Phải làm cho nó có những đơn vị lớn đầu hàng, tan rã.

        Đối với dân chạy nạn, phải hết sức giúp đỡ, cố gắng nhanh chóng ổn định đời sống cho họ.

        Vẫn như mọi lần, mỗi khi phát biểu, đồng chí Trường Chính bao giờ cũng cầm sẵn trong tay một tờ giấy đã ghi sẵn những ý kiến đã chuẩn bị:

        - Nếu Mỹ còn tiếc rẻ tên tay sai này thì nhất định nhân dân miền Nam sẽ đạp đổ hắn, ngày một ngày hai thôi. Địch chỉ mới thất bại ở nam Tây Nguyên mà cả hệ thống chiếm đóng từ trên xuống dưới bị rung chuyển. Điều đó chứng tỏ chúng rất yếu, xuống dốc nhiều và nhanh. Thắng lợi ở Tây Nguyên đã nói lên điều gì? Địch chuyển sang thế phòng ngự chiến lược. Nó co cụm để giữ sinh lực, giữ nông thôn nhiều người nhiều của; giữ thành phố. Đó là thế yếu của chúng. Từ chỗ đưa quân đi bình định lấn chiếm khắp nơi, nay lại phải bỏ, đẻ thay đổi thế bố trí chiến lược. Ta cần phải theo dõi từng bước sự điều chỉnh này, nhất là với bọn dù và thuỷ quân lục chiến. Đã co cụm thì có đánh ra cũng cốt để giữ thôi. Đáng chú ý là nó chạy nhưng chưa hàng, ta giải phóng được nhiều, nhưng diệt còn ít.

        Nhiệm vụ của ta là phải thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Phải bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cho linh hoạt. Phương châm là táo bạo, chắc thắng; đồng thời phải tích cực cơ động, linh hoạt… điều chỉnh kế hoạch phải theo tinh thần táo bạo, chắc. Nếu không nắm thời cơ tiến công trong lúc này là có tội với Tổ quốc. Bỏ lỡ cơ hội này thì mình không phải là mình nữa…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 07:30:56 pm
         
        Nhìn sang phía Thượng tướng Hoàng Văn Thái và Trung tướng Lê Trọng Tấn, đồng chí muốn nhắc nhở với Bộ Tổng tham mưu:

        - Đánh phải tiêu diệt sinh lực, kể cả lực lượng cơ động chiến lược. Đánh tiêu diệt là biện pháp hàng đầu. Nó sẽ rã như cám. Phải diệt bọn chỉ huy, bắt, giáo dục để nó tuyên bố chống lại Thiệu. Phải kiên quyết thực hiện thế chia cắt chiến lược: Huế-Đà Nẵng; Đà Nẵng-Nha Trang; với Sài Gòn. Về kế hoạch tác chiến chiến lược trên hướng chính, Bộ Tổng tham mưu cần nghiên cứu kỹ, ít hôm nữa sẽ trình bày… Đánh như kiểu Quang Trung có được không? Đừng rị mọ. Nếu ta chiếm được hai kho thóc: đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5, thì dù địch có co cụm cũng không thể mạnh được.

        Anh Ba kết luận:

        Địch có những cái bất ngờ:

        - Năm nay ta chưa đánh lớn.

        - Ta sẽ tiến công vào đồng bằng Khu 5.

        - Nó chưa thấy hết chỗ yếu của nó.

        Trong lúc này phải nắm chắc ba quả đấm: nông thôn mạnh, đô thị mạnh, chủ lực mạnh. Chủ lực phải tập trung mạnh. Ta tập trung 9 sư đoàn, nhưng sau lưng phải có 4-5 sư đoàn dự bị. Ta lại tạo được thế bất ngờ thì sức mạnh sẽ tăng lên gấp 3-4 lần.

        Phải diệt lực lượng quân sự của địch, nhưng lúc vào thành phố rồi, thì ba thành phần. Đánh Sài Gòn đã khó, quản lý lại còn khó hơn. Phải đặt vấn đề chính sách mặt trận ra ngay…

        Mặt trận tiến dần về hướng Đông. Các sở chỉ huy cũng tiến lên phia trước. Đồng chí đại tá Hoàng Niệm, phụ trách thông tin của chiến dịch và tôi được giao nhiệm vụ đi chọn địa điểm để di chuyển A75 lên, vừa để chỗ gần các đơn vị để tiện chỉ huy, nhưng chủ yếu là để chuẩn bị cho một cuộc họp rất quan trọng sắp đến. Trên cho biết đồng chí Lê Đức Thọ sẽ vào truyền đạt quyết tâm mới của Bộ Chính trị. Dự họp sẽ có các đồng chí trong Trung ương Cục ra, các đồng chí ở Liên khu 5 lên, một số cán bộ trong Bộ tư lệnh chiến dịch A75.

        Chúng tôi đi suốt cả đêm, cuối cùng cũng chọn được một vị trí ở Chư Leo, gần quận lỵ Thuần Mẫn. Đây là một trạm phẫu thuật của sư đoàn 320 chuẩn bị cho trận diệt viện; nhưng trận ấy lại không hề xảy ra, nên các bác sĩ cho biết là vừa rồi bị thất nghiệp. Các trận chiến đấu lẻ tẻ trong vùng này trước ngày 10 tháng 3 thì chỉ có trung thương trở xuống thôi, các trạm phẫu thuật của các trung đoàn cũng đủ sức giải quyết, thành ra trạm phẫu thuật của sư đoàn chẳng có việc làm. Giữa núi rừng, giữa lúc tình hình diễn biến khẩn trương như thế này, mà phải kiến thiết một địa điểm họp, bảo đảm có đủ chỗ ăn, ở cho hàng trăm người thì cũng không phải dễ dàng gì: nên vừa đến nơi, xem xét qua, chúng tôi đã nhất trí ngay. Nhà cửa, hầm hố, nước nôi… ở đây đều rất sẵn. Vì là một trạm phẫu thuật, nên việc đi lại cũng dễ dàng. Lại được cái ở gần một trung đoàn thông tin nên mạng liên lạc với Hà Nội-Trung ương Cục đã vững chắc.

        Trên đường đi đến điểm mới, anh Tuấn ghé thăm thị xã Buôn Ma Thuột. Chiếc xe com măng ca đi chậm chạp, len lỏi vào cả những phố xá đông người. Sinh hoạt của nhân dân đã nhanh chóng được trở lại bình thường: người mua bán đi lại tấp nập nhộn nhịp; mọi người đều tích cực làm tổng vệ sinh và đào hầm hố tránh máy bay. Lực lượng vũ trang chỉ thấy loáng thoáng trên các đường phố, mà trận tự an ninh vẫn được giữ vững.

        Anh Tuấn dừng lại khá lâu trước cổng sư đoàn 23, nghe cán bộ tác chiến báo cáo lại diễn biến trận đánh hướng tiến của từng mũi đột kích, vị trí của từng chiếc xe tăng của ta và cách bố phòng, đối phó của địch. Điều làm cho anh rất hài lòng là không có một vết đạn pháo nào bắn lạc vào khu dân cư; đến cả cái khách sạn Anh Đào nằm giữa khu quân sự cũng hãy còn nguyện vẹn.

        Chỉ vào một bãi đất trống ở gần sư đoàn bộ, anh Tuấn nói: sau này, sẽ bàn với địa phương, để xây dựng ở đây, một đài liệt sĩ cho đẹp, cho lớn. Cán bộ tham mưu cần nghiên cứu kỹ, rút kinh nghiệm quý báu sau trận đánh này.

        Ở đâu phải có rất nhiều kỷ niệm sâu sắc, trước kia cũng như ngày nay…
        Vừa đến vị trí mới, triển khai công tác ngay.

        Được sống gần anh Tuấn trong những ngày này, tôi thấy anh băn khoăn suy nghĩ rất nhiều. Sàn nhà của anh lát bằng tre, nên mỗi bước đi đều phát ra tiếng kêu cọt kẹt. Ở trong nhà chán anh lại bước ra sân. Dưới bóng cây râm mát, anh đi đi lại lại, tay không rời chiếc gậy Trường Sơn. Không gian vắng vẻ quá. Không một tiếng chim hót, chỉ có tiếng róc rách của dòng suối nhỏ bên cạnh nhà. Hai đồng chí chiến sĩ đứng gác ở hai đầu sân, im lặng như hai pho tượng. Đến gần chiếc bàn dã chiến đặt dưới một tán cây, anh gọi đưa chiếc cặp da đến, lấy ra mảnh giấy màu vàng. Đây là bức điện của anh Văn đề ngày 19-3:

        “Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn sớm hơn dự kiến trước, và chuyển lực lượng hoạt động ở Tây Nguyên vào Nam Bộ. Anh Lê Đức Thọ, ngày 28 tháng 3 sẽ lên đường vào Tây Nguyên để họp, phổ biến đầy đủ nghị quyết…”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 07:33:34 pm
       
        Tình hình hiện nay đang phát triển rất nhanh. Đây là một bước nhảy vọt. Lúc này, tranh thủ thời gian là nắm thời cơ là quyết định lắm…”.

        Một cục diện mới vừa mở ra. Một nhiệm vụ mới mà suốt mấy mươi năm đấu tranh, toàn Đảng, toàn dân đang nóng lòng chờ đợi từng giây từng phút, từ trong công tác hàng ngày, những cuộc hội họp và đến cả trong những giấc mơ… Bây giờ đón nhận lấy nó, lòng ai mà không rạo rực bàng hoàng? Một thời cơ lớn mà chúng ta đã tốn biết bao xương máu, trí tuệ mới tạo ra được; thế thì ai mà còn chịu nổi ngồi chơ, không nhanh tay với lấy, sớm một giây hay chậm một giây? Tây Nguyên địch đã rút, vấn đề tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch đang ở trong tầm tay; các chiến trường khác đang rung chuyển mạnh; Bộ Chính trị đã cân nhắc rất nhiều khi hạ quyết tâm. Trên chiến trường, người cán bộ chỉ huy phải làm thế nào để thực hiện cho thật tốt thật đúng tinh thần của lãnh đạo.

        Anh Tuấn gọi tôi đến hỏi về đường số 7 và đường 21. Tôi trình bày theo sự hiểu biết địa hình của tôi, và theo sự suy nghĩ của tôi gần đây nhất:

        - Trên đường 21, sư đoàn 10 không dễ gì đánh bật được địch ra khỏi đèo Ma Đrắc ngày một ngày hai, vì địa thế ở đây rất hiểm trở, mà lực lượng địch ở đây, nếu cộng cả quân địa phương, thì cũng tương đương một sư đoàn, có binh khí kỹ thuật chi viện đắc lực chứ không như ở Phước An. Lữ 3 dù năm ngoái tôi đã đánh nhau với chúng ở Thượng Đức, cũng không phải tồi lắm.

        Nhưng nếu trên hướng đường số 7, sư đoàn 320 dứt điểm gọn được Củng Sơn mà xuống Phú Yên thì tình hình sẽ vô cùng thuận lợi vì có rất nhiều đường đi vào Khánh Hoà: đường quốc lộ 1, đường từ Liên hiệp Mỹ qua dốc Mỏ vào chiến khu Đá Bàn. Như vậy, sư đoàn 320 sẽ trở thành một mõi vu hồi rất lợi hại, tạo điều kiện cho sư đoàn 10 nhanh chóng tiêu diệt địch; dù chúng có đông và mạnh đến bao nhiêu cũng phải vỡ.

        Anh lại hỏi tôi về đường đi Nam Bộ?

        - Báo cáo có hai đường: một đường phải qua đất Campuchia một đoạn. Sau khi giải phóng Đức Lập thì có thêm được đường thứ hai, theo đường 14, đi hoàn toàn trên đất ta. Đường này tốt hơn, đã rải đá có đoạn đã rải nhựa, nhưng còn phải gỡ mìn mất mấy hôm mới dùng được.

        - Các đơn vị ở đây thế nào?

        Sư đoàn 316 và trung đoàn 95B đang thu quân về củng cố.

        Trước mặt các lực lượng ta ở Tây Nguyên đang tràn xuống đồng bằng có hai nơi có thể co cụm lớn: Nha Trang và Cam Ranh. Lời khai của Vũ Thế Quang, nguyên thị trưởng thị xã cố lắm, đánh có thể thắng nhanh được. Nhưng đó là với lực lượng của địa phương kia, như nếu có lực lượng chủ lực của địch về thì phải cẩn thận hơn.

        Anh lẩm bẩm như nói một mình:

        - 28 mới đi… ít nhất phải mồng 4, mồng 5 mới đến được.

        Tôi biết anh rất sốt ruột. Anh đang mong chờ anh Sáu Thọ đến để nghe kỹ quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị. Anh phải chờ gần nửa tháng nữa, trong lúc đang coi ngày bằng năm.

        Một cái gạch bút chì đỏ, đậm nét trên tờ giấy vàng dã thu hút sự chú ý của anh: tiêu diệt địch ở vùng Phú Bổn, Củng Sơn… và trong một bức điện khác: ”Tiêu diệt địch trong quá trình co cụm”.

        Vấn đề là như thế đó. Phải nắm vững vấn đề tiêu diệt và làm tan rã thật nhiều sinh lực địch. Muốn vậy, hướng phát triển trước mắt, như đã thống nhất ý kiến trong cuộc họp với một số cán bộ ở đây, là phải liên tục nhất, phải phát huy được sức mạnh nhất và còn nhiều thời gian để hoạt động động. Chỉ có hướng đông mới làm được đầy đủ việc này. Anh cho gọi đồng chí Nguyễn Tuyến và đồng chí Hoàng Dũng mang bản đồ đến. Mắt không rời những mũi tên xanh đỏ vẽ chằng chịt trên giấy trắng, anh nói:

        “Điện gọi Vũ Lăng ở Khánh Dương về. Tổ chức cho anh Hoàng Mình Thảo đi ngay ra đường 19 để nắm lấy sư đoàn 968 và trung đoàn 95A, nhanh chóng phát triển về đồng bằng: Đồng chí Hàm thôi không trở về sở chỉ huy chiến dịch nữa, mà ở lại đây, để tổ chức đưa ngay trung đoàn 95B và sư đoàn 316 vào Nam Bộ. Cùng với đồng chí Nguyễn Lang, tính toán khối lượng vật chất, xe cộ để đưa ngay vào miền Đông càng sớm càng tốt, càng nhiều càng tốt, kể cả khối lượng còn tồn trên đường dây. Sau đó đồng chí Nguyễn Lang ra đường 9 đón anh Sáu Thọ. Đồng chí Tuyến thảo điện xin ý kiến Quân uỷ Trung ương và đưa cho tôi xem”.

        Nội dung điện như đã họp bàn hôm trước, đại ý là: sử dụng lực lượng Tây Nguyên cùng với lực lượng Khu 5 phát triển xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng trên một triệu dân… có một bộ phận đi trước vào Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 07:39:27 pm

Chương 12

ĐẦU VÀ ĐÁY

        Khi được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương phổ biến cho biết quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong hai năm 1975-1976, và Quân khu Trị Thiên là một trong những hướng rất quan trọng, có nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng  lực lượng tinh nhuệ của đối phương, Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên cũng như Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 vừa mừng lại vừa lo. Năm 1975, Trị Thiên nhất định phải tạo ra cho được một bước chuyển biến cơ bản, để tạo điều kiện cho năm 1976 dứt điểm.

        Những vấn đề rất mới phải đặt ra là: tiêu diệt 4-5 trung đoàn, trong đó có sư đoàn 1 bộ binh của quân đội Cộng hoà, nhằm làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng giữa ta và địch; chia cắt từng thời kỳ, tiến tới chia cắt lâu dài đoạn đường từ nam Phú Bài đến đèo Hải Vân; khống chế các cửa biển Thuận An và Tư Hiền; giải phóng Huế. Lại còn phải chuẩn bị đưa hàng trăm đội công tác xuống đồng bằng giành quyền làm chủ thêm hàng chục vạn đân, đưa lên tranh chấp vài chục vạn; diệt vài ba quận lỵ, kìm diệt 2 sư đoàn tổng dự bị của quân đội Cộng hoà là sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến; để tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác trong toàn miền hoàn thành nhiệm vụ.

        Điều đáng lo nhất là thời gian chuẩn bị lại quá ít. Trước đây, trong tháng 10 năm 1974, Bộ Tổng tham mưu đã có khêu gợi theo tinh thần lúc bấy giờ là nên chọn hướng đường 12, tây Huế, làm hướng chính của chiến dịch tổng hợp mùa Xuân 1975, giành chiến trường nam Huế cho đợt quyết định sau này khi có thời cơ lớn xuất hiện. Công tác chuẩn bị chiến trường trên hướng tây Huế giản đơn hơn, vật chất sẵn sàng hơn. Phương án này rất phù hợp với khả năng hiện tại của chiến trường, vì đang giữa mùa mưa to gió lớn, muốn làm gì quy mô hơn cũng khó.

        Bước sang tháng 2 năm 1975, bỗng có sự thay đổi đột ngột: hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là nam Huế, còn hướng Quảng Trị và đường 12 chỉ là những hướng phối hợp, nghi binh. Thời gian còn lại, vẹn chỉ có 35 ngày. Hệ thống đường chiến dịch chưa hoàn thành: đường vòng phía tây đèo Hải Vân còn phải làm hơn một chục cây số nữa mới đưa được pháo lớn vào khống chế sân bay và cảng Đà Nẵng. Mặc dù ngoài lực lượng công binh ra, Quân khu, quân đoàn đã huy động tất cả mọi lực lượng: pháo binh, cao xạ, xe tăng, bộ binh v.v… đội mưa gió, làm không ngơi tay, nhưng khối lượng công việc còn lại vẫn rất lớn. Về vật chất, tuy vận chuyển suốt cả mùa mưa, vẫn chỉ mới đạt được 4 vạn tấn, bằng 20 phần trăm yêu cầu. Bản thân các lực lượng vũ trang, cũng có những vấn đề cần được giải quyết: các trung đoàn, tiểu đoàn của Quân khu, suốt mấy tháng trời quần nhau với địch, kể cả trong mùa mưa, chưa được bổ sung quân số; chưa được huấn luyện. Quân đoàn 2 ra quân lần này bị thiếu hẳn sư đoàn 304. Đơn vị này đang cài thế với địch ở mặt trận Thượng Đức; và bản thân mỗi sư đoàn còn lại, cũng chỉ có 2 trung đoàn. Cơ quan hậu cần của Quân đoàn thì chưa được kiện toàn để bảo đảm cho những chiến dịch lớn, trong điều kiện cơ động nhiều và xa.

        Bên cạnh những khó khăn đó, cũng có những thuận lợi rất lớn: tinh thần binh lính địch suy sụp, thế địch đang xuống dốc. Sau những cuộc đụng độ trong mùa thu đông 1974 ở Thượng Đức, Bộ tư lệnh quân đoàn đã đánh giá được sức chiến đấu của quân đôi Cộng hoà; so với trước rõ ràng có một bước thụt lùi khá dài. Trong điều kiện có sự phối hợp chung và có sự thôi động của những chiến thắng ở những chiến trường khác như Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ, chắc chắn địch ở đây sẽ bị tác động mạnh. Nhân dân Trị Thiên, từ sau Tết Mậu Thân đến nay, bị kìm kẹp rất chặt. Mặc dù vậy, họ vẫn không quên những ngày họ đã từng làm chủ cả thành phố Huế, một số khá đông bị lùa từ Quảng Trị vào từ năm 1972, phải sống lay lắt dọc đường quốc lộ 1, trong các khu tập trung, ngày đêm ngong ngóng trở về làng cũ.

        Trong khi giao nhiệm vụ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có khêu gợi với Quân đoàn: “Ta đánh giá dân chưa đúng hết tầm. Tình hình sắp đến, có thể biến chuyển; ngoài kế hoạch cơ bản, phải dự kiến một kế hoạch phát triển. Đừng quên Huế đấy nhé!”.

        Đón lấy thời cơ như thế nào đây?

        Những đợt mưa lúc kéo dài trong mùa đông 1974, có làm cho tình hình chiến sự ở quân khu 1 lắng dịu một chừng nào. Tuy vậy, nhớ đến mùa thu vừa qua, tướng Ngô Quang Trưởng vẫn cứ thấy áy náy, lo âu. Chỉ mới chạm súng qua loa thôi, đã thấy trắng tay rồi. Ông này rất khác với Phạm Văn Phú, và cũng xem thường Phú. Làm tư lệnh một quân khu, mà chẳng bao giờ Phú làm nổi một kế hoạch tác chiến chiến lược. Trưởng thì đâu ra đấy. Ông ta rút kinh nghiệm ở Thượng Đức để vạch một kế hoạch phòng thủ cho toàn bộ chiến trường Trị Thiên, giao cho các lực lượng thường trực phải đảm nhiệm vòng ngoài. Dọc vùng giáp ranh phía tây, từ Quảng Trị đến đèo Hải Vân là nhiệm vụ của các lữ đoàn thuỷ quân lục chiến, các trung đoàn của sư đoàn 1, lữ đoàn kỵ binh 1 và lữ đoàn quân địa phương. Trong tay ông ta, chỉ nắm hai lữ đoàn dù và liên đoàn biệt động quân 15 làm dự bị. Ba trung đoàn xe tăng và 13 tiểu đoàn pháo binh rải rác mỗi nơi một ít.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 07:43:02 pm

        Toàn bộ cái vỏ bọc ngoài ấy làm lá chắn che chở cho hơn 300 trung đội dân vệ và 3 vạn rưởi phòng vệ dân sự, phượng hoàng, thiên nga v.v… số này ở bên trong, tha hồ tác yêu tác quái, tiến hành bình định, ngày đêm đánh phá phong trào.

        Kế hoạch của Trưởng còn đề ra các giả thiết:

        Trường hợp bị áp lực mạnh, liệu thế không giữ được, thì co bớt về phía sau, lập tuyến phòng thủ trên sông Mỹ Chánh ở phía bắc và La Sơn ở phía Nam, tiến hành trì hoãn chiến. Nếu thêm một bước nữa, thì “tử thủ” trong khu vực An Lỗ đến Phú Bài. Nhược điểm lớn nhất của kế hoạch này, là đưa tất cả lực lượng tinh nhuệ ra dàn mỏng mành mành một cách rất nguy hiểm, làm chô lực lượng dự bị không đủ sức mạnh để đối phó với những tình huống bất trắc. Ngay trong lúc bình thường, chỉ cần rút đi bất cứ một nơi nào một vài đơn vị, thì nơi ấy sẽ hình thành ngay một lỗ thủng lớn; nếu không thì cái mành mành kia sẽ bị co kéo, dàn mỏng hơn nữa sẽ bộc lộ ra những chỗ sơ hở mới. Tình huống ấy tất nhiên sẽ đến!

        Tháng 2 năm 1975, Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà rút hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến trên tuyến phòng thủ tây bắc Huế về để làm nòng cốt cho việc xây dựng thêm lực lượng dự bị chiến lược. Chưa phải đã xong, tiếp đó, ngày 6 tháng 3, lại chỉ thị cho Ngô Quang Trưởng phải đưa ngay toàn bộ sư đoàn thuỷ quân lục chiến vào Đà Nẵng để thay đổi cho sư đoàn dù rút về Sài Gòn. Trưởng chẳng phải vừa. Ông ta dùng số đông để chống lại lệnh trên. Một cuộc họp tại Đà Nẵng, gồm có đầy đủ bọn đàn em: tư lệnh sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến, sư đoàn 1, 2, 3 v.v… dưới quyền chủ toạ của Trưởng, ra kiến nghị với Bộ Tổng tham mưu đòi thủ tiêu cái mệnh lệnh tai ác kia đi, viện lẽ rằng: “Việc rút sư đoàn dù khỏi Đà Nẵng và sư đoàn thuỷ quân lục chiến khỏi Quảng Trị sẽ gây ảnh hưởng tâm lý rất bất lợi trong dân chúng. Về mặt chiến thuật, việc phòng thủ sẽ trở nên lỏng lẻo, không hữu hiệu. Đặc biệt đối với khu vực Quảng Trị…”.

        Thực ra, họ đều thừa biết rằng, Nguyễn Văn Thiệu muốn rút quân dù về Sài Gòn, là do mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Thiệu đang phát triển gay gắt, và đã có dư luận là một cuộc đảo chính dường như sắp nổ ra, ngày một ngày hai.

        Đầu tháng 3 năm 1975, bầu không khí êm ắng, bỗng trở nên náo nhiệt hẳn lên. Ngày 5 tháng 3 ta đánh sập cầu An Lỗ, tiếp đến phục kích trên đèo Hải Vân, vây ép một số điểm cao ở bắc Quảng Trị: 365 - Động Ong Do - 235. Những hoạt động của ta ở bắc Quảng Trị lần này, theo chúng nắm được, hình như đều có bộ binh, xe tăng, bộ đội địa phương tham gia. Hơn nữa, chúng còn phát hiện thêm là mạng thông tin VTĐ ở Ba Lòng vẫn còn nằm nguyên tại chỗ, lên tiếng đều đều. Sự kiện giật gân nhất là tin sư đoàn 308 sẽ vượt sông Thạch Hãn và tiến công thẳng vào thành phố Quảng Trị… Tất cả những bằng chứng ấy đều đi đến một kết luận dứt khoát là: “Rõ ràng Việt Cộng đã lặp lại cái trò chiến dịch Quảng Trị năm 1972 rồi…”.

        Trong những đêm 5, 6, 7, 8 tháng 3 năm 1975, trong lúc địch căng mắt ra để theo dõi những hoạt động của các đơn vị chủ lực của ta, thì dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Thường vụ Quân khu uỷ và Bộ tư lệnh mặt trận, 5 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, gần 100 đội công tác và các đôi vũ trang địa phương, cùng với lực lượng chính trị và cơ quan chỉ huy, lãnh đạo các cấp tỉnh, huyện cả thảy hơn 3.000 tay súng, lặng lẽ đột nhập đồng bằng, hướng về các địa bàn trọng điểm. Dưới ánh sáng sao, từng đoàn người lặng lẽ vượt qua đường quốc lộ, băng qua những bãi cát trắng, những cánh đồng lâu ngày bị bỏ hoang, cỏ mọc lút đầu người, rồi chia tay nhau về các khu tập trung, theo sự phân công từ trước. Ngọn lửa cách mạng lâu nay ấp ủ trong lòng người dân Trị Thiên, đang chờ một lần gió nhẹ, để ngùn ngụt bốc lên.

        Giữa lúc ấy, thì quang cảnh ở vùng giáp ranh, vùng rừng núi lại khác hẳn. Một tiểu đoàn công binh của trung đoàn 219 và toàn bộ sư đoàn bộ binh 324, ngày đêm dồn dức ra làm đường lên Động Truồi, một cao điểm trên 1 nghìn mét, cố đưa cho được nửa số pháo trong biên chế lên bố trí trên các mỏm, nòng chĩa thẳng vào các vị trí của địch ở phía nam Huế.

        Ngày 8 tháng 3, trước khi nam Tây Nguyên nổ súng một ngày, các trung đoàn của Quân khu và Quân đoàn 2 đồng loạt tiến công trên hai hướng: phía bắc là Phong Sơn, phía nam là đường 14. Một bộ phận lực lượng tập trung của Quảng Trị tiến công vào quận lỵ Hải Lăng. Địch hoảng sợ, rút bỏ 11 điểm chốt. Trên đường 14, đúng 5 giờ 45 phút, sư đoàn 324 nổ súng tiến công. Sau 30 phút đánh dồn dập, pháo chuyển làn vào sân bay Phú Bài và các trận địa pháo của địch ở La Sơn, Ấp 5.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 12:10:58 am

        Cuộc chiến đẫu diễn ra gay go ngay từ ngày đầu. Đơn vị đảm nhiệm hướng chủ yếu đến chậm, chiếm lĩnh rất khó khăn. Tiểu đoàn 6 ba lần xung phong đều bị đánh bật, phần thì bị pháo bắn chặn, phần thì bị hoả lực súng máy tạt sườn. Ở cao điểm 309, hai tiểu đoàn địch chống trả quyết liệt. Thương vong ngày càng nhiều. Trên hướng thứ yếu, sau một giờ chiến đấu ta dã chiếm được các cao điểm 75, 76 ven theo đường 14. Ngày 10 tháng 3 sư đoàn tổ chức một bộ phận trinh sát tập kích vào cụm xe tăng ở núi Nghệ, bắn 4 phát hoả tiễn, diệt luôn 4 xe. Đến 14 giờ cùng ngày tiểu đoàn 4, trung đoàn 2 đột kích vào cao điểm 204. Bị đánh bất ngờ trong lúc chúng đang ăn cơm, nên chỉ sau 45 phút chiến đấu ta dứt điểm. Trong lúc đó, trung đoàn 3 ở Thượng Đức mới trở về đội hình của sư đoàn đã nhanh chóng triển khai đội hình tiến công và làm chủ cao điểm 273.

        Chiến sự ở cao điểm 303 ngày càng trở nên ác liệt: địch cố giữ, chúng tăng cường thêm trên hướng này 2 tiểu đoàn 61 và 94 của lữ đoàn 14, tập trung phi cơ ném bom có ngày lên đến 170 lần chiếc. Suốt cả một tuần lễ địch giành đi giật lại với ta từng cao điểm, kiên quyết ngăn chặn ta trên tuyến núi Bông, núi Nghệ ở tây nam Phú Bài.

        Mặt trận chủ trương: sư đoàn 324 phải giữ vững các khu vực đã chiếm được, sư đoàn 325 thì gấp rút chuẩn bị để tiến công vào khu vực Kim Sắc, cao điểm 560 để phối hợp, đồng thời bước đầu thực hiện việc chia cắt quốc lộ 1. Vì công tác chuẩn bị có gặp trở ngại, nên thời gian nổ súng phải lùi lại mấy hôm. Địch như phát hiện được lực lượng của ta, phán đoán hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch, nên tập trung các trung đoàn 1, liên đoàn 15 biệt động quân và một tiểu đoàn của trung đoàn 51 liên tục phản kích.

        Nhân lúc đồng bằng sơ hở, đêm 8 rạng ngày 9 tháng 3, theo đúng kế hoạch cả tám huyện và vùng ven đô, đồng loạt nổi dậy. Lực lượng chính trị, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương, đánh vào một số chi khu, 30 phân chi khu, chủ yếu nhằm diệt các bộ máy kìm kẹp, kết hợp với vũ trang tuyên truyền trên một diện rộng có 53 xã, 150 thôn với 20 vạn dân. Ở nam Quảng Trị, ta tiêu diệt chi khu Mai Lĩnh, diệt gọn ba phân chi khu, ở bắc Thừa Thiên, diệt 5 phân chi khu: Phong Chương, Phong Hoà, Phong Bình, Phong Niên và Quảng Phú; ở nam Thừa Thiên, đánh vào 10 phân chi khu; diệt gọn 3. Ở phía bắc, kho xăng Động Toàn bị đánh cháy; ở khu giữa ta bắn pháo vào Mỹ Chánh, Đồng Lâm, Hiệp Khánh và ở phí nam, đèo Hải Vân bị uy hiếp. Cả đồng bằng Trị Thiên, dài trên 100 cây số, đâu đâu cũng vang rền tiếng súng tiến công, tiếng reo hò nổi dậy, Nhân dân như sống lại những ngày tưng bừng của Tết Mậu Thân.

        Sự phối hợp tuyệt đẹp giữ đồng bằng và vùng giáp ranh trong những ngày này, đã làm cho đối phương vô cùng hoảng sợ. Bộ máy kìm kẹp mà Mỹ ngụy đã ra sức xây dựng trong bao nhiêu năm bị tan rã nhanh chóng, chúng bỏ chạy toán loạn, đi đâu cũng bị đánh. Một bầu không khí hoang mang dao động lan tràn trong hàng ngũ tay sai.

        Biện pháp đối phó trước tiên là vội vã rút bỏ một số chốt không quan trọng để co về những nơi hiểm yếu hơn ở vùng giáp ranh be bờ, cố thủ. Đến ngày 10 tháng 3, địch bắt đầu phản kích lại trên từng hướng. Ở những nơi có lực lượng của ta trụ lại, thì dùng những phân đội bộ binh nhỏ, có xe tăng yểm hộ, đánh phá quyết liệt và có gây thương vong trong các lực lượng vũ trang địa phương.

        Sớm dự kiến tình huống có thể xảy ra, ngày 12 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các chiến trường: “Địch đang có bước sa sút mới sau thắng lợi của ta ở Tây Nguyên. Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn hơn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Cần phải quán triệt tinh thần khẩn trương, mạnh bạo, kịp thời lợi dụng điều kiện mới, giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch trong trong khi chúng rút chạy…”.

        Được sự chỉ đạo kịp thời của trên, Thường vụ Khu uỷ và Quân khu uỷ đã họp, đánh giá tình hình, khẳng định những thắng lợi bước đầu và đề ra những chỉ thị bổ sung cần thiết, cho các đơn vị. Ngày 13 tháng 3, trung đoàn 6 của tính bắt đầu tiến công trên đường 12, chiếm Chúc mao, diệt địch ở cao điểm 300, uy hiếp Bình Điền, Động Trạch. Phòng tuyến giữa, ở ngay sát nách Huế có nguy cơ bị chọc thủng. Ngày 15 tháng 3, địch rút bỏ một khu vực lớn từ Đèo Đông đến cao điểm 551.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 12:13:19 am

        Về phía đối phương trong những ngày này, cơn sóng gió không chỉ diễn ra trên chiến trường mà cả trong nội bộ họ nữa. Được hậu thuẫn mạnh mẽ, sau ngày 6 tháng 3, Ngô Quang Trưởng tỏ ra bướng bỉnh không chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà. Ông ra chần chừ mãi đến ngày 13 tháng 3 mới bay về Sài Gòn. Viên gạt nhẹ quả bóng: “Đây là lệnh của Thiệu”. Trưởng báo cáo với Thiệu là không nên rút lui về Đà Nẵng, vì đối phương đang uy hiếp quốc lộ 1. Tốt nhất là nên ở lại Huế và chuẩn bị chiến đấu, may ra còn có thể đem lại cho nhân dân một ít lòng tin. Trưởng thấy còn có các căn cứ phòng thủ khá tốt chung quanh Huế và có thể tập trung quân co cụm vào ba nơi trong phạm vi vùng 1 chiến thuật: Huế, Đà Nẵng, Chu Lai. Kỳ kèo mãi, Thiệu mới đồng ý kéo dài việc rút quân được mấy hôm: dự kiến ngày 17 tháng 3, sẽ rút lữ đoàn dù thứ nhất, ngày 25 tháng 3, rút lữ đoàn thứ hai và đến cuối tháng 3, rút xong lữ đoàn cuối cùng. Khi trưởng hỏi về sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, Thiệu trả lời là sẽ đê nguyên ở vùng 1 và sẽ cố thủ Huế. Trưởng cảm thấy hơi an tâm. Nhưng trong lúc ăn cơm, hỏi lại Khiêm, thì Khiêm lại rỉ tai là Thiệu đang nghiên cứu cả việc rút sư đoàn lính thuỷ đánh bộ về, thực hiện chiến lược mới: nhẹ ở đầu, nặng ở đáy. Đầu là vùng 1 và đáy là Sài Gòn. Như vậy có nghĩa là sẽ hy sinh các tỉnh phía bắc và cả Tây Nguyên.

        Trưởng ra về, lòng dạ bồn chồn, căm phẫn và bất mãn. Để cứu van tình thế vùng 1, Trưởng manh nha một âm mưu mới: đảo chính. Đảo chính lật đổ vốn là truyền thống xưa nay của vùng 1. Ông ta thấy phải lật đổ Thiệu, nhưng chưa kịp chiêu binh, tập hợp lực lượng, thì Quân giải phóng đã ập đến sau lưng rồi!

        Ngày 17 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Quân khu và Quân đoàn cụ thể thêm: “Phải táo bạo đưa lực lượng vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài, thọc xuống cắt đứt đường số 1, đánh chiếm Phú Lộc, chuẩn bị hoả lực đánh vào Huế và đôn đốc đánh sớm hơn dự kiến…” (Điện số 517, ngày 17 tháng 3).

        Thường vụ Khu uỷ và Thường vụ Đảng uỷ mặt trận lại họp và nhận định: thời cơ thuận lợi mới đã xuất hiện, nên đã hạ quyết tâm, khẩn trương, mạnh bạo tiến công, dùng lực lượng tại chỗ đánh mạnh vào phòng tuyến địch, kết hợp với thọc sâu, chia cắt, phá thế co cụm, giành thắng lợi lớn ở đồng bằng, tiến tới bao vây, cô lập Huế.

        Thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh cnói trên, trong ngày hôm ấy Bộ tư lệnh Quân khu dùng toàn bộ lực lượng của tỉnh Quảng Trị đang từ trong thế phòng ngự phía bắc, chuyển sang tiến công trên hai hướng: hướng đông, từ Thành Hội theo trục đường 86; hướng tây từ Tích Tường, Như Lệ, theo đường 1, tiến vào. Các lực lượng đã rút lên vùng giáp ranh để củng cố, phải lập tức quay trở lại đồng bằng, đánh địch, phát động quần chúng nổi dậy. Phía bắc Huế, trung đoàn 4 bộ binh, thọc ra cắt đường quốc lộ 1, hướng nam Huế thì bỏ khu vực đường 14 và các cao điểm đang giành đi giật lại với địch, mà chuyển xuống cắt giao thông ở khu vực Lương Điền, Đá Bạc.

        Cũng trong ngày 17 này, về phía địch, Trưởng ngậm đắng nuốt cay tiễn chân lữ đoàn dù về Nam và triển khai lại lực lượng. Lần thứ hai trong vòng hai tuần lễ, lại một lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ nữa phải rút khỏi phòng tuyến phía bắc Huế, để co về khu vực đồi núi đèo Hải Vân nhằm tăng cường cho tuyến phòng thủ Đà Nẵng, vì giữa hai thành phố Huế và Đà Nẵng, thì Huế là đầu mà Đà Nẵng là đáy. Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ cuối cùng còn lại trên đất Quảng Trị, chỉ còn làm nhiệm vụ của một tấm lá chắn bảo vệ cho sư đoàn 1, các lực lượng vũ trang khác và nhân dân Huế, trường hợp phải rút lui, tức là thực hiện giai đoạn hai trong kế hoạch chiến lược của Trưởng.

        3 giờ sáng ngày 19 tháng 3 cờ Mặt trận đã cắm trên Thành cổ Quảng Trị, và đến 15 giờ hôm ấy, pháo lớn đã bắt đầu giội bão lửa xuống khu vực Tây Lộc, Mang Cá, trong thành phố Huế. Cái gọi là tuyến tác chiến trì hoãn, thực ra đã không trì hoãn được phút giây nào cả, mà chỉ lo giẫm lên nhau chạy dài. Sau một ngày tiến công, toàn tỉnh Quảng Trị được giải phóng.

        Cũng như ở các nơi khác, dẫn đầu các cuộc di tản bao giờ cũng là các binh sĩ rã ngũ. Cũng không có gì lạ, vì những quân nhân bao giờ cũng “nhạy bén” với tin tức hơn ai. Lại nữa, được bộ máy chiến tranh tâm lý tác động mạnh, nên họ sẵn có ấn tượng rất sâu sắc về những cuộc tắm máu, về cái thuyết Domino mà Mỹ, ngụy hàng ngày nhồi nhét vào đầu óc họ. Lẽ thứ ba là so sánh với thường dân, họ có phương tiện đây đủ hơn và được giành nhiều ưu tiên hơn. Cùng đi với các quân nhân là gia đình họ. Lý luận của các cấp chỉ huy ở Sài Gòn là quân đội sẽ chiến đấu tốt hơn nếu có vợ con bên cạnh, cho nên đã có quyết định cho gia đình ở cạnh binh lính, dù là Huế, Đà Nẵng, Phú Bài, hay ở một tiền đồn xa xôi. Ngoại lệ duy nhất là các sư đoàn lính thuỷ đánh bộ và lính dù.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 12:16:24 am

        Trong trường hợp rút lui, các cấp chỉ huy của quân đôi Cộng hoà, mới nhận thấy đây là một trở ngại khủng khiếp, lính không còn ra lính nữa. Họ đã hoà mình trong làn sóng người đang trôi dạt về phía nam, lôi kéo luôn cả một số thường dân có máu mặt: xe gíp, xe honda, xe buýt chật đường. Trong những ngày này, trên đài Sài Gòn, Thiệu ra rả đổ tội cho các chiến sĩ đặc công của ta, đã tìm cách len lỏi vào giữa đám người di tản, rỉ tai hù dọa, tác động tinh thần. Của đáng tội! Binh chủng đặc công, trong lúc này, làm gì có đủ thì giờ để làm cái việc mà Thiệu gán cho này.

        Sáng ngày 19 tháng 3, một phái đoàn chính quyền do thủ tướng Trần Thiện Khiêm dẫn đầu đáp máy bay ra phía bắc để thị sát tình hình. Nhận xét đầu tiên: cái chiến lược quỷ quái “nhẹ đầu nặng đáy” đã tỏ ra chẳng có hiệu quả gì, vì theo lời Trưởng báo cáo thì cái đáy Đà Nẵng cũng đang bị thủng. Cấp tốc bay về Sài Gòn, Khiêm tìm gặp Thiệu và khẩn khoản đề đạt ý kiến rút ngay Huế để cứu vãn Đà Nẵng. Thiệu không nghe. Quay ngoắt 180 độ, Thiệu quyết định, vãn giữ Huế với bất cứ giá nào. Mọi người đều hết sức kinh ngạc. Trong cơn nguy biến, Thiệu trở bàn tay còn khó hơn là thay đổi đường lối chiến lược. Như thế là thế nào? Vì lẽ gì mà Huế bỗng nhiên trở thành nơi quan trọng đến như vậy? Có một điều mà lúc bấy giờ, rất ít người biết đến là vừa rồi Bùi Diễm, nguyên là đại sứ ở Mỹ và Trần Văn Đỗ có đến nói với Thiệu rằng: phải có một hành động nổi bật mới mong tập hợp được quân đội và nhân dân, nếu không thì phải từ chức. Thiệu không nghĩ ra điều gì nổi bật hơn là phải dũng cảm bảo vệ cố đô, nơi mà năm 1968, Mỹ đã phải đổ không biết bao nhiêu xương máu ra để lấy lại, một khi đã mất về tay nhân dân.

        Quyết định bất ngờ của thiệu được loan báo trên đài vô tuyến truyền hình để làm nức lòng nhân dân trong cả nước, nhưng lại làm cho Ngô Quang Trưởng mất tinh thần. Bao nhiêu binh khí kỹ thuật đã trót đưa xuống phía nam hết cả rồi, chỉ còn lại mỗi mình lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ đang mất tinh thần, chống đỡ và ngăn chặn nỗi gì!

        Mặc dù vậy, đêm 19 tháng 3, Trưởng đã dùng trực thăng đến tiền phương quân đoàn để ra lệnh bảo vệ Huế. Nhưng khi về đến Đà Nẵng thì Trưởng lại nhận ra được điện cấp tốc của Bộ Tổng tham mưu đánh ra nửa tiếng Việt, nửa tiếng Pháp: “Phương tiện eo hẹp, về không quân và hải quân chỉ cho phép ủng hộ được 1 Enclave (ý nói khu vực co cụm-TG) mà thôi. Vậy nên Mener (dẫn dắt-TG) trì hoãn chiến về tuyến đèo Hải Vân, nếu tình hình cho phép”. Ký tên Cao Văn Viên.

        Chỉ thị, mệnh lệnh, hay là ý kiến khêu gợi? Tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược này, phải chăng là do thông tin liên lạc không chặt chẽ nên hợp đồng không ăn khớp, hay là vì một lẽ gì khác? Bộ Tổng tham mưu thì đổ lỗi cho quân đoàn không báo cáo đầy đủ tình hình; cò Truởng thì kết tội Sài Gòn là thiếu chỉ huy và giúp đỡ kế hoạch.

        Trong lúc Trưởng còn đang nửa tin nửa ngờ, nên rút hay nên không, thì lại bị bồi thêm một cút chết người. Nguyên văn công điện thứ hai, để giải thích tình hình cho Trưởng rõ, như sau:

        “Thứ nhất, khả năng trung ương chỉ có thể yểm hộ 1 Enclave mà thôi, Vì vậy bằng mọi cách phải kịp thời và khi tình hình hình đòi hỏi, thực hiện Enclave Đà Nẵng.

        Thứ hai, trong giai đoạn đầu, sư 1 bộ binh, sư 3 bộ binh và sư đoàn thuỷ quân lục chiến vào enclave Đà Nẵng. Giai đoạn hai: sư đoàn 2 bộ binh vô luôn.

        Thứ ba, khi sư 2 bộ binh vô xong, hoàn trả tức khắc sư đoàn thuỷ quân lục chiến về trung ương”.

        Ký tên: Đại tướng Cao Văn Viên.

        Mãi về sau, tình hình mới rõ ra. Số là ngày 19 tháng 3, khu vực phòng thủ của liên đoàn 14 biệt động quân bị tiến công mạnh, các đại đội địch ở La Vang, Như Lệ, mất liên lạc với nhau. Đến 10 giờ, địa phương quân phát hiện xe tăng và bộ binh ta ở Thành Hội, vội vàng tháo chạy, kéo theo luôn các đơn vị địa phương khác. Chiều hôm ấy, báo cáo lên tiểu khu Quảng Trị là chiến xa của Quân giải phóng đã tiến đến Gia Đẳng, Mỹ Thuỷ ở phía biển, và trên đường quốc lộ thì vào đến La Vang, Thành Cổ. Như thế là tiểu khu Quảng Trị bỏ chạy; và chỉ huy tiểu khu Thừa Thiên ở Huế, cũng thần hồn nát thần tính, chuẩn bị cuốn gói về Đà Nẵng; nên ra lệnh sơ tán dân, phá hoại vũ khí, phương tiện kỹ thuật, quyết không để lọt một tí gì vào tay đối phương.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 12:19:41 am

        Thực ra tình hình trên các mặt trận, đâu đã đến nỗi gì. Tiền phương Quân đoàn 1 còn nắm trong tay 8 trung đoàn chủ lực với 25 tiểu đoàn, quân số còn khá đầy đủ, vì tất cả đều được bổ sung sau mùa đông; 15 tiểu đoàn địa phương, hơn 10 tiểu đoàn pháo lớn, ba trung đoàn xe tăng nặng, tuy có bị sứt mẻ chút ít, nhưng vẫn còn sức chiến đấu. Với chừng ấy lực lượng ý định của Trưởng là:

        - Giữ vững tuyến Mỹ Chánh, Thanh Hương, để cho phía sau có thì giờ xây dựng trận địa bảo vệ Huế.

        - Tăng cường tuyến sông Bồ phía bắc Huế. Ngoài lực lượng 4 tiểu đoàn của lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ, hai tiểu đoàn biệt động quân 78 và 79, lữ kỵ binh 20, chúng còn dự kiến tăng cường thêm lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 468 mới thành lập để triển khai phía sau tuyến phòng thủ thứ nhất, từ Sịa đến Hương Điền. Trên mặt trận phía nam đã có các trung đoàn 1, 51, 54 của sư đoàn 1, liên đoàn biệt động quân 15, lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 258 và liên đoàn biệt động quân 914.

        Do không nắm được tình hình này, nên Trần Thiện Khiêm đề nghị Cao Văn Viên ra lệnh rút bỏ Huế. Sáng hôm sau, khi rõ ra rồi thì lại có lệnh mới: “Giữ vững tuyến Mỹ Chánh, và sẽ có thêm lực lượng mới”.

        Việc trước tiên mà Trưởng thấy phải làm ngay là ngừng việc điều động các đại đội pháo 175 ly đã có lệnh đưa về Đà Nẵng và ngừng việc di chuyển đạn dược ra khỏi Huế.

        Tuyến phòng thủ phía bắc và phía tây tạm thời ổn định được một hôm thì tình hình chiến sự ở phía nam lại rộ lên, báo hiệu một sự sụp đổ vĩnh viễn, không còn cách gì ngăn chặn được.

        Cũng trong ngày 20 tháng 3, Thiệu gửi một bức điện khẩn cho các tư lệnh các quân khu, quân binh chủng, các sư đoàn, các tỉnh trưởng và các tiểu khu trưởng:

        “Đất nước hiện đang trải qua một cơn thử thách nghiêm trọng. Tình hình hiện tại rất dễ gây hoang mang trong quân đội và dân chúng. Tôi đã giải thích tình hình chung trong ngày hôm nay, tôi thấy cần lưu ý thêm quí vị về các sự kiện sau đây:

        Nhân danh Tổng tư lệnh tối cao quân lực, tôi rất hãnh diện về tinh thần chiến đấu anh dũng của toàn thể chiến hữu các cấp trong thời gian qua.

        Những việc làm của chính phủ và quân lực trong những ngày qua, là do những quyết định can đảm, được hội đồng an ninh quốc gia ban hành, sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng. Để bảo toàn lực lượng ta, hầu đủ khả năng giữ vững những vùng đông dân cư và trù phú của đất nước, tôi nhấn mạnh: ngày 20 tháng 3 năm 1975 những phần đất còn lại sẽ được bảo vệ đến cùng…”

        Chú thích thêm: công điện của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà đặc biệt dành riêng cho cá nhân quý vị.

        Để đáp lại những lời lẽ động viên, hô hào tử thủ, Trưởng trả lời ngay bằng một công điện ngắn gọn:

        “Trân trọng kính trình tổng thống: tự nhận thấy đuối sức và bối rối, sợ rằng không hoàn thành trách vụ, kính xin tổng thống cho được từ chức”.

        Ngày 20 tháng 3 năm 1975, ký tên: Ngô Quang Trưởng.

        Thiệu trả lời ngay:

        “Chưa thể chấp nhận thỉnh cầu của trung tướng trong tình hình hiện tại…”

        Còn Cao Văn Viên thì cho một bài học ngắn gọn:

        “Trong lúc này, ai cũng phải cố gắng hy sinh tối đa”.

        Đọc qua những bức công điện ngắn gọn này, Trưởng bầm gan, tím ruột, nhưng bề ngoài, để củng cố lòng tin của ba quân, đành ngậm đắng nuốt cay, lên đài phát thanh Huế, thốt ra lời thề: “Nếu có phải chết trên đường phố Huế, cũng quyết giữu đến cùng, Việt cộng muốn vào được Huế phải bước qua xác tôi đã”.

        Những chập chờn trong chủ trương, những mâu thuẫn trong kế hoạch của đối phương, được ta khai thác triệt để và kịp thời. Ngày 20 tháng3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị thêm cho Quân đoàn: Ngoài Thừa Thiên-Huế, Thiệu còn phải bỏ nhiều vùng khác nữa, cho nên phải táo bạo, khẩn trương, kiên quyết tiêu diệt cho bằng được sư đoàn 1 bộ binh, giải phóng thành phố Huế, bằng mọi cách, nhất định không để cho địch rút khỏi Thừa Thiên mà không bị tiêu diệt” (Điện số 709, ngày 20 tháng 3 QUTW).

        Cũng trong ngày này, thường vụ khu uỷ hạ quyết tâm tranh thủ thời cơ, dốc toàn lực, giải phóng Thừa Thiên-Huế bằng một cuộc tổng tiến công tổng hợp toàn diện, lấy chia cắt và bao vây chiến dịch kết hợp với các mũi thọc sâu của chủ lực làm biện pháp then chốt; đồng thời phải sử dụng lực lượng vũ trang địa phương tiếp tục đánh địch, hỗ trợ và vận động quần chúng nổi dậy, giành dân, đưa chiến dịch đến toàn thắng.

        Theo quyết định của Bộ, ngày 21 tháng 3 là ngày bắt đầu đợt 2 của chiến dịch mùa xuân của Trị Thiên, đồng thời cũng là ngày bắt đầu chiến dịch Huế-Đà Nẵng, trên khu vực phía bắc.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:04:42 pm

        Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, ngày 21 tháng 3, trung đoàn 18, sư đoàn 325 nổ súng tiến công. Sau chín giờ chiến đấu, chiếm được các cao điểm 560, 494, 520, diệt gọn tiểu đoàn 61, trung đoàn 101 chiều hôm ấy cũng tiến công làm chủ hoàn toàn Kim Sắc. Nhân dân các xã bắc Phú Gia nổi dậy khởi nghĩa, gọi hàng bọn bảo an dân vệ. Trên hướng sư đoàn 324, sau ba giờ chiến đấu, trung đoàn 1 chiếm được núi Bông. Địch dùng xe tăng phản kích đánh bật ta ra. Trung đoàn 2 chiếm được các cứ điểm 224, nhưng lại không chiếm được mỏm tây cao điểm 303. Thấy rõ địch đang cố sống cố chết giữ cho được con đường rút lui, chiều hôm đó, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho Quân đoàn 2 bỏ ngay khu vực núi Bông, núi Nghệ, chỉ để lại một bộ phận nhỏ kìm chân địch, còn thì tập trung toàn bộ cả hai sư đoàn để cắt đường, đồng thời thọc hẳn xuống đồng bằng, khoá chặt cửa Thuận An, đánh mạnh vào Phú Bài, áp sát Huế. Thực hiện kế hoạch này, Quân đoàn 2 nhanh chóng lệnh cho sư đoàn 325, đêm 21 xuống đường quốc lộ và sáng hôm sau, đánh chiếm một số vị trí quan trọng án ngữ trên đường Lương Điền-Phú Lộc. Trung đoàn 101 của sư đoàn thì theo đường quốc lộ, đánh địch ở Phú Bài, nam Huế 15 kilômét. Trưa ngày 25 tháng 3, trong lúc đang áp sát thành phố Huế, khi còn cách hai cây số thì được tin địch rút chạy. Nhân dân nô nức đổ ra đường, đón mừng, dùng xe của mình giúp đơn vị này nhanh chóng tiến vào thành phố.

        Sư đoàn 324, không đột phá tiền duyên phòng ngự vòng ngoài địch, mà xốc lại đội hình, thọc xuống đồng bằng, phối hợp với hai tiểu đoàn địa phương, tiến chiếm Phú Vang, vượt qua phá Tam Giang, chiếm Vĩnh Lộc, nhanh chóng hình thành thế vu hồi từ phía đông. Ngày 25, đã vây chặt, diệt và làm tan rã toàn bộ địch ở cửa Thuận An. Trung đoàn 3 của sư đoàn, được xe tăng chi viện, đánh thẳng vào trung tâm thành phố, đến 12 giờ chiều, đến cầu Tràng Tiền, rồi phát triển vòng lên phía bắc, chiếm Mang Cá.

        Các lực lượng của tỉnh phối hợp tiến công trên hướng bắc và hướng tây. Cuộc rút lui bất ngờ của liên đoàn biệt động quân 914 trên tuyến Mỹ Chánh đã gây tâm trạng hỗn loạn, kinh hoàng trong hàng ngũ địch ở khu vực này, mở đầu cho cuộc tổng tháo chạy. Ngày 23 tháng 3, bộ đội tỉnh cùng các đơn vị vũ trang công tác ở hướng đông, tiến công quận lỵ Hướng Điền, rồi phát triển về cửa Thuận An, phối hợp với lực lượng từ phía nam đánh ra. Tiểu đoàn 8 của Quảng Trị thì đánh thẳng theo đường quốc lộ số 1, đến 10 giờ 30 ngày 25 tháng 3 thì vượt qua cầu An Hoà, vào thành phố.

        Trên hướng tây, trung đoàn 4 tiến công vào lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ, chiếm lĩnh phòng tuyến nam Sông Bồ suốt ngày 24 tháng 3 đánh phản kích rồi phát triển về Huế; còn trên đường 12, trung đoàn 6 và trung đoàn 271 chiếm Đình Môn, Kim Ngọc, nhanh chóng vượt sông Hương, và sáng sớm ngày 26 tháng 3 tiến vào thành phố Huế.

        Phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của chủ lực, nhân dân trong vùng nổi dậy giành lấy chính quyền ấp xã, đập nát bộ máy kìm kẹp, truy lùn tề điệp, ác ôn. Bốn chi bộ của xã Mỹ Thuỷ lãnh đạo 4 ấp, vận động 40 ngụy quyền bỏ ngũ, làm tê liệt 4 trung đội dân vệ, 400 phòng vệ dân sự và đột nhập vào sào huyệt của ngụy ở ấp 5. Sáng sớm ngày 24 tháng 3, nhân dân cùng bộ đội giải phóng quận Hương Thuỷ. Cả tỉnh chuyển mình, từ bờ sông Thạch Hãn đến đèo Hải Vân, từ vùng giáp ranh đến sát biển, đâu đâu cũng hừng hực khí thế tiến công, tiếng trống, tiếng mõ, tiếng reo hò hoà nhịp với tiếng chân người rầm rập của những đoàn quân từ các hướng xốc tới. Khi thấy các con đường rút lui đều bị uy hiếp, cái túi gói gọn chúng dang hình thành, ngày 23 tháng 3, các tướng tá ngụy, bất chấp lệnh trên. Họp nhau ở Tân Mỹ để bàn kế hoạch rút lui khỏi Thừa Thiên. Theo thoả thuận chung, thì lữ đoàn 1 bộ binh và lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 147 có nhiệm vụ bảo vệ phía sau cho mọi lực lượng, và sẽ rút lui sau cùng. Trên thực tế, kế hoạch đã bị vỡ từ trong trứng. Nguyên nhân vì sao?

        Có một việc mà tất cả họ đều không hay biết gì cả. Ngày 23 tháng 3, tư lệnh sư đoàn 1 đã trót phổ biến cho cấp dưới một quyết định do chính hắn đề ra. Hắn nói:

        “Chúng ta đã bị phản bội, chúng ta phải bỏ Huế, thành phố đẹp nhất của miền Nam Việt Nam, mục đích là để bảo tồn lực lượng. Bây giờ thì anh em tuỳ nghi di tản. Ai có thể đi ra bờ biển hay đi tới Đà Nẵng thì đi và hải quân Việt Nam sẽ nhặt tất cả những người ốm đau hoặc mệt mỏi không thể đi được. Địa điểm tập kết là nam đèo Hải Vân. Chúc tất cả anh em may mắn, và hẹn gặp nhau tại Đà Nẵng. Nhớ giữ im lặng khi rút lui và không được mở máy VTĐ để liên lạc”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:07:59 pm

        Cho nên, khi kế hoạch rút lui chưa kịp đưa ra, thì binh lính của sư đoàn 1, lẽ ra phải bảo vệ phía sau, đã “tuỳ nghi di tản” từ bao giờ, trong lúc từ cả ba phía, các đoàn Quân giải phóng đang xốc tới và nhân dân cả vùng đồng bằng đang vùng lên.

        Lại giẫm lên nhau mà chạy!

        Đến 16 giờ 30 ngày 24 tháng 3 tại Thuận An, tàu hải quân 14 bị một phi cơ A37 oanh tạc nhầm, 5 chết, 20 bị thương. Tàu phải kéo vào Đà Nẵng. Đêm đến còn lại 4 LCU, 15 LCM8, thấy vậy cũng tháo chạy luôn.

        Chứng kiến cảnh hỗn loạn ở cảng Tân Mỹ, chiều hôm ấy, một nhân chứng kể lại: “Không còn phương tiện nào để chạy nữa, một số binh lính xuống thuyền nhỏ, chèo tay. Nhưng thuyền nặng, sóng to, một số thuyền vì chở quá tải đã lật, chìm cách bờ khoảng 50 đến 100 mét. Lúc đầu cuộc rút lui còn có trật tự. Nhưng tối đến nhất là sau khi tin bỏ Huế lan nhanh ra trong nhân dân thành phố, thì mọi nơi đều rối loạn như ong vỡ tổ. Chiếc cầu phao ở cửa Thuận An bị gãy, binh lính tiến thoái đều không được, phơi mình trên bãi cát, dưới hoả lực dày đặc của pháo binh và súng bắn thẳng. Một vài chiếc tàu nhỏ cố lách sóng chạy vào bờ, nhưng rất khó khăn, vì biển động dữ dội. Vừa cập đến mép nước, thì các sắc lính ở trên bờ đều vứt cả vũ khí, trang bị, khí tài kéo ùa xuống tàu. Lại đánh nhau, đấm nhau, loạn xạ. Hàng trăm người liều mạng dùng phao bơi ra, bị sóng cuốn… Xác người nổi lềnh bềnh trên mặt nước”.

        Xa về phía nam, ở cửa Tư Hiền, tình hình cũng bi đát không kém. Hải quân không làm được nhiệm vụ đánh đắm hai chiếc tàu ở lạch nước cạn, để cho công binh bắc cầu sang bán đảo Vĩnh Phong, vì tàu đã bị cướp mất. Tiểu khu trưởng Thừa Thiên cố xin chỉ huy trưởng liên đoàn 13 vài chục chiếc tàu nhỏ để chở quân cũng không được, vì các đơn vị hải quân đã được lệnh của quân đoàn đã di tản từ ngày hôm trước rồi.

        Sau 20 ngày chiến đấu, gần như toàn bộ lực lượng vũ trang của địch trên chiến trường Trị Thiên bị loại khỏi vòng chiến đấu: 2 vạn tên bị bắt tại trận, 1 vạn tên đầu hàng, còn phần lớn thì rã ngũ tại chỗ. Chỉ riêng về mặt trận nổi dậy, địa phương đã loại trên 4.000 tên địch, thu 3.000 súng các loại, phá 40 xe quân sự, bắn cháy 1 tàu, diệt 30 phân chi khu, phá 33 tề xã, 186 ban tề ấp, 227 toán phòng vệ dân sự, làm tan ngũ gần 4.000 quân chủ lực, trên 1.000 bảo an, gần 3.000 dân vệ.

        Nhân dân Trị Thiên rất xứng đáng đuợc nhận lời biểu dương của Quân uỷ Trung ương ngày 28 tháng 3.

        “Việc đánh chiếm và giải phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và chính trị rất lớn. Chiến công đó làm cho nhân dân cả nước nức lòng phấn khởi, làm cho địch suy yếu thêm một bước mới, hết sức nghiêm trọng. Các đồng chí đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh anh dũng của dân và quân cả nước ta…”.

        Phản ứng trong hàng ngũ đối phương về sự kiện này, có người đã để lại: khi Thiệu được báo cáo về việc làm của Trưởng, Thiệu nổi cơn thịnh nộ mà chưa bao giờ thấy dữ dội như vậy. Thiệu buộc tội cho viên chỉ huy quân khu 1 là thất bại chủ nghĩa, là đã làm tan rã sư đoàn 1 và sẽ chịu phạt về hành động đó. Nhưng, tất nhiên, giận dữ thế cũng chỉ uổng công thôi. Thiệu vẫn phải theo giải pháp của Trưởng, vì cũng bí thế như Trưởng. Tuy Thiệu rất muốn hành động khác đi, nhưng vẫn phải bỏ Huế ngay tức khắc.

        Ngày 24 tháng 3, Kissinger trở về Washington. Vẻ mặt của ông ta nghiêm nghị và rầu rĩ. Đi vận động ở Trung Đông thì chưa được kết quả gì, mà cuộc khủng hoảng ở Việt Nam, cách mạng thì ngày càng tồi tệ. Chỉ riêng có Martin, đại sứ Mỹ thì thái độ lại khác hẳn. Đang nghỉ ngơi với gia đình ở North Carolina, sau khi chữa răng, ông ta vừa về đến Washington, đã giễu cợt những tin tức hốt hoảng từ miền Nam Việt Nam gửi về. Ông ta coi việc mất nửa phía bắc Nam Việt Nam cũng là nhẹ nợ, vì về kinh tế, nó không được lời bao nhiêu, chỉ thêm tốn tài nguyên của chính phủ. Phần còn lại, giàu hơn nhiều và có sưc sống chính trị hơn nhiều. Nó tập trung thành một khối, và có thể bảo vệ có hiệu quả hơn…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:11:58 pm

Chương 13

TƯỚNG TÌM QUÂN

        Từ sau chiến dịch hè thu 1974, trên chiến trường đồng bằng Khu 5, ta đã có những bước tiến nhah chóng và vững chắc. Vùng căn cứ rừng núi được mở rộng hơn, ngày càng hoàn chỉnh hơn, ép đối phương về đồng bằng; những lõm giải phóng ở đông đường quốc lộ dần dần được khôi phục lại; chiến tranh du kích được đẩy mạnh. Tuy nhiên họ vẫn còn cố giữ những quận lỵ, cắm sâu vào căn cứ của ta như Tiên Phước, Quế Sơn, Trà Bồng, Sơn Hà… giải phóng được những nơi này thì vùng địch chiếm đóng chỉ còn là một dải đất hẹp và dài hàng mấy trăm cây số. Một lưới gươm chém xuống bất cứ nơi nào, cũng thành chia cắt.

        Để đối phó với Tây Nguyên, chiến trường được lựa chọn là Phước Lâm, Tiên Phước. Trong khu chiến này, địch có 5 tiểu đoàn, 2 đại đội bảo an, hai pháo đội, 44 trung đội và hai bộ máy chi khu quận lỵ. Toàn bộ đóng từ Suối Đá trở lên phía tây có 74 cứ điểm và chốt. Đây cũng là địa bàn hoạt động của sư đoàn 2 quân đội Cộng hoà, nhưng trong lúc này, hãy còn đứng ngoài vòng chiến, ở Quảng Ngãi. Chủ trương ban đầu của Quân khu uỷ là tiêu diệt quân đồn trú, giải phóng vài vạn dân; làm chủ cả một vùng phì nhiêu, màu mỡ, tạo ra thế thuận lợi mới để tiêu diệt chủ lực địch. Làm chủ địa bàn này, thì trực tiếp uy hiếp Tam Kỳ, Chu Lai-vừa là căn cứ vừa là sở chỉ huy của sư đoàn 2 và cả đường quốc lộ số 1. Do tính chất hiểm yếu của khu chiến, nên Bộ tư lệnh quân khu do Thượng tướng Chu Huy Mân làm tư lệnh và đồng chí Võ Chí Công làm chính uỷ, cũng dự kiến trước rằng: một khi đánh vào đây, nhất định sư đoàn 2 ngụy sẽ đưa quân ra đối phó. Đây là cơ hội rất tốt để thực hiện nhiệm vụ đánh tiêu diệt. Nhưng, lực lượng của ta sử dụng vào đây, so với kế hoạch vạch ra trước kia, đã có sự thay đổi rất lớn: Sư đoàn 3 đã phải chuyển vào đường 19 để trực tiếp phối hợp với nam Tây Nguyên. Sư đoàn của ta, dù được tăng cường thêm lữ đoàn bộ binh 52 thiếu, và một tiểu đoàn của trung đoàn 36, vẫn chưa có ưu thế về lực lượng trong chiến dịch. Tuy nhiên, quyết tâm vẫn không thay đổi, thậm chí, cũng không hạ mức yêu cầu. Bộ tư lệnh Quân khu đã nắm chắc được rằng: khi có sự phối hợp chặt chẽ trên toàn bộ chiến trường miền Nam thì những tính toán theo kế hoạch trước đây, phải thay đổi. Tât nhiên là phải nắm chắc quy luật đối phó của đối phương, để chủ động kéo chúng ra từng bước, bảo đảm diệt gọn từng bộ phận, tiến tới xoá sổ toàn bộ cả sư đoàn.

        Những trận chiến đấu lẻ tẻ đầu tháng 3 năm 1975: đánh kho đạn Sủng Mây, đánh bãi xe Xuân Thiều, phá cầu Trắng v.v… ở gần căn cứ Đà Nẵng; trận đánh vào tiểu đoàn 2, trung đoàn 56, của sư đoàn 3 ở vùng B Đại Lộc, cũng như những trận đánh vào sân bay Quảng Ngãi v.v… mới ngeh có vẻ dồn dập nhưng thực chất chỉ có tác dụng kìm chế, nghi binh, buộc đối phương phải đối phó khắp nơi mà thôi. Đến ngày 9 tháng 3 năm 1975, chúng mới nhận ra được hướng tiến công chính của quân khu, vội vã đưa liên đoàn 12 biệt động quân từ Đà Nẵng vào, tăng cường cho Tiên Phước. Chưa vào đến khu chiến, thì đã phải triển khai ở Tuần Dương, vì sáng 10 tháng 3 năm 1975 ta bắt đầu nổ súng tiến công, sau Buôn Ma Thuột 2 giờ.

        Sư đoàn 2 và lữ đoàn 52 đánh vào Suối Đá, Tiên Phước, cao điểm 211, bao vây Phước Lâm. Các tiểu đoàn địa phương 102, 116, 134, 135 bỏ chạy về Tam Kỳ, rút bỏ một loạt chốt. Ngày hôm sau Trần Văn Nhật, tư lệnh sư đoàn 2 ngụy vội vàng chấm dứt cuộc càn quét ở Nghĩa Hành để đưa trung đoàn 5 và các tiểu đoàn biệt động quân 37, 39 vào vòng chiến, triển khai ở núi Ngọc Bích, cùng với 9 tiểu đoàn địa phương làm thành tuyến phòng thủ Cẩm Khê, Quán Rường.

        Thắng lợi của giai đoạn đầu, đánh quân đồn trù, giải phóng 2 vạn dân, rất giòn giã, thời gian ngắn hơn dự kiến.

        Trước tình hình phát triển nhanh chóng của chiến dịch, ngày 13 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Quân khu uỷ: Phải đẩy mạnh tiến công ở phía bắc quân khu, để nhanh chóng tiến xuống quốc lộ 1, sau khi giải phóng được một số vị trí ở vùng giáp ranh. Ngay từ bây giờ phải có sự phân công, chuẩn bị khẩn trương cho sự phát triển tiếp theo, đặc biệt trên hướng từ Quảng Ngãi đến Đà Nẵng.

        Thực hiện chỉ thị này, thường vụ Quân khu uỷ và Bộ tư lệnh quân khu kịp thời bổ sung nhiệm vụ cho hướng chủ yếu: Trước mắt phải chốt chặn địch trên tuyến Đường Con, Núi Thị, cao điểm 175, Đất Đỏ, nhằm bao vây bắt gọn toàn bộ địch ở Phước Lâm, Tiên Phước; đồng thời chuẩn bị mọi mặt cho trận đánh viện then chốt thứ nhất sắp đến.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:16:50 pm

        Có thêm lực lượng tiếp viện từ Quảng Ngãi mới ra, địch chia làm hai cánh phản kích lại: trung đoàn 5, cùng với hai tiểu đoàn bảo an và chi đoàn thiết giáp 1/4 tiến công lên Dương Leo, Dãy Thám; liên đoàn 12 biệt động quân, một tiểu đoàn bảo an và chi đoàn thiết giáp 1/11 tiến công lên hướng Cẩm Khê, Dương Con. Cả hai cánh đều bị các chốt của ta đánh lui. Những ngày tiếp theo, tất cả các mặt trận ở đồng bằng Khu 5 lần lượt nổ súng. Địch bối rối, lúng túng đối phó: trung đoàn 2 của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà ở Quảng Đà vào chi viện cho Tam Kỳ, nhưng đến Thăng Bình, phải dừng lại; trung đoàn 4 của sư đoàn 2 cũng chỉ đưa đến Chu Lai được một tiểu đoàn. Ngày 16 và 17 tháng 3, địch rút khỏi Sơn Hà, Trà Bồng. Những cái vòi cuối cùng của con bạch tuộc, mười năm nay khư khư ôm chặt lất căn cứ địa cách mạng mà đánh phá, xỉa xói, đã vĩnh viễn bị cắt đứt. Vùng giáp ranh tỉnh Quảng Ngãi từ bắc chí nam hoàn toàn được giải phóng. Như diều gặp gió, lực lượng vũ trang và chính trị ở hai tỉnh Quảng Đà và Quảng Tín, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ; vùng giải phóng nhanh chóng được mở rộng, liên hoàn lại với nhau: ở Quảng Tín, ngày 14, 15 tháng 3, diệt và bức rút 11 chốt, mở ra một vùng rộng lớn ở đông Thăng Bình; ở Quảng Ngãi, trung đoàn 94 diệt cụm chốt ở tây bắc quận lỵ Bình Sơn; tiểu đoàn 6 lữ đoàn 52 và tiểu đoàn đặc công 402 diệt gọn tiểu đoàn 69 ngụy từ Trà Bồng rút chạy về Chu Lai. Sau một tuần, Quảng Ngãi đã giải phóng được một khu vực hoàn chỉnh từ Sơn Hà, Trà Bồng đến Sơn Tịnh, Bình Sơn, làm chủ một đoạn đường quốc lộ từ Chu Lai đến sông Trà Khúc. Những đòn đánh nói trên trong phạm vi hai tỉnh Quảng Tín, Quảng Ngãi, không chỉ có tác dụng giải phóng dân mà thôi, mà còn tạo ra điều kiện thuận lợi cho chủ lực của ta tiêu diệt sư đoàn 2 quân đội Cộng hoà.

        Theo dự kiến của ta, Ngô Quang Trưởng nhất thiết phải đối phó với khu chiến tây Tam Kỳ, vì nếu không thì cả Chu lai và Đà Nẵng sẽ bị uy hiếp. Lực lượng của Trưởng còn nắm trong tay khá lớn: sư đoàn 3, sư đoàn 2 và các liên đoàn biệt động quân 11, 12. Ý định của ta là phải chủ động dẫn dắt địch từng bước, làm thế nào để đối phương đưa lực lượng vào khu chiến một cách nhỏ giọt để tiêu diệt dần từng bộ phận. Cho nên không phải chỉ có một mực tiến công, nổi dậy, cắt đường, chặn địch; mà có lúc, như ngày 20 tháng 3, lại phải giảm bớt hoạt động ở Quảng Ngãi, đồng thời mở đường để cho trung đoàn 4 quân đội Cộng hoà có thể dễ dàng đi tiếp viện cho Tam Kỳ, bộc lộ thêm sơ hở ở phía nam. 5 giờ sáng ngày 21 tháng 3, sư đoàn 2 của ta tiến công vào trung đoàn 5 quân đội Cộng hoà ở Dương Huệ, Dãy Thám, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn của trung đoàn này và tiểu đoàn 21 biệt động quân ở cao điểm 104, thì chiều hôm ấy, trung đoàn 4 quân đội Cộng hoà đã có mặt ở Tam Kỳ như chúng ta đã dự kiến. Sư đoàn 3 định đưa trung đoàn 11 ở Quảng Ngãi ra cũng không được, vì phải đối phó với hoạt động của du kích ở bắc thị xã. Với 8 tiểu đoàn chủ lực của trung đoàn 4, trung đoàn 5 và liên đoàn bộ đội 12, địch lập tuyến ngăn chặn bảo vệ thị xã Tam Kỳ. Lữ đoàn 52 của ta lại được lệnh hành quân gấp vào Quảng Ngãi, nên lực lượng trên huớng chính chỉ còn có sư đoàn 2 thiếu, vì trung đoàn 36 thì còn đang trên đường hành quân về sư đoàn. Vì vậy, đơn vị muốn lui ngày tiến công đợt 2 vào cuối tháng để hoàn thành mọi công tác chuẩn bị. Bộ tư lệnh quân khu không đồng tình, hạ quyết tâm giải phóng toàn bộ Khu 5 trong thời gian ngắn nhất và quyết định ngày 24 tháng 3, phải nổ súng đợt 2. Sở dĩ như vậy vì trong thời gian này, toàn Miền đã bắt đầu có rung chuyển lớn. Địch đang đứng trước một con đê sắp vỡ mà nước sông thì cứ dâng lên từng giờ, từng phút một. Chúng cố be bờ ngăn chặn đợt sóng này chưa xong, thì đợt sóng sau đã ập đến. Đợt sóng thần ở Tây Nguyên, không biết sẽ tràn xuống đồng bằng vào lúc nào, thì đợt sóng từ phía bắc đã xô đến. lực lượng chủ lực của ta hãy còn sung sức, càng đánh càng thu được nhiều trang bị, càng mạnh thêm. Hơn nữa, trước khí thế chiến thắng chung trên toàn chiến trường, sức mạnh tại chỗ cũng được nhân lên gấp bội. Nổi bật lên trên tất cả là tinh thần của nhân dân vùng bị chiếm. Hai mươi năm trời ròng rã, âm ỉ, âm thầm, nơi này, lúc này bốc lên thì nơi kia bị dìm xuống. Nhưng trong những ngày tháng 3 lịch sử này, từ Tây Nguyên đến ven biển, từ Hải Vân đến Khánh Hoà, lửa căm thù bốc lên hừng hực, sức mạnh tại chỗ đang được phát huy cao độ. Bọn ngụy quân ngụy quyền như chuột chạy cùng sào; kéo nhau chạy về thị xã, thì thị xã bị uy hiếp; bồng bế nhau chạy ra thành phố, thì thành phố sắp bị tiến công. Tình thế một ngày bằng 20 năm chính là trong những lúc này. Cho nên mặc dù lực lượng của ta ở đây không đông hơn địch bao nhiêu, nhiệm vụ giao cho sư đoàn so với trước nặng hơn gấp nhiều lần: tiêu diệt một bộ phận chủ lực, vây bắt gọn toàn bộ sư đoàn 2 mới ở Quảng Ngãi ra, và nếu địch ở Tam Kỳ rút chạy, thì phải lập tức chia cắt không cho địch co cụm về Đà Nẵng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:20:47 pm

        Chấp hành chỉ thị này, 5 giờ sáng ngày 24 tháng 3, sư đoàn 2 của ta nổ súng tiến công. Sau hai giờ chiến đấu, xe tăng và bộ binh đã vào đến sân bay Ngọc Bích, tây thị xã Tam Kỳ. Các mũi tiến công khác nhanh chóng diệt địch ở vòng ngoài, đồng thời có mũi đã thọc sâu vào cầu Tam Kỳ, ngã ba Trường Xuân, dùng pháo cơ giới đánh vào sở chỉ huy của sư đoàn quân đội Cộng hoà và tiểu khu Quảng Tín ở trong thị xã, Tam Kỳ hoàn toàn giải phóng.

        Tiểu đoàn 10 trung đoàn 36, phát triển về phía nam, đánh chiếm cầu Bà Bầu, cắt đường 1. Sáng 26 phát triển chiếm quận lỵ Lý Tín, uy hiếp căn cứ Chu Lai từ phía bắc.

        Ở phía bắc, trung đoàn 38 và một bộ phận xe tăng cắt đường quốc lộ số 1 ở đoạn Chiên Đàn và sáng hôm sau chiếm Tuần Dưỡng.

        Cũng như ở Tam Kỳ, trong lúc lữ đoàn 52 đang trên đường hành quân vào Quảng Ngãi, xe pháo chưa kịp triển khai, thì nhận được lệnh của Bộ tư lệnh quân khu giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Ngãi, giải phóng cơ bản tỉnh Bình Định, cùng một lúc với Tam Kỳ, 7 giờ sáng ngày 24 tháng 3, tiểu đoàn 6 lữ đoàn 52 cùng với các tiểu đoàn đặc công 403-406 và tiểu đoàn 7 của tỉnh được sự chi viện của xe tăng, pháo binh của Quân khu, đánh chiếm các mục tiêu ở ngoại vi thị xã. Đến 14 giờ địch rút chạy nhưng bị chặn lại. Toàn bộ liên đoàn biệt động quân 11, thiết đoàn 4, trung đoàn 6 của sư đoàn 2 quân đội Cộng hoà và cơ quan chỉ huy tiểu khu Quảng Ngãi bị diệt và bắt gọn. Bản phúc trình của Hồ Văn Kỳ Thoại phó đô đốc, tư lệnh hải quân vùng 1 đã mô tả cuộc rút lui như sau:

        “Lúc 12 giờ ngày 25 tháng 3, liên đoàn đặc nhiệm 11 nhận được lệnh của bộ tư lệnh sư đoàn 2 bộ binh, yêu cầu chở 700 quân địa phương thuộc tiểu khu Quảng Ngãi ra Cù Lao Ré. Việc này không thực hiện được, vì binh sĩ sư đoàn 2 gây rối loạn. Chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn đã dùng mọi biện pháp giải toả nhưng không xong.

        Lúc 19 giờ, tư lệnh sư đoàn 2 cho biết có thể đêm 25 tháng 3 sẽ di tản ra biển, để bảo toàn lực lượng. Đến 22 giờ đợt thứ nhất; đến đợt thứ hai thì “quân bạn” ùa tới tràn ngập. 24 giờ, HQ505 vào ủi bãi Chu Lai, “quân bạn” ném lựu đạn, làm một số người bị thương vong, đa số là trẻ em”.

        Thế là chưa đầy 24 tiếng đồng hồ sau Tam Kỳ, tỉnh Quảng Ngãi hoàn toàn được giải phóng.

        Sau 5 ngày chiến đấu, một nửa lực lượng chủ lực quân đội Cộng hoà, 2 phần 3 quân địa phương và một số lớn binh khí kỹ thuật, phương tiện chiến tranh ở nam quân khu 1 bị tiêu diệt và rơi vào tay ta. Cái đáy mà Thiệu đang đặt nhiều hy vọng vào đã bị thủng.

        Những chiến thắng vang dội trong mấy ngày qua ở Trị Thiên, Khu 5 làm cho thành phố Đà Nẵng, lớn vào bậc nhì ở miền Nam Việt Nam sau Sài Gòn, ngày càng bị cô lập. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, các lực lượng của hai quân khu này đã tiêu diệt và làm tan rã hầu hết các đơn vị của quân đội Cộng hoà đáng kể nhất là các sư đoàn bộ binh 1, 2, các liên đoàn biệt động quân và các đơn vị binh khí kỹ thuật. Tuy nhiên, lực lượng địch tập hợp lại ở căn cứ liên hiệp này cũng còn khá đông. Tổng quân số lên đến 10 vạn. Ngoài ra còn có 2,5 vạn phòng vệ dân sự có vũ trang và nhân viên ngụy quyền cũng với tàn quân ở các nơi lũ lượt kéo về càng nhanh càng nhiều.

        Quan thầy Mỹ dường như đã đoán được ý định ta đánh Đà Nẵng nên đã phái đến vùng biển này một số tàu chiến của hạm đội 7, gọi là để răn đe. Thấy có chỗ dựa và phán đoán thế nào ta cũng phải mất cả tháng mới điều động lực lượng đến tiến công Đà Nẵng được, ngày 25 tháng 3 Thiệu ra nhật lệnh:

        “Thứ nhất: Tất cả những tỉnh, những phần đất hiện còn hôm nay, 25 tháng 3, phải được tử thủ, bảo vệ đến cùng. Tại mỗi nơi, phải nỗ lực tối đa, chặn đứng đà tiến quân của địch, củng cố phòng thủ, vận dụng mọi sáng kiến và phương tiện để phản công.

        Thứ hai: các tư lệnh quân đoàn và quân khu chịu trách nhiệm hướng dẫn mọi cấp chỉ huy và chỉ huy lãnh thổ thuộc quyền chấp hành tuyệt đối nghiêm lệnh này.

        Tổng thống Việt Nam Cộng hoà: Nguyễn Văn Thiệu"
.

        Trong khi ấy, thì Cao Văn Viên lại khẩn khoảng cầu khẩn quan thầy cho oanh tạc cơ B.52 tái hoạt động trên lãnh thổ miền Nam; cho hải pháo của hạm đội hoạt động yểm trợ quân lực Việt Nam Cộng hoà tại các tuyến phòng thủ; cho không vận ngay các quân dụng cho Việt Nam Cộng hoà để tái tổ chức và trang bị các đơn vị vừa bị tổn thất…

        Đây là bằng chứng tội lỗi của thân phận tôi tớ mà sau ngày giải phóng Sài Gòn, ta mới tìm thấy được trên bàn làm việc của Thiệu, Viên, vì vội quá nên chúng chưa kịp thủ tiêu.

        Những tiếng kêu cấp cứu vì thử chính phủ Mỹ, có mở lượng trời bể, chấp thuận chăng nữa, thì cũng không sao cứu vãn nổi tình hình.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:23:35 pm

        Trong những ngày này, nhân dân thành phố cảng Miền Trung như đan sống trong chảo dầu sôi. Từng đoàn người, từ phía bắc kéo vào, từ phía nam bồng bế dắt nhau ra. Cái thành phố không lấy gì làm lớn lắm, đột nhiên ken chật trên hai triệu người. Đầu đường, góc chợ, nhà ga, bến xe, trường học, tất cả đều hóa thành những trại di cư không tổ chức. Kể ra, thì họ cũng đã có họp bàn. Trần Thiện Khiêm, nhân danh thủ tướng chính phủ, đến Đà Nẵng, triệu tập các đô trưởng, tỉnh trưởng lại: Thừa Thiên có Nguyễn Hữu Duệ; Quảng Trị có Đỗ Kỳ; Đà Nẵng có Phạm Văn Trung; Quảng Tín có Lê Văn Ngọc; Quảng Ngãi có Đào Mộng Xuân để nắm tình hình và tìm phương cứu vãn. Báo cáo của Phạm Văn Trung xám xịt: tinh thần nhân dân Quảng Đà rất thấp họ thấy Mỹ đã bỏ rơi Thiệu rồi. Báo cáo của những người khác đều bi quan không kém, nào đầu hàng, rã ngũ hàng loạt. Nhưng khi nói đến biện pháp, thì tất cả đều ngồi nhìn nhau, chẳng còn có một sáng kiến gì nữa.

        Ngày 22 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương khẳng định thêm: địch chuẩn bị rút Huế, thì cũng có thể bỏ Đà Nẵng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng-bí danh là mặt trận 475-do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh và Thượng tướng Chu Huy Mân làm chính uỷ được hình thành không nằm trong dự kiến ban đầu. Nói cho đúng, trong kế hoạch 2  năm cũng đã có dự kiến sẽ mở một chiến dịch nối tiếp sau khi chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, vì Trị Thiên cũng như Khu 5 còn trong mùa khô ráo. Đến nay, do sự suy sụp nhanh chóng của quân ngụy, nên chiến dịch hình thành sớm hơn mấy tháng. Suốt 30 năm chiến tranh, khoảng thời gian 3, 4 tháng có là bao; nhưng trong lúc này, thời gian là sức mạnh, thời gian là vàng ngọc; lãnh đạo Đảng ta, không để chậm một phút giây nào. Nắm thời cơ, lợi dụng thời cơ và tạo ra thời cơ mới, nhạy bén chính là trong những lúc này.

        Mặc dù đã có những quyết định, nhưng trung tướng Lê Trọng Tấn chưa thể rời Bộ Tổng tham mưu được, vì Bộ Chính trị đang họp. Thượng tướng Chu Huy Mân thì đang chỉ huy cả ba mặt trận, cùng một lúc: mặt trận đường 19, mặt trận Quảng Ngãi và mặt trận Tam Kỳ. Thành thử đảng uỷ và Bộ tư lệnh mặt trận 475 không họp hành gì được. Cánh quân phía bắc phải trực tiếp nhận mệnh lệnh của Bộ. Ngày 24 tháng 3, Quân uỷ chỉ thị cho Quân khu 5 tiến nhanh về hướng Đà Nẵng, thực hiện bao vây, phối hợp với Quân đoàn 2. Ngày 25 tháng 3 lại lệnh cho Quân đoàn 2 phải nhanh chóng đưa pháo vào tây bắc Đà Nẵng, chuẩn bị gấp để ngày 27 tháng 3 có thể khống chế sân bay và cảng Đà Nẵng; đồng thời bộ binh phải chiếm lĩnh đèo Hải Vân, tạo bàn đạp tiến công quân địch đang co cụm ở Đà Nẵng.

        Ngày 26 tháng 3, trung tướng và cơ quan chỉ huy lên đường. Vừa đáp xuống sân bay Tà Cơn đoàn đi thẳng vào A Sầu, một sở chỉ huy tạm thời được thiết lập ngay tại đây. Nhờ dựa vào một trạm cơ vụ ở cạnh đường, nên hệ thống thông tin liên lạc với các đầu mối được tổ chức rất nhanh và vững chắc.

        Vừa đặt ba lô xuống đất, cơ quan tham mưu bắt tay ngay vào việc nắm tình hình các mặt trận và các cánh quân. Tư lệnh và Chính uỷ mặt trận gặp nhau trên điện thoại, trao đổi những nét lớn về kế hoạch sắp đến, phân công mỗi người trực tiếp theo sát một cánh quân: Tư lệnh chỉ huy Quân đoàn 2 và tất cả các lực lượng trên cánh phía bắc và phía tây; Chính uỷ thì chỉ huy các lực lượng của Quân khu trên hướng nam thành phố.

        Mặc dù suốt cả ngày, hành quân mệt nhọc, cả đêm hôm ấy, trong sở chỉ huy, không ai chợp mắt được. Dưới ánh đèn điện mờ nhạt của trạm cơ vụ, trung tướng ngồi yên lặng, tấm bản đồ trải rộng trên mặt bàn. Làm thế nào để quán triệt được tinh thần nghị quyết của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, phương châm tác chiến đã vạch ra cho những trận tác chiến sắp đến, cho đến tận cán bộ chiến sĩ?

        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày nay và chống Pháp trước kia, trải qua bao nhiêu chiến dịch, Trung tướng vẫn tin tưởng vào những cán bộ cấp dưới của mình: thiếu tướng tư lệnh Quân đoàn Nguyễn Hữu An; thiếu tướng chính uỷ Lê Linh, đại tá Hoàng Đan, đại tá Công Trang và những cán bộ có nhiều kinh nghiệm. Những mệnh lệnh, chỉ thị, mấy ngày qua của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tham mưu gửi cho các đơn vị đều nêu bật tinh thần mới: mạnh dạn, kiên quyết, nhanh chóng… Thực hiện được tinh thần ấy, nào có phải dễ dàng gì.

        Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hiệp lớn vào bậc nhất ở miền Nam, có sông sâu ngăn chặn ở phía bắc và phía nam: sông Trương Định, sông Cẩm Lệ, sông Thu Bồn; bốn bề đều có núi và điểm cao án ngữ: núi Hải Vân ở phía bắc, núi Sơn Trà ở phía đông, núi Phước Trường ở phía tây, núi Ngũ Hành và cao điểm Đức Kỳ ở phía nam và đông nam. Thành phố nằm ngay trên bờ biển Đông, ngày ngày hạm đội 7 diễu võ dương oai trước mặt. Chỉ cần một lực lượng không lớn lắm được tổ chức phòng ngự, chú đáo, thì bên tiến công không phải dễ gì mà dứt điểm nhanh gọn được.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:30:11 pm

        Sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Bộ Tổng tham mưu, ngày 13 tháng 3 đã có triệu tập một số cán bộ về bổ sung cho Cục tác chiến để nghiên cứu kế hoạch đánh vào các thành phố. Đây là những cán bộ đã quen thuộc nhiều chiến trường và có nhiều kinh nghiệm tác chiến: các thiếu tướng Nam Long, Doãn Tuế, Lư Giang, Nguyễn Bá Phát v.v… Tổ trung tâm nghiên cứu Đà Nẵng do thiếu tướng Nguyễn Bá Phát làm tổ trưởng. Dự kiến phải có các Quân đoàn 1, 2 và các lực lượng chủ lực của Quân khu 5, cũng tương đương một quân đoàn, với đầy đủ binh khí kỹ thuật tăng cường thì mới giải quyết nổi.

        Đến hôm nay, Huế, Tam Kỳ, đều đã giải quyết xong. Các lực lượng ở phía Nam cũng như phía bắc đang truy kích sát gót địch, trăm phương nghìn hướng, làm thế nào thu quân lại được sớm để tổ chức một trận tiến công mới, cách đây ngót trăm cây số?

        Trung tướng hỏi cơ quan tham mưu:

        - Các trung đoàn của Quân đoàn 2 hiện ở đâu? Có ai nắm chắc được không?

        - Hôm nay, theo lệnh của Quân đoàn, trung đoàn 18 đánh chiếm Phú Lộc, lúc 11 giờ 30 chiếm được ga Thừa Lưu và đang truy kích địch đến Thổ Sơn. Trung đoàn 10 đang tiến về Vĩnh Lộc để đánh địch đang rút chạy về cửa Tư Hiền. Như vậy là toàn bộ sư đoàn 325 đang tiến đến bắc đèo Hải Vân, không xa lắm.

        - Thế còn sư đoàn 304?

        - Đang thực hiện đánh nhỏ ở khu vực Đồng Lâm, vùng B Đại Lộc. Trung đoàn 9 của sư này thì đang cơ động theo đường 14 vào khu vực đèo Mũi trâu, tây bắc Đà Nẵng.

        - Pháo?

        - Lữ pháo 164 cũng đang hành quân vào Mũi Trâu, được 6 khẩu pháo 130 ly và 122 ly nòng dài.

        - Làm thế nào đi nhanh hơn có được không?

        - Quân đoàn đã cử tham mưu trưởng, thượng tá Bùi Công Ái, đi trực tiếp đôn đốc. Cố gắng lắm thì đến ngày 28 tháng 3 mới bắn vào sân bay và cảng Đà Nẵng được. Ở phía nam, cơ quan tham mưu Quân khu 5 vừa báo cáo cho biết: lực lượng quân khu sẽ tiến công bằng hai cánh: cánh chủ yếu theo đường quốc lộ 1 do trung đoàn 1 và trung đoàn 31 của sư đoàn 2 đảm nhiệm. Cánh này sẽ vòng qua các mục tiêu bên ngoài để đánh thẳng vào sân bay, sở chỉ huy quân đoàn 1 ngụy và một vài nơi khác trong thành phố. Cánh thứ hai do trung đoàn 38 đảm nhiệm trước mắt đánh vào Núi Quế, Bà Rén, Vĩnh Điện, sau đó tiến về phía đông để cùng với trung đoàn 96 của địa phương Quảng Đà tiến ra quận 3 và bán đảo Sơn Trà. Pháo còn ở Lãnh An thượng. Trận địa ở đây có thể bắn đến Trà Kiệu, Vĩnh Điện, trên tuyến phòng thủ của địch dọc sông Thu Bồn. Trung đoàn 36 làm dự bị cho sư đoàn, tiến sau trung đoàn 1, theo trục quốc lộ.

        Về mặt chính trị, từ 20 tháng 3 Khu uỷ đã có chỉ thị cho các tỉnh uỷ chuẩn bị gấp rút lực lượng quần chúng để phối hợp với đòn tiến công quân sự. Các đồng chí đã tổ chức ra uỷ ban khởi nghĩa các cấp, đưa thêm cán bộ vào nắm cơ sở và các lực lượng vũ trang địa phương cũng đã bắt đầu hoạt động lẻ tẻ. Tỉnh uỷ cũng đã bàn kế hoạch hoạt động trong ba tình huống khác nhau: địch rút chạy mà chủ lực chưa đến kịp; hoặc địch rút chạy mà chủ lực đến kịp; hoặc địch co cụm phải đánh dài ngày.

        Trung tướng biểu dương tham mưu trưởng, đại tá Ngô Hùng vừa chân ướt chân ráo đến trước đây mấy tiếng đồng hồ, với đoàn tiền trạm đã bắt được liên lạc với các nơi và nắm tình hình kịp thời khá cụ thể.

        Trung tướng giải thích cho cơ quan tham mưu:

        - Tuần trước tổ trung tâm đã nghiên cứu kế hoạch đánh Đà Nẵng. Dự kiến sẽ sử dụng hai quân đoàn vào đây, nhưng tình hình hôm nay đã khác rồi đấy. Tuy địch còn trên dưới 10 vạn quân, nhưng lúc không thể lấy số lượng ra mà nói được. Bọn ngụy ở Thừa Thiên chạy vào, ở Quảng Ngãi chạy ra, đều là mất tinh thần cả. Chắc chắn chúng đang làm loạn trong thành phố. Bọn lính thuỷ đánh bộ và sư đoàn 3 gần đây chưa bị đánh đau, nhưng khí thế chúng không còn nữa. Chúng lo rút quân chạy nhiều hơn là lo đánh với ta. Chúng ta phải nắm vững phương châm tác chiến, tinh thần các chỉ thị của Bộ, và đánh địch trong lúc chúng hỗn loạn rút lui. Trong lúc này một đơn vị nhỏ, một khẩu pháo cũng có tác dụng rất lớn. Vấn đề là phải nắm chắc lực lượng, hành động kiên quyết, táo bạo, xử trí nhanh chóng. Tình hình Đà Nẵng hôm nay còn tồi tệ hơn Huế năm 1972. Về nhân dân, cũng nên nhớ rằng, chính ở thành phố này đã từng nổ ra những cuộc chiến tranh kiên quyết, dai dẳng chống lại chế độ của Mỹ Thiệu. Tôi cũng vừa được trên cho biết, địch đang có kế hoạch đưa 3 vạn súng từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để trang bị lại cho hai lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 258 và 147 ở sân bay Nước Mặn, có thể đang trên đường đi ra. Máy bay Mỹ cũng được dùng vào việc đưa vũ khí đến, và đưa người di tản đi. Một công hai việc. Tàu chiến Mỹ cũng đang rập rình. Những thứ ấy sẽ không phát huy được hiệu lực nếu chúng ta hành động kịp thời, không để cho chúng thực hiện được bất cứ một âm mưu, kế hoạch nào.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:34:14 pm

        Trong ý nghĩ của Trung tướng, vấn đề giải phóng Đà Nẵng đã ở trong tầm tay rồi, nhưng cái khó là phải tiêu diệt được toàn bộ 10 vạn quân địch không cho chạy về Sài Gòn được mống nào.

        Chưa xong bước này, đã phải nghĩ đến bước sau.

        Sau những ngày sóng gió ở Huế, Ngô Quang Trưởng bay về Đà Nẵng một thân một mình. Từ ngày lĩnh được đặc ân ra trấn thủ nơi đầu sóng ngọn gió phía bắc, thay Hoàng Xuân Lãm, ngay giữa chiến dịch Quảng Trị, Trưởng cũng trải qua những ngày căng thẳng nhưng đâu đến nỗi như những ngày vừa qua. Rất nhạy bén với tình hình, vốn có bản lĩnh sẵn Trưởng đã đệ đơn xin từ chức từ mấy ngày trước, chơi cái trò ăn ốc để người khác đổ vỏ, nhưng Thiệu còn không hơn một bậc, cố giữ lại. Nhìn lại đám tướng tá ở Sài Gòn, Trưởng thừa biết chẳng còn mặt mũi nào dám ra đây mà đưa đầu chịu báng. Nhìn lên tấm bản đồ vùng 1, ông ta không tin vào những mũi tên xanh đỏ mà một sĩ quan của Phòng hành quân vừa vẽ lên đây. Trưởng cũng không tin cả mình nữa. Điều mà ông ta hơi yên tâm là giờ đây, vợ con đã tếch đi từ lâu rồi; tiền bạc của cải đã nằm gọn trong nhưng chiếc va ly to sụ và đã được đưa ra khỏi nước rồi. Nay Trưởng chỉ lo giữ bên mình chiếc trực thăng thật tốt là được. Lời thề của Trưởng vừa buông ra khỏi miệng đã trở thành trò cười cho người đời về sau: “Việt cộng muốn vào được Huế, phải bước qua xác tôi đã”.

        Chuông điện thoại réo vang, mặc! Trưởng chẳng buồn nghe nữa; chối tai lắm rồi. Nếu không phải là ông tá này xin quân tiếp viện, thì chắc là ông tướng khác xin từ thoái. Quân đâu mà tiếp viện, đến trung tướng mà cũng chỉ bảo đảm được một “enclave thôi”, nữa là cấp quân khu. Còn từ thoái, từ thoái cái gì; phải tử thủ, tử thủ đến cùng. Đối với dưới, Trưởng kiên quyết bao nhiêu, thì với trên, Trưởng cay cú, căm tức bấy nhiêu.

        Năm 1972, ở Quảng Trị, quan thầy Mỹ đã đánh giá Trưởng rất cao. Ông ta được Thiệu kính nể. So với Nguyễn Chánh Thi vua vùng 1 trước đây, thì Trưởng còn uy thế hơn nhiều. Thế mà nay! Chiến lược gì mà không thấy hết tầm quan trọng của vùng 1 chiến thuật? Trưởng căm tức. Quân giải phóng còn ở đâu đâu mà cứ đòi rút cho được cả sư đoàn dù về Sài Gòn. Trưởng cho rằng lịch sử chiến tranh ở Việt Nam đã bao lần chứng minh rằng, vùng 1 chiến thuật là nơi quan trọng nhất. Hơn 100 năm về trước, Pháp đến Đông Dương, và cách đây mươi năm, Mỹ nhảy vào Việt Nam, cả hai lần, những bàn chân xâm lược đều phải bám trước tiên vào mảnh đất Trưởng hiện đang đứng đây. Giữ được vùng 1 là giữ được tất cả; mất vùng 1, là sụp đổ hoàn toàn. Vì thế hôm 6 tháng 3, trong cuộc họp có đầy đủ các tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, mọi người đều phản đối việc rút sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến khỏi vùng 1 chiến thuật. Đến nay, hậu quả thật đã rõ ràng.

        Trưởng vò nát bức điện của Cao Văn Viên gửi ra và lẩm bẩm một mình:

        “Vô luôn, vô cái gì nữa? Sư đoàn 1, sư đoàn 2 còn đâu nữa và vô với ra… Còn một chút hy vọng là sư đoàn thuỷ quân lục chiến, thì nay đòi rút, mai đòi kéo… Ta đã trót dại một lần, trót buông sư đoàn dù ra nên mới đến nỗi sụp đổ như hôm nay; còn bây giờ thì đừng ai hòng rút được một tên lính nữa”.

        Tiếng còi xe ô tô vang lên từ dưới sân. Mọi người đến đông đủ: chuẩn tưởng tư lệnh sư đoàn 1 không quân, tư lệnh phó sư đoàn thuỷ quân lục chiến… Lại có cả một người khách không mời mà đến: Al Francis, tổng lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng.

        Trưởng còn đương nhớn nhác như muốn tìm ai, thì đại tá phó tư lệnh thuỷ quân lục chiến đến báo cáo:

        - Thưa trung tướng, thiếu tướng tư lệnh của tôi đã ra tàu để ở ngoài khơi, để phối hợp kế hoạch đổ quân ngày mai.

        - Thôi được!

        Trưởng đặt rất nhiều tin tưởng vào sư đoàn thuỷ quân lục chiến nên khi nghe thấy thế, đoán chắc rằng sớm muộn gì cũng có một lực lượng dự bị chiến lược hùng hậu đến đây. Với một sư đoàn đầy đủ, 4 lữ đoàn, Trưởng cảm thấy hơn yên tâm.

        Vừa ngồi xuống ghế, Nguyễn Thành Trị, phó tư lệnh thuỷ quân lục chiến đứng lên, đi thẳng gần đến tấm bản đồ treo trên tường.

        - Tôi xin báo cáo tình hình diễn biến, từ khi Trung tướng ra tàu HQ05.

        3 giờ sáng ngày 25 tháng 3, lữ 147 báo cáo hoàn tất việc tập trung tại bờ bể Thuận An. Theo sau có 2 liên đoàn biệt động quân 13 và 14.

        Đến 9 giờ sáng, một tàu LST dự định vào ủi bãi để bốc các đơn vị thuỷ quân lục chiến, nhưng tàu này không thể nào vào được, vì nước cạn. Ngày 26 tháng 3, tôi được thiếu tướng tư lệnh cho biết, qua đài vị trí trung gian đặt trên đèo Hải Vân là sẽ có 3 tàu LCU đến bốc lữ đoàn 147. Đến 9 giờ, có hai chiếc đến ủi bãi; một chiếc bị mắc cạn, và bị pháo bắn hư không hoạt động được; một chiếc bốc được một ít thương binh và ban chỉ huy lữ đoàn. Dưới áp lực của pháo và hoả lực bắn thẳng của Quân giải phóng, lữ đoàn trưởng 147 bị thương. Chiếc LCU thứ ba không đến được, vì có chạm súng trên bờ.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:39:29 pm

        24 giờ, mất liên lạc với các đơn vị còn bị kẹt lại. Suốt cả ngày hôm ấy, các chiến đĩnh, cố gắng lắm mới vớt được trên một nghìn quân nhân, trong đó có 800 thuỷ quân lục chiến về đến đây. Hiện ở sân bay Nước Mặn.

        Thế là hết! Phút giây tràn trền hy vọng ban nãy, chẳng qua là ánh lửa bùng lên của một ngọn nến trước khi phụt tắt.

        Viên đại tá nhắc khéo:

        - Dạ còn sư đoàn 3.

        Trưởng buồn rầu dằn từng tiếng:

        - Không thể tin tưởng vào khả năng của đơn vị này được. Tôi đã thừa biết sức chiến đấu của nó rồi.

        Đến lượt Nguyễn Đức Khánh, tư lệnh sư đoàn không quân 1 phát biểu:

        - 17 giờ chiều hôm nay, tôi nhận được điện thoại của thiếu tướng Vũ Xuân Lành, tư lệnh phó quân chủng, có lệnh di tản phi cơ, để tránh pháo kích.

        - Tôi chưa có ý định di tản khỏi nơi đây. Trưởng bực tức ra mặt, trả lời.

        Như không để ý đến thái độ của Trưởng, Khánh tiếp tục:

        - Mười bảy giờ rưỡi, tôi đã họp với các không đoàn trưởng 41, 51, 61 và đã ra lệnh cho họ, nhưng thời tiết quá xấu. Liền sau đó lại có lệnh, cùng qua điện thoại, phải cho A37 về Cam Ranh ngay, vì sân bay Phù Cát cũng bị pháo kích. Trực thăng cũng không thể đến sân bay Nước Mặn được, vì thời tiết quá xấu. Vả lại, thuỷ quân lục chiến cũng đang đồn trú trong các vòm để máy bay. Họ đang làm loạn ở đấy, tước cả súng cá nhân của tôi. 18 giờ tôi đã có liên lạc để báo cáo trung tướng biết, nhưng chuông điện thoại reo mãi, chẳng thấy ai trả lời. Đến 19 giờ 30, phi trường báo động vì bị pháo kích.

        - Tình hình ở sân bay thế nào?

        - Mấy hôm nay, phi trường rối loạn, vì dân tị nạn gây ra, gia đình quân nhân xao xuyến, chúng tôi đã áp dụng nhiều biện pháp, nhưng cũng không đạt được kết quả khả quan.

        - Nghe báo cáo có một số quân nhân của không quân có hiện tượng vô kỷ luật.

        - Đúng! Một số quân nhân đã hiểu lầm lệnh di tản phi cơ nên oán các cấp chỉ huy không cho họ biết lệnh này.

        - Cho đến giờ phút này, không có lệnh nào cho phép anh em rút lui cả. Tuy nhiên, tôi chấp nhận, coi như anh em có thể tìm cách để từ thoái. Chuẩn tướng và đại tá Duệ cũng có thể tuỳ nghi đi trước. Tôi sẽ ở lại với anh em thuỷ quân lục chiến.

        Khánh hỏi lại:

        - Từ thoái bằng phương tiện gì ạ?

        - Lập cầu hàng không mà đi.

        - Không thể được! Vì địch có tiền sát viên hướng dẫn, nên pháo kích rất chính xác, hoạt động của không quân rất khó khăn.

        - Phải dùng không quân của mình, mà áp chế nó đi chứ?

        - Thời tiết quá xấu, không quân không cất cánh được.

        - Thiếu tướng tư lệnh quân chủng đã có ý kiến gì chưa?

        - Không thể báo cáo tình hình với tư lệnh được, vì hệ thống thông tin liên lạc bị hư. Nhưng trước đó, tôi có nhận được chỉ thị của trên là bắt đầu từ bây giờ trở đi, tôi sẽ chấp hành mọi mệnh lệnh của trung tướng.

        - Ông định thế nào?

        - Xin tàu hải quân giúp cho việc này. Chúng tôi xin bốc dỡ ở Nam Ô.

        Tư lệnh phó thuỷ quân lục chiến, từ nãy đến giờ ngồi yên, nghe hai người nói chuyện, bỗng giãy lên như đỉa phải vôi:

        - Bãi đó đã dành cho sư đoàn 3 và thuỷ quân lục chiến rồi. Mà chỉ có 1 HQ03 mà thôi.

        - Có LST không?

        - Chỉ có 3 chiếc. Ngày mai sẽ đến Non Nước để bốc số còn lại của lữ 147 và cả sư đoàn thuỷ quân lục chiến…

        Khánh cảm thấy vô cùng chua chát. Đã đến lúc “sống chết mặc bay rồi”.

        Mỗi người, mỗi đơn vị, mỗi quân chủng, phải tự lập tìm lấy lối thoát thân của mình. Khánh vụt đứng dậy, cầm lấy mũ, đưa tay lên chào Trưởng, rồi lạnh lùng bước ra khỏi phòng. Sẵn có trực thăng trong tay, Khánh muốn đi lúc nào mà chả được? Và sau này, Bộ Tổng tham mưu có kết tội, thì Khánh cứ như thế này mà phúc trình; chứng cớ, lý do, đầy đủ cả.

        Giữa lúc các tướng tá đang còn phân vân chưa biết tính toán ra sao, thì một quả đạn pháo rơi trúng giữ bãi đỗ trực thăng, làm hỏng hai chiếc, trong đó có chiếc máy bay riêng của Trưởng.

        Nhanh như sóc, tổng lãnh sự Mỹ chạy ra ngay chiếc trực thăng còn lại, chuồn lập tức. Trưởng và mọi người ra theo. Tấn bi hài kịch này, kết thúc ra sao, về sau Khánh kể lại trong một bản phúc trình:

        “0 giờ 30 ngày 29 tháng 3, di chuyển bằng trực thăng với tư lệnh quân đoàn 1 đến phi trường Non Nước để gặp tư lệnh thuỷ quân lục chiến, bị quân cảnh tước vũ khí cá nhân, lần thứ hai trong ngày, không cho trực thăng cất cánh. Gặp đại tá tư lệnh phó sư đoàn thuỷ quân lục chiến đang lo sắp xếp nội bộ, cho lệnh tìm chiếc tàu HQ08. Đến 6 giờ 30, phi cơ hết xăng, phải cho đáp tại bãi bốc để lôi ra tàu HQ402. Bị thiếp đi, vì bốn đêm không ngủ… sau đó tư lệnh quân đoàn 1 và đại tá phó tư lệnh thuỷ quân lục chiến được chuyển sang tàu HQ404 để về thẳng Sài Gòn. Cả thị trưởng Duệ ở Huế và Kỳ ở Quảng Trị cũng chạy theo luôn.”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:42:28 pm

        Ở phía Nam, sau khi Tam Kỳ được giải phóng, cơ cấu chỉ huy của địch ở tiểu khu Quảng Tín hầu như bị tan rã, các lực lượng địa phương quân và nghĩ quân cũng tan rã theo. Trung đoàn 2 của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà, được tăng cường một chi đoàn xe tăng và xe thiết giáp gồm có 6 xe M.48 và 8 xe M.113, một phân đội chống chiến xa, một tiểu đoàn pháo 105 có 18 khẩu, một đại đội pháo 155 có 6 khẩu, rút về Câu Lâu, trên tuyến phòng thủ sông Thu Bồn. Đứng chân chưa vững, lại phải lo tháo chạy vì bị pháo 130 ly của ta bắn vào Trà Kiệu. Các tiểu đoàn địa phương của Quảng Đà đã phối hợp đắc lực, nhanh chóng chiếm quận lỵ Duy Xuyên, Nam Phước và phát triển nhanh ra bờ sông Thu Bồ. Đến nơi địch đã đánh sập cầu, hòng ngăn chặn, không cho ta tiến công ra Vĩnh Điện. Bao nhiêu binh khí kỹ thuật đều phải ùn lại phía nam cầu. lương thực chuyển theo không kịp. Các đoàn xe vận tải của Cục Hậu cần chở gạo, đạn, xăng dầu thì còn nằm ở tít xa hơn. Mặc dù mới giải phóng được ngày một ngày hai, nhân dân huyện Quế Sơn, đã huy động được trên 40 tấn gạo, xăng dầu, xe cộ, kịp thời bảo đảm cho các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Bằng việc làm này, chính nhân dân đã nâng sức cơ động của bộ đội, và đã góp phần vào làm cho đối phương bất ngờ trở tay không kịp.

        Quyết tâm của Quân khu lúc bấy giờ là, không chờ xe pháo đến đủ, kiên quyết đẩy nhanh tốc độ tiến công bằng bộ binh, dưới sự chi viện của pháo binh, đặt trận địa lâm thời tại Nam Phước. Suốt ngày 28 và cả buổi sáng ngày 29 tháng 3, trung đoàn 38 tổ chức vượt sông đánh chiếm Vĩnh Điện, thu toàn bộ pháo và xe tăng dịch, rồi phát triển về phía núi Ngũ Hành. Trung đoàn 1, thì vòng lên phía tây, vượt qua cầu Kỳ Lam, tiến ra Thanh Quýt; trung đoàn 31 bám sát đội hình của trung đoàn 1.

        Trên phía bắc, hoạt động của các đơn vị cũng khẩn trương không kém.

        Gần trưa ngày 29, đoàn 475 đến sở chỉ huy Quân đoàn 2. Cả bộ tư lệnh đang lên phía trước, theo sát đơn vị; chỉ còn có một mình chính uỷ ở nhà.

        Chính uỷ báo cáo tình hình với Trung tướng Lê Trọng Tấn:

        - Sư đoàn 325 thiếu, được tăng cường một đại đội xe tăng, một tiểu đoàn pháo, tiến quân bằng cơ giới theo trục đường 1. Tiếp theo là trung đoàn 101. Lực lượng này do một đồng chí trong bộ tư lệnh quân đoàn trực tiếp chỉ huy.

        - Ai đi với cánh này?

        - Đồng chí Hoàng Đan.

        Trung tướng gật đầu, tỏ vẻ tán thành:

        - Cánh này thì có thể tiến nhanh đấy vì đường sá tốt. Đáng chú ý nhất là cầu Thuỷ Tú. Phải chiếm nhanh cầu này, không để cho địch phá hỏng, thì tốc độ tiến công mới nhanh được. Nhưng cũng phải đặt giả thiết, nếu cầu bị phá, thì ta sẽ làm thế nào?

        - Có phà.

        - Phà cũng phải có người lái. Anh em mình có thể lái được, chỉ sợ có máy lạ thôi. Lúc bấy giờ mà còn phải tìm hiểu, mò mẫm nữa, thì chậm mất.

        Chính uỷ báo cáo tiếp:

        - Trên hướng tây bắc, trung đoàn 9 sư đoàn 304, cùng với tiểu đoàn xe tăng, tiến theo đường 14 cũ, từ Nam Yên vào thành phố. Trên hướng này, có trận địa pháo 130 ly ở đèo Mũi Trâu chi viện. Bộ tư lệnh đi theo cánh này.

        Rút cây chỉ bản đồ ra, kéo đặt ngang trên bản đồ, trung tướng lẩm bẩm:

        - Ừ, có thể bắn vào càng và sân bay được. Nhưng coi chừng núi Phước Tường, có thể đây là một khối chắn để che chở sân bay… Phải đặt kế hoạch hoả lực bắn vào Sủng Mây nữa, vì đây là sở chỉ huy của sư đoàn bộ binh 3 ngụy.

        - Trên hướng tây nam, sư đoàn 304 thiếu tiến công trên hai hướng: trung đoàn 66, đánh theo trục Ái Nghĩa, nam Hiếu Đức; trung đoàn 24 đánh theo hướng Đồng Lâm. Nhiệm vụ chính của sư đoàn là đánh vào lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 369 và tiến vào sân bay Đà Nẵng.

        - Tôi lo nhất cánh này đây. Trung tướng nói. Gần nửa năm trời, suốt cả mùa mưa, vừa qua, quần nhau với địch ở phía tây Đại Lộc, thành tích lớn nhất của đơn vị này là đã đánh cho sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến bị thiệt hại nặng và kìm chặt chúng ở vùng 1 nhưng cũng do đấy mà sức chiến đấu có thể bị giảm sút. Quân số ốm khá nhiều nhưng cái đấy chưa đáng lo; lo nhất là anh em đang từ phòng ngự dàn quân ra để giữ từng mỏm núi với địch; nay chuyển sang tiến công, mà lại tiến công hết sức táo bạo, nhanh chóng, sợ anh em không quen. Bây giờ mà còn nói đến Đồng Lâm, Ái Nghĩa làm gì? Sao không tìm đường vòng ra phía Trung Man, Phú Túc, mà đánh ngay vào Hiếu Đức, Tuý Loan, thọc xuống Hoà Cầm, hay là đánh ra Sủng Mây, như thế có nhanh hơn không? Sợ quân địch còn lại ở Ái Nghĩa đánh tập hậu ở sau lưng à? Trong lúc này, thì tình huống ấy sẽ không xảy ra đâu.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:45:37 pm

        Trên hướng bắc trung đoàn 18, ngày 27 tháng 3 chiếm được đèo Phú Gia và tiến nhanh về hướng Lăng Cô. Đến 18 giờ ngày 28 thì chiếm được cái cầu vô cùng quan trọng này. Địch trong phía nhà ga, dựa vào vách núi, chống cự mãnh liệt. Chúng ở trên cao, ta dưới thấp, nên có lợi thế hơn ta. Suốt đêm, phản kích bốn lần, cố chiếm lại cầu. Giá tỉnh tảo hơn một chút, chỉ cần một vài tạt huóc nổ, đánh sập vài nhịp cầu trước khi bỏ chạy lên đèo, thì cánh quân này của ta phải bị ùn lại, phơi mình trên bán đảo, một bên là đầm Lăng Cô rộng mênh mông, một bên là biển, và sẽ trở thành mục tiêu rất tốt cho máy bay và tàu chiến ngày hôm sau. Sư đoàn trưởng, đại tá Phạm Đức Tâm, cũng đã sớm thấy điều đó và bộ tham mưu quân đoàn cũng đã nhận thấy thế, nên trong đêm, cấp tốc tăng cường cho đơn vị 6 xe tăng lội nước PT.85, nhất quyết chiếm cho kỳ được đèo Hải Vân trong ngày hôm sau.

        Mờ sáng ngày 29 tháng 3, xe GMC chiến lợi phẩm chở trung đoàn 18 và sở chỉ huy sư đoàn tiến công lên đèo. Tiểu đoàn 8, do tiểu đoàn trưởng Trân Minh Thiệt chỉ huy là mũi tiến công chính. Đại đội 6 do đại đội trưởng Nguyễn Tiến Lăng chỉ huy, ngồi trên xe tăng dẫn đầu đội hình tiến công của sư đoàn. Khi đến gần đỉnh đèo, một đại đội địch ra ngăn chặn, bị xe tăng ta đang lao tới, tiếng máy nổ ầm ầm, tiếng xích nghiến mặt đường rợn óc, đã hốt hoảng, vứt vũ khí tháo chạy.

        8 giờ 30, ta chiếm kho xăng Liên Chiểu, một giờ sau, tiếp cận cầu Thuỷ Tú. Nhân dân tràn ra hai bên đường hoan hô bộ đội. Bỗng một cụ già, tách ra khỏi đám đông, tay khăn, tay áo giơ lên khoát lia lịa, như muốn cản cả đoàn xe lại. Người ta thấy cụ lao vào chặn xe, miệng thét to, tay chỉ xuống gầm cầu: “Mìn, mìn!”. Một chiến sĩ trên xe hiểu ý, nhảy xuống. Nhác thấy một làn khói xanh đang xì lên ở chân cầu; không một giây do dự, người chiến sĩ ấy lao tới, dùng hết sức mình, giật mạnh đoạn dây cháy chậm, vứt xuống sông. Hú vía! Đoàn xe lại tiếp tục tiến.

        11 giờ trung đoàn 18 tiến đến ngã ba trung tâm thành phố, đánh chiếm các mục tiêu: cầu Trịnh Minh Thế, sư đoàn 2 của quân khu đã chiếm giữ từ trước. Tiến thẳng ra phía bắc, tiểu đoàn 8 cắm cờ trên mũi Sơn Trà lúc 13 giờ 30. Trên trục đường 14, trung đoàn 9, sư đoàn 304 cùng một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn cao xạ và một tiểu đoàn pháo binh hành quân suốt cả ngày đêm. Họ vừa hành quân, vừa phải khắc phục mìn, nên đến sáng ngày 29 mới triển khai được ở Đá Đen. Địch đã rút chạy từ trước. Ta nhanh chóng chiếm Phước Tường, Hoà Khánh và sở chỉ huy của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà ở Sủng Mây. Đến 14 giờ ngày 29 thì đến toà thị chính. Các đơn vị tiếp tục vượt qua cầu Trịnh Minh Thế sang bán đảo Sơn Trà và triển khai ngay đội hình chiến đấu, lập tức bắn cháy một số tàu chiến trong lúc chúng rối loạn rút lui.

        Trên hướng tây, sau khi đánh tan sự chống cự của địch ở Đồng Lâm, trong ngày 28 tháng 3, trung đoàn 24 truy kích sát gót; ngày 29 đánh trên đoạn Ái Nghĩa-Hiếu Đức và đến 12 giờ 30 thì vào đến sân bay Đà Nẵng.

        Cũng trong lúc này, trung đoàn 1, sau khi bắn cháy một xe tăng địch ở bến đò Xu, thu một xe tăng và bắt sống một số, đã tiến chiếm được sở chỉ huy quân đoàn của quân đội Cộng hoà. Một bộ phận phát triển sang phía tây, phối hợp cùng trung đoàn 24 chiếm sân bay, bắt 159 tù binh. Một bộ phận khác, tiến ra ngã ba Huế rồi đánh chiếm toà thị chính và chi cảnh sát lúc 12 giờ. Trước đó không lâu, khi các đơn vị chủ lực tiếp cận vùng ngoại ô, thì các tiểu đoàn địa phương của Quảng Đà trung đoàn 96, tiểu đoàn 401 và đội biệt động Lê Độ ở Cầu Đỏ, bến đò Xu đã cùng với đội biệt động khác đã lót sẵn tại chỗ chiếm toà thị chính lúc 11 giờ 15.

        Ở nhà lao Non Nước, anh em tù chính trị cũng đã vùng dậy, đập phá nhà tù và thoát ra. Những con chim mới sổ lồng đã nhanh chóng hoà mình với quần chúng, cùng với cán bộ địa phương đứng ra giải phóng, hô hào những tên lính bại trận nhanh chóng vứt bỏ cái xác đánh thuê và quay về với nhân dân.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:48:26 pm

        Một sự phối hợp vô cùng đẹp mắt trong một chiến dịch lớn. Chỉ cách đây mấy hôm, các đơn vị bắt đầu xuất phát tại những địa điểm cách xa nhau hàng trăm cây số. Mỗi đơn vị đều vượt qua biết bao nhiêu đèo cao, sông lớn, đánh không biết bai nhiêu trận lớn nhỏ, để hợp điểm lại một nơi trước sau trên một tiếng đồng hồ, trên mảnh đất lịch sử này.

        Ngọn cờ nửa đỏ nửa xanh, tung bay trên sóng nước sông Hàn, trên đỉnh Sơn Trà. Chính tại nơi đây, một trăm mười bảy năm về trước, quân đội viễn chinh Pháp, đã cắm lá cờ ba sắc đầu tiên trên đất nước ta, bắt đầu một đêm dài nô lệ.

        Trong lúc các cánh quân của ta tiến nhanh như vũ bão, thì đối phương có dần tuyến phòng ngự lại. Cũng gọi là phòng tuyến này phòng tuyến nọ, nhưng thực chất sức chiến đấu không có bao nhiêu. Những trận chiến ở nam Thừa Thiên, ở Tam Kỳ, ở Quảng Ngãi trong tháng 3 đã thực tế đánh quỵ các đơn vị chủ lực quân đội Cộng hoà; một số lớn binh khí kỹ thuật đã rơi vào tay Quân giải phóng. Trên đường rút lui, phần lớn nghĩa quân, địa phương quân do bà con khuyên nhủ, lôi kéo, rã ngũ tại chỗ. Một số lớn quân chủ lực, người ở các nơi khác đến, thì tìm đường tháo chạy, đập phá, cướp bóc lung tung, cuối cùng sa vào tay của nhân dân. Tình hình trên bãi biển Đà Nẵng cũng chẳng khác gì trên bãi biển Thuận An mấy hôm trước.

        Một nhân chứng kể lại.

        ‘Ngày 29 tháng 3, khoảng 10 giờ, binh sĩ thuỷ quân lục chiến kéo nhau lội xuống biển, ra tàu. Họ vứt bỏ súng ống hỗn độn; có rất nhiều loại quý giá như hoả tiễn “TOW”, súng đại bác không giật 90 ly, hồng ngoại tuyến, súng chống tăng X.202. Ở đầu cầu Trịnh Minh Thế, quang cảnh vô cùng hỗn loạn; còn trong sở chỉ huy của bộ tư lệnh quân khu ở gần đấy, thì mọi người đã bỏ đi từ bao giờ. Đến 15 giờ, mới thấy có tàu HQ403 cập bãi, cách đó 4 cây số về phía nam, mấy chiếc xe M.113 chạy đến để bắc cầu nhưng chỉ được một lúc, vì tàu không neo nên cứ troi ra, dạt bào. Biển động mạnh, làm chết rất nhiều người. Đám tàn quân rã dần…

        Tình hình ở sân bay còn rối loạn hơn. Khi chiếc máy bay Boeing 727 đầu tiên lượn trên đường băng thì một đoàn xe tải quân sự chật ních người của quân đội nam Việt Nam Cộng hoà chạy ra đường băng bắt đầu bốc dỡ. Trong nháy mắt, hàng nghìn người Việt Nam khác, chờ sẵn ngoài lối ra vào, chạy ùa lên máy bay, giẫm đạp lên cả phụ nữ và trẻ em. Lính bảo vệ Mỹ vung gập đánh như mưa xuống đầu họ, nhưng chẳng ăn thua gì. Phi công mở máy rồi cất cánh. Hàng chục người bám lấy càng và bánh xe của máy bay; nhiều người đã bị nghiền chết. Nhiều người khác đã bị rơi khi máy bay lơ lửng trên không. Đây là chiếc máy bay cuối cùng của Mỹ bay ra khỏi Đà Nẵng.

        Ở sân bay Nước Mặn tình trạng hỗn loạn cũng không kém gì. Kế hoạch máy bay bắt đầu đi vào đường băng thì hàng trăm binh lính lao theo, túm lấy cánh, lấy thân máy bay, không cho cất cánh. Viên tổng lãnh sự Mỹ vừa chạy nhanh dọc theo đường băng, vừa la chửi, đánh đấm túi bụi. Nhiều người trong số lính đang bám cánh máy bay quay trở lại nện hết đòn này đến đòn khác vào cổ vào mặt viên lãnh sự trong khi chiếc máy bay nặng nề cất cánh bay lên trời. Vị đại diện của nước Mỹ được ăn một trận đòn nên thân.

        Trên một chiếc tàu hạm đội 7 được phái đến Đà Nẵng để răn đe cũng đang diễn ra những cảnh tượng rùng rợn:

        Hơn một nghìn năm trăm lính Việt Nam ăn nằm ngổn ngang trên boong, trên sàn tàu. Cách đài chỉ huy không đầy 30 thước, một lính Cộng hoà đang hiếp một phụ nữ, trong khi những người lính khác thản nhiên đứng nhìn. Một người trong số đó hét rất to: “Chúng ta muốn về Philippin và hãy nhốt thuyền trưởng trên boong và khoá chặt buồng lái lại”.

        Khi những chiếc tầu nhỏ đến cặp mạn tàu vận tải, người ta thả thang dây xuống và khách bắt đầu leo rất nguy hiểm. Nhiều trẻ em và người già trượt chân ngã xuống, va đầu vào chiếc tàu đã chở họ đến. Đến chập choạng tối, gần một nghìn người chết như thế đấy. Phải chăng đây cũng là một kiểu răn đe…”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:52:17 pm

Chương 14

QUÂN TÌM TƯỚNG

        Sau những đòn sấm sét ở Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Phước An, tình hình trên cao nguyên có phần lắng dịu-ngoại trừ những hoạt động nhỏ lẻ trên đường 19-trong lúc từ đầu đến cuối vùng 1 chiến thuật, bão lửa của chiến tranh nhân dân ngày đêm giội xuống đầu thù. Đây chẳng qua là sự lắng dịu giữa hai cơn bão. Trên thực tế, trong những ngày này, ta và địch tranh thủ từng giây từng phút để hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, cho những trận chiến đấu cuối cùng, trên giải đất còn lạ của miền Trung.

        Chiều ngày 21 tháng 3, bữa cơm chia tay nhau của các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, chưa kịp bày ra bàn, thì Trung tướng Hoàng Mình Thảo, người chủ trì buổi liên hoan, được lệnh của A75 đã phải cấp tốc lên xe ra ngay đường 19, để kịp chỉ huy sư đoàn 968 và trung đoàn 95A đang cùng với trung đoàn 12 của sư đoàn 3, tiến công vào bốn cứ điểm tiền tiêu cảu thị trấn An Khê.

        Ngày 23, thị trấn này được giải phóng. Ta bắt 1.300 tù binh, thu 1.500 súng. Thẳng đà truy kích, tiến công bao vây địch trên đất võ Bình Khê, quê hương của Nguyễn Huệ. Sau một tuần chiến đấu, một loạt các thj trấn khác: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ rồi toàn bộ tỉnh Bình Định được giải phóng. Sư đoàn bộ binh 22 quân đội Cộng hoà có nguy cơ bị tiêu diệt. Địch vội vã giải thể một loạt các trường trại, trung tâm huấn luyện, trường quân dịch, trường nghĩa quân, trường địa phương quân, để vét người bổ sung, hòng khôi phục lại sư đoàn 22 đang bị tan rã từng mảng lớn. Biện pháp này, xem ra chẳng đem lại kết quả gì, vì các “khóa sinh” đã theo dõi diễn biến tình hình vùng 1 rất chặt chẽ, nên chẳng còn ai dám “xung phong” ở lại với đội ngũ đang rã rời này. Đến ngày 30 tháng 3, các cơ sở ngụy quyền ở các cấp đã ngừng hoạt động, trong lúc các đơn vị Quân giải phóng áp sát vào thị xã Quy Nhơn cùng với lực lượng tại chỗ nổi dậy giành quyền làm chủ và chặn đánh các nhóm tàn quân đang tháo chạy về phía nam.

        Trên mặt trận Phú Yên, sau khi đã trút gánh nặng, chỉ huy cuộc rút lui chiến lược cho tham mưu trưởng Lê Khắc Lý, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm chạy về Tuy Hoà, gọi là để chỉ huy điều động của cuộc rút lui chiến lược nổi tiếng này. Cùng với tàn quân của các liên đoàn biệt động quân 35 và 21 và một số xe pháo mới ở Tây Nguyên lóp ngóp chạy về, Cẩm nắm trong tay cả 8 tiểu đoàn bảo an có sẵn tại chỗ để hình thành lực lượng phòng thủ cho cái thị xã nhỏ bé này.

        Phạm Văn Phú không hé nửa lời chê trách Cẩm vì cái tội bỏ lý một mình trên đường 7, để đưa đến tai vạ tày đình, nướng sạch mấy vạn quân, vì chính chủ tướng Phú cũng đã nêu gương chạy trước. Hơn thế nữa, Phú còn giao cho Cẩm toàn bộ trách nhiệm rất nặng nề trong lúc này là ngăn chặn Quân giải phóng trên hai hướng đường 7 và đường 21, đang tràn xuống đồng bằng như nước vỡ bờ. Kể ra, thì toàn bộ lực lượng trong khu vực này cũng tương đối lớn, nếu chỉ tính về mặt số lượng. Ngoài các lực lượng nói trên, còn có lữ đoàn 3 dù ở Đà Nẵng và trung đoàn 40 thuộc sư đoàn 22 ở Bình Định, mới được đưa đến để tăng viện lại có liên đoàn địa phương quân Khánh Hoà, hai tiểu đoàn của tiểu khu Ninh Thuận. Dọc đường 21, sát gần mặt trận, ở Dục Mỹ, còn có các trung tâm huấn luyện quân biệt động, trường pháo binh ở Ninh Hoà. Ở Nha Trang có sở chỉ huy Quân đoàn 2, vùng 2 duyên hải; sư đoàn không quân 2; trường hạ sĩ quan và trung tâm huấn luyện quốc gia Lam Sơn. Xa xa về phía nam, có đặc khu Cam Ranh do chuẩn tướng Lê Văn Thân chỉ huy, với các đơn vị thuộc sư đoàn 23 ở Tây Nguyên chạy về, mới được bổ sung 5.000 tân binh.

        Địa hình tỉnh Khánh Hoà rất thuận lợi cho việc phòng thủ. Ở phía bắc, từ Phú Yên vào, Quân giải phóng phải vượt qua một dãy núi qua Đèo Cả và Dốc Mỏ; ở phía tây xuống, phải qua đèo Phượng Hoàng. Ngay trong tỉnh, từ các huyện phía bắc xuống phía nam phải qua các đèo Ro Tượng và Rù Ri. Toàn bộ tỉnh Khánh Hoà nằm ven theo bờ biển; nơi nào cũng được pháo dưới tàu chi viện tích cực. Các sân bay Nha Trang, Thành Sơn đều là những loại sân bay quân sự lớn. Các kho tàng ở động Bà Thìn, Thành Sơn, đầy ắp nhưng đạn và bom. Dựa vào những vật chướng ngại thiên nhiên ấy, với lực lượng còn khá đông như nói trên, nếu tổ chức chỉ huy chặt chẽ, thì cũng có khả năng gây nhiều khó khăn cho đối phương. Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà cũng đã thấy được những thuận lợi ấy, nên mới bàn với nhau việc lập tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ tây sang đông: Tây Ninh, Đà Lạt, Nha Trang, và sau lưng là căn cứ Thành Sơn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:20:28 am

        Giữa hai mặt trận có mối quan hệ rất cơ hữu với nhau; trên đường 7, địch cố tìm cách chạy để thoát chết; còn trên đường 21 thì chúng cố chặn ta lại để tìm lấy cái sống. Từ chỗ khác nhau ấy, hai sư đoàn 320 và sư đoàn 10 đã vận dụng hai lối đánh khác nhau.
        Trên đường 7, Bộ tư lệnh sư đoàn 320, sau khi chiếm Củng Sơn, phải thi hành mệnh lệnh của trên: tiêu diệt sạch bọn địch còn sót lại và nhanh chóng thu quân, để chuyển sớm vào Nam Bộ. Tuy nhiên, kẻ địch trước mắt còn khá đông. Vì phải khắc phục rất nhiều mìn trên đường đi, nên tốc độ tiến quân phải chậm lại, mãi đến ngày 31 tháng 3 mới đến đường quốc lộ 1. Ta đã nhanh chóng chiếm các cao điểm Chóp Chài ở phía bắc, Nhạn Tháp ở rìa phía taâ thị xã Tuy Hoà, hình thành thế bao vây địch. Ngày 1 tháng 4 sư đoàn đã có sự phối hợp đắc lực của các tiểu đoàn tỉnh, đã tiêu diệt toàn bộ địch, cùng quần chúng nổi dậy làm chủ thị xã này. Trần Văn Cẩm bị bắt.

        Trên đường 21, địch phòng ngự có bài bản hơn: lữ đoàn 3 dù và trung đoàn 40, dựa vào các cao điểm ở núi Chư Kroi, bố trí thành nhiều nút chặn, có xe tăng M.48 và pháo binh cỡ lớn chi viện. Ngày 22 tháng 3, sư đoàn bộ binh 10 cùng với trung đoàn bộ binh 25, trung đoàn pháo binh 40 và một tiểu đoàn xe tăng tiến công vào Khánh Dương. Lúc bấy giờ, địch mới phát hiện ra một mạn đường lâm nghiệp, xuyên qua các khu rừng rậm, ở phía tây tỉnh Khánh Hoà. Đây chính là một đoạn đường mòn Hồ Chí Minh, từ chiến khu Bắc Ái, tây nam Khánh Hoà, đi ra các tỉnh phía bắc. Rút kinh nghiệm trên đường 7, họ dự đoán ta có thể đưa một lực lượng lớn, tiến theo đường này, để đánh chiếm quận lỵ Diên Khánh, vu hồi thành phố Nha Trang từ phía tây. Để được chủ động, chúng vội vã rút trung đoàn 40 ở Dục Mỹ và đưa ngay vào phía nam để cùng với một tiểu đoàn địa phương và ba khẩu pháo 105 ly bảo vệ sườn phía tây thành phố. Thực ra lối đánh của sư đoàn 10 ở đây khác hẳn. Với tinh thần khẩn trương, mạnh dạn, nhưng vững chắc, từng đơn vị được phân công mục tiêu, chuẩn bị chu đáo, đánh gom từng tiểu đoàn địch lại, để diệt gọn. Khi tiến công vào mục tiêu trước mặt, thì đồng thời, có bộ phận cơ động bao vây luôn mục tiêu phía sau. Với lối đánh này, chỉ trong ngày đầu bắn chuẩn bị, pháo binh của ta đã diệt được 12 trong tổng số 24 khẩu pháo lớn của địch, và sau bốn ngày liên tục chiến đấu, lữ đoàn 3 dù chỉ còn 25 phần trăm quân số.

        10 giờ sáng ngày 1 tháng 4, được tin về mặt trận đường 21, cả trung tâm huấn luyện Lam Sơn, trại biệt động quân, trường pháo binh đùm túm kéo nhau chạy về Nha Trang. Gần trưa, chúng ùn vào thành phố, nổ súng bắn loạn xạ, cướp xe, thẳng một mạch chạy về Cam Ranh. Chớp lấy cơ hội thuận lợi, trên 1.000 tù nhân ở trại cải huấn nổi dậy, giết lính gác, phá khám, thoát ra ngoài làm náo động cả thành phố. Tiểu khu trưởng Khánh Hoà, từ trước đến nay vẫn tin tưởng vào sự bảo vệ của quân đoàn chủ lực bên cạnh, bỗng nhiên thấy mất hút đơn vị bạn. Ông ra đánh xe chạy đến Đông Bắc Nha Trang để xem tình hình ra sao thì đã thấy một số sĩ quan đứng xếp hành trên đường băng. Thì ra sư đoàn không quân đã chuẩn bị di tản mà không hề báo cho tiểu khu biết. Lại có tin đồn dồn dập: Lệnh tử thủ Quy Nhơn của Thiệu vừa ban ra chẳng được ai chấp hành, mà nhân dân Bình Định thì đã nổi dậy cướp chính quyền rồi, tỉnh trưởng nhờ nhanh trí, nhảy lên một chiếc xe đò mà thoát chết. Tỉnh trưởng Phú Yên bị tử thương do chậm chân, nên đành phải chuồn bằng hai chân

        Ngồi trong dinh Độc Lập, Thiệu, Viên làm thế nào hiểu được cái mớ bòng bong này. Cả đến quan thầy Mỹ cũng mù tịt. Chẳng thế mà giữa lúc nước sôi lửa bỏng này mà Thiệu còn cử đại diện của ông ta, Phan Quang Đán và Ford còn cử đặc phái viên, tướng Wayand, đến Nha Trang để “thị sát tình hình”, giải quyết vấn đề dân tỵ nạn. Rút cuộc, cả hai đều cắp cặp chuồn thẳng về Sài Gòn, không kèn không trống.

        Hết hô hào tử thủ Quy Nhơn, Huế, Đà Nẵng, đến bây giờ Thiệu lại hô hào tử thủ Nha Trang. Trong mệnh lệnh có nhấn mạnh “Phải cố thủ khu vực Nha Trang và sẽ có lực lượng hùng hậu đển giải vây, tác chiến dưới quyền chỉ huy của tướng Oánh. Lực lượng hùng hậu lấy ở đâu ra? Trên thực tế, tất cả chỉ là giấy tờ. Lực lượng mới tổ chức lại, có người mà không có súng, vì bao nhiêu kho tàng, đã bị Quân giải phóng chiếm sạch. Trong lúc Oánh đang khóc giở mếu giở thì may quá, đến 20 giờ ngày 1 tháng 4 bỗng nhiên Phú xuất hiện. Ông ta đến đây chỉ có một mục đích duy nhất là dùng dây nói để thuyết phục cấp trên thấy rõ tình cảnh bi đát của ông ta hiện nay, để trên chấp thuận cho đưa toàn bộ cơ quan chỉ huy vào phi trường để di tản.

        Nhưng lệnh của Đổng Văn Khuyển ở Bộ Tổng tham mưu, là Phú ở lại Nha Trang với “anh em” vì ở đây còn có các căn cứ không quân và hải quân, các trường trại v.v… Phú là người chỉ huy cao nhất nên không được đi đâu cả.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:22:59 am

        Cao Văn Viên thì nói thẳng thừng:

        - Tổng thống bảo không được rút lui Nha Trang, phải tiêu diệt địch tối đa, không bằng bộ binh thì bằng hoả lực của không quân và hải quân. Khốn nỗi! Trong lúc thế tàn lực kiệt thì lệnh của tổng thống còn có hiệu lực gì nữa? Sẵn có chiếc trực thăng trong tay Phú hết đi mây về gió, nhởn nhơ trên bầu trời suốt cả ngày, để lại dưới đất một đám chuẩn tưởng: nào Lương, nào Oánh, nào Châu, cá mè một lứa chẳng ai chỉ huy ai.

        Người ta thấy mới 5 giờ sáng ngày 2 tháng 4 Phú đã bay từ Cam Ranh đến Nha Trang và sau đó đã có mặt ở Phan Thiết. Đến 14 giờ gặp tư lệnh phó Quân đoàn 3, Nguyễn Văn Hiếu cho biết: theo lệnh của Thiệu phần đất còn lại của vùng 2 được sát nhập vào quân khu 3, còn Phú thì về trình diện trung ương. Thoát nợ.

        Khi trình bày nguyên nhân thất bại, bản đệ trình của Phú đã kết luận rất ngon lành. Phú còn đổ trách nhiệm cho trên:

        “Việc rút cao nguyên, gặp hoả lực mạnh của địch, gây thiệt hại cho quân và dân nên bị hỗn loạn.

        Lực lượng địch quá đông. Ta không có lực lượng tổng trù bị. Quân số phải phân tán trên nhiều mặt trận.

        Dân chiến nạn, từ quân khu 1 kéo vào, gây ra sự hỗn loạn, làm sai kế hoạch của quân khu. Trình phó thủ tướng Phan Quang Đán nhưng không được giải quyết.

        Trung ương chỉ huy trực tiếp các chính quyền địa phương, làm cho quân khu bị tê liệt.

        Quân trú phòng Nha Trang mât tinh thần khi lữ đoàn 3 dù bị chọc thủng phòng tuyến.

        Dân chúng hoang mang vì có lời đồn đại, và các cơ sở Hoa Kỳ di chuyển…”.

        Thế là Phú thoát chết và cũng thoát cả tội. Ông ta không hề nhắc đến chuyện: trong suốt ba tuần lễ, từ Buôn Ma Thuột đến Plây Cu, Quy Nhơn, Nha Trang, Phú chỉ có mặt trước khi bị tấn công, nhưng lúc bão lửa ập đến, thì Phú đã chuồn sớm bao giờ. Ở Đà Nẵng thì tướng tìm quân, ở Nha Trang thì quân tìm tướng. Quân với tướng đều một mực đổ trách nhiệm lên đầu nhau.

        Chính quyền trốn chạy, quân sĩ bỏ đi. Trong lúc đang tháo chạy nháo nhác, thì viên tổng lãnh sự Mỹ ở Nha Trang M.Spear vẫn tỏ ra thản nhiên, bình chân như vại, ít nhất là vẻ bề ngoài. Ông ta sợ bọn tay sai mất tinh thần nếu Mỹ rút đi trước như Plây Cu chăng, hay là ông ra vẫn còn đặt nhiều tin tưởng vào quân đội Cộng hoà, mà ông ra thừa biết là số lượng này còn khá đông, trên mảnh đất Nha Trang này? Có lẽ là như thế này thì đúng hơn: hạm đội 7 với mấy trăm tàu chiến, mấy tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đang diễu võ dương oai ở sát gần đấy. Họng súng lăm lăm chĩa vào bờ.

        Trong lúc lực tàn vật mạt như thế này, họ lại muốn giở cái trò “ăn cháo đá bát”, xử tệ với quan thầy. Sau ngày miền Nam giải phóng, CIA mới phát giác ra rằng: ngày 28 tháng 3, Phạm Văn Phú đã gặp tư lệnh sư đoàn không quân Quân đoàn 2 và báo cáo cho nhau biết là sẽ bỏ Nha Trang. Việc gấp rút điều động trung đoàn 40 từ Khánh Dương về Diên Khánh, cốt là để bảo đảm an ninh cho cuộc rút lui ấy. Ấy thế mà, đối với Mỹ, Phú giấu tiệt. Thậm chí ngày 29 tháng 3, khi Wayand từ Mỹ, chân ướt chân ráo mới đến Sài Gòn, đã cấp tốc đến sở chỉ huy của Phú ở Nha Trang, xem tận mắt cuộc khủng hoảng, thì Phú hãy còn liến thoắng, nào là: “Người Việt Nam không bị sa sút tinh thần theo bất kỳ nghĩa nào của từ nay”; nào là “đang thiết lập một tuyến phòng thủ ở phía bắc thành phố”. Trùm CIA Archer đã tâm sự: “Tôi cảm thấy thật sự đau lòng khi nghe người tị nạn nói là Hoa Kỳ đã bỏ rơi họ. Ở Nha Trang, họ đang phản bội và bỏ rơi chúng ta (Mỹ). Các viên tuớng của họ không chịu nói với chúng ta về kế hoạch của họ và khi bắt đầu rút lui, thì ai ai cũng khăng khăng đòi lôi theo tất cả cô, dì, chú bác, ông bà…”

        Ai bỏ rơi ai? Xin hãy nghe đồng nghiệp của ngài Archer kể lại:

        “Khi có tin Mỹ rút lan ra trong thành phố, những đám đông bên ngoài cổng, trước cửa lãnh sự quán, tăng lên đến hàng ngàn người. Lúc đầu, lính quân cảnh thuỷ quân lục chiến Mỹ cư xử với họ lịch thiệp, nhẹ nhàng… nhưng khi có nhiều người trong đám đông vượt qua hàng rào lãnh sự quán, thì lính quân cảnh thuỷ quân lục chiến Mỹ, rút dùi cui ra và hành động dữ dội. Khi những cái đầu bị đập trúng, và những người rơi từ hàng xuống, nhưng những con ruồi gãy cánh, thì những đám đông ngoài đường phố, mặt đầy sắc khí nhìn vào…

        Và khi chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi Nha Trang, một cảnh thương tâm đã diễn ra:

        … Chiếc máy bay thứ hai sau đó đến ngày. Khi viên phi công nổ máy và chuẩn bị cất cánh, thì một ông già người Việt Nam ẵm đứa trẻ trong tay, khập khiễng ra khỏi đám đông và nâng đứa trẻ lên buồng máy, cầu khẩn với người Mỹ cho nó lên máy bay. Một trong những ngườì bạn Mỹ đã đi ra chặn cửa và lấy gót giầy nện vào mặt ông già. Đứa trẻ rơi xuống đất và gần như đúng lúc, chiếc trực thăng cuối cùng ra khỏi lãnh sự quán, gầm rú và bay lên bầu trời…”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:27:33 am

Chương 15

RỆU VÀ RÃ

        Chi khu Dầu Tiếng là một cụm cứ điểm mạnh, nằm trong hệ thống phòng ngự phía bắc Sài Gòn. Ở đây có ba tiểu đoàn bảo an, tiểu đàn 351, trên hướng đông bắc, tiểu đoàn 312 ở Cầu Tào, và Bến Củi, tiểu đoàn 354 ở giữa. Xa hơn một ít, có tiểu đoàn 313 ở suối ông Hùng và ngã ba Đất Sét. Trên đường 20 từ Cầu Tào đến ngã ba Đất Sét, có đến 5 vị trí để bảo vệ giao thông và kiểm soát vùng đông dân này.

        Trong kế hoạch, đối phương có chiến đoàn 46 thuộc sư đoàn 25, được giao nhiệm vụ sẵn sàng chi viện cho chi khu Dầu Tiếng, nhưng vì mải lo đối phó với ta trên núi Tây Ninh, các chiến đoàn của sư đoàn 25 luôn luôn thay phiên nhau đi giải toả núi Bà Đen, nên trên hướng chi khu, có phần nào sơ hở. Trái với dự đoán của địch, sang đợt 2 của mùa khô, để phối hợp với Tây Nguyên, ta bỏ qua Tây Ninh, khoét sâu vào chỗ sơ hở này.

        5 giờ 30 ngày 11 tháng 3, sư đoàn 9 Quân giải phóng bắt đầu tiến công chi khu Dầu Tiếng, sau Buôn Ma Thuột 24 tiếng đồng hồ. Trên hướng chủ yếu, trung đoàn 2 luồn được vào bên trong, áp sát vào phía đông của chi khu, nhưng bị chặn lại. Ở phía bắc, trung đoàn 3 phát triển thuận lợi, chiếm tây Cầu Tào. Cùng ngày, trung đoàn 16 diệt vị trí suối ông Hùng, đánh lui nhiều đợt phản kích của lữ 3 kỵ binh. Sáng hôm sau, ta đưa thêm xe tăng lên tham gia tiến công, chiếm được chi khu. Địch tan vỡ, tháo chạy. Nguyễn Văn Toàn vội vàng điều động lực lượng đặc nhiệm 318 gồm lữ 3 kỵ binh và tiểu đoàn biệt động 33 đến phối hợp với sư đoàn 25, địch mở cuộc hành quân chiếm lại chi khu. Ta chuyển hướng tiến công sang đường 26 và đường 22, cắt đoạn Trà Võ, Cẩm Giàng, diệt vị trí Cầu Khởi, mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi, đánh lui nhiều đợt phản kích. Kế hoạch chiếm lại Dầu Tiếng, nối lại đường 26 bị thất bại hoàn toàn. Chỉ trong vòng mấy ngày, ta diệt trên 2.000, bắt sống 1.000, thu 2.000 súng, bắn rơi 11 máy bay.

        Đề phòng ta đánh dọc theo sông Sài Gòn, Toàn cho triển khai toàn bộ lữ đoàn 3, rút các tiểu đoàn quân biệt động 61, 92 từ Biên Hoà; trung đoàn 48 từ Long Bình, tiểu đoàn 3 của trung đoàn 7 từ Lai Khê, sang tăng cường cho tuyến phòng thủ. Ngày 23 tháng 3, đánh nhau to ở Truồng Mít. Tiểu đoàn 3 bị tiêu diệt gần hết, phải rút về Bình Dương, trả lại cho sư đoàn 5.

        Cùng trong thời gian này, một cánh quân khác của ta gồm có trung đoàn 6 và trung đoàn 174 của sư đoàn 5 từ đất Campuchia đánh sang Bến Cầu, Quéo Ba ở phía nam, mở thông hành lang xuống Khu 8. Lại cùng như trên hướng Tây Ninh, điều mà họ dự kiến là ta sẽ tiến công vào Mộc Hóa, trên biên giới Việt Nam-Campuchia, lại không hề xảy ra. Hai tiểu đoàn của trung đoàn 48 ngụy, chiến đấu quyết liệt với cánh quân này ở Gò Dầu Hạ, tây sông Vàm Cỏ Tây. Ngày 21 tháng 3, sau khi ta chiếm Đức Huệ, tuyến phòng thủ Hậu Nghĩa trên hướng tây bắc Sài Gòn bị chọc thủng; đối phương bị dồn ra đến tận sông Vàm Cỏ Đông.

        Có được bao nhiêu vốn liếng trong tay, kể cả các tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến 14, 16 mới thành lập lại ở Long An, chúng cũng dồn hết ra đây, quyết tâm bảo vệ quốc lộ 1.

        Trong lúc trên hướng tây, tây bắc Sài Gòn, tiếng súng phối hợp chiến trường trên toàn Miền nổ giòn giã, thì trên hướng bắc, tình hình cũng khẩn trương không kém. Viên phụ tá sư đoàn 5 ngụy sau này thú nhận: “Sau khi mất Buôn Ma Thuột, quân khu 3 nhận định, Quân giải phóng sẽ thừa thắng đánh xuống Quảng Đức rồi chọc thẳng vào Bình Dương, uy hiếp mặt bắc Sài Gòn. Chúng cũng vừa phát hiện được sư đoàn 341 mới từ miền Bắc vào. Thần hồn nát thần tình, địch ra lệnh cho 6 tiểu đoàn địa phương, ba chân bốn cẳng rút khỏi quốc lộ 13, bỏ cả An Lộc, để lại cho Quân giải phóng 5 khẩu pháo 155 ly chưa kịp phá.

        Rất nhạy bén trong chỉ đạo, chỉ huy, Quân uỷ và Bộ tư lệnh Miền, giao nhiệm vụ cho Quân đoàn, nhanh chóng dùng trung đoàn 2 của sư đoàn 9 cơ động từ hướng đường 26, Tây Ninh sang, lập tức bao vây chi khu Chơn Thành. Tại đây, địch có 2 liên đoàn biệt động quân 31 và 32. Ta vưa tiến quân vừa chuẩn bị. Bắt đầu tiến công từ mờ sáng ngày 24 tháng 3, không dứt điểm được, vì hoả lực của xe tăng và pháo tầm xa chi viện rất mạnh. Công sự ở các cứ điểm này, tương đối kiên cố, vì đây là những cứ điểm cũ của Mỹ để lại. Trận chiến đấu kéo dài đến sáng 28 tháng 3, chuyển sang bao vây. Ngày 31 tháng 3, ta sử dụng toàn bộ sư đoàn 341, được xe tăng chi viện, tiếp tục tiến công vào Chơn Thành, nhưng vẫn không phát triển hơn được. Đối với địch, cuộc chiến đấu ở đây đã trở nên vô vọng. Cả một dải đất miền Trung còn không giữ nổi, huống gì một cứ điểm cô lập như Chơn Thành. Sau khi dùng 52 phi vụ ném bom yểm hộ, ngày 1 tháng 4, tháo chạy: liên đoàn 31 thì rút về Khiêm Hạnh bằng đường không, còn liên đoàn 31 thì rút về Lai Khê, Bầu Bàng bằng đường bộ. Như vậy là ta đã tạo ra được một bàn đạp vô cùng thuận lợi để sau này tiến công vào Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:30:32 am

        Thế ta là thế đứng trên đầu thù.

        Trong lúc này, mối đe dọa không những từ phương bắc đến, mà còn từ hướng đông lại nữa. Nguy hiểm quá! Trung đoàn 48, trước nay vẫn hoạt động trên địa bàn này, vừa rồi đã bị Toàn điều sang tăng phái cho sư đoàn 25 trên hướng Tây Ninh mất rồi! Giữa đêm đông, một tấm chăn nhỏ, đắp sao cho đủ ấm, được đầu thì hở chân. Ngày 17 tháng 3, trung đoàn 14 của sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công vào chi khu Định Quán. Ta chỉ chiếm được 3 phần 4 mục tiêu; địch co cụm vào trong các hang đá và cao điểm 258 ở phía tây chi khu. Chiến sự diễn ra ác liệt, nhưng sau bốn ngày liên tục tiến công, sư đoàn 7 cũng diệt được hoàn toàn chi khu này, đánh thiệt hại tiểu đoàn 2, trung đoàn 43, tiểu đoàn 67 bảo an và chiến đoàn 43 của sư đoàn 18 mới tăng cường đến; giải phóng hoàn toàn quốc lộ 20 từ cầu La Ngà đến Phương Lâm.

        Cuộc tiến công vẫn tiếp tục. Hướng phát triển mới: Lâm Đồng.

        Một trung đoàn, được trang bị gọn nhẹ, bí mật vượt lên phía trước, làm nhiệm vụ vu hồi từ phía bắc thị xã này. Sư đoàn thiếu còn lại, ngồi trên xe ô tô, tiến theo sau một đơn vị xe tăng, nhanh chóng lướt qua các đồn bốt nhỏ dọc đường, chỉ một đêm, thọc sâu trên 50 cây số. Sáng ra, vừa đến nơi, xông vào đánh ngay, phối hợp rất đẹp với đơn vị phái đi trước và trung đoàn địa phương 812 của Quân khu 6; ngay từ phút đầu, gói gọn thị xã này trong vòng vây, chỉ sau vài tiếng đồng hồ, ngày 28 tháng 3 giải quyết gọn Lâm Đồng rồi nhanh chóng phát triển về Di Linh - Đà Lạt.

        Tiểu khu Tuyên Đức vội vàng tung ra ba tiểu đoàn địa phương để làm trì hoãn thế tiến công như chẻ tre của Quân giải phóng. Sau một ngày chiến đấu, một tiểu đoàn địa phương bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, một phi cơ L.19 bị trúng đạn, phải hạ cánh khẩn cấp, đúng 16 giờ ngày 31 tháng 3, lực lượng phòng thủ, rút về phía bắc cầu Đại Ninh, và phá sập cầu qua sông Đa Nhim. Ngày 1 tháng 4, chỉ huy trường võ bị quốc gia và tiểu khu Tuyên Đức quyết định triệt thoái khỏi thị xã Đà Lạt. mệnh lệnh đặt chất nổ vào đài truyền tin Lang Biên, tổng đài điện thoại tự động, kho xăng, kho đạn v.v… đều không ai thực hiện. Nhờ vậy mà ngày 21 tháng 4 ta tiếp thu nguyên vẹn.

        Khác hẳn với miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long bước vào đợt hai, không rầm rộ, sôi nổi như những đợt khác. Thế của địch đã xuống nhiều; nhưng lực chúng hãy còn đông, nên chúng còn ngoan cố. Chúng vẫn đinh ninh rằng, ta chưa có khả năng tiến công lớn vào mục tiêu. Do đó, kế hoạch hoạt động mùa khô 74-75 của địch, hãy còn mang nặng nhiều tham vọng: phải khôi phục trạng thái trước mùa mưa 1974…

        Ta bước vào đợt 2, không được suôn sẻ lắm: một số nơi bị sượng ngay từ đầu; nhiều điểm then chốt không dứt điểm được, đánh viện cũng không gọn, tốc độ phát triển bị chững lại.

        Đêm 10 tháng 3, ở Vĩnh Tra, trung đoàn 3 mở màn không diệt được yếu khu Thày Phó, do liên đoàn bảo an 945 đóng giữ. Hôm sau, trung đoàn 2 quân đội Cộng hoà từ Cần Long tiến vào Vĩnh Xuân để tiếp viện cho yếu khu, thì tiểu đoàn 1 của ta lại đánh hụt, chỉ tiêu hao được vài chục tên. Mãi đến ba ngày sau, cả 2 trung đoàn mới đánh thiệt hại nặng được hai tiểu đoàn. Chiến sự kéo dài mãi đến ngày 17 tháng 3. Bị uy hiếp nặng, chúng mới chịu rút cả yếu khu Thày Phó chạy về Vĩnh Xuân, ta giải phóng 2 xã Hữu Thành và Thuận Thới.

        Đêm 11 tháng 3, quân khu tập trung 2 trung đoàn diệt yếu khu Ba Càng, chi khu Cái Vôn, cắt quốc lộ 4; nhưng chỉ diệt được một bộ phận nhỏ bên trong. Trong lúc đó, lực lượng tỉnh, kết hợp ba mũi giáp công, chuyển sang diệt các phân chi khu, giải phóng một số xã như My Thuận A-B; làm chủ tỉnh lộ 2 Cái Vôn-Ba Càng và Cái Vôn-Bến Bắc. Địch tập trung hai trung đoàn chủ lực, bốn tiểu đoàn bảo an, hai chi đoàn, hai chiến đoàn ra sức giải toả lộ nên ta chỉ làm chủ được từng đoạn, từng thời gian.

        Về phía tây, trung đoàn 20 mở màn không diệt được căn cứ Bà Đầm, chuyển sang diệt điểm Đồng Tháo, vây cụm Thái Lài để diệt viện, địch không đi, ta gỡ hơn 5 đồn, giải phóng hoàn toàn xã Trường Xuân, thị xã ô Môn, sát Thái Lai. Trung đoàn 10 và 2 tiểu đoàn của tỉnh Cần Thơ không diệt được chi khu 1.000, chuyển sang gỡ các đồn bốt tạo ra những lõm giải phóng ép dần đối phương lại… Như vậy tuy không diệt được như kế hoạch, nhưng tất cả các tiểu đoàn của sư đoàn 21 quân đội cộng hoà đều bị thiệt hại nặng. Ta đã áp sát lộ vòng cung, uy hiếp Cần Thơ. Sư đoàn 21 và 1 trung đoàn của sư đoàn 7, thiết đoàn 9 và 6 tiểu đoàn bảo an, hai giang đoàn phải co về giữ thị xã, bỏ Chương Thiện và hành lang đi K.8, tạo ra thế hết sức thuận lợi cho ta sau này.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:34:06 am
       
        Tình hình chiến sự diễn ra như trên, phản ánh rất trung thực so sánh lực lượng đôi bên, trong lúc này, ở tại khu vực này. Ta chưa hơn đối phương về lực, chưa diệt gọn được đơn vị nào; nhưng tất cả đơn vị quân đội Cộng hoà từ chủ lực đến địa phương, ít nhiều đều bị thiệt hại nặng, trong cái thế chung, chúng rệu dần. Rệu và chưa rã hẳn, chúng còn cố gắng, còn lắm âm mưu.

        Nếu Sài Gòn là đầu não của chính quyền Thiệu, thì đồng bằng sông Cửu Long là cái dạ dày. Vùng đồng bằng mầu mỡ này, không những chỉ cung cấp lúa gạo cho cả nước, mà còn là một nguồn nhân lực rất dồi dào. Đặc biệt khi cả giải đất miền Trung rơi vào tay Quân giải phóng, hết khu vực này đến khu vực khác, thì tầm quan trọng của vùng đồng bằng duy nhất còn lại này, càng được nâng cao thêm một bước nữa.

        Sau khi mất Tây Nguyên, Mỹ, Thiệu nghĩ ngay đến Cần Thơ. Thị xã này cũng nằm trong danh mục các mục tiêu của ta năm 1975, theo kế hoạch họ nắm được. Ngoài ra, Vĩnh Long, Mỹ Tho, quốc lộ 4 cũng đều có liên quan mật thiết với nhau.

        Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh mới vùng 4 chiến thuật, gấp rút bố trí lại lực lượng. Ngoài Cần Thơ ra, ông ta tập trung sư đoàn 9 giữ Kiến Tường, Gò Công Mỹ Tho, mà đối tượng chính là sư đoàn 5 Quân giải phóng, sư đoàn 7 giữ phần còn lại của Định Tường. Với các tỉnh còn lại: Châu Đốc, An Giang, Vĩnh Bình, Kiên Giang, Vĩnh Long, thì họ lại có sáng kiến tổ chức ra các bộ tư lệnh đặc nhiệm Quân đoàn 4, còn lực lượng thì lấy ở trong các liên đoàn bảo an ra. Khốn khổ cho các bộ tư lệnh này, có tiếng mà không có miếng, vì có còn lực lượng nào nữa đâu: 9 tiểu đoàn bảo an định lấy lên thì phải tăng cường ngay cho 9 trung đoàn của 3 sư đoàn chủ lực, để mỗi trung đoàn có được 4 tiểu đoàn và mỗi sư đoàn có được 4 trung đoàn; còn kế hoạch đôn 15 liên đoàn thành 15 trung đoàn độc lập trực thuộc quân đoàn, thì chỉ mới có trên giấy tờ; vì bắt không ra lính. Phong trào đấu tranh chính trị, binh vận đang lên mạnh. Vấn đề đôn quân xây dựng lực lượng như trên nếu đặt ra và thực hiện trước đây một năm, hay là 5, 7 tháng, thì có thể còn có kết quả chút ít; chứ bây giờ mới đề ra, thì đã quá muộn màng! Trong lúc đối phương đang rối như gà mắc tóc, phải lo đối phó với hoạt động của các lực lượng vũ trang của ta, thì làn sóng đấu tranh chính trị, binh vận cuồn cuộn đang dâng ở khắp nơi, khắp chốn, hãm chúng vào một tình thế không phương chống đỡ. Chủ trương rút bớt đồn bốt để tập trung lại, chiếm giữ các nơi quan trọng, mới xem ra thì rất hay; nhưng lại đưa ra giữa lúc đang có cao trào diệt đồn, phá bốt, mở rộng vùng giải phóng, với khẩu hiệu hừng hực khí thế tiến công: “Xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện”, khác gì diều gặp gió, ngày cứ bốc lên cao. Vì vậy, mà chính họ cũng phải thừa nhận là tình hình an ninh của đồng bằng đang đi xuống nhanh chóng, có gia tốc. Đã thế, như ta thường nói: “Tai hoạ không đến một mình”. Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà, ngồi ở Sài Gòn, rất ít thông cảm với những khó khăn của dưới, nên cứ nay thì đòi rút, mai thì điều động hết đơn vị này đến đơn vị khác, làm cho ruột đã rỗng, càng rỗng thêm: quân khu mới dồn lên được 16 tiểu đoàn, 5 đại đội địa phương và một số kha khá trung đội nghĩa quân, thì lại phải đưa lên trên để làm quân bổ sung. Giữa lúc bê bối này, chừng ấy đơn vị chẳng thấm vào đâu, chẳng khác gì tiền vào nhà khó, gió vào nhà trống.

        Trong 7 tỉnh vùng đồng bằng: Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, liên tiếp nổ ra hàng nghìn cuộc đấu tranh trực diện với hàng chục vạn người tham gia. Cái mới lúc bấy giờ là có cả đồng bào dân tộc ít người và gia đình binh sĩ cùng tham gia. Ở Trà Vinh, có lần đã huy động gần hai vạn sư sãi-đa số là người Việt gốc Miên-ra đấu tranh, giành giật lại hàng trăm thanh niên bị bắt lính; bắt bồi thường hàng triệu đồng bạc đồng thời trừng trị những ác ôn có nợ máu. Trước thế tiến công quân sự, chính trị, các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo chặt chẽ một phong trào binh vận rộng lớn; ban đầu còn lẻ tẻ từng người, từng gia đình; nhưng về sau, hình thành những tập thể, thôn xóm, rồi lan rộng ra đến cả khu vực. Chẳng những chỉ có vận động, lôi kéo người thân về nhà làm ăn, mà còn hù dọa, làm tan rã hàng ngàn tên địch. Ở Trà Cú, đồng bào và sư sãi đã phá ra một lần cả 11 đồn bốt ngụy. Bọn ác ôn bắn chết hai đồng bào Khơ Me. Bất chấp tục lệ cổ truyền, họ không đem thiêu xác mà lại đem chôn, cắm bia, phát động căm thù, tố cáo tội ác. Đàn áp, khủng bố cũng không uy hiếp nổi tinh thần của nhân dân, mà trái lại, chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Để cắt đứt đường giao thông thuỷ, đồng bào Khu 9 phát huy truyền thống và kinh nghiệm hồi kháng chiến chống Pháp, đã vận động một chiến thuật rất độc đáo: đắp cản-ngăn sông, chặn tàu địch, cắt những con đường vận chuyển có tính chất chiến lược của chúng như kênh Măng Thích ở Vĩnh Long, kênh Xáng Xẻo Rô ở Rạch Giá. Lấp sông không còn là một câu chuyện huyền thoại nữa rồi!

        Ở Long Xuyên, đồng bào Hoà Hảo chống tăng thuế dưới chiêu bài ủng hộ những đồng bào bị nạn cộng sản, buộc đối phương phải nhượng bộ; vận động phòng vệ dân sự trả súng về nhà. Quyết liệt hơn nữa đồng bào Châu Thành dùng dao, búa, gậy gộc, chặn xe M.113 trên đường chúng đi càn quét phá hoại mùa màng.

        Phong trào tòng quân, gia nhập lực lượng vũ trang rất sôi nổi. Khác hẳn với những năm trước, bước vào năm 1975, lực lượng vũ trang ở đồng bằng phát triển rất nhanh. Ở Sóc Trăng, Lịch Hội thượng, tổ chức cơ sở vốn rất yếu, đến nay quần chúng tự nguyện đưa con em mình đến để xây dựng ba đại đội, trong một thời gian rất ngắn. Hàng ngàn quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng, phục vụ chiến đấu. Được bộ đội địa phương hỗ trợ, quần chúng đã diệt đồn Bằng Lăng, làm chủ cùng một lúc năm ấp chiến lược.

        Đây là những việc xưa nay chưa từng có.

        Như thế đó, trong lúc ở Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, ta giải phóng lần lượt hết nơi này đến nơi khác, thì trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, sự phối hợp cũng rất nhịp nhàng, buộc đối phường phải bị động đối phó, khi thì quay sang phía tây, khi thì chuyển sang phía đông, ngược lên phía bắc. Ta tạo thế gom dần đối phương lại, mở ra nhiều địa bàn đứng chân rất vững chắc, dần dần áp sát Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai lực lượng lớn sau này.

        Các tỉnh ở đồng bằng, tuy không có những trận thôi động, những đã kết hợp rất tài tình ba mũi giáp công, đẩy cuộc chiến tranh nhân dân lên đỉnh cao chưa từng có, làm ruỗng bên trong, kìm chặt chủ lực, không cho một người nào trong tổng số hơn 20 vạn quân, cả chủ lực lãn địa phương lọt được về Sài Gòn.

        Thực chất của khái niệm “ung thối hoá”, như họ đã có lần nói đến là như vậy.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:27:16 pm

Chương 16

ĐƯỜNG VÀO NAM BỘ

        Toàn bộ chiến trường miền Nam đang rung chuyển! Ngày 28 tháng 3 năm 1975, đồng chí Lê Đức Thọ lên đường vào Nam, mang theo nghị quyết của Bộ Chính trị ngay 25 tháng 3, với tinh thần là giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975, thì hôm sau 29 tháng 3, ta giải phóng Đà Nẵng.

        Bộ Chính trị lại họp, và đến ngày 1 tháng 4 năm 1975 có nhận định và quyết tâm mới:

        “Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã thêm 35 phần trăm sinh lực địch trong một thời gian không đầy ba tuần lễ; lần đầu tiên tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hai quân đoàn địch, tiêu diệt trên dưới 40 phần trăm lực lượng các binh quân chủng kỹ thuật hiện đại của chúng, thu và phá huỷ trên 40 phần trăm cơ sở vật chất, hậu cần của địch, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng số dân giải phóng lên gần 8 triệu người”…

        Đặc biệt, trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, đã xuất hiện rõ hiện tượng kết hợp giữa tiến công quân sự và phần nào nổi dậy của quần chúng, trong tình hình nhân dân căm phẫn cao độ, chỉ chờ có cơ hội là tiến lên, và được tổ chức chặt chẽ, chuẩn bị tốt. Đại bộ phận binh lính địch đã mất tinh thần chiến đấu; nên mặc dù với lực lượng ít hơn, quân và dân ta đã kịp thời và táo bạo tiến công, nên đã nhanh chóng tiêu diệt căn cứ liên hiệp lớn vào bậc nhất, nhì ở miền Nam.

        Sau những thắng lợi nói trên, lực lượng chủ lực của ta lớn mạnh vược bậc, thương vong ít, lực lượng bổ sung dồi dào, vũ khí đạn được tiêu hao không đáng kể mà số thu được thì rất nhiều; tinh thần quyết chiến quyết thắng, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu cũng được nâng lên.

        Các lực lượng địa phương cũng theo cái đà chung ấy mà lớn lên như thổi. Các đại đội huyện, từ chỗ lèo tèo chỉ có vài ba chục người với vài mươi khẩu súng; các tiểu đoàn tỉnh quân số trên dưới 100, vũ khí trang bị toàn là súng trường và lựu đạn, hoạ hằn lắm mới được vài khẩu B.40, B.41 hay cối 81, thì nay tỉnh nào cũng có một, hai trung đoàn, có đơn vị trợ chiến, quân số đầy đủ; huyện có tiểu đoàn, trang bị đầy đủ. Kể về trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng lớn thì còn non, nhưng với nhiệm vụ truy quét tàn binh địch, giữ gìn trật tự trị an, thì không có thể đơn vị chủ lực nào sánh kịp, bởi lẽ họ thông thuộc địa hình, nơi nào cũng quen người, quen mặt. Ở vùng giải phóng, lực lượng này hoàn toàn có khả năng thay thế cho các đơn vị chủ lực, để những đơn vị này cơ động sang chiến trường khác. Nhìn chung, trên toàn bộ chiến trường, cả thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị của ta đã lớn mạnh, áp đảo đối phương; còn chúng thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ nhanh. Mỹ tỏ ra bất lực, và dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế nguy ngập này. Điện của Bộ Chính trị gửi cho Trung ương Cục và anh Tuấn có đoạn viết: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn-Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu. Cách mạng ta đang trong thời kỳ phát triển sôi nổi nhất, với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm”.

        Quyết tâm của ta là:

        “Nắm vững thời cơ chiến lược, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng Tư năm nay, không thể để chậm. Phải hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc.

        Phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược, kết hợp tiến công và nổi dậy, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra, trên từng hướng và trong từng trận, phải tập trung lực lượng áp đảo, tiêu diệt gọn, làm tan rã nhanh quân địch, tận dụng thời cơ và thuận lợi mới mà dồn dập tiến công, phát triển thắng lợi.

        Trước mắt, như trước đã định, nay cần phải làm nhanh hơn, gất rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4 và áp sát Sài Gòn; đồng thời phải nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông và đông nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu.

        Tổ chức sẵn sàng những đơn vị chủ lực, được trang bị binh khí kỹ thuật mạnh, để lúc thời cơ xuất hiện, thì đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm, thành phố Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:27:58 pm

        Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thúc đẩy các lực lượng quân sự, chính trị của ta hành động mạnh bạo khẩn trương, phát triển tiến công và nổi dậy, tiêu diệt chi khu quận lỵ, phá banh từng mảng lớn hệ thống kìm kẹp của địch, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng ở các khu vực trọng điểm.

        Muốn thực hiện phương hướng chiến lược nói trên cho kịp thời gian, thì ngay bây giờ, cần vạch kế hoạch hành động táo bạo với lực lượng sẵn có tại chiến trường miền Đông.

        Quân uỷ Trung ương đã quyết định nhanh chóng chuyển quân đoàn Tây Nguyên cùng các binh khí kỹ thuật vào, đồng thời ra lệnh đưa quân đoàn Quyết Thắng vào. Những để tranh thủ thời gian, không nên chờ đợi lực lượng tăng cường đến nơi thật đầy đủ, cũng cần tránh điều động quân không hợp lý, làm ảnh hưởng đến kế hoạch đánh địch…”.

        Cũng trong cuộc họp này, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ tư lệnh và Đảng uỷ mặt trận Sài Gòn-Gia Định để tập trung thống nhất lãnh đạo, chỉ huy. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí:

        Đại tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh trưởng.

        Đồng chí Phạm Hùng, chính uỷ.

        Các đồng chí: Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn phó tư lệnh. Lê Đức Anh, phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng, Lê Quang Hoà phó chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị.

        Do công tác bảo đảm vật chất cho chiến dịch sắp đến rất lớn và rất phức tạp, cần phải tập trung huy động sức mạnh tổng hợp của cả nước, Bộ Chính trị còn quyết định thành lập Hội đồng chi viện chiến trường do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị làm phó chủ tịch và một số khá đông các bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên các uỷ ban của Đảng và Nhà nước làm uỷ viên.

        Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng tham mưu của ông ta, lại có lập luận khác hẳn: “Mặt trận đã lấy được 11 tỉnh ở miền Trung, thì ít ra cũng phải mất 11 trung đoàn để quản lý vùng mới giải phóng, sẽ không còn lực lượng đưa vào Nam Bộ. Mà muốn đưa lực lượng lớn từ miền Bắc vào thì phải có thời gian”. Sau những “biến cố” ở vùng 1, vùng 2, họ thừa nhận mới mất có 35 phần trăm lực lượng của một đội quân đông hơn 1 triệu người; và nếu chỉ tính riêng khu vực Sài Gòn-Gia Định và Phan Rang, thì còn những 30 vạn quân chủ lực, được trang bị tương đối khá. Cùng với gần 20 vạn chủ lực ở đồng bằng sông Cửu Long và trên 1 triệu dân vệ được vũ trang từ 1 phần 3 đến một nửa, thì lực cũng không đến nỗi nào. Vốn liếng hãy còn kha khá. Muốn tiến công vào toàn bộ lực lượng này. Quân giải phóng cần phải có những điều kiện gì? Họ đặt câu hỏi: ‘Mặt trận lấy đâu ra lực lượng và tiến công? Hơn nữa, để đảm bảo cho một lực lượng chiến đấu lớn như vậy, thì phải có một lực lượng phục vụ chiến đấu đông hơn gấp bội-có thể lên đến hàng triệu người-thì Mặt trận làm sao mà giải quyết được”. Và cũng tự trả lời luôn:

        “Với phương tiện hiện có của chúng ta (ngụy) hùng hậu về máy bay, tàu vận tải và sẵn có kho tàng tại chỗ, Quân giải phóng cũng phải mất ít nhất một tháng mới điều động được một quân đoàn từ Đà Nẵng vào miền Đông Nam Bộ. Việt cộng phải mất ít nhất 2 tháng, mới đưa được lực lượng vào đến đây. Và thời tiết sẽ ủng hộ chúng ta”.

        Thực ra, thì với quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị, những con số mà họ ước tính, đưa ra như trên hãy còn là quá thấp. Ta không phải chỉ sử dụng có 12 sư đoàn bộ binh như kế hoạch ban đầu đề ra, mà Bộ Tổng tham mưu phải tập trung đủ 15 sư đoàn, không kể lực lượng dự bị từ xa đứng ở bắc vĩ tuyến 17, để đề phòng trường hợp Mỹ liều lĩnh nhảy vào một vài sư đoàn thuỷ quân lục chiến, lấy trong lực lượng răn đe, để cứu nguy cho Thiệu. So với chiến dịch nam Tây Nguyên, số đầu đơn vị chỉ gấp 5 lần, nhưng quân số thì lại tăng lên gấp 7 lần; binh khí, truy kích đưa ra sử dụng lần này, cũng gấp 10 lần; còn lực lượng vận tải thì tăng vọt lên rất nhiều. Lực lượng, khối lượng vật chất thì cứ tăng dần lên, mà thời gian thì cứ rút ngắn lại. Bao nhiêu cái khó khăn vất vả, đều từ đấy mà ra!

        Nhưng quyết tâm của Bộ Chính trị là quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân. Ý Đảng, lòng dân, là một.

        Được biết cuộc gặp gỡ giữa anh Lê Đức Thọ và các đồng chí lãnh đạo, các bộ tư lệnh ở các chiến trường miền Nam, trước đây định tổ chức tại Chư Leo vào đầu tháng 4 năm 1975 sẽ không có nữa, vì đồng chí Võ Chí Công vừa dẫn một đoàn cán bộ ở Khu 5 lên, định giúp cho tỉnh Đắc Lắc trong công tác tiếp quản. Đến Kon Tum phải cấp tốc quay trở về, vì chiến sự ở đồng bằng Khu 5 đang diễn ra rất khẩn truơng. Đồng chí Phạm Hùng ở Nam Bộ, cũng không ra được, vì lý do như trên. Anh Tuấn chỉ thị cho cơ quan A75.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:29:48 pm

        “Tổ chức đưa toàn bộ Quân đoàn Tây Nguyên mới thành lập, và khối lượng vật chất hiện có ở đây vào Nam Bộ, càng sớm càng tốt. Đây là công tác trung tâm đột xuất của ta trong lúc này. Trước mắt, đưa ngay hai trung đoàn của sư đoàn 316 vào đứng ở nam Tây Ninh, chốt chặn, không chód 25 quân đội Cộng hoà về Sài Gòn. Chậm nhất, ngày 8 tháng 4, sư đoàn phải có mặt ở địa điểm quy định. Công việc ở đây, giao lại cho địa phương”.

        Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền đi trước, tranh thủ vào sớm để nắm tình hình, làm kế hoạch tác chiến; còn tôi thì ở lại làm kế hoạch chuyển quân, vật chất, rồi cùng vào với đoàn ngày hôm sau.

        Làm kế hoạch hành quân cho cả một quân đoàn đầy đủ, với bao nhiêu lực lượng tăng cường; vận chuyển toàn bộ một khối lượng vật chất khá lớn, từ Tây Nguyên vào Nam Bộ với những yêu cầu khá cụ thể, chính xác, mà tất cả mọi yếu tố đều ở ngoài tầm tay. Các sư đoàn đang trên đường truy kích địch, mỗi đơn vị đi theo một hướng. Sư đoàn 320 phải kéo dài đội hình gần 100 cây số từ Tây Nguyên đến Tuy Hoà; sư đoàn 10 đã vào đến Cam Ranh lại phải tìm và làm đường vòng qua núi để tránh địch ở Thành Sơn, rồi chuyển lên Đà Lạt, trên đường vào Nam Bộ. Riêng sư đoàn 316 thì còn ở lại trong tỉnh Đắc Lắc; nhưng các trung đoàn cũng phân tán mỗi đơn vị một ngả. Nói đến kho tàng, thì lại càng diệu vợi hơn, mỗi thứ một nơi: các loại đạn lớn của ta thì còn ở trong các kho ở phía bắc; đạn lớn của địch thứ thì Plây Cu, thứ thì ở Buôn Ma Thuột, nào đã ai kiểm kê để nắm được số lượng, chỉ biết một cách chung chung là khá nhiều, nhiều lắm, nhưng cũng chưa rõ là những loại gì. Phương tiện vận tải cũng còn nằm rải rác khắp núi rừng. Tai ác nhất là những trận mưa đầu mùa trên sườn phía tây dãy Trường Sơn đã bắt đầu. Giá như mọi lần thì phải mất cả tháng mới làm xong các kế hoạch nói trên nhưng bây giờ thì lại khác, thời gian phải tính bằng ngày bằng giờ. Thời gian là sức mạnh kia mà! Có những khó khăn, nhưng đồng thời cũng có những thuận lợi mới, trên những chặng đường, trong từng công tác. Địa bàn hoạt động của đoàn Trường Sơn không còn bó hẹp ở hai bên sườn núi phía đông và phía tây nữa; việc giải phóng Trị Thiên, đồng bằng Khu 5, đường quốc lộ 1 được khai thông, địa bàn hoạt động được mở rộng. Tổ chức vận chuyển phải thay đổi: một bộ phận lực lượng vận tải khá lớn dồn sang đường quốc lộ số 1.

        Cuối cùng rồi một kế hoạch cũng được phác thảo ra để phổ biến giao nhiệm vụ cho đơn vị và binh trạm vận tải trước khi đoàn lên đường vào Nam Bộ.

        Nghỉ đêm tại Đức Lập, trong một xóm đồng bào công giáo di cư vào Nam từ năm 1954. Tìm hiểu tình hình đồng bào ở đây, được biết có nhiều gia đình, có người thân đang công tác trong bộ máy chính quyền Thiệu, hay đi học ở bên Mỹ. Đặc biệt có cả gia đình một quận trưởng đương chức. Lần đầu tiên gặp anh em ta thái độ của nhiều người còn mặc cảm, giữ kẽ. Những người đứng tuổi thì tránh né, ít muốn tiếp chuyện với các “ông cộng sản”. Những điều họ hiểu lầm về mình, trong những buổi đầu là rất bình thường. Qua những câu chuyện ngắn ngủi những câu trả lời nhát ngừng, hỏi đâu nói đấy, chúng tôi cũng được biết ít nhiều những luận điệu tuyên truyền của đối phương và các dấu ấn của nó đã in sâu vào tâm tư, tình cảm của đồng bào ta như thế nào. Đồng bào ở đây ít làm ruộng, sống chủ yếu dựa vào kinh tế vườn và rẫy. Hầu như nhà nào cũng có những mảnh vườn trồng cà phê, hồ tiêu và cây ăn quả. Sau trận mưa rào ban chiều, những hàng cà phê thẳng tắp, đơm bông trắng xoá, nổi bật lên màu xanh đậm của cây vườn, trông rất đẹp. Qua câu chuyện mới rõ thêm đồng bào có khả năng tự lo liệu lấy một phần khá lớn lương thực, và chỉ trong vài ba tháng nữa, sẽ bắt đầi thu hoạch mùa ngô sớm.

        Đêm nằm suy nghĩ, tôi vô cùng áy náy, lo cho anh em ở sư đoàn 316, trong những giờ phút khẩn trương này, đang gặp vô vàn khó khăn. Mang tiếng là một sư đoàn chủ lực của Bộ, hành quân đi chiến đấu, mà phương tiện vận tải thì lại thiếu, mặc dù vừa rồi mới được trang bị thêm một số xe chiến lợi phẩm. Cục hậu cần Quân đoàn Tây Nguyên thì đang lo bảo đảm cho sư đoàn 320 và sư đoàn 10 cũng đã khướt, nói gì đến sư đoàn này. Dù sao cũng là đơn vị mới được ghép vào biên chế của Quân đoàn được vài hôm nay. Tôi không bằng lòng với kế hoạch hành quân đã phổ biến cho đơn vị vì thấy quá sơ sài: toàn giả thiết cả. Tôi xin phép anh Tuấn được trở lại Buôn Ma Thuột, ở đấy thêm mấy hôm nữa, để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của sư đoàn được đến đâu và sẽ vào sau với đoàn anh Lê Đức Thọ. Được đồng ý ngay, vì chính anh Tuấn cũng chưa được an tâm về vấn đề này.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:32:52 pm

        Trên đường đi ra, tôi gặp bộ phận tiền trạm của sư đoàn 316. Hỏi ra mới biết là cả đơn vị còn nằm chết dí tại chỗ, chờ xe của binh trạm đưa xuống theo kế hoạch mà trông mãi chẳng thấy tăm hơi.

        Tôi tìm đến binh trạm bộ, tạm đặt trong một góc rừng cà phê thì được báo cáo là cả một đoàn mấy trăm xe tải còn đang nằm ở Hạ Lào, không cách gì được khỏi qua đèo An Bum, vì mấy trận mưa vô cùng tai ác vừa qua.

        - Phải chờ cho đường sá khô ráo mới đi được. Đó là câu trả lời cuối cùng của đồng chí binh trạm trưởng.

        Thế thì biết bao giờ đơn vị mới có mặt ở chiến trường? Nhất thiết phải thực hiện đúng mệnh lệnh, đưa toàn bộ sư đoàn vào đúng địa điểm và thời gian. Do ở cơ quan tham mưu, nên tôi còn được biết là các lực lượng chủ lực của Miền, từ trước đến nay hoạt động trên đường quốc lộ số 1 và số 22 ở nam Tây Ninh, sẽ chuyển sang hoạt động ở địa bàn khác. Do đó đường 22 nói trên sẽ bị bỏ ngỏ. Sư đoàn 25 sẽ dễ dàng cơ động nếu Sài Gòn hay một hướng nào khác hoạt động sớm hơn và mạnh hơn.

        Tôi đưa vấn đề này ra bàn với đồng chí Y Blốc, vừa được thăng cấp đại tá, Chủ tịch Uỷ ban quân quản và đồng chí Huỳnh Văn Mẫn, bí thư cùng các đồng chí ở trong tổ chức công đoàn của tỉnh. Mọi người đều tỏ ra băn khoăn lo lắng và quyết định tạm thời trưng dụng tất cả các xe vận tải của địa phương, hay bất kể của ai từ đâu đến, để dùng vào việc chở quân trước mắt. Ở trong địa bàn này, số xe vận tải khong phải ít, nhất là xe kéo gỗ thì rất nhiều. Mấy ngày qua, máy bay địch đã nhiều lần đến ném bom, nên một số lớn chủ xe đưa cả gia đình đi sơ tán trong các khu rừng ở chung quanh thị xã, mỗi chiếc xe biến thành một cái nhà lưu động. Ban quân quản phải tổ chức nhiều tổ cán bộ tung ra trên các đường Khánh Dương, Đức Lập, Buôn Hồ, Lạc Thiện, thu nhặt từng chiếc một. Hăng hái và đắc lực nhất là các anh em công nhân lái xe. Ông chủ nào đưa vợ con đi sơ tán ở khu rừng nào, họ đều biết cả. Từ ngày thị xã được giải phóng, chưa có công việc làm, đời sống chưa ổn định, vợ con nheo nhóc, phải chạy ăn từng bữa, nhưng khi nghe nói bộ đội cần, là họ xung phong đi ngay, không hề đòi hỏi, không hề tính toán thiệt hơn. Nhiều người khi được gọi đến, đã tự động tìm kiếm thêm phụ tùng, thậm chí cả nhiên liệu để đưa đến phục vụ. Anh em đều biết rằng, đã đi ra mặt trận là có nguy hiểm, vì máy bay dịch còn đánh phá dọc đường hành lang, nhưng vẫn một mực kiên quyết ra đi. Chỉ sau mấy tiếng đồng hồ, tập trung đủ số xe, bảo đảm cho toàn bộ sư đoàn xuất phát theo kế hoạch.

                                     Dễ muôn phần không dân cũng chịu,
                                     Khó vạn lần dân liệu cũng xong.

        Xâm xẩm tối, đồng bào thị xã kéo nha ra đứng chật hai bên đường, không ngớt vỗ tay hoan hô bộ đội. Những chiếc xe chuyên dùng, cõng trên lưng những khoang thuyền của đơn vị công binh nặng nề theo sau những đơn vị cuối cùng của sư đoàn 10 rẽ về hướng Ninh Hoà, vừa qua mặt, thì tiếp đến là những chiếc xe ca, xe tải, chở đầy bộ binh của sư đoàn 316, đi về hướng Lộc Ninh. Dù không nói ra, nhưng ai cũng đoán được hướng và mục tiêu tiến công của binh đoàn Tây Nguyên trong những ngày sắp đến. Thoáng thấy bóng những người quen thân ngồi trong buồng lái, đám trẻ con ý ới gọi nhau, chỉ trỏ, vẫy tay, gọi đích danh tên từng người. Đứng ở ngã ba đường, chen chúc giữa đám đông, tôi nhìn ánh đèn pha ửng lên trên bầu trời, phía đông rồi phía tây, mà lòng rạo rực bồi hồi. Mặc dù trong bao nhiêu năm sống trong vòng kìm kẹp, nhưng địch không tài nào bưng bít nổi, dập tắt lòng yêu nước của đồng bào. Trên mảnh đất hiền lành này, 29 năm về trước, thiếu tá Ra-vi-ê, trong đội quân viễn chinh Pháp, đã chỉ huy trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5, từ Nam Bộ, theo đường 14 tiến ra, bắt đầu cuộc chinh phục miền Trung. Ngã sáu, Đình Lạc Giao, còn ghi lại bao tội ác của chúng. Chính tại nơi tôi đang đứng, một trăm chiến sĩ Ba Tơ đã hy sinh đến người cuối cùng, nêu cao tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Bao nhiêu năm trời đã trôi qua, nhưng người dân vẫn tạc dạ ghi lòng. Hàng năm, đến ngày 27 tháng 10 âm lịch, vẫn hương, đèn cúng vái. Pháp đi, Mỹ đến. Chủ nghĩa thực dân cũ và mới rắp tâm cắt lìa các dân tộc ở đây ra khỏi đại gia đình các dân tộc Việt Nam, hòng vĩnh viễn ngự trị trên dải đất nam Đông Dương này. Họ quen mất một điều: những người mà họ đã nhồi nhét những lý tưởng chống cộng, trước hết họ là những người Việt Nam. Họ đã lầm khi đặt quá nhiều hy vọng vào sức chiến đấu của những người dân địa phương, những binh sĩ rã ngũ chống lại ta trong những vùng mới giải phóng. Trong đám nhân viên kỹ thuật đang ngồi trong ca bin xe, có rất nhiều người, mới cách đây mấy hôm, hãy còn ở trong hàng ngũ của họ. Nhưng chính nghĩa sáng ngời của ta đã có sức thuyết phục rất lớn, sức cảm hóa con người rất mạnh. Thật là không công bằng và thô bạo khi nói rẳng họ ra đi là vì sợ uy thế của cách mạng. Không, không, họ ra đi vì mang trong người dòng máu con Lạc cháu Hồng. Cho nên người ở lại cũng như kẻ ra đi, niềm vinh dự tự hào đều lộ ra trên nét mặt. Tất cả chan hoà trong khí thế tiến công.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:34:20 pm
          
Chương 17

KHÁCH VÀ KHỨA

        Cuộc họp ở Hạ nghị viện Mỹ, ngày 12 tháng 3 năm 1975 đã giáng một đòn sét đánh vào đầu tổng thống được bầu: G.Ford. Bằng 189 phiếu thuận tên 49 phiếu chống, hạ nghị viện Mỹ đã thông qua nghị quyết chống viện trợ quân sự thêm cho Việt Nam và Campuchia trước khi kết thúc tài khóa, và ngày hôm sau, cũng chính hạ viện này lạ bác bỏ luôn một đề nghị dung hoà xin thêm viện trợ ở mức thấp, mặc dù chính quyền Ford đã cố tình làm mình làm mẩy, ra sức kêu gào; thậm chí còn quy cả trách nhiệm để mất Buôn Ma Thuột cho những người có lẽ xưa này chưa hề biết đến tên cái thị xã xấu số này.

        Cuối tháng 3 năm 1975, giữa lúc chính quyền Sài Gòn rối như tơ, thì từ bên kia Thái Bình Dường, Ford cử cứu tinh sang Wayand. Ông này đến đây làm gì? Mọi người đều biết khá rõ về ông ta. Vốn là viên tư lệnh cuối cùng của bộ chỉ huy MACV, nhờ đó, quen biết rất nhiều người. Từ những người chỉ huy quân sự cao cấp như Cao Văn Viên, Ngô Quang Trưởng, đến những kẻ tai to mặt lớn trong chính quyền Sài Gòn như Trần Văn Đôn, Trần Văn Hương; thậm chí đếnnhững người gọi là chống đối đang thu mình trong bóng tối chờ thời.

        Lịch sử không bao giờ lặp lại nguyên si, như cách nói của các nhà hiền triết Hy Lạp thuở xưa: người ta không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông. Cách đây hai năm, trong một ngày cuối xuân, 29 tháng 3 như thế này, chính tay Wayand, trên cương vị là tư lệnh cuối cùng trong bộ chỉ huy MACV, đã lôi tuột lá cờ Mỹ từ trên đỉnh cột cờ nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất, nhét gọn vào valy, trong tiếng rên rỉ của giọng kèn đồng, rồi lặng lẽ leo lên máy bay để ra khỏi đất nước Việt Nam; thì hôm nay, cũng ngày 29 tháng 3, Wayand lại đến, nhưng với một cương vị, một tư thế hoàn toàn khác. Wayand muốn tìm cho ra câu trả lời. Vì sao mà cả cái gia tài kếch xù, mà Mỹ đã nửa công khai, nửa lén lút để lại cho Thiệu: hơn hai vạn cố vấn, còn nhiều hơn lúc sinh thời của Diệm-trên một triệu quân, hàng triệu tấn vũ khí, khí tài, phương tiện chỉ huy… Thế mà chỉ trong vòng 20 ngày, ngót gần một nửa số đó, đã tan biến đâu mất cả? Nguy hiểm cho thầy Mỹ, tất cả những thứ này lại rơi vào tay đối phương. Mối nguy cơ chẳng những chỉ cho những ngày trước mắt, mà sẽ còn cho một tương lai lâu dài, trong một không gian vô cùng rộng lớn.

        Có những người cho rằng, bị quốc hội ngăn cản việc cứu vãn tình thế, không chịu tăng cường viện trợ, cho nên tổng thống Ford phải phái cả Wayand sang Việt Nam để tìm hiểu tình hình thực tế, tìm ra cái giải pháp, các phương án để lựa chọn. Đâu có thế! Trước khi bước lên máy bay, Wayand đã được Kissinger rỉ tai, dặn dò kỹ lưỡng: “Không được nóng lòng hay có thái độ bi quan, định kiến với chế độ Thiệu, không được để lạc hướng vì những trở ngại chính trị ở quốc hội, ở trong nước Mỹ hay bất cứ nơi nào khác. Nếu thấy B.52 có thể Đông Dương được vấn đề thì cứ đề xuất; nếu viện trợ Mỹ là thứ thuốc công hiệu nhất, thì cứu nói thẳng ra…”

        Làm thế nào mà Wayand có thể có thái độ khách quan được, vì chính ông ta, chứ chẳng phải là ai khác, là người đã dọn đường đưa đến vực thẳm Việt Nam hoá chiến tranh. Toàn bộ phái đoàn Mác-bốt đến Các Ve đều cùng một ý nghĩ như Wayand cả. Họ tỏ ra rất xông xáo, đi hết nơi này đến nơi khác; vừa gặp Thiệu, Viên ở Sài Gòn xong, lại ra ngay Nha Trang để gặp Phú, nên mặc dù thời gian rất eo hẹp, Wayand cũng đã phát hiện ra nhiều vấn đề chết người: bầy ngựa trong chuồng, trong cảnh nước sôi lửa bỏng này đã không như câu: “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”, mà hoàn toàn khác hẳn: một con ngựa đau, cả tàu mang dao thớt đến. Nhà “chính khách” Nguyễn Cao Kỳ chạy lăng nhăng hết chửi đổng lại họp với bọn tay chân để bàn chuyện đảo chính. Kỳ bộc lộ mưu đồ với Lê Minh Đảo, nhưng Đảo dè chừng, vì chưa hiểu thái độ của Bộ Tổng tham mưu, Kỳ lại mò đến Viên, nhưng Viên cứu ầm ừ cho qua chuyện, nửa muốn, nửa không. Thiệu biết được, tức Khiếm, vì nghi Khiêm biết nhiều vấn đề mà vẫn giữ kín như bưng. Do đó, khi Khiêm đệ đơn xin từ chức, Thiệu bằng lòng ngay tức khắc, cử Nguyễn Bá Cẩn lên thay.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:33:05 am

        Trong hàng tướng tá lại nổi lên mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Sau Phước Long, Khiêm, Viên đề nghị tập trung sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến về quân khu 3 trước ngày 15 tháng 2 năm 1975, nhưng Thiệu bác bỏ ý kiến này. Ở Huế, Trưởng muốn giữ, nhưng Viên lại muốn chạy còn ở Phan Rang thì Thiệu lại muốn giữ nhưng Viên lại đòi rút lui. Nguy hiểm cho quan thầy Mỹ là tâm lý trong đám sỹ quan này: “Hoa Kỳ thất ước, bất xứng trong vai trò lãnh đạo khối tự do!”. Đã có vài tin bay về đến Mỹ là cả đến Thiệu cũng đang bất mãn nặng với thầy và có ý định xin viện trợ của Nhật và Canada. Xưa nay, Wayand vẫn tin rằng Thiệu, Trưởng, vốn là những tay rất hăng hái, chống cộng khét tiếng, nhưng chỉ huy nỗi gì mà sư đoàn 316, rùng rùng kéo từ Bắc vào Nam, đứng sát bên nách Buôn Ma Thuột bao nhiều ngày, mà chẳng ai hay biết tý gì, mặc dù Mỹ đã nhắc nhở đề phòng. Vì sao rút bỏ cả cái cao nguyên chiến lược, mà Thiệu chẳng hề hé răng cho Mỹ biết? Vì thiếu quân, thiếu tiền, thiếu vũ khí, trang bị; hay là lại một đòn chính trị đánh ngay vào Nhà Trắng và quốc hội Mỹ? Máy móc, vũ khí, hãy còn cả đấy, toàn là những loại cực kỳ hiện đại, tinh xảo, có khác gì khi còn trên nửa triệu quân Mỹ và chư hầu trên dải đất nhỏ hẹp này, thế mà để cho đối phương đánh cho tan tác, tiến như chẻ tre? Tăng thêm viện trợ, kêu gào quốc hội cấp thêm tiền, thêm vũ khí, để rồi đem nộp cả cho Quân giải phóng như ở Huế, ở Tây Nguyên v.v… cả hay sao? Mà nếu chấm dứt, không tăng thêm viện trợ nữa, thì ai kia, chứ với những người này thì họ có ngại gì mà không vứt bỏ tất cả cho đối phương, để thoát lấy thân? Mỹ đang ở vào thế đã đốn thì phải vác, đã đâm lao thì phải theo lao; nói gì thì nói, chứ cuối cùng lại cũng phải đưa ra bom đạn và tiền. Kết quả của cuộc công du là một bản tường trình gửi lên cho quốc hội và một kế hoạch chiến lược mới như sau:

        “1-Chiến lược này yêu cầu bảo vệ từ Khánh Hoà trở vào và những phần còn lại của các quân khu 3 và 4. Chiến lược này có triển vọng thành công với các điều kiện sau đây:

        a.Nếu có thể rút đi ít nhiều nguyên vẹn các lực lượng Việt Nam Cộng hoà ở quân khu I và II, đưa vào sử dụng ở phía nam;

        b.Nếu địch (Quân giải phóng) không tăng viện mạnh;

        c.Nếu Mỹ đưa ngay sang Việt Nam các trang bị, đạn được và vật tư cần thiết. Nếu thiếu các yếu tố này thì chắc chắn Việt Nam Cộng hoà sẽ thất bại trong vòng 90 ngày. Để bảo đảm cho việc phòng thủ thắng lợi, chỉ có một cách là sử dụng không quân chiến lược Mỹ ở Việt Nam…”

        Báo cáo của Wayand còn lớn tiếng đe dọa quốc hội Mỹ:

        “Một chiến dịch bao gồm nhiều sư đoàn Mỹ, với sự yểm trợ của máy bay chiến thuật, sẽ cần thiết để bảo đảm cho việc rút lui an toàn 6.000 người Mỹ và hàng vạn người Việt Nam mà chúng ta có nghĩa vụ phải đưa họ đi. Nếu không có sự chi viện nhanh chóng và rõ rệt của Mỹ, thì chúng ta phải bắt đầu vạch kế hoạch cho một cuộc di tản ồ ạt. Về kế hoạch triển khai thực hiện:

        “Trong vòng từ 20-40 ngày, ngoài sư đoàn 22 ra, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, một sư đoàn bộ binh, 3-4 liên đoàn biệt động quân, 9 tiểu đoàn pháo, 4 thiết đoàn xe tăng, có thể sẽ được triển khai và trong vòng 120 ngày, còn có thể sẽ có thêm 2 sư đoàn nữa”.

        Dự kiến trong thời gian tới:

        “Nếu cộng sản cho phép Việt Nam Cộng hoà có từ 6-8 tuần chuẩn bị trước khi họ mở các trận tiến công lớn ở quân khu 3, chính phủ Việt Nam Cộng hoà có thể tổ chức được một tuyến phòng thủ thành công. Khu vực diễn ra trận đánh chính có thể là tỉnh Tây Ninh. Nếu Mỹ không dùng không quân chiến lược ở Nam Việt Nam thì thất bại ở quân khu 3 sẽ kéo theo sự sụp đổ chăc chắn của chính phủ Việt Nam Cộng hoà,t rong vòng từ 3 đến 6 tháng”.

        Wayand kiến nghị chi 722 triệu đô la viện trợ quân sự khẩn cấp cho Sài Gòn. Ông ta còn lên giọng buộc tội quốc hội Mỹ: “Các chính phủ trên thế giới đã biết rõ quá khứ, nhưng chắc chắn họ sẽ kết luận rằng, bất kỳ sự thiếu sót nào hiện nay trong việc ủng hộ người Việt Nam khắc phục cuộc khủng hoảng hiện tại của họ là sự thiếu sót trong ý chí và quyết tâm của Mỹ. Uy tín liên tục của Mỹ trên phạm vi thế giới, xoay quanh vấn đề là liệu chúng ta có chịu nỗ lực hay không, chứ không phải xoay quanh việc thắng thua. Nếu chúng ta không nỗ lực, thì uy tín của chúng ta, với tư cách là một đồng minh, sẽ bị huỷ hoại, có thể đến hàng mấy thế hệ…

        Một hàm răng rụng không nhá được, vì chỉ thấy toàn nếu là nếu.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:33:33 am

        Bản báo cáo của phái đoàn quân sự, đã làm rất đẹp lòng Kissinger và Tổng thống Ford. Tuy thế, bên kia bờ Thái Bình Dường, ở Toà nhà trắng, ý kiến cũng không thống nhất. Trong cuộc họp báo sáng 2 tháng 4 năm 1975, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Sehelesinger đã đưa ra một ý kiến rất độc đáo, làm chấn động cả Lầu năm góc: “Ở Việt Nam, tương đối ít có chiến sự lớn”.

        Một sự nhầm lẫn gì đấy chăng? Không đâu! Sehelesinger còn nhắc lại ý kiến này một lần nữa trong mục: “Đối mặt với quốc dân” ngày 6 tháng 4. Ông ta nói: “Rõ ràng một cuộc tiến công lớn chỉ là một cụm từ, phải nằm trong dấu ngoặc kép. Ở đấy, cái mà chúng ta thấy chỉ là sự sụp đổ từng bộ phận của lực lượng Nam Việt Nam với mức độ từ sau Buôn Ma Thuột, rất ít có trận đánh lớn và bản thân trận Buôn Ma Thuột cũng là một ngoại lệ…”

        Ở Sài Gòn, khi nghe được tin này, tướng Smith, tuỳ viên quân sự Mỹ đã giãy nảy lên, lập tức đánh điện cho tổng tư lệnh Thái Bình Dường và một số nhân vật ở Washington, để cải chính ý kiếnnày. Ông ta cố đưa ra nhiều dẫn chứng để chứng minh cho tính chất ác liệt của trận đánh từ Phú Bài đến Hải Vân, từ đường 19 đến đường 21, để cho mọi người đánh giá lại cho đúng tinh thần chiến đấu rất ngoan cường của quân đội Cộng hoà. Cuối cùng bức điện viết:

        “Kính mong đề nghị lên ngài chủ tịch, xin ngài hãy trình bày với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng những thực tế này, để ngài có thể trình bày chính xác với dân chúng Mỹ, những gì đã xảy ra. Hiện nay đã diễn ra một cuộc tiến công lớn”.

        Cùng đi trên chiếc máy bay chở phái đoàn Wayand sang Sài Gòn hôm ấy, có cả Martin-đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam cùng một đám tuỳ tùng. Trong ngành ngoại giao, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, đều mang một ý nghĩa nhất định nào đó. Chắc chắn là Hoa Kỳ không bao giờ thiếu máy bay, hay thiếu xăng dầu, nên buộc phải kết hợp chuyến đi của hai nhà chính khách làm một, nhất định Kissinger cũng có sẵn ý định gì đây. Vì ông ta thừa biết cả Wayand lẫn Martin, quan hệ giữa hai người này, tuy hai mà một, tuy một mà hai.

        Cũng như Kissinger, Martin muốn chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt; nhưng chấm dứt ở tư thế đứng, nghĩa là : “Việt Nam Cộng hoà có thể sống đàng hoàng về kinh tế, tự bảo vệ được mình bằng quân sự và có khả năng hoà giải được với miền Bắc”.

        Con người đã như thế, thì thường hay va chạm với giới báo chí, những hạng người hay “vạch lá tìm sâu”. Rõ đáng tội! Họ hết bị chụp mũ, lại bị cấm đoán, hạn chế đủ điều; nói gì đến việc phỏng vấn, tiếp xúc với ngài đại sứ. Tháng 2 năm 1975 tờ Thời báo New York, đưa ra một bằng chứng Mỹ vi phạm Hiệp định Paris trong việc viện trợ kỹ thuật tối tân cho Sài Gòn. Martin nói ngay rằng, người phóng viên đó là một cái loa của Hà Nội và cấm tiệt mọi cuộc tiếp xúc của nhân viên sứ quán với tờ Thời báo New York. Trong một bức thư gửi cho ban đối ngoại thượng nghị viện, ông ta viết: “Tôi không hề tha thiết trả lời các phóng viên của các tờ báo đưa tin thắng lợi của Bắc Việt Nam, và việc đưa tin, đăng ảnh, xã luận của họ cộng lại là sự xuyên tạc thô bạo và trắng trợn đối với công chúng…”.

        Như người từ trên trời rơi xuống, ông ta vừa chạm đất đã tuyên bố ngay, bất chấp vẻ ngơ ngác lộ ra trên nét mặt mọi người: “Không, Quân khu 1 chẳng mất đâu. Không có nguy có gì đối với Sài Gòn cả”. Sau một vài ngày tìm hiểu, khi được người ta hỏi về ý đồ của Bắc Việt Nam, Martin thản nhiên trả lời: “Tôi mong rằng quân Bắc Việt Nam sẽ mở một cuộc tiến công lớn trong vòng một tháng nữa. Lúc đầu quân Nam Việt Nam bị mất đất, nhưng chắc chắn là sau đó, họ sẽ đánh bại quân Bắc Việt Nam một cách quyết định như họ đã làm năm 1972”.

        Báo cáo của ông ta về Toà nhà trắng, có đoạn viết: “Trừ việc vùng đồng bằng ven biển, chung quanh Huế-Đà Nẵng, những lãnh thổ khác đã mất vừa rồi ở vùng I và vùng II là gánh nặng đối với Sài Gòn. Phần còn lại, xưa ki gọi là Nam Kỳ, vẫn còn là trung tâm của xứ sở. Về mặt kinh tế, nó có thể tồn tại được lâu dài…”.

        Chỗ giống nhau với Wayand là ở câu kết luận cuối cùng này, vì cả hai đều do một người mớm cho, trước khi lên máy bay: “Nếu quốc hội chịu bỏ ra một tỷ đô la viện trợ khẩn cấp cho Thiệu về kinh tế và quốc phòng, thì mọi việc sẽ ổn thoả cả”. Chỗ khác nhau giữa hai người là biện pháp thực hiện: Wayand thì tìm cách vực lại một đội quân đã nát như tương; còn Martin thì đi bằng con đường thương lượng. Suy cho cùng, cả hai người đều toát lên đường lối và phương pháp của nền ngoại giao Hoa Kỳ: cái gậy và củ cà rốt.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:35:43 am

        Với cách nhìn, cách suy nghĩ và cách lập luận của một người như Martin, người đã từng nổi tiếng trong đám đồng nghiệp và bạn bè của ông ta là “miễn dịch với thực tế tình hình”, thì con đường đi đến thương lượng là lẽ tất nhiên. Lý lẽ của ông ta đưa ra thật là giản đơn và ngờ nghệch: “Bác Việt Nam làm gì có đủ cán bộ để quản lý đất nước, nếu vạn nhất được giải phóng? Bắc Việt nhất định sẽ chọn lấy con đường thắng lợi rẻ tiền nhất, dù hơi lâu một ít, nghĩa là phải thông qua thương lượng, còn hơn là phải đổ máu hy sinh”.

        Các nhà ngoại giao Mỹ sung sướng biết bao nhiêu, khi được nghe lời tuyên bố sau đây, của đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời, tại giữa thủ đô Paris, đầu tháng 4 năm 1975: “Chính phủ cách mạng sẵn sàng nói chuyện nếu Thiệu rút lui”. Mẩu tin nhỏ này, được các sứ quán nhắc lại, và trong chốc lát, đã lan truyền ra khắp thế giới. Khi người ta sắp chết đuối thì một cọng rơm nhỏ trôi lềnh bềnh, hay một làn khói mỏng đang chập chờn trước mặt, cũng tưởng ngay là đủ để cứu lấy mạng người.

        Sau khi có chỉ thị của Wayand, Thiệu bắt đầu có chuyển biến. Ngày 6 tháng 4 năm 1975, ông ta gửi cho Bộ Tổng tham mưu ngụy bản chỉ thị sau đây:

        1. Nay có một nhu cầu thực sự giữa các quân khu, quân đoàn giáp ranh với nhau và hỗn hợp để đạt được kết quả tối đa;

        Nay, với diễn biến tình hình quân sự, lại có thêm nhu cầu cần thiết về chỉ huy phối hợp, liên quan đến sự vận dụng các lực lượng thuộc hải, lục, không quân được thêm hữu hiệu;

        Vì nhu cầu trên, đồng thời để ứng phó với hiệu năng tối đa và kịp thời với tình hình, tôi nhận định:

        Nay, Bộ Tổng tham mưu nên cải tiến lại để, ngoài nhiệm vụ quân sự và tham mưu thông thường, sẽ đảm trách trực tiếp chỉ huy và phối hợp các cuộc hành quân xét ra vượt khả năng và giới hạn các quân khu, quân đoàn, kể cả việc sử dụng không hải quân trong vùng lãnh thổ các khu vực hiện hữu.

        2. Ngoài ra, với sự thu hẹp lãnh thổ hiện hữu và cho đến khi chúng ta có khả năng tái chiếm một cách đáng kể những phần đất đã mất, nếu thấy cần, thì đại tướng cứ cho nghiên cứu lại ranh giới các quân khu hiện hữu và đề nghị lên tôi. Ngay cả bên trong lãnh thổ mỗi quân khu, nếu xét rằng việc phân định thêm những vùng trách nhiệm hoặc mặt trận, để giao cho nhiều vị tư lệnh trực thuộc quân đoàn, quân khu đảm trách, sẽ mang lại hiệu năng, thì đại tướng cứ tuỳ quyết định, hoặc uỷ thác cho các tư lệnh quân khu, quân đoàn tự quyết định lấy.


Tổng thống Việt Nam Cộng hoà         
Nguyễn Văn Thiệu                   

        Như chúng ta đã biết, mẫu thuẫn sâu sắc giữa Thiệu và các tướng tá là ở chỗ phương pháp điều hành chiến tranh của Thiệu. Chiến lược “nặng đầu nhẹ đáy” vừa bộc lộ bản chất cực kỳ phản động của Thiệu, vừa nói lên tính đa nghi, bệnh chủ quan, ôm đồm, bao biện của một tên tay sai bất lực. Cho đến nay, khi gươm đã kề tận cổ, ông ta mới chịu nhả bớt quyền chỉ huy và kiểm soát trực tiếp các lực lượng tổng dự bị như dù, thuỷ quân lục chiến, các quân chủng hải quân cho Bộ Tổng tham mưu ”tuỳ nghi quyết định” và uỷ thác cho các tư lệnh khu vực quyền tự quyết định lấy giới tuyến chiến đấu cho các đơn vị thuộc quyền. Thông thường, trong chỉ đạo chiến tranh, việc thay đổi một chiến lược, đòi hỏi phải có thời gian để bố trí, thay quân, thay đổi giới tuyến chiến đấu, chuẩn bị cơ sở vật chất, thiết bị chiến trường, v.v… dù là thời bình chăng nữa, cũng không ai dám xám trộn đồng loạt; huống gì trong những lúc lâm nguy, vì chính đối phương thường chọn những lúc này làm thời cơ phát động tiến công. Những bài học ở Quảng Trị, Kon Tum năm 1972, chưa đủ để làm cho ông ta mở mắt ra ư?

        Đồng bào miền Nam đều biết mối quan hệ giữa tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu và tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên. Sở dĩ Thiệu chọn Viên, vì Viên ngoan ngoãn dễ bải, ít hiếu động như Nguyễn Cao Kỳ, mà phe cánh thì không đủ mạnh như Khiêm, Minh. Bề ngoài thì mọi việc đều có vẻ êm thấm, nhưng còn thực chất bên trong thì sao? Trong đống tư văn để lại, chưa kịp huỷ trước khi tháo chạy, còn có vài bản trong đó Viên bộc lộ tâm tình. Đánh giá về tình hình tháng 3 năm 1975 và sự lãnh đạo của Thiệu, Viên đã ngao ngán nhận xét:

        - Không có lãnh đạo quân sự.

        - Xếp đặt sai lầm nhân sự trong các vị trí chỉ huy và tiếp tế.

        - Không tiên đoán được chính xác tình hình quân sự.

        - Tránh né vì e ngại các tướng tá hội họp, để tìm đóng góp sáng kiến và kinh nghiệm.

        - Bưng bít quá đáng quốc sự và tuyên truyền vụng về, khiến cho quần chúng bị lừa gạt nhiều lần, nên sinh ra hoang mang, lòng tin tan biến”.

        Bây giờ cờ đã về tay, Cao Văn Viên và Bộ Tổng tham mưu vạch ra kế hoạch mới, bố trí lực lượng, để đối phó với tình hình.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:36:17 am

        Cả Wayand và Martin đã hướng dẫn cụ thể: “Hà Nội sẽ chịu thương thuyết trong hy vọng chiến thắng Việt Nam bằng chính trị”. Để có vốn mà thương lượng, phải giữ cho được hai cứ điểm đầu cầu của phòng tuyến đông tây, kéo dài từ Phan Rang, Đà Lạt đến Tây Ninh.

        Phan Rang là quê cha đất tổ của Thiệu. Còn đối với Tây Ninh, trong tình hình này, càng phải được phòng thủ tốt. Mất nơi này, chẳng những sẽ gây ra ảnh hưởng chính trị rất lớn và cũng rất nguy hiểm về mặt quân sự, vì quân đội cộng hoà sẽ bị hỗn loạn và sẽ chạy dài như kiểu Huế-Đà Nẵng.

        Giới tuyến chiến đấu được thay đổi lại: Viên cho sát nhập phần đất còn lại của quân khu 2 và 3 để cho việc chỉ huy và yểm trợ được dễ dàng, nhanh chóng hơn, đồng thời chỉ định luôn một tư lệnh tiền phương của quân khu 3 tại Phan Rang cử trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm tư lệnh, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang làm phó, với trách nhiệm là chỉ huy, kiểm soát hành quân các tiểu khu Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy và Long Khánh.

        Căn cứ vào đâu mà bản báo cáo của Wayand, cũng như kế hoạch của Thiệu đã đề ra những dự kiến khá cụ thể về thời gian, cũng như lực lượng, để đối phó với ta? Theo họ nắm được-tất nhiên là con rất xa với thực tế-thì ra có 8 sư đoàn trên chiến trường Nam Bộ: hai sư đoàn bố trí ở phía Tây và Tây Nam (Long An và Gò Công); ba sư đoàn trên hướng đông ở Long Khánh; một sư đoàn ở Cần Thơ; bốn trung đoàn đặc công ở ven đô. Lực lượng dự bị có 2 sư đoàn 312 và 316. Vấn đề bảo đảm hậu cần, có nhiều khó khăn. Với lực lượng như vậy, thì không thể gọi là có ưu thế được, vì họ còn nắm trong tay được 6 sư đoàn, trang bị đầy đủ. Bộ Tổng tham mưu chỉ cần khôi phục lại trước mắt hai sư đoàn ở quân khu 1 và quân khu 2 mới chạy về, và xây dựng thêm trung đoàn thứ tư cho các sư đoàn là khắc phục được sự chênh lệch về binh lực. Về vũ khí, thì còn những hai vạn khẩu súng ở kho Cam Ranh. Ngoài ra, Mỹ đang dùng máy bay vận tải lớn, lấy trang bị vũ khí nặng ở các kho gần nhất trong khu vực Đông Nam Á này, đêm ngày ùn ùn đưa tới Sài Gòn.

        Theo kế hoạch phòng ngự cụ thể, trên hướng Tây Ninh, ngoài sư đoàn 25 ra, còn có 3 đến 4 trung đoàn địa phương. Lực lượng tổng dự bị cũng sẵn sàng tăng cường cho hướng này, vì là hướng phòng ngự chủ yếu, nên có thêm một lữ dù và lữ đoàn 3 thiết giáp. Với 3 sư đoàn, Mặt trận không phải dễ dàng gì tiến công vào những lực lượng nói trên.

        Trên hướng bắc mối đe dọa tạm thời có thể giảm bớt, vì họ biết được sư đoàn 7 Quân giải phóng, đã chuyển địa bàn hoạt động sang phía đông, sư đoàn 9 sang phía tây; chỉ còn có sư đoàn 341 và một sư đoàn nữa, chưa rõ phiên hiệu, ở miền Bắc mới vào, cho nên cũng chỉ có thể hoạt động đến Bình Dương là cùng. Họ đã có sẵn ở đây sư đoàn 5 và một đơn vị địa phương; nếu cần, còn có thể chi viện thêm một lữ đoàn dù. Để có thể chống trả một cách có hiệu quả hơn, họ có thể co tuyến phòng ngự lại một ít, rút bỏ Phú Giáo, còn Tân Uyên thì giao lại cho quân địa phương. Ở phía quân khu 3, việc phòng thủ Phan Rang đã được bảo đảm; còn để đối phó với đe dọa vào Xuân Lộc thì đã có sư đoàn 18. Việc điều động sư đoàn 7 và sư đoàn 9 ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long để đưua vê cứu nguy cho thủ đô, họ không đặt ra như năm 1972, vì quốc lộ 4 sẽ bị uy hiếp nặng và nếu rút cả sư đoàn 21 đi thì lại nguy hiểm cho Cần Thơ.

        Trong Bộ Tổng tham mưu ngụy, cũng có người đưa ý kiến nên bỏ Phan Rang cả đến Long Khánh; chỉ nên để ở Xuân Lộc một đồn tiền tiêu, co đội hình về giữ Biên Hoà, Trảng Bom, Long Bình, đường 15, Vũng Tàu, O Cấp. Ở phía Bắc, thì bỏ cả Tây Ninh, mà lui về củng cố Trảng Bàng, Củ Chi. Như thế vẫn chưa được yên tâm, vì thấy cả Bộ Tổng tham mưu không còn lấy một tên quân dự bị, nên Nguyễn Văn Minh, tư lệnh biệt khu thủ đô mạnh dạn đề nghị với Thiệu, Viên, cho rút cả sư đoàn 18 về làm dự bị, đề phòng Mặt trận có thể thọc vào thủ đô.

        Đối với ý kiến trên, Thiệu bác bỏ thẳng thừng, cho đây là những giả thuyết chủ bại. Nếu kéo dài việc cầm cự được một tháng nữa là sẽ đến mùa mưa. Thời tiết sẽ không cho phép Mặt trận mở những cuộc tiến công lớn. Họ sẽ có đủ thời gian để xây dựng lại 4 sư đoàn và như vậy thì có khả năng dùng Tây Ninh, để làm bàn đạp tiến công ra hướng bắc, chiếm lại Tây Nguyên. Để phối hợp với đòn phản công chiến lược này, họ sẽ dùng không quân đến mức tối đa, để ngăn chặn đường tiếp viện, dùng hải quân phong toả không cho ta sử dụng các cảng Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang; tăng cường các chiến hạm có hoả lực hải pháo mạnh dọc bờ biển từ Nha Trang trở vào, một mặt để trực tiếp yểm trợ cho các tiểu khu Ninh Thuận, Bình Tuy; mặt khác, ráo riết tuần thám, nhằm ngăn chặn các cuộc thâm nhập từ miền Bắc vào…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:36:43 am

        Mãi đến lúc này, họ mới nhận ra là trong cách tổ chức lực lượng có nhiều chỗ rập khuôn theo Mỹ một cách máy móc, không phù hợp với tình hình địa hình Việt Nam, nên phải gấp rút “Việt Nam hóa” quân ngũ trở lại. Nhiều tổ chức nặng nề không có hiệu lực như viện giám sát, pháp viện đặc biệt, đoàn nữ quân nhân lần lượt bị giải thể. Để lấy lại lòng tin của nhân dân và quân đội, phải làm “xúc động tâm lý toàn quốc”, kích động lòng yêu nước của toàn dân, họ thay đổi chế độ quân dịch, không xem đó như là một hình phạt, mà là để thực hiện công bằng xã hội. Thiệu ra sắc lệnh bãi bỏ luật động viên 17-18 tuổi, mà nêu cao danh dự, nâng cao quyền lợi cho binh sĩ, miền phí, tăng lương cho tất cả binh quân chủng nào, cấp bậc nào, để thực hiện chính sách “huynh đệ chi binh”. Một trong những hành động cho tính quyết định đặc sắc nhất, trong những ngày tàn của cuộc đời làm chính trị của Thiệu là đóng cửa tất cả các tiệm rượu, các hộp đêm, nhà chứa ở Sài Gòn để tiết kiệm tiền, mua súng đạn.

        Khó khăn lớn nhất của quân đội Cộng hoà là vấn đề cán bộ và quân số. Nói đến các sĩ quan, Cao Văn Viên thú nhận: “Tinh thần chiến bại ngày càng bộc lộ, phổ biến, tinh thần chiến đấu giảm sút rất nhanh chóng vì gia đình thất lạc, không có tin tức của thân nhân, nên không ai còn tâm trí để phục vụ”. Số lượng quân cần tuyển là 20 vạn, chỉ đề ra trên giấy tờ cho có chuyện, rất ít có khả năng đạt được 1 phần 10 của số nói trên. Đặc biệt, Viên vô cùng lo lắng cho số phận của không quân và hải quân. Về không quân, tổng số máy bay các loại còn lại thì rất lớnm số sân bay ở miền Trung đã lọt vào tay đối phương, nhưng số còn lại ở quân khu 3 và 4 cũng tạm đủ dùng; nhưng hệ thống ra đa, kiểm báo, nhân viên điều hành thì trốn tiệt; về hải quân, là quân chủng ít bị thiệt hịa nhất, tàu thuyền hãy còn đủ để yểm trợ nhu cầu của quân lực và còn có khả năng giữa các đường vận tải chính trên các sông ngòi và dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, xăng dầu trở nên khan hiếm, vì các bến cảng đều bị uy hiếp nặng. Đạn dược còn lại cũng không phải ít: đạn bộ binh còn đủ dùng được mấy tháng, riêng bom đạn của không quân, hải quân thì còn có thể kéo dài cuộc chiến đấu đến cả năm.

        Mọi nỗ lực, cố gắng trong lúc này, theo họ đề ra đều nhằm “khôi phục lại trong vòng ba tháng tình trạng bất phân thắng bại, để có được hoà đàm”. Họ muốn kiếm một ít vốn liếng trên bàn hội nghị. Trên chiến trường chính Mỹ chưa chịu thua, thì trên chính trường, Bộ Quốc phòng và Bộ ngoại giao Mỹ vẫn còn ra thông báo: “Trong khi Hà Nội đang chuẩn bị một đòn tiến công quân sự nhanh chóng, có tính chất quyết định, chúng ta vẫn tin rằng Hà Nội sẽ lựa chọn một giải pháp ít tốn kém, lại thích hợp hơn về mặt chính trị…”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:00:25 pm

Chương 18

TIA HY VỌNG CUỐI CÙNG

        Được thông báo trưa ngày 5 tháng 4, đồng chí Lê Đức Thọ sẽ đến Buôn Ma Thuột. Địa điểm đón tiếp được chọn là căn cứ huấn luyện của trung đoàn 45, ở phía đông thị xã, nơi đây bảo đảm an toàn, vừa đảm bảo bí mật và bề ngoài cũng có vẻ khang trang hơn các nơi khác. Đồng chí binh trạm trưởng, phần lo chuẩn bị cuộc đón tiếp, phần thì lo sơ tán chiến lợi phẩm từ trong kho Mai Hắc Đế ra các khu rừng cà phê, cao su ở chung quanh đề phòng oanh tạc, nào tập trung xe để bảo đảm, cho sư đoàn 320 đi vào chiến trường, nào vận tải một khối lượng hàng hóa khá lớn vào Nam Bộ nên chân không bén đất, chạy tới chạy lui hết nơi này đến nơi khác đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra. Đến gần trưa, mọi công tác chuẩn bị đón tiếp tạm xong. Bỗng một tiếng nổ long trời, làm rung chuyển các cửa chớp, phát ra từ trong đống giấy lộn đang cháy dở cạnh nhà. Liền sau đó là những tiếng nổ nhỏ hơn của đạn súng trường, thỉnh thoảng lại đêm vài tiếng nổ lớn của lựu đạn. Té ra là một kho đạn súng bộ binh ở ngay cạnh phòng khách, đang bị cháy nổ. Thật là húa vía! Lại phải cấp tốc tung người đi khắc nơi chạy nháo chạy nhào, tìm một địa điểm khác. Cuối cùng mới chọn được một ngôi nhà, nguyên là cơ quan của chính quyền trước kia. Xác mấy chiếc xe tăng còn nằm nguyên trước cổng, ngói, gạch, gỗ, sắt đổ vỡ lung tung. Chỉ còn lại được một chiếc giường. Không bàn mà cũng chẳng có ghế. Đoàn vừa đến nơi, đã thấy đồng chí Bùi San và mấy đồng chí trong tỉnh uỷ đến, vừa thăm hỏi, vừa xin chỉ thị công tác. Được gặp cấp trên để xin chỉ thị trong lúc này còn gì bằng! Cho nên, biết đoàn vừa ở xa đến, còn mệt nhưng tranh thủ thì vẫn cứ phải tranh thủ. Đành phải làm việc hết cả buổi trưa. Quảnh cảnh và phong cách làm việc sau ngày mới giải phóng, đâu đâu cũng đều tất bật như thế cả. Việc này chưa xong thì việc khác đã ập đến; hết đột xuất lại đến bất ngờ; hết tranh thủ lại đến kết hợp. Đầu óc lúc nào cũng thẳng, tay chân luôn luôn bận rộn; thế mà ai nấy vẫn luôn luôn phấn khởi, vui tươi. Mọi tính toán cá nhân đều gạt bỏ sang một bên, những vướng mắc riêng tư đều bị dẹp lại, trước mắt chỉ còn là trách nhiệm và lòng nhiệt tình, hăng say công tác.

        Đồng chí bác sĩ đi với đoàn cho tôi biết sức khỏe của “ông già” dạo này chưa tốt lắm. Vì nóng lòng muốn vào sớm, nên luôn luôn phải vượt cung; đã thế, mỗi lần đến địa phương nào, cũng phải làm việc, chẳng kể ngày đêm, căng thẳng vô cùng.

        Trên đường vào Nam Bộ trong những ngày này, việc đi lại rất khó khăn, nhất là trên đoạn đường đi trên đất Campuchia. Không phải vì đèo cao, dốc đứng, cũng không có suối sâu, sông rộng; nhưng đường thì hẹp, mà các đơn vị binh khí kỹ thuật, đặc biệt là những đơn vị tên lửa, xe tăng, choán hết cả mặt đường, không tài nào vượt lên trước được. Những trận mưa đầu mùa làm cho việc đi đứng khó thêm. Vì vậy, đoàn phải đi theo đường 14. Điều đáng ngại nhất là trên những đoạn gần các vị trí cũ của địch như Đức Lập, Bu-prăng hãy còn rất nhiều mìn. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối, ngoài việc giao nhiệm vụ cho công binh phải rà phá kỹ lưỡng, binh trạm còn đưa mấy chiếc xe vận tải chở đầy gạo, đi trước mở đường; đồng thời quy định cho mọi người: tuyệt đối không được ra khỏi vệt bánh xe. Khi nghỉ, chỉ được đứng giữa đường.

        Từ Bù Gia Mập trở vào, người đi lại nhộn nhịp, đông vui như trẩy hội. Những khu rừng rậm, những bến vượt, đều biến thành những bãi để xe. Tuy chưa được cấp trên phổ biến, nhưng mọi người đều ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, về hướng vào mục tiêu chiến dịch sắp đến.

        Trạm đón tiếp của Trung ương Cục nằm dưới một lùm cây rậm. Gọi là trạm, nhưng chỉ lèo tèo có một lán nhỏ, không đủ che mưa, bốn bề gió lọt, với một cái bàn con, chân khập khễnh. Trông qua dấu vết trên mặt đường, cũng biết là xe cộ qua lại nơi đây khá nhiều; nhưng lại không hề có vẻ nhộn nhịp, ồn ào, náo nhiệt của một bãi xe thông thường. Tất cả các xe con, đều triệt để phân tán, ẩn dưới bóng cây, cả đến những người phục vụ cũng chia ra từng nhóm nhỏ ở rải rác chung quanh. Những người mới đến đều có ấn tượng rất tốt đẹp về việc chấp hành các qui định phòng không. Kể ra, thì từ đây vào đến chỗ Trung ương Cục, cũng chỉ có mấy cây số đường rừng thôi, bằng phẳng, rất dễ đi. Nhưng kỷ luật chiến trường không cho phép bất cứ ai được đánh xe ô tô con vào đến tận nơi ở và làm việc của các đồng chí lãnh đạo.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:03:31 pm

        Tất cả khách mới đến, dù là cấp gì, phải đi bằng phương tiện duy nhất: Honda ôm. Với những ai đã từng sống ở Trung ương Cục trước đây, thì so cái xe đẹp thồ trước kia, đều cảm thấy bây giờ là cả một sự tiến bộ rất dài. Đồng chí Lê Đức Thọ, vừa từ trên xe bước xuống, đồng chí trạm trưởng chạy đến báo cáo và theo sau, là một anh chiến sĩ giải phóng người vạm vỡ, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, khẩu AK vác chéo sau lưng. Vừa để tay lên vành mũ, anh chiến sĩ đã ôm choàng lấy đồng chí Lê Đức Thọ, bất chấp lễ tiết tác phong, trước những cặp mắt ngạc nhiên của mọi người.

        - Anh Sáu! Anh khỏe không anh Sáu! Anh Bảy (đồng chí Phạm Hùng) cho tôi ra đón anh đây. Trời đất ơi! Mấy hôm nay anh Bảy trông anh hết nói.

        Đồng chí Lê Đức Thọ tươi cười, vỗ vào vai anh giải phóng. Lần thứ hai, mọi người đều ngạc nhiên.

        - Ủa, Tư! Dạo này cậu công tác ở đây à? Đã gặp vợ con chưa?

        Vừa nói, anh vừa quàng chiếc khăn xà cột vào vai, rồi nhanh nhẹn leo lên chiếc xe honda, ngồi gọn sau lưng anh chiến sĩ giải phóng, rất tự nhiên.

        - Ta đi thôi.

        Các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục, anh Tuấn và một cán bộ đã đứng đón sẵn. Vừa xuống xe, đồng chí Lê Đức Thọ vội chạy đến ôm chầm lấy đồng chí Phạm Hùng và anh Tuấn. Họ hôn nhau, lâu hơn mọi lần, nghẹn ngào, chẳng nói lên lời. Chỉ mới xa nhau chưa được 100 ngày mà tình hình đã thay đổi bằng cả một đời người. Họ như những người vừa ra khỏi giấc mơ. Suốt cả cuộc đời vào tù ra tội, biết bao nhiêu lần đứng dưới máy chém nhìn lên, hay trong ngục tối nhìn ra, tính mạng như nghìn cân treo sợi tóc, có ai trong những người đứng đây nghĩ rằng có ngày họ cùng đứng bên nhau, để nhìn đời, sáng lạn như hôm nay, và tràn trề hy vọng về những ngày mai? Trong cuộc đời làm cách mạng của mình, mỗi người đã từng gánh vác nhiều trọng trách, nhưng có nhiệm vụ nào lớn lao hơn, vinh dự hơn là trách nhiệm mà Đảng giao cho các đồng chí trong những ngày này; chỉ huy một chiến dịch quy mô nhất, quan trọng nhất, để kết thúc thắng lợi sau gần 120 năm, cả dân tộc sống trong đêm dài nô lệ. Chiến dịch hãy còn thai nghén, nhưng thắng lợi dường như đã nắm chắc trong tay. Trong những cái hôn mặn nồng, thắm thiết, còn bộc lộ cả một ý chí sắt đá, một quyết tâm to lớn và một sự nhất trí cao.

        Ngay hôm sau, bắt tay vào làm việc. Nghiên cứu các chỉ thị hướng dẫn của Bộ, thượng tá Võ Quang Hồ cùng đi trong đoàn đồng chí Lê Đức Thọ mới vào, có cho tôi biết hai điểm: Quyết tâm của Bộ Chính trị đánh Sài Gòn-Gia Định rất cao, nhưng kế hoạch phải rất vững chắc nếu cần có thể tập trung lực lượng ở phía sau lên, và phải kết thúc chiến dịch như thời gian quy định.

        Ngày 7 tháng 4 năm 1975, Thường vụ Trung ương Cục, Quân uỷ Miền họp, thông qua kế hoạch tác chiến. Có hai phương án:

        - Phương án 1, chủ yếu sử dụng lực lượng của Nam Bộ hiện có, được tăng cường thêm sư đoàn 316 và trung đoàn 95B mới từ chiến trường Tây Nguyên vào, thực hiện một số trận đánh lớn nhằm chia cắt quốc lộ 4 ở phía tây, quốc lộ 1 ở phía đông Sài Gòn. Về mặt chính trị, thì đưa quần chúng ven đô và một số nơi trong nội thành nổi dậy, làm chủ, diệt ác, thành lập chính quyền cơ sở. Nếu bước này đạt được thắng lợi giòn giã, chủ lực địch bịt thiệt hại nặng, quần chúng nổi dậy mạnh, thì tranh thủ thời cơ, đột kích vào Sài Gòn-Gia Định, nhằm vào một số mục tiêu chủ yếu như dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu v.v… Trên hướng đông, sẽ sử dụng hai sư đoàn đánh Xuân Lộc, một sư đoàn thọc sâu xuống quốc lộ 15, chiếm Bà Rịa-O Cấp; một sư ép sát Biên Hoà. Trong nội thành và vùng ven, đã có 7 trung đoàn đặc công và 60 tổ biệt động. Ở Quân khu 9, dùng hai trung đoàn, đánh sân bay Bình Thuỷ, bao vây Cần Thơ, hai trung đoàn cắt quốc lộ 4, chiếm Cái Vồn, Vĩnh Long.

        Nếu địch co cụm sớm về sát ven đô, thì chuyển sang phương án hai. Như vậy là phải đột phá bằng sức mạnh của binh chủng hợp thành và phải chờ cho đến khi Quân đoàn 3 và Quân đoàn 1 vào đủ, khoảng ngoại 20 tháng 4, mới bắt đầu nổ súng được.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:07:24 pm
     
        Thực hiện kế hoạch trên, ngày 9 tháng 4 năm 1975, Bộ tư lệnh Miền sử dụng sư đoàn 7 và sư đoàn 341 tiến công vào Xuân Lộc. Do địch đinh ninh rằng ta sẽ đánh Tây Ninh, nên trong những tháng 2, 3 và đầu tháng 4, họ gần như đem hết cả lực lượng chủ lực về phía ấy. Mặt trận phía đông bị bỏ ngỏ. Mãi cho đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Toàn mới phát hiện ra hướng tiến công chủ yếu của ta là hướng đông và Tây Ninh lại là hướng kìm chế, nghi binh để thu hút đối phương. Toàn vội vàng điều động lực lượng từ tây sang đông, chủ trương quyết giữ Long Khánh từ xa. Toàn giao cho Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18, phải giải toả quốc lộ 1 để nối liền với mặt trận Phan Rang, chiếm lại cho được núi Chứa Chan, một đài quan sát tuyệt vời ở miền Đông Nam Bộ, giữ vững Bình Tuy. Chủ trương này rất hợp với ý của Thiệu nhưng Lê Minh Đảo thì phản ứng mạnh. Theo Đảo thì trong tinh hình này, lực lượng cơ động không còn bao nhiêu, nên phải bỏ cả Bình Tuy, Xuân Lộc co về giữ Biên Hoà; nói gì đến chuyện vươn ra tận Phan Rang xa xôi. Đảo chấp hành mệnh lệnh một cách nửa vời; tập trung toàn bộ  lực lượng của sư đoàn 18 và một thiết đoàn chỉ giữ Xuân Lộc thôi. Ngoài ra, còn có tiểu đoàn 82 biệt động quân mới xây dựng lại và nhiều đơn vị địa phương, hai khẩu pháo 175, 10 khẩu phảo 155 và 20 khẩu pháo 105 mm. Cách bố trí thì phân tán trên các mỏm đồi và ở cả trong rừng cao su. Trước ngày nổ súng, Lê Minh Đảo rất xảo quyệt, đã bí mật rời sở chỉ huy và trung tâm hành quân vào trung tâm thị xã, làm cho các đài quan sát tiền tiêu của ta bị mất hút. Về phía ta, sư đoàn 7 đã tác chiến liên tục từ đợt 1 đến nay và đã thu được nhiều thắng lợi lớn. Là đơn vị chủ công trong trận Phước Long, tiếp đến là Định Quán, giải phóng Bảo Lộc, Di Linh, mà quân số thì chưa được bổ sung, cho nên sức chiến đấu có bị giảm sút. Sư đoàn 6 thì mới hình thành, còn sư đoàn 341, thì chân ướt chân ráo mới đến chiến trường. Vấn đề bảo đảm vật chất trên hướng này, đối với cơ quan hậu cần của Miền, thật là vô cùng vất vả, vì đường vận chuyển vừa xa, lại vừa cách núi, ngăn sông, hậu phương trực tiếp rất nghèo nàn. Một chiếc xe vận tải chở vũ khí, đạn dược xuất phát từ Đồng Xoài, phải mất cả tuần lễ mới đến được nới tiếp nhận.

        Sau những loạt pháo bắn chuẩn bị, trung đoàn 3 của sư đoàn 341, được xe tăng chi viện, tiến công từ phía bắc thị xã Xuân Lộc, phát triển thuận lợi, chiếm được dinh tỉnh trưởng, và đánh vào căn cứ biệt động quân. Đến ngày 10 tháng 4, đưa thêm một số tiểu đoàn vào để tăng thêm sức chiến đấu, chiếm được căn cứ này phía tây sân bay, khu vực chiến đoàn 45 và tập trung đánh phản kích. Trung đoàn 12 của sư đoàn 7, tiến công từ phía đông nhưng bị ngăn chặn, không mở được cửa, không thực hiện được việc chia cắt địch từ phía nam. Ngày hôm sau lại đưa nốt một bộ phận của trung đoàn 14 đến để cùng trung đoàn 11 cố đánh chiếm hậu cứu của chiến đoàn 52, đột phá vào hậu cứ của sư đoàn 18, chiến đoàn 43, nhưng tất cả đều bị ngăn chặn, không phát triển được vì đánh vào chỗ cứng trên một địa hình không thuận lợi. Sau ba ngày liên tục chiến đấu, bộ đội ta bị thương vong. Trên hướng sư đoàn 341, ngày đầu có thuận lợi như đã nói trên, nhưng đến ngày thứ ba cũng bị chặn lại. Bộ Tổng tham mưu quch nhận thấy tình hình trong lúc này mà để mất Xuân Lộc thì coi như Quân giải phóng đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn rồi. Hơn nữa, họ đang muốn tìm kiếm một chiến thắng vang dội. Vì vậy càng phải dốc hết sức tàn lực kiệt vào mặt trận này: máy bay oanh tạc suốt ngày, pháo binh bắn dồn dập, đồng thời cấp tốc chuyển toàn bộ lữ đoàn 3 kỵ binh, một lữ đoàn dù, một chiến đoàn xe tăng, từ mặt trận phía tây sang. Chiều ngày 13 tháng 4, lữ đoàn dù và sáu khẩu pháo 105 mm đến ngã ba Tân Phong. Sáng hôm sau, cánh này đánh vòng lên phía bắc, định hình thành thế bao vây tiểu đoàn 7, trung đoàn 209 của ta. Thế trận giằng co. Trước sức chống cự quyết liệt của địch, một số đơn vị của ta vẫn giữ các mục tiêu quan trọng trong thị xã mới chiếm được, một số đơn vị khác, phải rút ra ngoài, chuẩn bị đánh phản kích. Bộ tư lệnh chiến dịch cử trung tướng Trần Văn Trà đến kiểm tra tại trận và hướng dẫn cách đánh cho phù hợp: từ trạng thái tiến công chuyển sang bao vây, đánh thiệt hại nặng quân địch ở vòng ngoài, và dùng pháo binh tiêu hao ở bên trong. Kết quả là sau mấy ngày chiến đấu, lữ đoàn 3 kỵ binh bị chặn đứng ở Bàu Cá không tiến lên được để giải toả quốc lộ 1, nối liền với Xuân Lộc, thậm chí đến việc bắt liên lạc với chiến đoàn 52 ở Dầu Dây cũng không thực hiện được, vì tiểu đoàn 3 của chiến này cũng bị đánh thiệt hại nặng ở đồi Móng Ngựa, và đến ngày 15 tháng 4 thì phải rút về Long Bình qua ngã bắc Bầu Hàm. Lữ đoàn dù 1 cũng không tiến lên được và bị đẩy dần về phía Trảng Bom, Biên Hoà, lần lượt Túc Trung, Kiểm Tận và Dầu Dây được giải phóng, Xuân Lộc ngày càng bị cô lập. Tuyến phòng thủ Hố Nai-Biên Hoà bị uy hiếp.

        Trên mặt trận phía tây, thực hiện chủ trương cắt quốc lộ 4, đoàn 232 do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy, điều chỉnh lại kế hoạch không đánh Mộc Hóa trên tuyến biên giới, mà nhanh chóng thọc xuống la dùng sư đoàn 8 đánh Cai Lậy, cắt đường; sư đoàn 5 và một trung đoàn đánh Thủ Thừa, còn 3 trung đoàn khác thì áp sát Sài Gòn. Hai sư đoàn 3 và 9 sẵn sàng ở phí sau. Do đường sá lầy lội, phải vượt qua nhiều bưng sình, nên các đơn vị pháo binh, thiết giáp không theo kịp bộ binh. Để phối hợp kịp thời với Xuân Lộc, đêm 10 tháng 4, ta tiến công Tân An - Thủ Thừa. Vì không có hoả chi viện, trận đánh không thành công. Ta chuyển sang tiêu diệt các đồn bót nhỏ ở phía tây Tân An, mở rộng hành lang, củng cố vị trí đứng chân, tạo điều kiện để sau này đánh lớn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:13:35 pm

        Những trận đánh Xuân Lộc, Tân An không dứt điểm được, đối phương tuy lâm vào bước đường cùng, nhưng chưa phải đã tháo chạy. Tuy nhiên, cũng đã có tác động lớn: những đơn vị trực tiếp bảo vệ Sài Gòn như lữ đoàn dù, sư đoàn 18 đều bị đánh thiệt hại nặng. Trong lúc đối phương đang phải lo đối phó với đòn chủ lực, thì lực lượng địa phương, tranh thủ mở vùng, mở mảng, áp sát ven đô, tạo ra những bàn đạp rất thuận lợi cho cuộc tiến công sau này. Các trung đoàn 88 và 24, hai tiểu đoàn ở Long An diệt 45 bốt, phân chi khu, giải phóng 12 xã thuộc huyện Châu Thành, Cần Giuộc, Cần Đước, Tân Trụ, kết hợp với lực lượng đặc công tạo ra chỗ đứng chân vững chắc ở phía nam thành phố.

        Lực lượng cơ động của quân đội Cộng hoà đã sạch. Chỉ sau vài ngày chiến đấu, các tiểu đoàn địa phương 301-322 và 330 bị thiệt hại nặng và trung đoàn 12 của sư đoàn 7 cũng mất sức chiến đấu. Ngày 12 tháng 4, đành phải đưa sư đoàn 22 mới ở miền Trung chạy về, ra be bờ. Kể ra thì sư đoàn này cũng tạm gọi là có máu mặt hơn các đơn vị khác. Ở trung tâm Vạn Kiếp, ở Vũng Tàu, nó còn được bổ sung 4.600 quân, phần lớn mới từ các địa phương lên, nhưng không còn lấy một khẩu pháo nào. Tội nghiệp! Đứa anh cả của nó là sư đoàn 1, trước đấy hùng hổ là thế, mà nay chỉ còn có 2 sĩ quan và 40 lính; còn sư đoàn 3 thì vét được 1.000 lính với 20 khẩu súng trường.

        Các cấp chỉ huy ở trên dường như chẳng nắm được tình trạng bi đát này. Vài ngày đầu, thấy tình hình ở Xuân Lộc, Tân An, loé lên một tia hy vọng, đã vội vui mừng. Ngày 13 tháng 4, tướng Smith, tuỳ viên quân sự Mỹ đã gửi cho C.Brown, chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân, một bức điện nói về trận Xuân Lộc như sau:

        “1.Chúng ta đã bước đầu giành thắng lợi. Trong trận Long Khánh, quân lực Việt Nam Cộng hoà rõ ràng đã tỏ ra quyết tâm, ý chí và lòng dũng cảm để chiến đấu, dù cho tình thế bất lợi cho họ. Dù trận đánh mới chỉ qua giai đoạn 1, nhưng chúng ta có thể nói rằng, quân lực Việt Nam Cộng hoà đã thắng ở hiệp một.

        2.Trận đánh giành quyền kiểm soát ngã ba Dầy Dây và tỉnh lỵ Xuân Lộc từ ngày 9 tháng 4, với trận hoả lực mở màn gồm 3.000 đạn pháo, rocket và cối. Lực lượng Việt Nam Cộng hoà bị áp đảo về số lượng, đã bị đánh bật khỏi thị xã và nhiều xã ấp dọc quốc lộ 20. Nhưng, họ đã nhanh chóng phản công và vào đêm đầu tiên, sau khi trận đánh bắt đầu, họ đã đẩy được phần lớn quân địch ra khỏi Xuân Lộc, mặc dù Bắc Việt còn chiếm nhiều ấp xã.

        3.Không quân Việt Nam đã bảo đảm liên tục không yểm gần. Thiệt hại của địch kinh khủng. Số địch bị chết bỏ lại trên chiến trường hơn 1.200 tên, gần 30 xe tăng bỏ lại trên chiến trường. Ta thu gần 200 vũ khí.

        4.Lòng dũng cảm va tính tích cực của binh sĩ Việt Nam Cộng hoà, nhất là lực lượng địa phương Long Khánh, chắc chắn chỉ ra rằng: những binh sĩ này, nếu được trang bị đầy đủ và lãnh đạo tốt, thì ưu việt hơn hẳn đối thủ của họ. Trận Xuân Lộc như vậy đã giải quyết được vấn đề: Quân lực Việt Nam Cộng hoà có chiến đấu được hay không?”.

        Bước sang ngày 18 tháng 4, Nguyễn Văn Toàn phát hiện được trung đoàn 141 của sư đoàn 7 Quân giải phóng đang chuẩn bị bước vào chiến dịch, thì liền chiều hôm ấy, lệnh cho Lê Minh Đảo phải nhanh chóng bỏ Long Khánh, rút về phòng thủ Biên Hoà, sau khi Đảo vừa nhận được 400 quân bổ sung. Khác với cuộc rút lui “quân hồi vô phèng” ở Tây Nguyên một tháng trước đây, cuộc rút quân của tướng Đảo xem ra có vẻ bài bản hơn. Nhật ký chiến sự của sư đoàn 18 có ghi lại:

        Ngày 19: lữ đoàn dù và sư đoàn 18 tiếp tục phản công mạnh mẽ; chiến đoàn 48 hành quân mở đường tiếp tế như thường lệ; nhưng kỳ thực nhằm mục đích nghi binh và bảo đảm an toàn từ Xuân Lộc đến Long Đạo. Sư đoàn lệnh cho quân địa phương rút khỏi xã Cẩm Mỹ để cho sư đoàn bí mật co đội hình về gần Long Đạo. Cố tránh giao tranh để khỏi tạo ra tình hình khẩn trương trên đoạn đường này. Các chiến đoàn khác dùng tất cả các loại pháo với số lượng rộng rãi hơn, khác hẳn với những ngày trước.

        Ngày 20 tháng 4: 8 giờ sáng, tiểu đoàn dù được tăng cường một chiến đoàn xe bọc thép, một đại đội trinh sát, tiến công mạnh vào trung đoàn 141 Quân giải phóng. Pháo bắn mạnh vào các đơn vị chung quanh Núi Thị, di chuyển rầm rộ, làm như đến tăng cường cho tiểu đoàn 2, trung đoàn 43 đóng tại đây; kỳ thực là để vứt bớt pháo, vật liệu nặng. Trực thăng vận tải vẫn tiếp tục bay ra bay vào Xuân Lộc như mọi ngày, nhưng mang tiếp liệu vào mà là để mang vật liệu ra. Thời tiết xấu, nên chỉ được 3 lần chiếc ngày. Đến 20 giờ, trung đoàn 48 thiếu và ban chỉ huy cùng với 4 pháo, từ Núi Thị rút về Long Đao, triển khai đội hình, để sẵn sàng yểm hộ các đơn vị rút sau. Đến 22 giờ, trung đoàn 43 và tiểu đoàn 82 biệt động quân bắt đầu di chuyển, vượt qua đội hình của trung đoàn 48 và bố trí trên đoạn đường từ Cẩm Mỹ đến Xà Bang. Sau đó hai tiếng đồng hồ, trên 2.000 xe các loại của sư đoàn 18 và tiểu đoàn 2 của trung đoàn 52 và một đại đội trinh sát đi bảo vệ dọc đường. 3 giờ sáng ngày 21 tháng 4, tiểu đoàn ở Núi Thị rút sau cùng. Sau khi bắn liên tục để nghi binh, phá huỷ cả hai khẩu pháo 105 cuối cùng còn lại; đến 5 giờ thì đoàn cơ giới về phía Đức Thạnh. Các đơn vị lẻ tẻ cũng dần dần tập trung lại được ở đây; cho đến 12 giờ thì sư đoàn 18 về Long Bình; lữ đoàn 1 được tách ra khỏi sư đoàn để ở lại bảo vệ Bà Rịa…”

        Ngồi ở Tân Sơn Nhất nhìn ra, là một nhà quân sự như tướng Smith, lẽ nào lại nhìn một cuộc rút lui, mặc dù có bài bản hoá thành một cuộc phản công. Thử hỏi: người ngồi bên kia Thái Bình Dường, thì còn sai lầm đến tận đâu?


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:15:43 pm
       
Chương 19

THẦN TỐC

        Một bộ phận của Quân đoàn Quyết Thắng đang giúp dân đắp đê sông Đáy, thì chiều 17 tháng 3, được lệnh vào nam Quân khu 4 bảo vệ tuyến giao thông vận tải chiến lược, từ Long Đại đến Bãi Hà; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cơ động. Sư đoàn bộ binh 320B của Quân đoàn và một số đơn vị binh khí kỹ thuật thì vào chiến trường trước. Gác lại một bên nào xẻng, cuốc, quanh, gánh, sọt, nắm chắc lại tay súng, chuẩn bị lên đường. Về mặt tổ chức, cũng có vấn đề cần phải giải quyết. Tiếng rằng quân đoàn phải luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhưng vừa qua, đã phải rút bớt một vài bộ phận đi tăng cường cho các mặt trận, cũng phải mất vài hôm mới bổ sung lại cho đầy đủ được.

        Đến ngày 24 tháng 3, thì lại có lệnh: toàn Quân đoàn thiếu sư đoàn 308, đi tham gia chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng. Toàn đơn vị như muốn bay lên phía trước. Muộn mất rồi, chưa đến nơi, thì Đà Nẵng đã giải phóng. Ngày 1 tháng 4, lại nhận lệnh mới: hành quân thần tốc, tập kết ở Đồng Xoài.

        Những người đứng ngoài cuộc có thể nghĩ rằng: cấp trên luôn luôn thay đổi quyết tâm như thế này, thì dưới khó chấp hành. Nhưng làm thế nào được? Chuyển biến trên toàn bộ chiến trường miền Nam trong tháng 3 năm 1975 quá nhanh, tình hình đổi thay từng giờ từng phút, không kịp lên bản đồ tình huống. Hôm trước, như thế là đúng, nhưng hôm sau thì lại không còn thích hợp nữa rồi. Trong một cuộc chiến tranh “theo quy ước” phòng tuyến xô tới, đẩy lùi là điều rất dễ hiểu; nhưng trong một cuộc chiến tranh nhân dân như thế này, trong cái thế cài răng lược không phòng tuyến thì diễn biến mới xem ra rất khác thường. Đối phương cứ yên trí là ta đánh từ vĩ tuyến 17 vào, thì lại mở màn từ Buôn Ma Thuột đánh ra; chưa kịp định thần, thì Quảng Trị xốc tới, Quảng Ngãi vùng lên, Đông Bắc sông Cửu Long nổi dậy. Nói như thế không có nghĩa là cuộc chiến tranh diễn biến không theo một quy luật nhất định nào. Cấp lãnh đạo, tất nhiên là đã nắm được lấy nó, đã dự kiến được tình hình và phải có biện pháp khắc phục. Đối với một binh đoàn, hàng mấy vạn người, xe cộ, phương tiện đi chật đường, chật sá; đang hành quân, bỗng đổi hướng, là một điều vô cùng phức ta. Ùn, tắc, lạc! Bộ Tổng tham mưu đã nhìn thấy trước vấn đề, nên cử một đoàn cán bộ khá đông, do đồng chí Thiếu thướng Phùng Thế Tài, Tổng tham mưu phó dẫn đầu, xuống giúp đỡ đơn vị, đôn đốc hành quân. Người ta thấy cả một đoàn cán bộ cấp cao ở các đơn vị, các trường, các viện tạm thời được trưng dụng về Bộ để cán bộ đốc chiến; đêm ngày chạy ngược chạy xuôi trong đội hình hành quân của Quân đoàn, kéo dài trên hàng trăm cây số, trên nhiều trục đường cách xa nhau, thúc trước đẩy sau, động viên, nhắc nhở. Vất vả vô cùng là đơn vị xe tăng, pháo binh, công binh, cao xạ, nhất là lúc phải rời trục đường quốc lộ 1, chuyển sang đường 9, để sang trục đường tây Trường Sơn, chưa được rải đá. Thông thường thì ở đây, đến tháng 5, mùa mưa mới bắt đầu. Nhưng năm nay, mưa lại đến sớm hơn. Những trận mưa đầu mùa đã biến những hố bụi thành những bãi lầy nhão nhoét, những vật cản đáng gờm nhất của các đơn vị xe, pháo, trên đường hành quân. Bụi có cái vất vả của bụi, còn bùn thì lại có cái vất vả của bùn; nền đường như có đá nam châm hút cứng lấy bánh xe, có khi hàng giờ không nhích lên được nửa thước. Lại kéo đẩy, kê kích; chiếc xe dấn lún ga, như muốn vỡ tung cả máy, vừa vượt được qua một hố bùn thì khẩu pháo kéo ở sau đuôi đã lao xuống đấy rồi. Trước đây, đã có lần ta đưa đi Nam Bộ, chỉ có một tiểu đoàn pháo và một tiểu đoàn xe tăng; mà phải mất ròng rã hai năm trời mới vào đến nơi, mà vẫn chưa đủ số. Xe pháo nằm ngổn ngang, rải rác dọc đường: giờ máy hết, xích hỏng, nhiên liệu cạn, phụ tùng thay thế sạch quẹt. Có trải qua cảnh ấy mới thấy được quyết tâm của bộ tư lệnh quân đoàn lầphỉ nâng tốc độ hành quân lên đến 150-200 cây số ngày, để kịp đến vị trí tập kết đúng theo mệnh lệnh quy đinh, là cả một sự nỗ lực phấn đấu phi thường.

        Trong lúc Quân đoàn Quyết Thắng phải vật lộn với mưa gió và đất đỏ ba dan, ở Lào và Tây Nguyên, thì Quân đoàn Hương Giang, hành quân theo đường quốc lộ số 1, cũng không kém phần vất vả.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:23:37 am

        Sau Đà Nẵng giải phóng, ngày 1 tháng 4, quân đoàn nhận được lệnh sơ bộ phải chuẩn bị cho sư đoàn 325 cùng với lữ đoàn xe tăng 203 vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Trong thời gian đơn vị làm công tác chuẩn bị, thì Trung tướng Lê Trọng Tấn bay về Hà Nội họp với Quân uỷ Trung ương và nhận nhiệm vụ mới. Chỉ riêng việc nắm quân, thu quân trong lúc chờ lệnh cũng đã khó lắm rồi: các đơn vị còn ở rải rác cách xa nhau hàng trăm cây số, một nửa xe và pháo của sư đoàn cao xạ 673 còn bị mắc kẹt ở Huế, trên các trục đường 73, 74, 14, tít trong rừng sâu; cơ quan của trung đoàn 245 thì còn lẹt đẹt ở Khe Sanh, trên quốc lộ 14. Đường sá bị tắc nghẽn vì mưa lũ, các tiểu đoàn bộ binh ở Thượng Đức trong tỉnh Quảng Nam, có nhiệm vụ đi vào nam lại phải vòng ra bắc Huế để theo đường số 1 đi vào. Gặp những trường hợp này, những người làm công tác tham mưu, nếu chỉ ngồi trong phòng, giở bản đồ mà đo đạc, tính toán để làm kế hoạch, thì nhất định sẽ bị phá sản. Còn đang loay hoay tính toán thì ngày 4 tháng 4, Trung tướng Lê Trọng Tấn và Trung tướng Lê Quang Hoà trên cương vị là Tư lệnh và Bí thư Ban cán sự binh đoàn Duyên Hải cũng vừa vào đến nơi, trực tiếp giao nhiệm vụ cho quân đoàn, cấp tốc hành quân vào Nam Bộ tham gia chiến dịch:

        - Trước mắt để lại sư đoàn 324 ở lại nam Quân khu 5 để bảo vệ hậu phương.

        - Được phối thuộc thêm sư đoàn 3 và lữ đoàn 52 Quân khu 5

        - Vừa đi vừa đánh, có khả năng phải đột phá Phan Rang, Phan Thiết.

        - Thời gian: trong vòng 13-15 ngày, phải có mặt ở Xuân Lộc.

        Trung tướng còn trao cho đơn vị bức thư động viên, đồng thời là hướng dẫn hoạt động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

        “-Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang!

        Cần hoạt động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Muốn vậy, chỉ huy và lãnh đạo phải luôn luôn nắm tình hình địch, ta; quán triệt tình thần hết sức tích cực, hết sức linh hoạt.

        Các đồng chí hãy nêu cao hơn nữa tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến đấu dũng cảm, đạp bằng mọi khó khăn trở ngại, cơ động nhanh, đột kích mạnh, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc”.

        Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam có một điểm rất đáng chú ý: những cuộc hành quân quy mô, thần tốc thường đưa đến những chiến thắng huy hoàn, mở ra những trang sử chói lọi nhất. Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, đều như thế cả. Phát huy truyền thống của cha ông, những con cháu của Bác cũng đang làm một việc như thế.

        Đường từ Đà Nẵng vào Sài Gòn dài trên 800 cây số, phải vượt khá nhiều đèo: Cù Mông, Đèo Cả, Rù Rì, Ro Tượng v.v… 50 con sông đó có 14 sông lớn, gần 600 cầu, cái dài nhất trên 1 cây số như cầu Đà Rằng qua sông Ba. Trước khi rút lui, đối phương đã phá hết các cầu trên đường quốc lộ 1. Chỉ tính riêng một đoạn trên 100 cây số, 6 cái cầu đã bị đánh gục: cầu Lâu, Bà Rén, Hương An, Kế Xuyên, Bà Bầu, An Tân. Như các đơn vị bạn, khó khăn rất lớn đối với quân đoàn là sức kéo thiếu nghiêm trọng, cố tập trung hết mức cũng chỉ bảo đảm cơ động được 30 phần trăm quân số. Còn một trở ngại nữa, là cụm địch ở Phan Rang tương đối mạnh. Như đã nói trên, Thiệu đã có lệnh là phải tử thủ nơi này; tổ chứ thành cụm chốt mạnh trên tuyến phòng thủ mới của quốc gia, để bảo vệ cho phần đất đai còn lại. Đối phương đã tập trung về đây một lực lượng khá đông: sư đoàn 2, từ Quảng Ngãi, Bình Định mới chạy về; lữ đoàn 2 dù, lữ đoàn 3 biệt động quân; sư đoàn 6 không quân. Tổng số lên đến trên 1 vạn chủ lực, ngoài ra còn lực lượng tại chỗ. Toàn bộ lực lượng nói trên, được sự chi viện rất mạnh của không quân và hải quân của quân đội Cộng hoà và còn có thể của Mỹ nữa. Với địa hình rất thuận lợi cho việc phòng thủ, với một chiến trường đã được chuẩn bị rất chu đáo, có sân bay, có bến cảng, có kho tàng; hệ thống đường sá khá tốt; quân đoàn đột phá qua cho được cửa ải này nào có phải dễ dàng gì. Trong khi đó, thì thời gian chuẩn bị lại quá ít, quân đoàn đáng đứng chân trên một địa bàn vừa mới giải phóng được vài hôm, trăm sự ngỡ ngàng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:27:50 am

        Bộ Tổng tham mưu cũng đã có dự kiến được khối lượng việc rất lớn của quân đoàn, nên đã cử một đoàn khá đông cán bộ, phái viên đốc chiến, theo sát giúp đỡ các đơn vị: thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, tư lệnh hải quân, thiếu tướng Giáp Văn Cương, Phó tổng tham mưu trưởng; đại tá Hoàng Ngọc Diêu phó tư lệnh Phòng không-không quân, đại tá Đinh Thiện, tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần, đại tá Ngô Hùng… Người ta thường nói: cái khó bó cái khôn. Nhưng ở đây, trong lúc này thì lại khác: cái khó ló cái khôn. Không ít người nước ngoài thưa nhận rằng: dân tộc Việt Nam, trong nghệ thuật quân sự, đã sử dụng vũ khí, trang bị, phương tiện của địch để đánh địch, một cách đánh rất tài tình. Thật không ngoa tý nào! Để giải quyết tình trạng thiếu đạn lớn và thiếu sức kéo, sau khi được Bộ phê chuẩn, quân đoàn đã mạnh dạn lấy toàn bộ pháo 105 ly của địch, thay thế cho pháo 122 ly ở các sư đoàn, vì hai loại này, tính năng tác dụng tương đương nhau. Pháo địch có cái tốt là rất sẵn đạn, tìm đâu cũng có, rất tiện cho công tác bảo đảm, mà việc chuyển loại sử dụng, không mất nhiều thời gian. Tuy nhiên tuyệt đối không được máy móc, mà phải có sự lựa chọn thích hợp, với pháo cấp chiến dịch thì lại khác. Mặc dù thu được khá nhiều loại pháo 175, mà quân đội Cộng hoà hết lời ca tụng, đặt cho cái tên rất kêu “vua chiến trường”, thì bộ đội ta lại xếp cả lại một bên, đưa về phía sau, để giành cho các nhà bảo tàng sau này. Sơ tốc lớn, tầm bắn xa, không đủ để khắc phục những nhược điểm quá lớn của loại pháo này. Pháo chiến dịch của ta - những loại pháo 122 nòng dài, 130 ly, ưu việt hơn nhiều vì có sức cơ động lớn, rất hợp với chiến trường Việt Nam. Để khắc phục tình hình thiếu sức kéo, đồng thời giảm bớt những phức tạp về mặt kỹ thuật, các loại xe kéo pháo có bánh xích, đều được thay thế bằng các đầu máy kéo, các bánh xe cao su, vừa rất sẵn có, lại vừa cơ động hơn, và cũng ít phức tạp hơn trong công tác bảo đảm kỹ thuật. Toàn đơn vị như dấy lên một phong trào thi đua tận thu và tận dụng chiến lợi phẩm, có chọn lọc rất kỹ, để tăng cường thêm sức chiến đấu cho quân đoàn. Sáng kiến của lữ đoàn 164 trong việc sử dụng máy thông tin gắn trên xe có công suất lớn, đã giải quyết được khó khăn cho các cấp chỉ huy trong cuộc hành quân này.

        Để nâng thêm sức cơ động, Bộ còn phối thuộc cho đơn vị toàn bộ sư đoàn 517 vận tải, đơn vị Anh hùng

        Những sự thay đổi về mặt tổ chức, trang bị như trên không có ảnh hưởng gì lớn đến sức chiến đấu của quân đoàn. Nếu sư đoàn 324 là đơn vị có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, nhất là trong những năm gần đây liên tục tác chiến trên chiến trường Trị Thiên, nên rất dạn dày với bom đạn, phải ở lại để bảo vệ hậu phương, thì sư đoàn 3 của Quân khu 5 mới được phối thuộc cho quân đoàn cũng đã được thử thách rất nhiều trên dải đất miền Trung Trung Bộ.

        Mệnh lệnh của bộ còn nói rõ: Khi cần thiết phải đột phá vào Phan Rang. Như vậy có nghĩa là: lần này khác hẳn với những lần trước, phải vừa hành quân-hành quân thần tốc-lại vừa phải tác chiến. Vì vậy, việc tổ chức chỉ huy lần này cũng có những chỗ khác thường: Toàn quân đoàn được tổ chức ra làm nhiều khối, mỗi khối là một đơn vị binh chủng hợp thành, được tăng cường chỉ huy để có khả năng đọc lập giải quyết các mục tiêu trên đường đi. Công tác bảo đảm đường sá khá phức tạp, thì được phối thuộc bằng một trung đoàn thuyền của Đoàn Trường Sơn, nằm luôn trong đội hình của đoàn tiền trạm; cầu bê tông bị đánh hỏng, thì đã có sẵn cầu bê-lây của Mỹ lắp vào, rất nhanh, rất gọn; đường hỏng thì nhân dân địa phương đổ ra làm đường vòng, đường tránh, sông rộng thì ghép phà lớn như An Tân, Bà Bàu; sông hẹp thì dùng bao cát, vỏ thùng phi, nguyên vật liệu sẵn có ở các địa phương để làm ngầm cho xe qua. Công tác bảo đảm kỹ thuật cho một cuộc hành quân đường dài của một binh đoàn lớn, có đầy đủ binh khí, kỹ thuật cũng được giải quyết rất ổn thoả: mỗi lái xe, thợ sửa chữa, đều mang theo túi đồ nghề, có đầy đủ phụ tùng dự phòng. Mỗi khi đến trạm nghỉ, từ trưởng xe, nhân viên kỹ thuật, đến lái chính, lái phụ, đều bày biện dụng cụ ra làm công tác bảo dưỡng. Sinh hoạt của đơn vị cũng khác thường, mỗi xe là một lán trại, một hội trường, một lớp học để cho các chiến sĩ nghe tin chiến thắng, học tập nghị quyết, đấu tranh phê bình tự phê bình và cũng là một câu lạc bộ đẻ vui chơi ca hát. Xe còn lại bếp ăn, có đủ lương thực, thực phẩm, nồi niêu, xoong chảo, thậm chí đến cả củi đun nữa. Theo quy định chung, cứ mỗi lần dừng lại nửa tiếng đồng hồ, là phải có cái ăn ngay. Cảm động nhất và cũng lý thú nhất là cuộc hành quân thần tốc của trung đoàn 9. Vì không đủ xe, nên đơn vị phải đi bằng tầu biển từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn. Ở đây, đã có sẵn hàng trăm xe của đồng bào vùng mới giải phóng. Cũng như ở Đắc Lắc, được các đảng bộ địa phương giáo dục và cổ vũ, rất nhiều bà con cô bác tình nguyện gia nhập vào đội hình hành quân của quân đoàn. Có xe, chồng là lái chính, con là lái phụ, vợ là nấu ăn, cả gia đình cùng chia sẻ nỗi gian lao vất vả với bộ đội và cùng nhau reo mừng, chia nhau niềm tự hào và niềm vui chiến thắng. Bất chấp cả bom đạn, không ai chịu bỏ cuộc. Kết thúc đợt chuyển quân, gần 50 gia đình còn xin cấp trên được ở lại phục vụ bộ đội, chờ đến ngày xong chiến dịch mới trở về.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:30:51 am

        Thị xã Phan Rang nằm trên đường quốc lộ số 1, trên ngã ba đường đi Đà Lạt, cách Sài Gòn 350 cây số. Ngày 1 tháng 4, sau khi đối phương tháo chạy khỏi Nha Trang, thì họ cũng bỏ luôn cả cái thị trấn nhỏ bé này. Nhưng Thiệu lại ra lệnh phải ở lại và đưa đến đấy một lực lượng khá đông để tử thủ.

        Đường từ hướng bắc đi vào thị xã, phải đi ven theo bờ biển, một bên là núi cao. Tiếp đến là một thung lũng hẹp, kẹp giữa hai sườn núi. Còn nắm được trong tay một lực lượng không quân khá lớn, một lực lượng hải quân chưa bị sứt mẻ bao nhiêu, nên Thiệu đặt nhiều tin tưởng vào khu vực phòng thủ này. Ngày 13, 14 tháng 4, sư đoàn 3 của Quân khu 5 và trung đoàn 25 mở đợt tiến công vào sân bay Thành Sơn, nhưng cũng chỉ mới chiếm được một vài điểm nhỏ ở rìa bên ngoài trên phía bắc. Tối ngày hôm ấy, đại quân đến. Sư đoàn 325, được lệnh tổ chức ra cụm pháo, tiến vào Du Long, để chi viện cho sư đoàn 3. Ý định của quân đoàn là đột phá trong hành tiến, đánh chiếm ngay thị xã và cảng Ninh Chữ, đồng thời phối hợp với sư đoàn 3, tiến công vào Thành Sơn. Cũng cần phải nói lên cho mọi người biết: gọi là chấm dứt mọi sự can thiệp bằng quân sự, nhưng mấy ngày trước đó, chiếc tàu mang tên Durnam của Mỹ đã lén lút chở quân đến để tăng cường cho Phan Rang và đã bốc đi 1.500 người. Đánh vào cảng Ninh Chữ là nhằm mục đích cắt đường rút lui của đối phương bằng đường biển và cũng là một đòn cảnh cáo đế quốc Mỹ.

        5 giờ sáng ngày 14 tháng 4, trung đoàn 101, sư đoàn 325 cùng với 20 xe tăng, hai tiểu đoàn pháo 105 tiến công vào thị xã Phan Rang. Địch tổ chức ngăn chặn quyết liệt tại cầu Phước Nhơn, trên đường vào thị xã. Pháo mặt đất và pháo biển bắn chặn từ Phước Nhơn đến Gò Đen, phối hợp rất chặt chẽ với máy bay ném bom, bắn rocket. Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 25 cùng xe tăng, thiết giáp đánh địch trên cầu Hội Diêm. Sau 30 phút, phát triển vào đến khu vực nhà thờ ở phía bắc thị xã, thì chạm súng với lữ đoàn 31 biệt động quân. Tiểu đoàn 1 lần lượt diệt các điểm chốt phòng ngự từ Hội Diêm đến ngã ba Ninh Chữ, đánh tan nhiều đợt phản kích và chiếm được khu trường bắn, một vị trí phòng thủ khá vững chắc ở bắc thị xã 2 cây số.

        Trời sáng dần, máy bay hoạt động càng quyết liệt hơn, phối hợp hoả lực của súng máy đặt trên các nhà tầng, bắn như đổ đạn vào đội hình của đại đội đi đầu. Phối hợp chặt chẽ với quân phòng ngự ở chính diện, một cánh bộ binh khác vừa mới hồi phục lại, từ An Xuân, An Nhơn đánh tạt ngang với ý định chia cắt đội hình tiến công của ta. Từ 6 giờ đến 9 giờ sáng, gần 40 lần chiếc A37 điên cuồng ném bom, bắn phá vào đội hình ta. Ta bắn rơi một chiếc. Nhưng thương vong mỗi lúc một tăng dần. Trung đoàn trưởng Nguyên Văn Giảng, nắm lại đội hình, dùng tiểu đoàn 1 bộ binh và tiểu đoàn 4 thiết giáp, tổ chức thành 3 mũi tiến công, vượt qua lưới lửa, thọc nhanh vào trung tâm thị xã, đánh chiếm tiểu khu Phan Rang, toà hành hcính tỉnh và khu trung tâm thông tin. Trước hành động quả cảm, nhanh và mạnh của ta, hoả lực chi viện của địch mất hẳn tác dụng, địch nhanh chóng tan vỡ, 15 phút sau, đại đội 1 đã cắm cờ lên nóc toà nhà hành chính. Quân ta tràn vào thị xã như nước vỡ bờ. Nhân dân đổ ra đường, bất chấp lửa đạn, hò reo đón mừng bộ đội giải phóng. Trung đoàn được lệnh cho một bộ phận phát triển tiến công về phía cảng. Một chiếc tàu lớn, hốt hoảng chưa kịp rời bến, đã bị bắn cháy. Các đường rút lui đều bị cắt đứt. Cách đối phó đáng kể nhất của địch còn lại là dùng máy bay bắn bừa bãi vào xóm làng xung quanh.

        Trên hướng sân bay Thành Sơn, sư đoàn 3 và trung đoàn 25 đang gặp khó khăn. Hoả lực của địch vừa mạnh lại vừa có tổ chức, kết hợp chặt chẽ với hệ thống công sự khá vững chắc. Chả là cách đây nửa tháng, địch đã phát hiện sư đoàn 10 với toàn bộ binh, xe tăng, pháo binh đã vào đến Dư Long, ở phía bắc thị xã, rồi lại vòng về phía tây, vào chiến khu Bác Ái. Họ đoán là ta đánh chuẩn bị tiến công vào sân bay, nên có bao nhiêu bom đạn đều tập trung vào khu vực này. Nắm được tình hình này, bộ tư lệnh quân đoàn lệnh cho sư đoàn 325 dùng tiểu đoàn 2, tổ chức một mũi tiến công lên hướng sân bay để phối hợp. Vừa tiến ra khỏi ngã ba một cây số, đơn vị đã bị máy bay oanh tạc vào đúng giữa đội hình, cháy 4 xe. Đến gần trưa, 16 tháng 4, tiểu đoàn 1 cùng với xe tăng đang tiến về quận lỵ Tháp Chàm thì gặp địch, lập tức chia làm cánh: một cánh nhanh chóng chiếm quận lỵ, một cánh đánh dọc theo đường quốc lộ 11 rồi thọc vào sân bay từ phía nam. Bị đánh từ phía sau tới, địch tan vỡ, bỏ cả xe M113 chạy toán loạn. Vừa lúc ấy thì trung đoàn 25 cũng từ hướng bắc đánh xuống. Trong nháy mắt, ta hoàn toàn làm chủ sân bay, thu hơn 40 chiếc còn nguyên vẹn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:33:32 am

        Vì đặt quá nhiều tin tưởng vào kế hoạch tử thủ của Thiệu, nên chỉ trước đây vài hôm, CIA ở Sài Gòn còn phái ra Phan Rang một cán bộ cỡ bự, tên là Lew James, có thể là để phục vụ cho một âm mưu lâu dài sau này. Khốn nỗi! Trò chết, thày cũng chìm theo. Trong số tù binh lôi từ đám ruộng mía ra, có cả 3 người: trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Sang và người Mỹ nói trên. Nghi và Sang đã nhanh trí vứt cả áo lính có đính sao, cố để giấu biệt tung tích; nhưng cái mũi lõ, và mái tóc quăn của Lew James, thì không viứt vào đâu được. Các chiến sĩ giải phóng đã cất được một mẻ lưới vô cùng đánh giá.

        Giao công tác tiếp quản lại cho địa phương, Binh đoàn lại tiếp tục dong ruổi. Hơn 12 tiếng đồng hồ sau, bộ phận đi đầu đã vào cách Phan Thiết 20 cây số. Hàng chục chiếc tàu chiến đã dàn sẵn dọc theo bờ biển, nã pháo, bắn chặn từ Vĩnh Hào vào đến Tuy Phong. Một trận đấu pháo lại diễn ra. Các đơn vị pháo 120 ly nòng dài và 130 ly lập tức hạ càng, chiến đấu. Chỉ mới mấy loạt đạn đầu khá chính xác, đã nhận chìm và bắn cháy 3 tàu. Đến Phan Thiết gần nửa đêm. Được địa phương cho biết có một số địch đang cụm lại ở ven sông. Để tranh thủ thời gian, ta tổ chức tiến công trong hành tiến. Đơn vị thiết giáp phái đi trước xông lên bắn mạnh vào các ổ đề kháng, nhanh chóng vượt qua cầu, chiếm hết các điểm quan trọng. Nhân dân cùng bộ đội tổ chức truy quét cho đến sáng hôm sau.

        Ngày 21 tháng 4, toàn bộ binh đoàn đã lần lượt vào tập kết ở Suối Cát, cách Xuân Lộc 15 cây số về phía bắc. Chưa kịp ăn uống gì, thì lại được lệnh phải quay lại giải phóng Hàm Tân. Địch ở đây là tàn quân của trung đoàn 40 và một số khá đông binh lính ở các đơn vị khác kéo về tổng số trên 5.000 tên. Suốt mấy ngày qua, bị lực lượng địa phương bao vây, kêu gọi, vẫn chưa chịu đầu hàng. Trước tình hình đó, sư đoàn 304 buộc phải phái ra trung đoàn 66, tiểu đoàn 5 thiết giáp và một tiểu đoàn lựu pháo để phối hợp. Biết có chủ lực ta đến, chỉ sau mấy loạt pháo bắn chuẩn bị, xe tăng và bộ binh xung phong lên, bọn địch đứa tháo chạy, đứa đầu hàng, 23 giờ ngày 22 tháng 4, ta đã hoàn toàn làm chủ thị trấn này.

        Trải qua 17 ngày đêm liên tục chiến đấu, với tốc độ đột phá trong hành tiến là 40 cây số ngày; tốc độ hành quân bình thường là 100 cây số ngày, qua 8 tỉnh, 18 thị xã, thị trấn, đánh 5 trận có hợp đồng binh chủng lớn, 3 trận đánh tàu, 9 trận đánh máy bay, cánh quân Duyên Hải đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Chỉ tính riêng sư đoàn cao xạ 673 của binh đoàn, trên chặng đường hành quân thần tốc này, đã đánh 36 trận, bắn rơi 11 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 2 tàu.

        Điều rất đáng mừng là số thương vong đã ít, mà trang bị hao hụt cũng chẳng có bao nhiêu. Toàn binh đoàn, từ cán bộ đến chiến sĩ, ai ai cũng cảm thấy lớn lên về nhiều mặt, vững tin ở sức chiến đấu của đơn vị, hăm hở chờ đón những nhiệm vụ nặng nề hơn trong những ngày sắp đến.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:34:41 am

Chương 20

SÓNG GIÓ BIỂN ĐÔNG

        Dưới con mắt của bọn thực dân Pháp trước kia, cũng như theo cách nhìn của Mỹ Thiệu ngày nay, những dảo và quần đảo trong vùng biển Việt Nam là những nơi từ bao đời nay nổi tiéng trên thiết giáp, không phải là nhở có rừng vàng, biển bạc, mà chủ yếu là vì có những nhà tù, những chuồng cọp hiếm thấy ở trần gian, như ở Phú Quốc, Côn Sơn…

        Những từng từng lớp lớp kẽm gai, những lô cốt bê tông cốt thép, tường cao, luỹ dày, tưởng như chưa đủ để ngăn chặn những cuộc vượt ngục, dẹp yên được những cuộc bạo loạn của tù nhân. Thiên nhiên là trở ngại lớn nhất đối với những ai mong mỏi thoát cảnh từ đày. Sóng gầm, gió rít, đã át hẳn tiếng hò hét đấu tranh, của những người mà thể xác đã bị đọa đầy đi đến chỗ chết dần chết mòn. Tường thành ở đây còn làm cho những người bị giam giữ, vốn đã bị cách ly, càng thêm cách ly với cái thế giới nhỏ bé bên ngoài: thị trấn Côn Sơn. Vì vậy trong ngôn ngữ Việt Nam, mỗi khi nói đến đảo, thông thường người ta liên tưởng ngay đến những nơi hoang vắn ở chân trời góc biển, đã đi đến đó là chẳng có ngày về.

        Chúng ta nhìn vấn đề hoàn toàn khác hẳn.

        Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! Đất nước yêu quý của ta được những vành đai đảo và quần đảo chở che, xếp thành hàng lá chắn, án ngữ trước mặt, làm cho thêm đẹp, thêm giàu. Chúng ta vô cùng biết ơn tổ tiên mình đã sớm xác định chủ quyền trên những đảo và quần đảo lớn nhỏ, rải rác từ Bạch Long Vĩ đến Hoàng Sa, Trường Sa, đến tận Côn Sơn, Phú Quốc, mở rộng phạm vi lãnh thổ, vừa làm cho thế đứng của ta trên biển Đông thêm vững vàng, vừa làm cho nền kinh tế thêm phong phú, đa dạng, hứa hẹn cho đất nước một tương lai hạnh phúc ấm no.

        Cũng tại nơi này, ý chí đấu tranh của con người Việt Nam đã từng được đưa ra thử thách và đã từng chiến thắng: bọn đế quốc với dã tâm muốn đưa những bậc tiền bối của chúng ta đến đây để biến họ thành những thân tàn ma dại, nhưng họ lại biến nơi này thành trường học, để tôi luyện ý chí đấu tranh, để sau này, quật lại quân thù.

        Ngày nay và những ngày sắp đến, cồn cao, sóng dữ chưa phải đã êm, thiên nhiên hãy còn khắc nghiệt, và người ngoài hãy còn dòm ngó, sỉa sói. Nhưng theo gương của ông cha thuở trước, chúng ta và con cháu chúng ta sau này, không bao giờ tơ hào của ai một tấc đất, nhưng cũng quyết giữ trọn lời tuyên bố nghìn năm thuở trước: Nam quốc sơn hà nam đế cư…

        Trên tinh thần ấy, trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Bộ Tổng tham mưu đã đi sâu nghiên cứu kế hoạch giải phóng các đảo và quần đảo, còn nằm trong tay đối phương.

        Có rất nhiều vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu:

        Trên mảnh đất miền Trung, họ đang tháo chạy, toàn bộ lục địa sớm muộn rồi cũng sẽ được giải phóng hoàn toàn, nhưng liệu họ có ngoan cố tới mức, liều chết bám chặt các đảo kia không? Lịch sử trên thế giới chẳng đã cho thấy những bọn phản động, sau khi bị tiêu diệt ở đất liền, còn dựa vào thế lực và ngoại bang, cố sống cố chết bám vào rẻo đất cuối cùng này, những hòn đảo xa xôi, để nuôi dưỡng giấc mộng phục thù, một ngày nào đó sẽ trở lại, khôi phục cơ đồ đó sao? Phương chi Mỹ đã từng rêu rao thành tích là đã xây dựng cho quân đội ngụy một lực lượng hải quân rất hùng hậu, đứng vào hàng thứ tư trong thế giới tự do. Trong giờ phút này, tuy lực quân đã bị tan tác, nhưng hải quân hãy còn gần như nguyên vẹn. Lại nữa, hạm đội 7, với bao nhiêu tàu chiến và cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, hết vào lại ra, liệu chúng có mượn cớ để bảo đảm an ninh và giở trò khiêu khích gì chăng? Trên mặt bể, ưu thế của Mỹ đã rõ ràng.

        Từ lâu, các nhà địa chất đã xác định một khu vực dầu khí có trữ lượng lớn đang nằm ngủ yên dưới thềm lục địa này. Nếu có đánh nhau giằng co ở đây, không khéo lại diễn ra cái trò cò nghêo co kéo trong chuyện ngụ ngôn để cho ngư ông tóm cổ cả đôi, hưởng lợi, vui mừng.

        Ngày 4 tháng 4 năm 1975, Trung tướng Lê Trọng Tấn, thay mặt Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân và Bộ tư lệnh Quân khu 5 phải bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất, giải phóng các đảo. Hành động phải hết sức kiên quyết. Tuyệt đối không được để bất cứ một lực lượng nào khác chiếm đảo trước ta. Đoàn 125 và 126 của hải quân thì chiếm các đảo xa, các lực lượng của quân khu giải phóng các đảo gần.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 10:41:14 pm

        Sau 5 ngày ráo riết chuẩn bị, ngày 10 tháng 4, 3 tàu rẽ sóng ra khơi! Bao nhiêu năm làm công tác vận tải, chi viện cho miền Nam, các tàu của đoàn 125 đều không mang số, thế mà lần này, đi đánh nhau, mỗi tàu lại mang một cái biển số to tướng: 673, 674 và 675.

        Trong công tác chi viện trước đó, ngoài kết quả lớn lao và thiết thực là ta đã được một số súng đạn, khá nhiều vào các chiến trường Nam Bộ, tạo điều kiện cho đồng bằng sông Cửu Long nổi sóng, còn có tác dụng là đào tạo cho hải quân Việt Nam một đội ngũ khá đông trưởng tàu và thuỷ thủ. Mỗi lần đi là một lần thử thách, nâng cao thêm bản lĩnh chỉ huy trong cách xử trí, đối phó với những tình huống vô cùng phức tạp diễn ra trên biển, đồng thời cũng là một dịp để rèn luyện nghiệp vụ hàng hải cho toàn đoàn.

        Các cán bộ và chiến sĩ hải quân đã có dịp làm quen với quần đảo Trường Sa, với các đảo Song Tử Tây, Vĩnh Viễn, Sơn Ca, Nam Yết, An Bang, Trường Sa v.v… trên bản đồ hàng hải của Mỹ, cả vùng biển này đều nằm trong “khu vực nguy hiểm” vì có rất nhiều đá ngầm, gió bão lại bất thường. Rải rác đó đây, xác một chiếc tàu bị mắc cạn tự bao giờ, nằm nghếch mũi lên, phơi xác trên bãi san hô giữa đại dương mênh mông, như nhắc nhủ những người gan góc nhất chớ có liều lĩnh, bén mảng đến nơi này. Hạm đội 7 của Mỹ, dù có hiện đại đến mấy, cũng phải kiêng nể những vật chướng ngại thiên nhiên, mọc ngầm dưới nước. Phát hiện được chỗ nhược điểm này của đối phương theo chỉ thị của đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Võ Nguyên Giáp, ta đã nhanh chóng tổ chức những nơi này thành những kho trung chuyển hàng hóa tuyệt vời: vừa thuận tiện, lại vừa bí mật. Đi lại nhiều lần, cán bộ và chiến sĩ của các đoàn 125, 371 thuộc lòng vùng biển; đá ngầm, bãi san hô không còn là vật chướng ngại nguy hiểm nữa, ngược lại nó trở thành những vật che chở, bảo đảm cho công tác được an toàn. Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch cùng với các thuỷ thủ từng trải của anh trở lại Trường Sa như về quê hương Cái Nước Năm Căn. Từng động cát, từng bụi cây, từng tảng đá, đều đã quen thuộc quá rồi.

        Biết được khả năng này của đơn vị bạn, trung tá Mai Năng, người chỉ huy trận đánh đặc biệt sắp đến, rất yên lòng về mặt hàng hải, nhưng không phải đã hết băn khoăn. Gần một tuần lễ nay, từ khi nhận nhiệm vụ, đêm ngày làm công tác chuẩn bị, từ người chỉ huy đến chiến sĩ, ai nấy cũng đều hồi hộp lo âu: trận chiến đấu sẽ diễn ra như thế nào? Đánh chiếm một mục tiêu là một hòn đảo, thì dùng chiến thuật gì? Bí mật tiếp cận, bí mật đổ bộ, rồi dùng chiến thuật đánh công sự vững chắc như xưa nay ta đã từng làm, hay là dùng pháo bắn chuẩn bị, bắn phá hoại, diệt cho kỳ hết các ổ đề kháng, rồi nhảy lên xung phong chiếm lĩnh? Là một đơn vị có nhiều kinh nghiệm tác chiến trên biển nhưng nhiệm vụ tác chiến theo kiểu này, kinh nghiệm hãy còn ít.

        Trước giờ xuất phát, thiếu tướng Hải quân Nguyễn Bá Phát, trong lúc giao nhiệm vụ và động viên anh em, đã không quên nhắc nhở, phải tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe cho tốt, để dành sức cho những trận chiến đấu sắp đến. Trời không trăng nhưng đầy sao, người chiến sĩ hải quân nắm chặt tay lái, ra khơi lòng đầy haâ hoan tin tưởng. Tiếng máy tàu, tiếng sóng rẽ nước trước mũi tàu vang lên đều đều giữa đêm khuya. Nhìn về phía tây, bóng núi nhoà dần giữa màn đêm. Ánh điện của thành phố, lúc này hãy còn là một vệt trắng, cũng nhạt dần dưới chân trời.

        Qua ngày đầu hành quân, sóng yên biển lặng. Các chiến sĩ của đoàn 126, khi ở dưới nước thì vùng vẫy như cá kình, nhưng chưa quen đi tầu biển dài ngày nên sức khỏe hơi xuống. Đến nửa đêm 12 tháng 4, khi đến gần hạm đội 7, một chiếc máy bay lướt qua đội hình, lượn hai vòng, và bắn một loạt pháo sáng trước mũi tàu. Báo động toàn đoàn. Các chiến sĩ bật người dậy, lao vào các ụ súng. Xin chỉ thị cấp trên, được Bộ tư lệnh khu 5 trả lời tức khắc: “Kiên quyết đánh bất cứ ai”. Đây chẳng qua là một thủ đoạn răn đe, dọa dẫm, thử thách tinh thần nhau thôi, chứ đến lúc này, sự can thiệp của Mỹ đã chấm dứt rồi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 10:43:52 pm

        Sáng hôm sau, gặp sự cố mới: cái giá đòn gánh xu-páp của tàu 674 gẫy, tốc độ chậm lại. Lệnh của trên: “Tàu 673 của chỉ huy trưởng Mai Năng bứt lên trước, nhanh chóng chiếm cho được đảo Song Tử Tây để làm bàn đạp, sau đó sẽ phát triển xuống phía nam chiếm Sơn Ca, Nam Yết”. Vừa lúc ấy, tin kỹ thuật cho biết: một tàu lạ đang trên đường ra đảo. Một cuộc chạy đua từ hai hướng cùng lao đến một mục tiêu đang diễn ra trên mặt biển Đông. Mờ sáng, tàu 673 chỉ còn cách đảo 10 hải lý. Qua ống nhòm có bội số lớn, phát hiện có bóng người đi lại trên đảo: lá cờ vàng, ba sọc đỏ vẫn còn phấp phới bay. Địch chưa tháo chạy, chúng đang chờ lệnh. Dự kiến trận đánh sẽ gay go, quyết liệt. Trong lúc chờ đợi tàu 674, trung tá Mai Năng cho tàu mình chạy một vòng quanh đảo, để tìm hiểu thêm tình hình: phía bắc Song Tử Đông có một tàu đang mắc cạn; phía nam một tàu khác đang neo. Thì ra, không phải chỉ có quân đội ngụy Sài Gòn mà cả quân đội Philippin trên đảo Song Tử Đông cũng báo động đề phòng.

        Kết hợp những điều đã phát hiện về phía địch trong ngày của Mai Năng và sự hiểu biết về địa hình của Dương Tấn Kịch, kế hoạch tiến công được vạch ra nhanh chóng.

        Càng về khuya, gió càng lạnh. Đến 1 giờ ngày 14, sóng đã đến cấp 4. Chung quanh đảo, bọt bể trắng xoá và lân tinh sáng ngời. Mũi chính do đồng chí Huống và trung uý Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy, bị dạt ra khỏi nơi quy định khá xa; thuyền chi viện của hoả lực bị chìm khi đến gần bờ, vì va phải đá ngầm. Pháo sáng trên đảo bắn liên tục. Địch bắn rất rát trong vòng 30 phút. Vừa động viên nhau, giữ vững quyết tâm, vừa vận dụng kinh nghiệm chiến đấu cũ, bất chấp cồn cao sóng dữ, cuối cùng các mũi đều áp sát được mục tiêu. Trận chiến đấu bắt đầu lúc 4 giờ 30 ngày 14 tháng 4 kết thúc nhanh chóng trong vòng 30 phút. Bấy giờ cũng là lúc thấy xuất hiện một tàu của hải quân ngụy vừa ra đến nơi neo cách đảo không xa. Trâu chậm uống nước đục! Lá cờ nửa đỏ nửa xanh vừa được kéo lên đỉnh cột giữa, đang phấp phới tung bay.

        Các đơn vị khẩn trương điều chỉnh lại cách bố trí tổ chức mạng thông tin liên lạc, tranh thủ xây đắp tạm công sự; để củng cố dần dần thành bàn đạp vững chắc, dựa vào đó để sau này sẽ giải phóng tất cả các đảo còn lại.

        Sau ngày 30 tháng 4, tại bộ tư lệnh hải quân Cộng hoà Việt Nam trên đường Bạch Đằng, ta bắt được một quyển “nhật ký chiến sự”, có ghi lại tình hình trên mặt biển, những ngày sau khi mất đảo Song Tử Tây:

        “Ngày 14 tháng 4-tàu HQ 402 được lệnh khởi hành từ Vũng Tàu đi Trường Sa, rồi thẳng ra luôn Song Tử Tây để nắm tình hình và báo cáo về vì sao mất liên lạc.

        Ngày 15 tháng 4 phát hiện thấy hai tàu lạ ở gần đảo Sơn Ca. Lệnh cho các nơi, đặc biệt đảo Nam Yết phải chuẩn bị chiến đấu, đồng thời lệnh cho HQ 16 ra ngay Song Tử Tây, dùng vận tốc tối đa, nhanh chóng bắt liên lạc với HQ 402.

        Ngày 16 tháng 4, các tàu từ Cam Ranh trở vào phải yểm hộ cho Phan Rang, trong lúc ba khu trục Mỹ sẵn sàng ở Đông Phan Thiết.

        Ngày 17 tháng 4, HQ 402 báo cáo xác minh là Song Tử Tây đã bị chiếm. Hải quân đang tìm cách đổ bộ để lấy lại nhưng không được vì lực lượng ít, lên thì rất nguy hiểm, nên đã rút về Nam Yết lúc 20 giờ”.

        Cũng theo nhật ký này ghi lại, suốt cả mấy ngày sau đó, tình hình trên đảo Nam Yết rất căng thẳng. Vài ba chiếc tàu lạ thả xuống tiếp cận. Địch trên đảo phải bắn suốt cả đêm, tàu lạ mới chịu lùi ra xa.

        Ngày 24 tháng 4, họ nhận định: “Với sự xuất hiện nhiều tàu lạ trong khu vực Nam Yết-Sơn Ca, tàu HQ 17 yêu cầu xét đến việc rút khỏi các đảo này, vì không có khả năng đương đầu với những cuộc tiến công lớn sắp đến. Hạm trưởng ốm suốt mấy ngày liền, không ăn uống gì được, kỹ thuật kém, rada của HQ 14 hỏng, nếu không cho rút, có thể mất cả người lẫn tàu. Nếu quyết định giữ Nam Yết thì cần ba tuần dương hạm có đủ tiếp tế, đủ bác sĩ có khả năng giải phẫu và có đủ máy bay yểm trợ cho tàu”.

        Có được một bàn đạp vững chắc như Song Tử Tây, ngày 21 tháng 4, ta phát động tiến công đợt hai, giải phóng toàn bộ số đảo còn lại. Một tuần sau nhiệm vụ này mới hoàn thành.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 10:49:36 pm

Chương 21

CHẬP CHỜN

        Những dải rừng nhiệt đới ở cuối dãy Trường Sơn trải rộng về phía nam, nối liền với những khu rừng cao su bạt ngàn, kéo dài đến sát bờ sông Đồng Nai. Địa hình trên phía tây và nam thành phố thì khác hẳn. Loại trừ khu Vĩnh Lộc hơi cao ráo một chút, còn lại là sông rạch, bưng sình. “Hòn ngọc Viễn Đông” được những con sông lớn viền lấy bốn chung quanh, như những vòng hào quanh đem lại cho thành phố bầu không khí trong lành mát mẻ, dòng nước ngọt tưới khắp nơi làm cho vành đai ven đô thêm mầu mỡ, bốn màu cây xanh tươi, nặng trĩu hoa thơm quả ngọt nổi tiếng khắp cả nước, với măng cụt ở Lái Thiêu, với bưởi Biên Hoà…

        Cái tên “hòn ngọc Viên Đông” đã có từ thời thực dân Pháp, chỉ nói lên được sự hấp dẫn của một thành phố vừa đẹp, vừa giầu. Với những người Việt Nam chúng ta, cái tên ấy rõ ràng là chưa đủ. Tuy Sài Gòn-Gia Định, không có lịch sử gần 1000 năm như Hà Nội, với những tên làm rạo rực lòng người như Thăng Long, Đông Đô, nhưng bước vào thế kỷ 20, không ai còn lạ gì với bến Nhà Rồng, nơi Bác cất chân ra đi tìm cách mạng, mười tám thôn Vườn Trầu, Bà Điểm, Bàn Cơ. Những dòng máu của các bậc cha anh tưới trên mảnh đất này đã viết lên những trang sử vẻ vang trong cuộc đấu tranh một mất một còn với chủ nghĩa thực dân cũ. Có lẽ vì thế, mà người Việt Nam chúng ta đã dành riêng cho thành phố này cái vinh dự được mang tên đẹp nhất: thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc trên toàn đất nước Việt Nam, núi rừng đang chuyển động, cả dân tộc hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, nhất tề xông lên, dốc toàn lực cho trận quyết chiến cuối cùng với khí thế triều dâng thác đổ, thì ở Sài Gòn-Gia Định, đối phương, một mặt gấp rút co về phòng thủ theo kế hoạch mới nhất, mặt khác, lo tháo gỡ ngòi nổ chỗ này, luồn luỵ nơi khác, hòng cứ vãn tình hình.

        Sau những thất bại liên tiếp ở quân khu 1 và 2 và gần đấy nhất, sau các trận Xuân Lộc, Tân An, lực lượng trong khu vực Sài Gòn-Gia Định còn lại cũng khá đông: hơn 15 vạn quân chủ lực, hơn 9 vạn quân địa phương, trên nửa triệu dân vệ, biên chế thành 6 sư đoàn và 5 trung đoàn chủ lực bằng 80 tiểu đoàn, 40 đại đội và gần 1.000 trung đội dân vệ, trên 400 khẩu pháo, 600 xe tăng, 800 máy bay và ngót 1.000 tàu chiến. Lực lượng cảnh sát ác ôn ở các nơi chạy về còn trên 10 vạn. Đấy là chưa tính đến trên 17 vạn chủ lực và địa phương, một số khá nhiều binh quân chủng ở vùng 4, tuy có bị đánh, nhưng chưa bị sứt mẻ nhiều, và còn có khả năng đôn quân bắt lính.

        Vì vậy, cho đến trung tuần tháng 4 năm 1975, trong số chóp bu của ngụy quyền Sài Gòn, trong toà đại sứ Mỹ, còn có nhiều kẻ đinh ninh rằng chế độ còn có thể ngoắc ngoải kéo dài đến mùa mưa, và lối thoát cuối đường hầm sẽ là một cái bàn tròn có phủ thảm xanh.

        Để thực hiện ý đồ chiến lược này, tiếp đến việc phân chia lại giới tuyến chiến đấu như đã nói trên, kế hoạch phòng thủ được điều chỉnh lại như sau:

        Sư đoàn 18 co về phụ trách Bầu Cá, Trảng Bom, Suối Đỉa.

        Sư đoàn thuỷ quân lục chiến về Long Bình; lữ 3 kỵ binh làm dự bị đứng ở Gò Vấp, Lái Thiêu.

        Sư đoàn 25 và mấy trung đoàn vẫn còn nằm chết cứng ở Tây Ninh.

        Sát ven đô, do một lữ đoàn dù, sư đoàn biệt động quân mới thành lập và lực lượng tại chỗ trấn giữ, tổ chức thành 4 khu vực phòng thủ:

        Khu bắc bao gồm Hóc Môn-Cầu Bông trở vào Tân Sơn Nhất thì do tiểu đoàn 9 biệt động quân và trung tâm huấn luyện Quang Trung phụ trách.

        Khu tây gồm Vĩnh Lộc, Châu Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh trở vào do hai liên đoàn biệt động quân số 7, số 8 và liên đoàn bảo an 239 phụ trách.

        Khu dông Gò Vấp-quận 9 thì do lữ đoàn 4 dù và liên đoàn 951 bảo an phụ trách.

        Khu nam gồm Nhà Bè, Nhơn Trạch thì giao cho lực lượng bảo an.

        Nội đô tổ chứ thành 5 liên khu, mỗi liên khu có 2 quận: 1 và 3, 2 và 4, 6 và 7, 10 và 11, tất cả đều do lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự đảm nhiệm. Đây là lực lượng chính để chống xâm nhập và nổi dậy. Những nơi quan trọng vẫn giữ hình thức yếu khu như Nhà Bè, Tân Sơn Nhất, Bình Phước, Bộ Tổng tham mưu, Cát Lái. Riêng dinh tổng thống coi như một cứ điểm độc lập, có một bộ phận liên đoàn an ninh thủ đô phụ trách, được tăng cường thêm 1 lữ đoàn dù.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 10:51:33 pm

        Vẫn còn chưa được an tâm vì không còn một tên quân dự bị nào nữa, Thiệu quyết định thành lập thêm lực lượng tại chỗ: ở ngoại thành, tổ chức cấp tốc 8 đại đội địa phương cho các quận, còn bên trong mỗi khóm xây dựng 1 trung đội nghĩa quân, tổng số lên đến 300 trung đội.

        Âm mưu cơ bản của Thiệu là cố kéo dài cuộc chiến tranh trong vòng một tháng nữa thôi, nên có bao nhiêu vốn liếng trong tay đều dàn cả lên tuyến 1, dựa vào các cụm chốt của Mỹ để lại: Đồng Dù, Lai Khê, Biên Hoà, Long Bình. Đằng sau tấm lá chắn ấy, từ ngoại ô trở vào đến trung tâm thành phố thì giao cho lực lượng chống nổi loạn. Đời xưa có người đưa quân ra ngăn chặn địch, bố trí trận địa quay lưng về sông sâu. Lý lẽ là: đưa quân sĩ đứng trước cái chết để chúng tìm ra lẽ sống. Thì ra, cuối thế kỷ 20 này, mà Mỹ-Thiệu cũng đem ra vận dụng kinh nghiệm của thời xa xưa ấy. Những cụm chốt Mỹ rất cứng, rất mạnh, chung quanh Sài Gòn, đều xoay lưng về những con sông lớn. Nếu dùng để làm bàn đạp đi tiến công, đi tìm diệt, thì rất thuận lợi; nhưng để tử thủ cho Sài Gòn-Gia Định thì thật là trái khoáy; nhất là binh lính chốt giữ lại là những người sẵn đã mất tinh thần. Những chướng ngại vật thiên nhiên vô cùng quý giá cho công tác phòng thủ lại chẳng kết hợp được tí gì với hoả lực và tác dụng của những chiếc cầu lớn trên sông, làm cho số lính bại trận rộng đường tháo chạy hơn là để phản kích, phản công. Có thể là lúc bấy giờ, thì không cho phép để nghiên cứu kỹ về mặc quân sự, nên cả thầy lẫn trò quên khuấy những nguyên tắc cơ bản của chiến đấu phòng ngự chăng?

        Quân sự thì thế, dường như người ta đổ xô vào mặt chính trị. Với toàn bộ vốn liếng còn lại, những tay đầu cơ chính trị lại được dịp thi thố tài năng. Người ta thấy xuất hiện ở Sài Gòn thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, nói là mới ở Pháp về. Đôn rêu rao là có gặp cả thủ tướng J.Sirac. Ông này cho Đôn biết là Bắc Việt đã chấp thuận giải pháp, và Đôn có thể thay Thiệu. Công việc phải giải quyết xong đâu đấy trong vòng 8 ngày thông qua vai trò trung gian của Pháp.

        Lịch sử quá trớ trêu: 20 năm về trước, Mỹ hất cẳng Pháp nhẹ nhàng và tàn nhẫn, thế mà gìơ đây, giữa lúc canh bạc đang tàn, người ta bỗng thấy quan hệ giữa hai vị đại sứ trở nên khăng khít lạ thường. Martin còn có sáng kiến cho phá hẳn bức tường ngắn cách hai sứ quán để hai bên qua lại dễ dàng. Hơn nữa để đỡ lộ bí mật, một đường dây điện thoại trực tiếp được nối liền hai phòng của hai vị đại sứ, càng tiện cho việc trao đổi với nhau về những vấn đề trọng đại giữa hai quốc gia.

        Những cuộc trao đổi ý kiến giữa hai vị đại sứ, dù có bưng bít đến đâu, cũng bị lọt ra ngoài và Thiệu đã đánh hơi biết được. Lập tức Thiệu ra lệnh đình chỉ ngay mọi sự tiếp xúc với đại sứ quán Pháp.

        Ngồi trong Nhà Trắng, Ford nói cứng. Ông ta cố xin cho được 722 triệu đô la viện trợ quân sự và 250 triệu đô la viện trợ kinh tế khẩn cấp. Theo ông ta, số tiền đó là cần thiết để Sài Gòn có cơ hội tự cứu, và tranh thủ thời gian cho giải pháp chính trị. So với Ford, Kissinger còn hăng hái hơn nhiều. Ngày 8 tháng 4, chính Kissinger lại một lần nữa đề nghị quốc hội đưa quân Mỹ sang để bảo vệ những người di tản; đồng thời tăng thêm viện trợ quân sự cho Thiệu. Được mớm lời, trong số đại biểu quốc hội đã có người lên tiếng đòi cho đổ bộ lên bờ biển Việt Nam vài sư đoàn để cứu các công dân Mỹ.

        Cho đến giờ phút này, Kissinger còn lớn tiếng kêu gào với quốc hội Mỹ: “Tôi nghĩ rằng người Việt Nam có thể th được các điều khoản của Hiệp định Paris quy định, có một hội đồng hoà giải, hoà hợp dân tộc”. Wayand thì khẳng định: Nếu không có viện trợ thì Nam Việt Nam sẽ sụp đổ trong vòng một tháng. Cần phải có một vài thay đổi chính phủ, mở rộng ra nội các, cho một số phần tử ôn hoà vào.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 10:52:06 pm

        Chỉ có một số người thật sự miễn dịch với tình hình: Đó là quốc hội Mỹ. Họ bỏ qua những lời kêu gào của Ford, Kissinger, Martin. Như trong nhiều vấn đề khác, Ford chỉ biết có tiền và sức mạnh, ông ta khăng khăng đòi quốc hội khẳng định lại cho ông ta quyền dùng lực lượng quân sự, trong trường hợp có cuộc di tản đại quy mô. Ford nói: “Nếu có chuyện gì hết sức tệ hải xảy ra, thì sự rộng lượng này, ít ra cũng cho phép tiến hành một cuộc di tản có trật tự những người Mỹ và những người Việt Nam lâm nguy, mà con số này đông có tới hàng vạn người”. Kissinger không hoàn toàn như vậy. Ông ta cho là việc rút người Mỹ ra khỏi Việt Nam là không cần thiết, mà còn làm yếu thêm cho thế đứng của Thiệu. Kissinger nói: “Chớ có làm một việc gì để cho thế giới thấy rằng Mỹ không ủng hộ Thiệu”. Martin thì già trái mà non hạt, bề ngoài làm ra vẻ ít quan tâm đến vấn đề này trong lúc những người Mỹ xung quanh lo sốt vó. Kinh nghiệm khá chua xót gần đây nhất, ở Plây Cu, Đà Nẵng, Nha Trang là sau khi người Mỹ vừa rút đến đâu, thì ở đấy, các cấp chính quyền cũng theo chân thầy, sụp đổ ngay. Thậm chí cũng đã có kẻ xấu bụng còn cho rằng, những người Mỹ yếu bóng vía kia, chính là những kẻ đầu têu cho việc tháo chạy. Nếu ở Sài Gòn, vạn nhất có vấn đề như vậy xảy ra thì còn biết chạy vào đâu? Cho nên, Martin thấy cần phải tỏ rõ cho mọi người biết là Mỹ quyết tâm giữ Sài Gòn, giữ Thiệu đến cùng. Ai lại đại sứ vừa mới chân ướt chân ráo sang đây, mà bắt phải xông vào giải quyết cái vấn đề di tản hóc búa này, thì có khác gì tát vào mặt ông ta; hóa ra sang đây lần này, là để lo chuyện trốn sao? Lại còn một khía cạnh nữa, Martin cũng đã có nghĩ đến nhưng chưa dám hé răng: sự cứng nhắc của quốc hội, có thể làm cho nhiều người Việt Nam thất vọng, sự phản bội của người Mỹ sẽ làm cho họ tức giận, và biết đâu, chính những người mà Mỹ đã bỏ công, bỏ của ra nuôi dưỡng, dạy dỗ bấy lâu nay, lại không quay ngoắt một trăm tám mươi độ, lấy bạn làm thù, lấy sinh mệnh của hàng vạn người Mỹ hiện còn đang sống trên phần còn lại trên đất nước Việt Nam này để làm con tin, hoặc chí ít lấy sinh mạng của họ để đánh đổi mấy trăm triệu đô la viện trợ? Martin còn lạ gì bản chất của những người như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, đầy rẫy trong chính quyền Thiệu? Lý lẽ, nghìa tình gì nữa, trong giờ phút nước sôi lửa bỏng này?

        Trong lúc đại sứ vẻ bề ngoài cố thản nhiên như không thì cả hai cơ quan tình báo trung ương mỹ CIA và DIA tìm đủ mọi cách để đưa người ra đi. Họ ít quan tâm đến việc Thiệu đổ hay còn, vì qua tin tức nắm trong tay, họ thừa biết rằng giờ cáo chung của Thiệu đã điểm-mà tập trung vào việc tính toán đến con đường làm ăn lâu dài sau này, trên một đất nước Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng và thống nhất. Từ ngày 2 tháng 4, Washington đã tổ chức một chiến dịch di tản: 2.000 trẻ em tỵ nạn được tung ra khắp thế giới để tranh thủ cảm tình, kích động dư luận. Cũng không ai buồn tra khảo, lật tẩy cái trò lừa bịp này làm gì. Chủ trương này rất phù hợp với chủ trương của DAO. Đây là một dịp để họ đưa bớt người đi khỏi Sài Gòn một cách hợp pháp, tất nhiên là qua mặt Martin. Nửa giờ sau khi có thông báo, các bà vợ, nhân viên và thư ký của DAO lên đường, gọi là đi phục vụ cho những đứa trẻ đầu tiên được hưởng ân huệ của Hoa Kỳ. Chiếc máy bay C5A-Galaxi của không quân Mỹ, loại máy bay vận tải lớn nhất thế giưới, mấy ngày gần đây, chuyên dùng để chở dịch vụ chiến tranh đến Sài Gòn, trên đường trở về Philippin mang theo 250 “em tỵ nạn” và 44 nhân viên. Sau khi rời khỏi Sài Gòn 30 phút, chiếc đèn đỏ bên cạnh bảng điều khiển nhấp nháy, báo hiệu có trục trặc về kỹ thuật, xin quay trở lại Tân Sơn Nhất. Lúc sắp hạ cánh, một tiếng nổ làm rung chuyển máy bay, phần bụng tung mất, tạo ra một áp suất thấp trong khoang hành khách. Cánh cửa bật mở, người bắn ra ngoài. Máy bay trượt ra khỏi đường băng. “Toán trẻ em giống như những mảng giẻ rách nhũn trong tay chúng tôi” một nhân viên y tế cấp cứu kể lại như thế đấy.

        Để được nhẹ tội, dồn trách nhiệm lên đầu người khác, ông đại sứ làm ra vẻ giận dữ và tuyên bố vuốt đuôi một câu “trách nhiệm thuộc về cơ quan DAO. Họ đã bí mật tổ chức cuộc di tản này, không hề báo cáo cho tôi biết. Nếu được báo cáo đầy đủ, chắc chắn là số gần 300 sinh mệnh kia đã được cứu sống rồi”.

        Có phải đâu vì lòng nhân đạo, để tránh những cuộc tắm máu tưởng tượng mà Mỹ bày ra trò di tản này. Gần 300 em bé mồ côi kia đã làm gì nên tội mà phải chịu cảnh tắm máu, trả thù? Thực ra, đây chỉ là những em bé đáng thương ở các trại mồ côi, còn các nhân viên phục vụ thì chẳng ai khác là vợ con, nhân tình, nhân ngãi của những người Mỹ trong cơ quan DAO mà thôi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:09:21 am

        Không biết từ đâu ra, Trần Văn Đôn lại còn đưa ra những tin tức làm cho Martin càng thêm do dự, ngập ngừng:

        “Cộng sản sẽ không can thiệp vào việc di tản người Việt Nam được lựa chọn và Mỹ có thể duy trì một sứ quan nhỏ ở Sài Gòn, nghĩa là những người Mỹ chính thức phải rút lui”.

        Dù điều đó có thật đi chăng nữa, thì ai cũng hiểu một cách nôm na là “ngụy phải nhào, Mỹ phải cút”. Nhưng đại sứ Martin thì cố tìm hiểu ra một cách khác. Ông ta tập trung các chuyên gia để nghiên cứu các ý định của Chính phủ cách mạng lâm thời khi nói đến những người Mỹ chính thức. Những người ấy là ai? Có phải là những người muốn lưu lại trên đất này trong cái toà đại sứ đồ sộ kia với một nhóm CIA, và gọi đó là dân thường, không hề có dính dấp gì đến cuộc chiến tranh bẩn thỉu này ư? Kissinger lại phái người đi thăm dò hoà bình nhưng chẳng đem lại kết quả gì. Gạo đã thành cơm rồi.

        Ngày 16 tháng 4, được hiểu rõ thêm một chi tiết: các lực lượng giải phóng sẽ bảo đảm việc rút lui an toàn và tức khắc các cố vấn Mỹ. Chính phủ cách mạng còn tuyên bố với các phóng viên New York thời báo: “Sẽ không cản trở nếu Mỹ rút hai vạn rưởi cố vấn quân sự ở Sài Gòn”. Chẳng cần phải hỏi lại cho lôi thôi, nhất định là Martin phải có trong số người này rồi.

        Số phận người Mỹ như thế là đã quá rõ, còn đối với những người Việt thì sao? Trong kế hoạch chính thức chọn người di tản, người Mỹ có đề ra các thỉ tiêu cụ thể, theo tứ tự ưu tiên, và có tính toán rất kỹ càng.

        Trước tiên là những nhân viên làm việc cho Mỹ, với mục đích là giữ bí mật cho Mỹ, để bịt các đầu mối sau này. Tiếp đến là chất xám những nhân viên kỹ thuật của các ngành không quân, hải quân, điện tử, bác sĩ, kỹ sư các ngành. Đứng vào hàng thứ ba là các tổng, bộ trưởng đã từng cộng tác với Mỹ, và đã cầm trong tay một số tài nguyên “tiền bạc, châu báu”, gửi ở các ngân hàng ngoại quốc rồi. Để Mỹ nắm được toàn bộ của cải nói trên, những người chủ của nó bắt buộc phải nhập quốc tịch Mỹ. Cuối cùng là các chuyên gia giàu có, lắm vàng, lắm đô la.

        Lý do nhân đạo, bảo vệ nhân quyền, không giấu nổi dã tâm của những người thực dụng. Những chỉ tiêu lựa chọn nói trên càng phơi bày bản chất thực dân. Lẽ ra thì những người đáng di tản nhất là những nạn nhân của cuộc chiến tranh bẩn thỉu mà Mỹ đã gây ra, những người mang tật nguyền suốt đời vì chất độc da cam, những thương phế binh, những vợ góa, con côi, những đứa bé mang trong người nửa phần máu Mỹ, những người mà Mỹ cầm chắc rằng suốt đời sống này sẽ rất chật vật, bấp bênh, do chính Mỹ gây ra.

        Những ai đã nắm được những bí mật trong các vấn đề kỹ thuật của Mỹ, chưa hẳn đã được trọng dụng, xem như là của quý của Hoa Kỳ. Câu chuyện sau đây xảy ra ở Cần Thơ, sẽ giúp chúng ta càng hiểu rõ thêm người Mỹ hơn.

        Tuỳ viên quân sự Mỹ Xoen Xơn và phụ tá của ông ta là Mít-sen đã nhiều lần bí mật bay đến sân bay Bình Thuỷ để họp với chỉ huy trưởng sư đoàn 4 không quân. Nội dung các cuộc họp đều hết sức giữ bí mật. Chính Nguyễn Văn Thiệu cũng không biết, mà Nguyễn Khoa Nam ở ngay đấy cũng không hay. Bọn này vạch ra một kế hoạch di tản máy bay như sau:

        - A37 sẽ bay từ Bình Thuỷ đi Utapao, nhờ có đủ xăng dầu bay được xa.

        - L.19 sẽ bay từ Bình Thuỷ-An Thới-Utapao

        - Trực trăng: Bình Thuỷ-Utapao

        An Thới là một sân bay nhỏ trên đảo Phú Quốc, sẽ có một đơn vị thuỷ quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên chiếm trước nơi này, để bảo đảm cho phi cơ hạ cánh, tiếp tế xăng dầu.

        Biết được có một số tướng tá không quân ngụy thắc mắc, vì đã trót đưa gia đình từ Cần Thơ về Sài Gòn để đi Guam từ mấy hôm trước, Mít-sen hỏi Xoen Xơn:

        - Đối với những người này, sau khi đến An Thới, nếu không được đi Guam để gặp gia đình, họ sẽ nổi loạn.

        - Việc gặp lại vợ con hay không, sẽ không còn là thẩm quyền của họ nữa. Trường hợp đến An Thới mà nổi loạn thì sẽ cho trực thăng bao vây, bắn phá, không cho cuộc nổi loạn lan rộng ra ngoài, rồi dùng A37 ném bom phá huỷ tất cả mọi dấu vết.

        Trong các trận Bầu bàng, Bông Trang, Nhà Đỏ trước đây, sau khi bộ binh Mỹ tháo chạy, để lại chiến trường nhiềy thương binh, tử sĩ. Cách xử tri của Mỹ cũng gần như thế đấy: dùng máy bay bắn phá, rải xăng đối cháy sạch, rồi dùng máy bay lấp ủi tất cả mọi dấu vết.

        Nhanh, gọn hết chỗ nói! Nhưng rất vô nhân đạo.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:12:42 am

Chương 22

NGHE CHIM TU HÚ GỌI

        Cho đến giữa tháng 4 năm 1975, khi các đơn vị chưa đến đầy đủ, lực lượng ta trên chiến trường miền Đông Nam Bộ vẫn chưa có ưu thế hơn đối phương. Sư đoàn 10 của binh đoàn Tây Nguyên đang phải đi vòng cao nguyên Lạng Biện. Đường hành quân xa xôi, mà không được tổ chức gì bảo đảm: đường sá, cầu cống, vượt sông, đều phải tự lo lấy. Lương thực, xăng dầu chẳng cơ quan nào, địa phương nào cấp phát. Trên cơ quan tham mưu chiến dịch, hàng ngày, vẫn có nhận được báo cáo đều đặn, vẽ lên bản đồ toàn bộ đội hình hành quân của sư đoàn, đơn vị ở đâu, tưởng như là nắm chắc lắm. Nhưng giá trên có hỏi bao giờ đến vị trí tập kết, có khó khăn gì cần phải giải quyết dọc đường, v.v… thì cũng chỉ có thể báo cáo một cách chung chung, phán đoán trên bản đồ, trên cảm tính mà thôi. Với Quân đoàn Quyết Thắng, thì cũng gần như vậy thôi. Chỉ biết được ngày xuất phát; được tin đang đi vào theo đường quốc lộ 1, thì lại nghe báo cáo chuyển trục hành quân từ đông sang tây, nhưng có đơn vị thì lại từ tây sang đông. Với Quân đoàn Hương Giang thì theo dõi được chặt chẽ hơn, nhưng lại còn biết bao nhiêu điều gì sẽ xảy ra: vượt qua mấy cái chốt ở Phan Rang, Phan Thiết thế nào? Liệu có đến được miền Đông Nam Bộ theo thời gian quy định hay không? Tình hình trong vùng 3, nhất là chung quanh Sài Gòn-Gia Định cũng thay đổi từng ngày một lực lượng vũ trang của thành, các đoàn đặc công, các đơn vị tự vệ, kết hợp chặt chẽ với lực lượng chính trị diệt nhiều đồn bốt ở Củ Chi-Hóc Môn-Bình Chánh-Thủ Đức, La Thành, Nhơn Trạch; thậm chí còn tập kích vào trạm kiểm soát Sa Cảng, Phú Lâm; trạm tuyển lính ở ngã tư Bảy Hiền. Việc giải phóng 7 xã gần hai vạn dân ở ngay cửa ô Sài Gòn đã tạo ra những bàn đạp vô cùng thuận lợi cho các đơn vị chủ lực của thành và lực lượng đặc công, biệt động.

        Trong lúc cơ quan tham mưu làm việc tất bật, thì việc chuẩn bị đòn nổi dậy cũng nhộn nhịp khác thường. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh và các đồng chí trong thành Sài Gòn-Gia Định, hàng nghìn đoàn viên, đảng viên với hơn 2 vạn rưởi quần chúng, đã xây dựng được 40 lõm chính trị ngay trong nội thành, đồng thời tạo ra được những hành lang nối liền với các bàn đạp ở ngoại ô. Nhờ đó mà phong trào phát triển rất nhanh, lực lượng chính trị chỉ trong một thời gian ngắn, đã lớn lên gấp 5, 7 lần; tinh thần quần chúng càng lên cao, thì tinh thần đối phương càng hoang mang, dao động dữ. Ngày lại ngày, ngày sau cao hơn ngày trước, cứ cuồn cuộn sôi nổi với khí thế của những ngày trước khởi nghĩa. Đã nhiều nơi ở ngoại thành, nhân dân đã th quyền làm chủ cả đêm lẫn ngày.

        Khi bắt tay vào làm kế hoạch, đã có người lo lắng: yếu tố bất ngờ của chiến dịch thế là không còn nữa; địch sẽ tháo chạy như ở miền Trung, ta sẽ không bao vây kịp, nên không có cơ hội tiêu diệt được nhiều địch, chúng sẽ kéo về đồng bằng sông Cửu Long: mà ở đây không xe tăng, pháo lớn, thì giải quyết các thành phố, thị xã như thế nào? v.v…

        Các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến sĩ theo dõi hàng ngày, hướng dẫn kịp thời. Có lần anh Tuấn đã giải thích cho một chiến sĩ sư đoàn 316:

        - Sài Gòn - Gia Định không phải như Huế - Đà Nẵng đâu. Mất nơi này là mất hết. Vì vậy, địch không thể bỏ đây một cách dễ dàng, nhất định nó phải giữ đến cùng. Về phần mình, ta phải buộc chúng giữ nguyên trạng thái bố trí như hiện nay. Ngay từ bây giờ phải thực hành bao bây chiến dịch, sư đoàn đồng chí phải chốt chặn dài ngày trên đường quốc lộ 1, 22, tuyệt đối không cho sư đoàn 25 ngụy hay bất cứ một lực lượng nào khác co về, tăng cường cho vành đai phòng thủ bên ngoài như Đồng Dù, Củ Chi.

        Cũng như vậy, đồng chí Lê Đức Thọ nhắc nhở cơ quan tham mưu:

        - Phải chỉ thị cho quân khu 8, quân khu 9, cách đánh địch ở đồng bằng sông Cửu Long trong lúc này. Không phải như ở quốc lộ 5 vừa rồi đâu. Không nên dùng lực lượng chủ lực của quân khu đánh vào giải phóng các thị xã như Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long v.v… như ta đã làm ở Huế, Đà Nẵng mà trái lại, ở đây, trong lúc này, phải dùng chủ lực để cắt đường, nhất thiết không được để cho ba sư đoàn chủ lực và các đơn vị binh khí truy kích của địch co cụm về Sài Gòn. Cứ để cho chúng rải rác quân ra ở Mộc Hóa, để ngăn chặn tuyến biên giới Campuchia, trong lúc ta đã lọt sâu vào bên trong. Đến khi ta đánh vào Sài Gòn, lực lượng của chúng sẽ tan rã. Lúc đó chúng ta đánh vào các đô thị thì rất thuận lợi, rất ít tổn thương. Thế nhưng, đối với lực lượng của địa phương thì lại khác; nơi nào giải phóng được dân thì cứ làm, càng giải phóng được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, đồng chí nói:

        - Hễ đánh ngã Sài Gòn-Gia Định rồi làm ăn tất cả, mà lại ăn nhanh hơn nữa là khác. Trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, việc nắm và vận dụng phương châm cũng phải hết sức linh hoạt.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:14:32 am

        Sau Xuân Lộc, thấy các quân đoàn đến chậm hơn dự kiến, ai nấy đang lo, thì được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: “Cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng cả Quân đoàn Tây Nguyên và Quân đoàn Quyết Thắng (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu tiến công lớn, chưa nên làm ngay bây giờ”.

        Bộ Chính trị còn hướng dẫn thêm:

        “Kế hoạch tiến công lớn và toàn diện cần bảo đảm, một khi đã phát động thì phải tiến công thật mạnh và liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng. Vừa phát động tiến công ở ngoại vi, vừa có lực lượng đã chuẩn bị, sẵn sàng nắm thời cơ, thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng. Thế từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy, khong chia làm hai bước. Trong điều kiện này, thần tốc, táo bạo, bất ngờ là chỗ đó. Đó là phương hướng cơ bản và chắc thắng nhất (điện số L7 ngày 9 tháng 4, BCT gửi Trung ương Cục) .

        Xem xong bức điện này, anh Tuấn rất phẩn khởi. Những ý kiến hướng dẫn này rất phù hợp với sự suy nghĩ của các anh trong này mấy ngày qua, và cũng đã có giải đáp thắc mắc, lo lắng của cơ quan tham mưu. Được công tác lâu ngày trong Bộ Tổng tham mưu, anh em đều biết trong các chiến dịch, anh Tuấn rất quan tâm đến yếu tố bất ngờ, thường chỉ thị cho cán bộ dưới hãy luôn luôn động não, nghiên cứu tìm cách đổi mới cách đánh. Muốn chắc thắng thì phải hành động bất ngờ, nhưng muốn chắc thắng thì phải tập trung lực lượng ưu thế hơn đối phương. Hai yếu tố này thường mâu thuẫn với nhau, vì kéo dài thời gian để tập trung cho đủ lực lượng thì càng dễ lộ bí mật. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì lại không thế. Sau những ngày cuối tháng 3 năm 1975, sau Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, ai mà không đoán ra là sẽ đến lượt Sài Gòn, Gia Định? Bất ngờ có nhiều cách, bây giờ đây là cách đánh và thời gian đánh. Ở Buôn Ma Thuột, ta diệt được cơ quan đầu não địch ngay từ đầu. Đánh như vậy, sẽ làm cho sự chỉ huy của địch rối loạn, không còn khả năng đối phó với ta. Nhưng Sài Gòn, Gia Định đâu phải như Buôn Ma Thuột? Ngay từ phút đầu, làm thế nào đưa được xe tăng vào sâu bên trong để dùng pháo bắn thẳng, nã vào địch được không? Với cách bố trí phòng ngự như đã nói trên, dồn hết lực lượng ra ngoài, có thể chúng đinh ninh rằng ta sẽ dùng lối đánh bóc vỏ như ta đã làm ở Điện Biên Phủ trước đây. Họ sẽ lui dần từng bước, lùi đến đấu, phá huỷ cầu cống đến đó, chiếm lĩnh các vị trí, địa hình khống chế, có công sự kiên cố lắp sắn, để kéo dài cuộc chiến đấu. Cầm cự lâu thì khó, chứ kéo dài một vài tháng hay đến mùa mưa thì họ tin là có thể làm được, và mọi việc sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác. Điều mà chúng rất bất ngờ là chỉ trong một số ít ngày, ta lại tập trung được một lực lượng rất lớn, lớn nhất từ trước đến nay đột nhiên thay đổi so sánh lực lượng, để vừa đủ sức đánh mạnh ở vòng ngoài, tiêu diệt và làm tan rã đối phương ở đây, đồng thời có sức mạnh thọc vào bên trong. Cho dù rằng họ phát hiện ta được từ xa, cách trung tâm thành phố 40-50 cây số, lại còn phải vượt qua biết bao nhiêu sông rạch mới vào được nội thành, cũng không cách gì đối phó nỏi, vì phải lo đối phó với vòng ngoài. Điều lý thú nhất đối với một người cán bộ tham mưu tác chiến là trong lúc ta chủ động tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, thì ngược lại đối phương lại không thể làm được như vậy đối với ta; lực lượng của chúng trước sau cũng chỉ có chừng ấy đơn vị; ta đã nắm bắt được tất cả phiên hiệu, vị trí, nhiệm vụ của từng đơn vị một. Rõ ràng là trong tung thâm, không còn có tý lực lượng dự bị nào để phản kích lớn một khi ta đã diệt được địch ở bên ngoài. Vì vậy, việc chiếm lĩnh trước các cầu là vô cùng quan trọng, bất cứ với cách đánh nào. Nhiệm vụ này đã giao cho binh chủng đặc công và bộ đội địa phương, trang bị gọn gàng. Nhưng chiễm thì dễ, mà giữ mới khó. Thế nào dịch cũng cố sống cố chết, giành đi giật lại các cầu này, vì đây là con đường rút lui sinh tử của chúng. Khi lập kế hoạch phải tính toán rất kỹ lưỡng, tổ chức chiệp đồng rất chặt chẽ, vì sớm muộn một tý, đều thành vấn đề cả.

        Phương châm tác chiến trên đề ra là hoàn toàn chính xác. Nhanh chóng, táo bạo, thần tốc, bất ngờ, chắc thắng quyện vào nhau một cách hữu cơ, cái nọ tạo điều kiện cho cái kia.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:17:42 am

        Hôm nào ở Buôn Ma Thuột, anh Tuấn khi đi xem lại chiến trường, khen trận đánh vừa hay lại vừa đẹp, vì diệt địch nhanh gọn, và thị xã vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Trong chiến sĩ này càng phải hay, phải đẹp hơn. Sẽ đánh vào Sài Gòn-Gia Định như thế nào để khỏi gây tổn thất cho đồng bào, gìn giữ những cái gì cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa sau này, mà không ảnh hưởng đến việc tiêu diệt quân thù một cách triệt để và nhanh gọn. Cũng có người nói rằng, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, nhất là những ngày tàn của địch, chúng đã lâm vào bước đường cùng rồi, thì không cần phải có những trận đánh quyết liệt làm gì, trước sau rồi cũng giải quyết được vấn đề. Thực tế đã chứng tỏ rằng, sự chống đối của đối phương vẫn còn hết sức quyết liệt, cho đến phút cuối cùng. Tránh khỏi được cảnh điêu tàn đổ nát, tránh khỏi những sự nhầm lẫm thương vong vô ích là do cách đánh của ta. Vì thế việc lựa chọn từng mục tiêu trong nội thành để tiến công đã được đưa ra thảo luận rất kỹ và được các đồng chí trong Bộ tư lệnh cân nhắc từng ly từng tý. Mục tiêu hàng đầu đối với bộ binh là dinh Độc Lập rồi đến Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát. Dinh Độc Lập là nơi đầu não của chính quyền Sài Gòn. Đánh vào các mục tiêu nói trên, thì sẽ ngã nhanh, đồng thời bảo đảm an toàn đồng bào ở các nơi khác.

        Thấy cán bộ tham mưu lúng túng trong việc lập kế hoạch phối hợp giữa đòn tiến công và đòn nổi dậy, đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Phạm Hùng giải thích:

        “Các đồng chí phải hiểu đặc điểm của Sài Gòn-Gia Định. Với hơn hai vạn cảnh sát sẵn có, với hàng chục vạn phượng hoàng, ác ôn từ các nơi chạy về, cộng thêm bộ máy kìm kẹp như ta đã biết thì quần chúng nổi dậy thế nào cho đúng? Bọn nó giờ đây tuy hoang mang nhưng đề phòng chúng có thể điên cuồng, mất hết tính người. Trước đây, có mít tinh, xuống đường, thì chúng đối phó bằng hơi cay, dùi cui; nhưng sắp đến, khi ta nổ súng, còn đánh vào vòng ngoài, bộ phận thọc sâu chưa vào kịp mà làm như thế thì chúng có thể thẳng tay đàn áp vì chúng đã đến bước đường cùng. Nói như vậy, khong phải là không có đấu tranh chính trị phối hợp, nhưng hình thức đấu tranh thì phải khác; cuối cùng rồi cũng sẽ làm cho đối phương mất sức chiến đấu và tan rã nhanh chóng. Lực lượng chủ lực của ta chỉ đánh vào 5 mục tiêu thôi, còn các lực lượng vũ trang khác cảnh sát, ác ôn, bọn kìm kẹp thì có lực lượng của địa phương, còn đặc công, biệt động của Sài Gòn thì chiếm giữ các cầu, không để địch phá hoại để chủ lực ta có thể tiến thẳng vào các vị trí trung tâm của Sài Gòn như đã định. Công nhân sẽ đứng lên chặn bàn tay của địch, không cho chúng phá hoại các nhà máy, các xí nghiệp khác nữa”.

        Các đồng chí quân báo phát hiện có nguồn tin cho biết một lực lượng lớn của Mỹ gồm có 35 tàu chiến, 4 tàu chở sân bay đang rình rập ngoài khơi Vũng Tàu mấy hôm nay.

        Những tin tức như vậy, không làm cho một ai trong cơ quan tham mưu bận lòng, phải lo ngại. Năm xưa, cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã chẳng làn nên trò trống gì ở Vạn Tường, trước vài tiểu đoàn chủ lực và mấy đại đội địa phương dân quân du kích; huống gì ngay nay,lực lượng ta như thế này, thì vài sư đoàn Mỹ làm thế nào mà đổ bộ lên được. Còn với con ngoáo ộp B52 thì quân chủng phòng không không quân đã bố trí sẵn mấy đơn vị tên lửa, với những kinh nghiệm nóng hổi nhất từ Hà Nội mới đưa vào, mấy hôm nay đã triển khai xong, ăn chực nằm chờ ở phía bắc Biên Hoà. Đối với những lời đe dọa của Kissinger, anh em trong sở chỉ huy không ai lạ gì.

        Gần như đã thành quy luật, trong khi bàn kế hoạch, vấn đề bảo đảm vật chất thường là sôi nhổi nhất, chiếm nhiều gờ và cũng đau đầu nhất. Trong chiến dịch này, cả nước lên đường, đại hậu phương xa xôi đã vươn dài đến sát phía trước, nối liền với hậu phương chiến dịch. Ngành hậu cần của Trung ương Cục, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí thiếu tướng Bùi Phùng, đã sớm hình thành nhiều khu vực bảo đảm, trên một địa bàn vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. Cách tổ chức này, rất sáng tạo, khoa học cho phép khai thác và tận dụng được sức người, sức của tại chỗ, đồng thời đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến của từng đơn vị.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:20:40 am
          
        Xăng dầu, gạo, đạn nói chung thì không có vấn đề gì; nhưng rắc rối nhất là đạn pháo lớn và đạn chống tăng. Có đâu mà như ở Việt Nam, chẳng phải chỉ có cán bộ tham mưu hay hậu cần, kỹ thuật mới phải bận tâm đến số đạn dược của từng loại pháo, mà trong sổ tay cũng như trong trí nhớ của từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị cũng có ghi đầy đủ những con số này. Đồng chí thiếu tướng Doãn Tuế, là tư lệnh pháo binh của toàn chiến dịch. Ngoài nhiệm vụ chỉ huy chỉ đạo pháo binh các cấp, đồng chí còn đặc trách chỉ huy cụm pháo binh ở Hiếu Liêm, bắc sân bay Biên Hoà và cụm pháo chiến dịch có nhiệm vụ bắn vào Tân Sơn Nhất. Chưa nói đến việc diệt địch, chỉ riêng việc kìm chế các trận địa pháo địch ở rải rác xung quanh sở chỉ huy, bảo đảm không cho một quả đạn nào rơi xuống khu vực này, cũng đã cần đến một số đạn rất lớn rồi. Thế mà đồng chí chỉ nhận được một con số tối thiểu. Giữa lúc ấy thì được tin Nguyễn Thành Trung vừa mới lái chiếc máy bay F5E của không quân Việt Nam Cộng hoà, ném bom dinh Độc Lập và bay ra vùng giải phóng. Chính Nguyễn Thành Trung đã báo cáo với đồng chí Tuế phương pháp khống chế các sân bay với số lượng đạn ít nhất và hiệu quả nhất.

        Kinh nghiệm này tức khắc được phổ biến rộng rãi cho các nơi và đạt hiệu quả cao.

        Đồng chí Đỗ Văn Đức, tham mưu phó chiến dịch và tôi, phân công nhau đi kiểm tra tình hình trên các cánh tây và cánh bắc về báo cáo, càng làm cho các đồng chí trong Bộ tư lệnh thêm lo lắng. Thời gian chuẩn bị chẳng còn bao lâu nữa, mà trên cánh tây, đoàn hậu cần tập kết vật chất chưa được đầy đủ. Trên cánh đông bắc của Quân đoàn Quyết Thắng, tình hình cũng không lấy gì làm sáng sủa lắm. Tình hình của Quân đoàn Tây Nguyên, khá hơn nhiều, vì đơn vị này ngoài trang bị sẵn có, còn mang theo một số khá nhiều chiến lợi phẩm ngoài kế hoạch.

        Trong một buổi giao ban, đồng chí Lê Đức Thọ sau kế hoạch nghe báo cáo, quay sang hỏi tôi:

        - Đồng chí có biện pháo gì không?

        - Sở dĩ các loại đạn pháo lớn và đạn chống tăng ít vì từ trước đến nay, chiến trường Nam Bộ ít có những loại đạn pháo này, mà trong số đạn chiến lợi phẩm mới thu được thì lại hoàn toà không có. Đánh vào đô thị, cũng như đánh vào công sự vững chắc, mà thiếu những loại này, thì rất khó khăn. Theo tôi được biết, ở chiến trườn Trị Thiên, Khu 5 các loại đạn này còn khá nhiều, vì vừa qua, ta giải quyết nhanh, tiêu thụ ít. Đề nghị Bộ Chính trị cho hai nơi ấy, cấp tốc vét đưa vào.

        - Liệu có kịp không?

        - Thông thường phải mất cả tháng, vì theo chỗ tôi biết, thì các loại đạn này còn nằm trong các kho đặt ở trong các hậu cứ, sâu trong núi, rải rác mỗi nơi một ít. Tập trung lại cho đủ số, lựa chọn cho đúng lô, liều, mất rất nhiều thì giờ. Nhưng nếu cố gắng, hết sức may ra cũng có thể được.

        Qua ánh mắt, tôi thấy đồng chí rất băn khoăn. Đồng chí đã nói lên tâm trạng của mình, giữa những ngày này trong một bài thơi ngắn. Và đây cũng là tâm trạng của mọi người:

                                           Suốt đêm qua không ngủ,
                                           Nằm đếm tiếng mưa rơi.
                                           Lo cho anh bộ đội,
                                           Lầy lội quãng đường dài.
                                           Hết tăng rồi lại pháo,
                                           Mong chẳng thấy tăm hơi.
                                           Chiến trường chờ từng phút,
                                           Đừng mưa nữa mưa ơi.
                                           Để đường mau khô ráo,
                                           Cho xe vào tới nơi…


“Mưa rơi” Lộc Ninh        
9-4-1975                
       Sau này được biết, vừa nhận được điện của anh Sáu Thọ, các đồng chí Võ Chí Công và thượng tướng Chu Huy Mân đã họp ngay cơ quan lại để bàn việc thực hiện. Tuy bận rất nhiều công việc, nào phải lo tiếp quản các tỉnh và thành phố, ổn định đời sống cho hàng mấy triệu dân ở vùng giải phóng, Khu uỷ Khu 5 vẫn đặt vấn đề chi viện đạn dược cho chiến dịch lên hàng đầu. Quân uỷ Khu uỷ đã tập trung tất cả cán bộ, phương tiện, khả năng sẵn có, lập ra ban kiểm tra đạn pháo, và từng ngày ngày, từng giờ đôn đốc việc thực hiện. Kết quả là mấy hôm sau, thiếu tướng Võ Thứ, phó tư lệnh khu và đồng chí Giang chủ nhiệm hậu cần quân khu 5 đang kẻ trước người sau, áp tải một đoàn xe hàng trăm chiếc, chở đầy đạn dược, đúng theo yêu cầu, đến bàn giao cho Quân đoàn Quyết Thắng giữa tiếng reo hò của toàn đơn vị, vì giờ xuất kích sắp đến nơi rồi, mà chỉ còn không đầy một cơ số đạn dược mang theo. Nắng hạn gặp mưa rào!


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:17:32 pm

        Những trận mưa đầu mùa, đã bắt đầu gây khó khăn cho việc tập kết lực lượng. Trên cánh tây nam, một khó khăn nữa của Đoàn 232 là phải vượt sông Vàm Cỏ. Theo kế hoạch đến giờ nổ súng, sư đoàn 3 phải vượt sông, mở cửa, đánh chiếm đầu cầu ở An Ninh, Lộc Giang, để bảo đảm cho sư đoàn 9 và các đơn vị binh khí kỹ thuật sang sông, kịp đưa đội hình lên đánh vào thành phố. Trong lúc này đối phương đã đề phòng, họ lại có sẵn phi pháo, còn các binh khí kỹ thuật của ta thì nặng nề, khi tài thiếu, đường sá ít, lại xấu, tai ác nhất là bưng sình, bùn lầy nhiều. Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu và toàn bộ cơ quan tham mưu, kỹ thuật, hậu cần, từ cán bộ đến chiến sĩ, đếm ngày túc trực ở bãi sông, chỉ huy từng chuyến phà để kịp thời đưa toàn bộ lực lượng vượt sông an toàn. Trên hướng bắc, đứng giữa ngầm Bến Bầu, nhìn những đám mây đen, mỗi buổi chiều ùn ùn trên phía thượng nguồn Sông Bé, cả Bộ tư lệnh Quân đoàn Quyết Thắng ngồi đứng không yên. Nước sông cứ dâng lên từng phút một, gần lút cả bánh xe, chỉ cần lên cao vài tấc nữa, có lẽ toàn quân đoàn sẽ bị chôn chân ở phía bắc sông, vì không còn có con đường nào nữa để vòng tránh mà vào vị trí tập kết được. Lực lượng công binh, dù đoàn Trường Sơn đã tận tình giúp đỡ, tăng cường thêm máy móc, cũng không thể bắc cầu, hay ghép phà, vì lòng sông hẹp, bờ cao nhất nước chảy rất xiết. Thỉnh thoảng một vài chiếc máy bay A37 đến ném bom. May thay trời cũng chiều người, trước giờ xuất kích, toàn bộ đội hình đã xuống hết phía nam sông, sẵn sàng chờ lệnh.

        Chiều ngày 12 tháng 4, Bộ tư lệnh Quân đoàn Tây Nguyên đến sở chỉ huy chiến dịch nhận nhiệm vụ. Mới xa nhau hơn nửa tháng trời, mà trông đồng chí nào cũng gầy sọm lại, da rám nắng, đen nhưng lại rắn rỏi hơn. Vẻ mặt ai nấy đều hân hoan, phấn khởi. Bắt tay đồng chí Đặng Vũ Hiệp, hai chúng tôi chào nhau bằng một tiếng lóng: “Yên chí!”. Như thế có nghĩa là các anh cứ việc đánh đi, mọi việc đã có tôi lo. Bê ngoài thì nói thế thôi, nhưng trong lòng thì lại sốt ruột: công tác chuẩn bị, bảo đảm các mặt cho quân đoàn, lần này không được đầy đủ như ở Buôn Ma Thuột trước đây.

        Vừa ngồi xuống ghế, anh Tuấn hỏi ngay:

        - Có tin tức gì về Hồ Đệ không? - tức là sư đoàn 10. Đi chiến dịch, anh em thường lấy tên của tư lệnh thay cho tên của đơn vị.

        - Báo cáo đang làm đường vòng lên đường quốc lộ 11. Mấy hôm vừa rồi, máy bay ở Thành Sơn lùng sục bắn phá cả ngãy lẫn đêm, để ngăn chặn hoặc đề phòng ta đánh vào sân bay. Nhưng ra vẫn an toàn, chúng không đánh trúng.

        - Liệu bao giờ thì đến đây?

        - Khoảng mười ngày nữa, hay hơn một ít, nếu không gặp trở ngại gì lớn.

        Hôm nay, hầu hết các đồng chí trong bộ tư lệnh chiến dịch đều có mặt, kể cả đồng chí Lê Đức Thọ. Một tấm bản đồ một trăm phần nghìn, treo đứng, dăng ra quá nửa chiều ngang của phòng họp khá rộng. Phía trên cùng viết đậm nét dòng chũ: “Quyết tâm chiến dịch Sài Gòn-Gia Định”.

        Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, quyền tham mưu trưởng chiến dịch báo cáo toàn bộ kế hoạch và đề nghị Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho Quân đoàn. Đồng chí nói qua về tình hình địch, nêu lên một vài chi tiết thay đổi vừa mới nhận được, và đi thẳng vào vấn đề:

        - Nhìn chung, hướng bắc là hướng đột phá chính. Nhưng trên hướng này có hai hướng: tây bắc và đông bắc. Giữa hai hướng này thì tây bắc là hướng đột phá chủ yếu, do Quân đoàn Tây Nguyên đảm nhiệm.

        Trên đường tiến về Sài Gòn-Gia Định, Quân đoàn phải giải quyết một loạt các căn cứ lớn: Củ Chi, Đồng Dù. Trong tung thâm, còn phải giải quyết trại Quang Trung, một trung tâm huấn luyện, rồi mới thọc được vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là mục tiêu chủ yếu của quân đoàn, nhưng chưa phải là cuối cùng. Làm xong nhiệm vụ này, nếu có điều kiện, thì phát triển sang Bộ Tổng tham mưu, phối hợp với các đơn vị bạn, từ phía đông bắc đánh xuống và cuối cùng, phái một mũi thọc sâu vào dinh Độc Lập.

        Vốn đã từng công tác với nhau lâu ngày ở Cục tác chiến và cũng đã cùng tham gia nhiều chiến dịch lớn trước đây: Quảng Trị, Đường 9-Nam Lào, Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, nên anh em đều biết thiếu tướng Vũ Lăng là người rất “khó tính” cái khó tính của một người chỉ huy giầu kinh nghiệm. Anh tìm hiểu rất kỹ, suy tính, cân nhắc các mặt, từng ly từng tý một. Cơ quan tham mưu chiến dịch, sẵn sàng chờ đón những câu hỏi hắc búa của anh, chẳng hạn như: sơ đồ các vị trí địch, tình hình công sự, cách bố phòng, quy luật hoạt động, quy luật tiếp viện, tình hình các đơn vị đặc công được cấp trên phối thuộc cho Quân đoàn, các mặt bảo đảm cho Quân đoàn v.v… Giá có hỏi thì cũng chẳng có thể trả lời hết được, vì anh em trong cơ quan cũng đều chân ướt chân ráo mới đến đây như các anh cả thôi. Quân, tướng thì còn ở đâu đâu; đạn dược thì cũng chỉ mới nắm được trên kế hoạch, qua điện đài, chưa nhìn tận mắt, chưa sờ tận tay.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:20:18 pm

        Cũng không ai còn lạ gì cách làm việc của Bộ tư lệnh Quân đoàn nữa. Vừa vào đến nơi tập kết, mới được trên khêu gợi quân đoàn sẽ đảm nhiệm hướng tây bắc thành phố Sài Gòn, Bộ tư lệnh đã tranh thủ tiến hành ngay công tác điều tra các vị trí, đường sá, nhất là cầy Bông, cầu Sáng và những trở ngại chủ yếu nhất trên hướng này rồi. Thực ra, thì cũng chẳng phải chỉ có quân đoàn mới tranh thủ triển khai công tác song song với trên mà thôi; cả đến sư đoàn, trung đoàn, cấp nào cũng tranh thủ từng giờ từng phút, sớm tý nào hay tý ấy. Thậm chí các đồng chí Bộ tư lệnh sư đoàn 10, trong lúc đơn vị còn đang lang thang trên đường hành quân, cũng đã phái một số cán bộ bứt lên trước để nhận, tìm hiểu, nhiệm vụ, và cũng bắt đầu triển khai công tác chuẩn bị. Cán bộ ta, tuy chưa phải tất cả được qua các trường đào tạo chính quy, nhưng nhờ kinh nghiệm qua tác chiến nhiều năm, nên rất hiểu tình hình, tác phong công tác và chiến đấu của nhau và cũng đã xây dựng được nền nếp công tác vừa chặt chẽ, vừa có hiệu quả. Bây giờ không phải là công tác thammưu hai ba cấp song song mà thôi; mà tất cả mọi cấp đều tiến hành cùng một lúc, theo một phương án chung, nên rút ngắn được rất nhiều thời gian chuẩn bị.

        Khi thông qua kế hoạch tác chiến, lần này anh Tuấn không nói đến cách tổ chức chiến đấu của từng cánh quân, đội hình chiến đấu ra sao, mà thấy nhắc nhiều đến vấn đề nắm chắc lực lượng, đôn đốc công tác chuẩn bị và kỷ luật bộ đội khi vào thành phố. Nghe giọng nói và nhìn qua ánh mắt, thấy bừng lên một niềm tin vững chắc: cái mục tiêu to lớn kia cũng là mục tiêu cuối cùng của chiến dịch và của cả cuộc chiến tranh đằng đẵng bấy nhiêu năm, nhất định sẽ giải quyết được. Thật là khác hẳn với hồi đánh Buôn Ma Thuột. Lúc ấy sắp đến giờ nổ súng rồi, mà còn phải cứ thấp thỏm nghe ngóng: có đơn vị biệt động quân, hay đơn vị dù nào bất thình lình đến tăng cường cho thị xã này thì sao, phương án 1 hay là phương án 2 đây?…

        Đồng chí Phạm Hùng, luôn luôn tươi cười, thân ái nhìn mọi người. Trong lời phát biểu, đồng chí đã nói lên tiếng nói của đồng bào Nam Bộ:

        “Ở trong này, được tin ta thắng lớn ở Tây Nguyên, Trung Bộ, ai nấy đều vui mừng, vì thấy có thể giải phóng cả miền Nam, hoàn thành trách nhiệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong năm nay. Từ khi thành lập Đảng cho đến nay, đây là giờ phút lịch sử vinh quang nhất. Đảng ta có truyền thống đoàn kết, nhân dân ta và quân đội ta có truyền thống đoàn kết Nam Bắc một nhà, nước Việt Nam là một. Đây là cơ sở bảo đảm thắng lợi của chúng ta. Chúng tôi hoan nghênh sự có mặt kịp thời của các đồng chí trên chiến trường miền Nam, hoan nghênh các đồng chí tham gia trận quyết chiến chiến lược lịch sử này, đánh vào dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa thực dân mới ở nước ta.

        Chúc các đồng chí toàn thắng!”

        Đồng chí vừa ngồi xuống, mở hộp thuốc lá sợi vàng ra, thong thả cuốn thuốc và quay sang anh Tuấn nói tiếp:

        - Làm sao để ngày sinh nhật của Bác Hồ, chúng ta có mặt ở Sài Gòn.

        Đồng chí Lê Đức Thọ bổ sung thêm:

        - Trung ương giao cho Đảng bộ miền Nam, toàn thể các lực lượng vũ trang của ta phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam trong tháng Tư này. Lúc ra đi, tôi có gặp anh Ba. Đại ý anh Ba dặn: chúng ta nhất định thắng, nhưng cũng phải đề phòng có gì trắc trở thì ở luôn trong đó, làm xong nhiệm vụ rồi hãy về. Đó là quyết tâm của Bộ Chính trị.

        Cả cuộc họp như có một luồng gió mới thoảng qua. Bầu không khí khác hẳn. Các đồng chí lãnh đạo có vẻ tâm đắc, ngồi mỉm cười, gật đầu; còn anh em thì hướng mắt vào người các đồng chí. Từ trước đế nay, chúng ta đã từng được nghe những lời động viên, cổ vũ; nhưng chưa thấy lúc nào, lời lẽ lại thiêng liêng, sâu lặng vào lòng người, như những lời vừa nói. Bộ Chính trị đã thay mặt toàn Đảng, toàn dân giao nhiệm vụ, một nhiệm vụ mà suốt cả cuộc đời chiến đấu, ai ai cũng ấp ủ, mong chờ. Quyết tâm sắt đá, dứt khoát quá: trước mắt chỉ có một con đường là chiến thắng mà thôi; thật khác hẳn với mọi lần: có thắng lớn, có thắng vừa, lại có cả thắng nhỏ với bao nhiêu chứ “nếu” kèm theo.

        Đồng chí Lê Đức Thọ, móc từ trong túi áo bà ba đen ra một mảnh giấy nhỏ, chậm rãi đọc. Cả hội trường im phăng phắc. Mấy đồng chí cán bộ chính trị, vội vàng giở sổ công tác ra ghi chép:

                                          “Anh dặn ra đi thắng mới về,
                                          Phút giây cảm động, nói năng chi
                                          Lời anh là cả lời non nước,
                                          Ngàn dặm Trường Sơn sá ngại gì…



Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:23:26 pm
 
        Tan họp, mọi người ra về. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, một vài anh em trong phòng tác chiến và tôi còn nán lại một lúc. Đồng chí Hiền nói:

        - Chúng mình còn phải chọn một cát tên cho chiến dịch này. Có người hỏi:

        - Cái tên chiến dịch “Sài Gòn-Gia Định” chưa được à?

        - Các anh trong Bộ tư lệnh chỉ thị: phải chọn một cái tên khác, cho có ý nghĩa hơn.

        Ở rừng Lộc Ninh, cây thưa, không bị bóng núi che khuất, như trên dải đất miền Trung, nên hoàng hôn đến chầm chậm. Anh em ra về, một mình tôi ngồi lại trong phòng, mải mê nhìn lên tấm bản đồ quyết tâm treo trước mặt, muốn xem kỹ lại một lần nữa những ký hiệu, phù hiệu; những mũi tên xanh, đỏ vẽ trên tấm bản đồ, xem đã thật đúng với ý định của cấp trên chưa.

        Đồng chí trợ lý phòng tác chiến ở phòng bên, chạy sang báo cho biết: có điện thoại ở thị trấn Lộc Ninh báo về; là chiều này, đã có người thấy thiếu tướng Nguyễn Hoà và thiếu tướng Hoàng Minh Thi, tư lệnh và chính uỷ Quân đoàn Quyết Thắng, đang hỏi thăm đường vào sở chỉ huy. Tôi nhẹ nhõm cả người. Lúc này mà “tóm áo” được hai đồng chí này thì hay tuyệt; vì mấy ngày hôm nay, từ Bộ tư lệnh chiến dịch đến các cơ quan ở đây đều mong ngóng trông tin của Quân đoàn. Tôi lẩm bẩm: “Thế là kịp rồi!” và lấy bút chì ghi nhàn nhạt phiên hiệu các sư đoàn của Quân đoàn đã được phân công trên hướng đông bắc, từ Lai Khê đến Bộ Tổng tham mưu.

        Đèn bật lên lúc nào không biết, thấy còn sang sáng, cứ tưởng hãy còn sớm. Ánh sáng đèn ống xanh xanh, dìu dịu hắt lên tấm bản đồ, làm nổi rõ ảnh Bác treo ở phía trên. Tôi nghĩ thầm: chọn một cái tên cho một chiến dịch thì có gì là rắc rối? Thường thì sau khi đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị, người ta mới làm đến việc này. Từ trước tới nay, tôi cũng đã từng làm việc này rồi: hoặc là chọn tên chiến dịch theo thời gian: chiến dịch Xuân, Hè, Thu, Đông năm nào đó; hoặc là theo không gian: Chiến dịch Quảng Trị, chiến dịch Tây Nguyên. Đây chỉ là một cái tên riêng, còn ý nghĩa thế nào thì do nội dung và kết quả của chiến dịch, chứ cái tên thì có quan hệ gì lắm đâu: Bạch Đằng, Chi Lăng sở dĩ được ghi vào sử sách là vì do những chiến thắng ở những nơi ấy đã làm cho lịch sử của dân tộc ta sang trang, nếu không thì cũng chỉ là một địa danh như trăm nghìn địa danh khác. Tết Mậu Thân mà tiếng tăm còn lưu lại, là do cuộc tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất của năm ấy, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh; nếu không, thì cũng chỉ là năm tháng thông thường thôi. Chọn tên cho chiến dịch theo kiểu đó, thì có gì mà phải đắn đo, suy nghĩ.

        Tôi đâm ra bực với mình, chỉ có một việc giản đơn như vậy mà nghĩ mãi vẫn chưa ra. Nhưng càng nghĩ, càng thấy khó.

        Tôi lại nhìn lên bản đồ quyết tâm, Tổ quốc ta dài thật. Các đồng chí ở phòng tác chiến đã dùng bút chì đỏ, tô đậm con đường mang tên Bác. Một sợi chỉ hồng xuyên suốt từ Bắc chí Nam. Con đường ấy, cách đây 12 năm, bác đã vạch ra. Tôi còn nhớ như in hình ảnh của Bác, cầm cái bút chì gõ nhè nhẹ lên tấm bản đồ nổi, nghe đồng chí Võ Bẩm và tôi báo cáo tình hình đường sá. Con đường mang tên Bác dẫn đến thành phố mang tên Bác. Như một người học trò vừa tìm được đáp số của bài toán khó, tôi ghi vào sổ công tác: “Chiến dịch giải phóng thành phố Hồ Chí Minh”.

        Tiếng ve rộn rã lúc hoàng hôn đã tắt tự bao giờ. Tôi đứng dậy, bước ra sân. Đồng chí cảnh vệ, thập thò cạnh cửa hỏi:

        - Thủ trưởng chưa về ăn cơm à?

        - Không. Tôi còn làm việc. Chốc nữa sẽ cho cuốn bản đồ lại.

        Trăng thượng tuần lơ lửng trên vòm cây. Nhưng dòng ánh sáng xuyên qua kẽ lá, yếu ớt, vừa đủ đọng lại trên mặt đất những điểm trắng nhạt. Cả khu rừng như được khoác một tấm da báo khổng lồ, đang lay động nhè nhẹ, trước cơn gió từ phương đông thổi đến. Thoang thoảng có mùi thơm hoa rừng.

        Đang đắc chí, tôi bỗng trở lại trầm ngầm. Thì ra cái tên vừa chọn được vẫn chưa thoát ra khỏi nếp suy nghĩ cũ. Thành phố ấy, mặc dù mang tên Bác, vẫn chỉ là một không gian như các nơi khác: Huế-Đà Nẵng v.v… thì ý nghĩa ở chỗ nào?

        Lâu ngày làm công tác ở Bộ Tổng tham mưu, tôi rất biết tính của anh Tuấn: viết, nói, phải ngắn gọn, chặt chẽ; nhất là đối với các văn kiện. Trước đấy, đã có lúc, anh bỏ cả tiếng đồng hồ ra để hướng dẫn cho chúng tôi một câu ra lệnh báo động phòng không, phải cân nhắc kỹ để không thừa, không thiếu một chữ; người nghe không hoảng hốt, vội vàng; mà cũng không thể chần chừ, chậm chạp. Bây giờ, với một cái tên chiến dịch, dài những chín từ, thì chắc là khó được cấp trên chấp thuận. Lại cũng một lẽ nữa, là vấn đề giữ bí mật quân sự. Đành rằng đến ngày hôm nay, 12 tháng 4 năm 1975, mọi người đều biết ta sẽ đánh vào Sài Gòn-Gia Định, nhưng làm công tác tham mưu, có bao giờ được phép nói trước việc mình sắp làm.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:25:17 pm

        Không thể lấy thời gian, không thể lấy không gian, tôi nghĩ đến việc lấy tên Người. Trong kháng chiến chống Pháp trước kia, chúng ta cũng thường làm như thế: Chiến dịch Quang Trung, chiến dịch Hoàng Hoa Thám v.v… Thậm chí ở Liên khu 5 lúc bấy giờ, trên cương vị tham mưu trưởng Liên khu, tôi cũng đã từng lấy tên các đồng chí lãnh đạo, còn sống, để đặt tên cho các chiến dịch. Cũng xin thú thực rằng, nhận thức chính trị của tôi lúc bấy giờ còn rất nông cạn, chưa hiểu, chưa hề tính đến cái ý nghĩa của một cái tên. Có những chiến dịch thành công, có những chiến dịch không thành công, cái tên là cái tên, giữa con người và chiến dịch không có một gắn bó gì mật thiết, ghép nhau lại để cho có một cái tên riêng, để sau này dễ phân biệt mà thôi.

        Trên bản đồ quyết tâm, ở khu vực Sài Gòn - Gia Định, nhiều mũi tên đỏ đâm thẳng quả tim của thủ đô ngụy, nhưng mới đậm nét đến Chơn Thành phía bắc Sài Gòn. Tim tôi bỗng thắt lại. Tôi nhìn lên bức ảnh: đường mang tên Bác mà Bác chưa được đi trên con đường ấy. Đã có lần trên đã có lệnh phải chuẩn bị cho Bác đi. Xe cộ đã sẵn sàng, người phục vụ đầy đủ, nhưng rồi lại thôi. Có ai như Bác đi, từ Sài Gòn ra Hà Nội mà phải vòng quanh cả quả đất, từ bến Nhà Rồng ra đi, vượt qua muôn núi nghìn sông, hết mấy mươi năm trời lặn lội trong phong ba bão táp. Bác trở về đất mẹ, vẻn vẹn một nắm đất trong tay, nhưng mang trong người chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng để làm vũ khí cứu nước cứu dân. Cho đến lúc từ giã chúng ta ra đi. Người vẫn chưa khép kín được hành trình. Đây là điều Người còn bịn rịn và mỗi chúng ta đều ân hận: không làm thế nào để rút ngắn cuộc kháng chiến được năm bảy năm, để người được toại nguyện:

                                       Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
                                       Miền Nam mong Bác nỗi mong cha…


        Nhìn lên ảnh Bác, tôi nhớ từng lời, từng cử chỉ nhỏ của Người. Trong những năm chiến tranh phá hoại, từng thời gian tôi được phép sang báo cáo với Bác tình hình chiến sự; khi ở phòng làm việc, khi ở trước sân, và có khi ở ngay trước cửa hầm trú ẩn. Có lần, sau hồi còi báo an, tôi dìu Bác từ dưới hầm lên, áp đầu dưới vòng tay của Bác. Tai tôi nghe rất rõ tiếng tim đập của Người. Mỗi lần làm việc xong, Bác thường cho hộp thuốc lá, mang về chia cho anh em trong Cục. Mỗi lần đi xa về, Bác thường có quà cho cán bộ, chiến sĩ trong Cục tác chiến: mấy gói kẹo, mấy quả lê, táo và không bào giờ quên món quà thuốc lá.

        Lời phát biểu của đồng chí Phạm Hùng lúc ban chiều: “Làm sao đến lúc kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ, chúng ta có mặt được ở Sài Gòn” hãy còn văng vẳng bên tai. Tôi tính nhẩm: còn 38 ngày nữa mới đến ngày sinh nhật của Người. Các binh đoàn đang lần lượt tiến vào khu tập kết. Bộ Chính trị đã phê chuẩn: ngày 27 tháng 4 bắt đầu nổ súng. Làm thế nào kết thúc được trong tháng Tư? Từ ngày Bác gieo hạt giống cách mạng vào đất nước, tháng Nam đã trở thành một tháng độc đáo, có rất nhiều sự kiện lịch sử. Mồng một: Quốc tế lao động; mồng bảy: chiến thắng Điện Biên Phủ; 19: sinh nhật Bác. Và sẽ đến ngày nào đấy: giải phóng hoàn toàn đất nước? Về thời gian, cũng như về không gian, chiến dịch sắp đến phải gắn liền với tên tuổi của Bác. Người tôi nóng ran, bàng hoàng, xúc động. Ngước mắt nhìn lên thấy Bác trong khung ảnh, thanh thản lạ thường. Mái tóc bạc phơ viền quanh cái trán rộng, như một vầng hào quang toả sáng; đôi mắt sáng với cái nhìn hiền dịu bao dung. Bác đang giơ cao tay, vẫy gọi cháu con. Tay Người với ra tận Trường Sơn, vượt trên núi rừng trùng điệp, giục giã đoàn Quân Tiên phong, Quân đoàn Tây Nguyên đang lao như tên bắn phía trước, bất chấp nắng mưa dãi dầu. Rừng núi đang chuyển mình. Tay Người với ra tận Khu 5 dằng dặc trên biển Đông xa xôi, thôi thúc Quân đoàn Hương Giang, bộ đội Khu 5, bộ đội Hải quân đạp bằng mọi trở ngại, chông gai dọc đường, thần tốc về đây; tay Người với xuống đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, bắt nhịp cho quân và dân những nơi này nổi dậy với khí thế triều dâng, thác đổ, nhận chìm cơ đồ của Mỹ Thiệu đã xây dựng từ bao nhiêu năm nay, trên mảnh đất thân yêu này, để nhanh chóng về họi sư tạ Sài Gòn-Gia Định; tay Người dang rộng ra miền Bắc, thúc đẩy hậu phương lớn, dồn ra tiền tuyến lớn, tất cả những gì quý nhất, tốt nhất, đảm bảo đầy đủ cho trận quyết chiến cuối cùng này. Người đứng đó như một nhạc trưởng, mà nhạc công là toàn thể dân tộc Việt Nam, và bản giao hưởng phát ra lại có một sức mạnh tổng hợp lay trời chuyển đất:

        Ý nghĩa của một cái tên, như Bộ tư lệnh chiến dịch đã hướng dẫn, không phải chờ cho đến lúc đánh xong rồi, chiến thắng vang dội rồi, tổng kết, mới nhận ra được như trước đây có lần ta đã làm; mà ngay từ bây giờ, trong thời kỳ chuẩn bị hết sức khẩn trương này, cái tên ấy phải có một ý nghĩa, phải có một sức mạnh kỳ diệu, làm chấn động lòng người.

                                       Thám Mười đẹp nhất hoa sen
                                       Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.



Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:31:43 am

        Tôi lại giở sổ công tác, lấy bút chì gạch bốn từ: “giải phóng thành phố” và tô đậm nét “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Công việc hãy chưa xong. Bài toán đã tìm ra đáp số, còn phải thử đi thử lại nhiều lần. Với tất cả người Việt Nam chúng ta, tên Bác thiêng liêng quá. Nói về mục đích, ý nghĩa, quy mô của chiến dịch, thì xứng đáng được mang tên Bác rồi; nhưng còn phải cân nhắc kỹ: chiến dịch phải bảo đảm chắc thắng trăm phần trăm và quán triệt tư tưởng, đạo đức, chữ “nhân” của Người.

        Khi chiều, đồng chí Lê Đức Thọ đã truyền đạt quyết tâm của Bộ Chính trị: trận này không thắng, không trở về. Cũng như tất cả anh em trong cơ quan tham mưu chiến dịch, tôi tuyệt đối tin tưởng vào chiến thắng sắp đến. Với cái thế quân sự, chính trị như bây giờ, với cách bố trí lực lượng trên các cánh, với cách giải quyết các mục tiêu, với sự chuẩn bị về mọi mặt, thì chính quyền Sài Gòn ngày càng bị trói chặt, như con cá nằm trên thớt mà thôi. Sáu mũi tên, như sáu mũi kiếm, nhọn, sắc và rất mạnh, thế nào cũng chọc được vào đến hang ổ cuối cùng là dinh Độc Lập; thời gian dứt điểm có thể nhanh chậm, trước sau chút ít mà thôi. Bác ơi! Cháu con của Bác đã thực hiện đầy đủ bốn điều “nhất định” mà Bác để lại khi ra đi: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi; đế quốc Mỹ nhất định phải rút khỏi nước ta; Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất; đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.

        Nghĩ đến tư tưởng, đạo đức của Bác, tôi còn có chỗ lo lo. Tư tưởng của Bác cao vời vợi, đạo đức của bác trong sáng như pha lê. Tất cả chúng ta đều biết tấm lòng thương yêu, độ lượng không bờ bến của Người đối với đồng bào miền Nam nói chung và đồng bào Sài Gòn-Gia Định nói riêng, “Miền Nam ở trong trái tim tôi”. Làm thế nào để trong chiến dịch lịch sử này, tránh được mọi điều va vấp, tránh được tên bay, đạn lạc cho đồng bào, để mãi mãi sau này, mỗi lần nói đến chiến thắng mang tên Bác, mọi người dân Việt Nam đều thấy vinh dự tự hào, mọi gia đình đều không chút bận lòng, thương tiếc.

        Tôi đặt nhiều tin tưởng vào kế hoạch tác chiến cụ thể đối với từng mục tiêu; tôi càng tin tưởng vào trình độ kỹ chiến thuật của các đơn vị; và biết rằng từ Tết Mậu Thân đến này, đồng bào ở đây đã kinh qua khá nhiều lần thử thách, đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm, không phải chỉ trong đấu tranh chống địch, mà cả trong công tác phòng tránh, để tự bảo vệ mình nữa. Bốn triệu dân Sài Gòn sẽ được bình yên.

        Sáng hôm sau, đồng chí Lê Ngọc Hiền, vừa thấy mặt, đã hỏi ngay. Nghe báo cáo xong, đồng chí trả lời ngay như đã suy nghĩ từ trước:

        - Tán thành: chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Các đồng chí Út Thới, Sáu Long, nguyên Tuyến, Hoàng Dũng, đứng bên cạnh, nhất trí với đề nghị. Báo cáo lên Bộ tư lệnh, cũng được chấp thuận và lập tức điện xin ý kiến Bộ Chính trị. Ngày 14 tháng 4, được trả lời:

        Đồng ý, tên chiến dịch sắp đến là Chiến dịch Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:35:33 am
         
Chương 23

SỐNG GIỮA QUÂN THÙ

        Trên hướng tiến công của Quân đoàn Tây Nguyên, lực lượng đối phương còn như sau: sư đoàn 25 bộ binh có đầy đủ 3 trung đoàn; hai liên đoàn biệt động quân, liên đoàn công binh, hai vạn tân binh ở trung tâm huấn luyện Quang Trung. 20 tiểu đoàn bảo an của các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Gia Định và mấy chục vạn phòng vệ dân sự. Về pháo binh thì còn những 86 khẩu cỡ từ 105 đến 175 ly. Trong tung thâm, ở sân bay Tân Sơn Nhất có sư đoàn 5 không quân, bộ tư lệnh dù. Chiều sâu phòng ngự kéo dài đến gần 100 cây số: từ Tây Ninh đến Sài Gòn.

        Từ hôm nhận nhiệm vụ về, hai ngày sau, Bộ tư lệnh Quân đoàn hạ quyết tâm lần cuối cùng, giao nhiệm vụ cho sư đoàn 316, sư đoàn 320A và các binh chủng, cơ quan. Vẫn thiếu mặt sư đoàn 10, đơn vị sẽ làm nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn trên hướng tiến công chủ yếu. Ở các quân đoàn và một số sư đoàn khác, hoàn cảnh cũng tương tự như thế: địch thì đông, công sự thì kiên cố, chiến trường thì mới lạ, mà thời gian chuẩn bị lại quá ít. Sự khủng hoảng về sơ đồ, yếu đồ, làm cho công tác nghiên cứu càng thêm khó khăn, vất vả. Chỉ huy một tiểu đoàn tiến công trong hành tiến vào đối phương đã đề phòng, có công sự, có hoả lực được tổ chức mạnh mẽ, rất chặt chẽ đã là rất khó rồi - nhất là trong việc nắm quân, hợp đồng hoả lực, chỉ huy một trung đoàn tất nhiên càng khó khăn hơn nhiều, huống gì bây giờ, tất cả các sư đoàn, quân đoàn, đều vừa hành tiến, vừa đánh, lại còn phải vượt qua hệ thống sông ngòi chằng chịt, thì thật là không đơn giản tý nào. Mấy ngày gần đây, địch dùng máy bay đánh phá ác liệt khu vực Dầu Tiếng, ném bom phá cầu Bến Củi, nhằm không cho ta đưa được lực lượng lớn qua phía tây sông Sài Gòn. Nhưng nỗi lo lắng của Bộ tư lệnh quân đoàn lại không phải là vấn đề vượt sông, cầu bị đánh sập thì ta có phà của công binh, mà cái chính lại là vấn đề bí mật tập kết bộ đội. Hàng mấy vạn quân, nằm thòn lọn trong một khu vực hẹp, ngang dọc chỉ có mấy cây số, địa hình lại trống trải, trong tầm bắn của gần 100 khẩu pháo lớn. Một quả đạn bắn vu vơ, rơi vào đầu cũng có thể gây ra thương vong. Ngày 20 tháng 4, trung đoàn 174 được bộ đội địa phương, dân quân du kích và đồng bào Tây Ninh dẫn đường, bất ngờ đánh chiếm và làm chủ một đoạn đường bảy cây số trên quốc lộ 22 từ Cẩm An đến Bến Mường. Nhận thấy nguy cơ toàn bộ trung đoàn 49 Việt Nam Cộng hoà và các lực lượng khác ở Tây Ninh, Bến Kéo, Cẩm Giang, Trà Vo bị cắt rời với tuyến phòng thủ tây-tây bắc Sài Gòn, địch tập trung máy bay,pháo binh, lồng lộn đánh vào hướng trung đoàn 174. Nhờ có lưới lửa dày đặc, khá chính xác của trung đoàn cao xạ 232, luôn luôn bám sát đội hình, nên trung đoàn bộ binh này được bảo vệ tốt, ít bị thương vong.

        Cũng chính đêm hôm ấy, trung đoàn 7 công binh đã ghép được 2 phà 50 tấn, một ở Bến Củi, một ở Bến Tranh. Trong một đêm toàn bộ xe tăng, pháo binh, cao xạ đều vượt qua sông, bí mật tiến vào vị trí tập kết. Ba ngày sau, khi các cụm pháo binh của quân đoàn, sư đoàn đã chiếm lĩnh xong trận địa, hoàn thành mọi công tác đo đạc, thiết bị, bão lửa mới bất thình lình dội xuống các căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, Gò Dầu hạ... Theo lý thuyết, trong chiến đấu phòng ngự, một khẩu pháo đặt trong công sự hiệu lực bằng ba khẩu đặt ở ngoài; nhưng trong cuộc đấu pháo mấy ngày liền này, tỷ lệ đó lại ngược hẳn lại: những trận địa pháo cố định của đối phương ở trong các cứ điểm là những mục tiêu rất ngon lành, dễ phát hiện, còn pháo của ta thì lưu động bên ngoài hết trận địa này, lại chuyển sang trận địa khác. Cho nên cả 11 trong tổng số 18 trận địa pháo bị diệt trong một thời gian rất ngắn; số còn lại, thì bị tê liệt hoàn toàn. Trung đoàn pháo binh 40 đã lập công xuất sắc: bằng 48 quả đạn, hai tiểu đoàn 2 và 3 đã diệt gọn 3 trận địa pháo cố định ở Trảng Bàng và Động Chùa.

        Phát huy lợi thế mới tạo ra được, sư đoàn 316 dâng đội hình lên. Trung đoàn 174 áp sát đường quốc lộ, tiểu đoàn 1 của trung đoàn 148 bí mật đóng chốt ở Phước Mỹ, một tiểu đoàn của trung đoàn 149 đứng ở đông Trảng Bàng. Bộ tư lệnh sư đoàn tập trung số còn lại, nắm chắc trong tay, sẵn sàng cơ động, tiêu diệt bất cử kẻ địch từ đâu đến.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:37:34 am

        Như vậy là thế phòng thủ hướng tây bắc Sài Gòn-Gia Định đã bị suy sụp. Âm mưu của địch co sư đoàn về để tăng cường cho cái lá chắn Đồng Dù không thực hiện được. Thủ đô Sài Gòn-Gia Định nổi lên như một ốc đảo, ba bên bốn bề, cách biệt với thế giới bên ngoài bằng đường bộ; vì cùng trong thời gian này, trên hướng tây, quốc lộ 4, cũng bị cắt vụn thành nhiều đoạn.

        Thế nhưng, đối với một số chính khách Sài Gòn, tình hình vẫn chưa đến nỗi bế tắc. Họ còn có nhiều cách, nhiều đường để cứu vãn một sự sụp đổ chắc chắn đang giáng xuống đầu họ. Một tia hy vọng bật loé lên từ góc sân bay Tân Sơn Nhất.

        Đây là một dãy nhà làm tạm của Mỹ, đã quá niên hạn, nằm nép trong một góc sân bay. Cạnh đấy là những nhà cao cửa lớn của Mỹ vừa xây dựng lên để tặng cho bộ tư lệnh không quân làm sở chỉ huy sư đoàn 5, xa hơn một chút, là cơ quan DAO, Lầu năm góc phương Đông.

        Ngày thường, cũng chẳng ai thèm để ý đến nó làm gì. Những lớp rào kẽm gai chăng dày càng làm cho cái trị David này, thêm cách ly với thế giới bên ngoài.

        Những bãi chuối, cây đu đủ, những đám rau xanh mơn mởn, nằm lọt thỏm giữa một khu đất khô cằn, cỏ cũng không mọc nổi, như muốn thách thức với cảnh vật chung quanh. Những thứ ấy lại không chỉ dùng để cải thiện bữa ăn hàng ngày. Phái đoàn quân sự của Chính phủ cách mạng lâm thời muốn tỏ ra cho những khách khứa hay lai vãng tới đây, phần lớn là nhà báo, phóng viên trong và ngoài nước, biết rằng: chính quyền ngụy Sài Gòn đừng hòng mà cắt đường tiếp tế lương thực, cắt điện, cắt nước như hàng ngày họ doạ dẫm, mỗi khi ta hoạt động mạnh. Ngọn rau, quả chuối, cái bàn, cái ghế, cũng là đề tài tranh cãi giữa bàn hội nghị, có khi kéo dài đến cả tháng trời.

        Có lẽ cũng chỉ có cuộc chiến tranh ở Việt Nam mới có hiện tượng ngược đời như thế này: một phái đoàn quân sự, đông hàng trăm người, do một thiếu tướng làm trưởng đoàn, lại đặt trụ sở ngay ở thủ đô của phía bên kia. Hàng tuần, cũng đọc diễn văn, cũng họp báo, cũng chửi bới nhau chẳng tiếc lời. Ấy thế mà vẫn “song song tồn tại”, năm này qua năm khác. Nguyễn Văn Thiệu và tướng tá của ông ta ghét cay ghét đắng nhóm người ít ỏi này, xem nó như cây gai trước mắt, mẩu xương chặn trong cuống họng, mà vẫn phải cắn răng chịu đựng. Hình thái “cài răng lược” thể hiện trên cả mặt trận ngoại giao, chứ cứ gì ở chiến trường!

        Hàng ngày mặt giáp mặt với đối phương, những người trong phái đoàn ta đã rút ra được một kết luận thực tế: khi nào ở ngoài kia họ càn quét, khủng bố liêm miên, thì ở đây hết cắt điện lại cắt nước, bỏ đi tất cả mọi thứ gọi là ưu đãi, miễn trừ; nhưng ngược lại, nếu ở ngoài kia ta hoạt động mạnh, thì ở trên bàn hội nghị ở trại David này, cũng như ở Paris, họ lại tỏ ra rất biết điều, giảm hẳn những lời nói cộc cằn, những cử chỉ thô lỗ, bảo vâng gọi dạ răm rắp. Đến như trung tướng Dư Quốc Đống, đã có lần làm trưởng đoàn của phía bên kia cũng hạ giọng, nhũn như con chi chi…

        Lại một chuyện kỳ lạ nữa là từ ngày bắt đầu mở đợt tiến công, cái trại David nhỏ bé và tồi tàn này lại trở thành cái ô che cho cả thầy Mỹ lẫn Thiệu: Đã có người rất láu cá, tưởng rằng mảnh đất hằng ngày bị lãng quên này, chắc chắn là nơi an toàn nhất của cái thủ đô nguy nga tráng lệ này, vì pháo binh, rocket của Quân giải phóng, bắn đâu thì bắn, chứ nhất định phải chừa nơi này ra.

        Những ngày tháng 3 năm 1975, chiến sự rộ lên ở Tây Nguyên, họ ban đầu còn làm ra vẻ cứng, bỏ họp, cắt đứt các chuyến bay thường kỳ ra miền Bắc hay ra vùng giải phóng, hăm doạ đủ trò, nhưng hễ “già đòn thì non nhẽ”, càng đánh tới, đánh mạnh hơn, thì những lời nói tục tĩu, những giọng ngang ngược cũng phải gác sang một bên.

        Họ cũng đoán già đoán non rằng thế nào một phái đoàn lớn và quan trọng như thế này, tất nhiên là phải nắm được những ý đồ chiến lược lớn, biết được nhiều tình hình, nên cũng muốn dùng nơi này để làm nơi thăm dò, săn tin. Vẫn tảng lờ như không, phái đoàn ta vẫn giữ nếp sinh hoạt bình thường.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:40:37 am

        Những cán bộ tham mưu chiến dịch không khỏi có nhiều lo lắng khi làm kế hoạch đánh vào mục tiêu Tân Sơn Nhất. Trên đã chỉ thị: bắn vào đây làm thế nào để tránh được đạn lạc vào chỗ phái đoàn ta và các phái đoàn bạn. Vì vậy phải đo đạc, xác định mục tiêu, tính toán kỹ thuật để chọn được phần tử bắn thật tốt cho từng loại pháo, lực lượng sử dụng phải chọn cách đánh thích hợp. Ở trại David, các đồng chí lại có ý nghĩ khác. Thấy rõ bản chất ngoan cố và những hàng động ngang ngược của họ trong những lần tiếp xúc, nên kế hoạch của các đồng chí hướng về việc đối phó với địch nhiều hơn. Giả thuyết ném bom, dùng chất độc hóa học đánh vào trại, tuy có đề ra, nhưng đều bị loại bỏ nhanh chóng, vì có ai dám bảo đảm rằng những thứ ấy lại không rơi vào cơ quan DAO, bộ tư lệnh sư đoàn 5 không quân, ở cách đấy không xa? Chắc chắn là họ chẳng bao giờ dám dùng đến những thủ đoạn này. Giả thuyết chắc chắn hơn là họ sẽ dùng lực lượng bộ binh. Xe tăng, sẽ triệt hạ toàn bộ nhà cửa trong khu vực để trả thù. Một kế hoạch phòng thủ được đề ra để nghiên cứu và thực hiện rất bí mật. Những người khách đến trại đều thấy có những cái giếng cạn mới đào, đất mới được rải khắp nơi. Thiếu tướng Hoàn Tuấn vui vẻ, cởi mởi giải thích cho những người đến thăm là phía bên kia thường dùng biện pháp cắt điện, cắt nước để trả thù, nên phái đoàn phải đào thêm giếng, đề phòng khi có sự kiện này xảy ra, thì có đủ nước mà dùng. Lý lẽ xem ra cũng dễ chấp nhận. Kỳ thực, đêm đêm tất cả mọi người trong đoàn đều hóa thành chiến dịch công binh. Thiếu xẻng, cuốc thì dùng dao găm, cọc dây thép gai; đất khô cứng, khó đào, thì ban ngày dội nước, để đêm đến đào dễ hơn và ít phát ra tiếng động. Sau hai ngày họp bàn, đảng uỷ đoàn dã thay đổi khẩu hiệu: “Nhận sự hy sinh để cho sự nghiệp cách mạng toàn thắng” bằng khẩu hiệu: “Giữ vững vị trí, chiến đấu và chiến thắng”. Một không khí vui mừng, phấn khởi tràn ngập cả trại: anh em thi đua, ra sức xây dựng trận địa, mỗi nhà là một ổ chiến đấu, mỗi góc vườn là một tuyến chống tăng. Sau một thời gian không lâu, nhiều địa đạo, sâu lút đầu người, nối liền các nhà lại với nhau: một Củ Chi nho nhỏ, được bí mật xây dựng trong lòng sân bay Tân Sơn Nhất. Điều lý thú là mặc dù sống giữa vòng vây của đối phương, các loại vũ khí bộ binh và chống tăng, từ mìn đến súng AK.47, B40 và B41 cũng được chuyển đến đầy đủ để trang bị cho các tổ chiến đấu. Thành tích đưa được những thứ vũ khí này đến đây lại thuộc về các đơn vị khác. Một cử chỉ rất đẹp đã nói lên tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả của các phái đoàn Hungary, Ba Lan lúc bấy giờ: Các đồng chí cũng dự kiến là họ có thể gây nhiều khó khăn cho phái đoàn ta. Là những nhà quân sự, họ cũng biết rằng Tân Sơn Nhất có thể là mục tiêu đánh phá của pháo binh ta, còn ở duới phố Sài Gòn thì chiến sự có thể sẽ không ác liệt bằng, vì một khi Tân Sơn Nhất đã mất, thì Sài Gòn ắt phải đầu hàng. Tuy nhiên, cả hai phái đoàn Hungary và Ba Lan đều tình nguyện ở lại gần trại David, cùng trong sân bay Tân Sơn Nhất mà không về ở những khách sạn sang trọng, có đầy đủ điều hoà, bể bơi để cùng chia sẻ mối nguy hiểm với ta, để có cơ hội ngăn chặn bàn tay độc ác của đối phương, nếu vạn nhất điều đó sẽ xảy đến.

        Bề ngoài, mọi nề nếp sinh hoạt vẫn giữ như lúc bình thường từ trước đến nay. Cho đến ngày 26 tháng 4, phiên họp cuối cùng tuy có đông hơn mọi lần, nhưng họ vẫn chưa mò mẫm, moi móc được gì trước những câu trả lời nhát gừng, lơ lửng của phó đoàn, đại tá Võ Đông Giang.

        Trong suốt tuần lễ này, tiếng pháo tiến công ở ven đô giội vào trung tâm thành phố, làm bầu không khí chính trị ở đây lên xuống, phấp phỏng, lú lẫn như người vợ béo trong ùng ục của Trần Thiện Khiêm mà còn có vẻ thức thời: đêm 17 tháng 4, trong một bữa tiệc tại nhà Khiêm, người ta thấy bà ấy mình đeo đầy vàng ngọc, trông như một đào hát trên sân tuồng, đang tươi cười đón mời khách khứa, bỗng oà lên khóc rất to một hai đòi rút khỏi đất nước này tức khắc. Ấy thế mà ngồi bên kia bờ Thái Bình Dường, Kissinger vẫn còn tin rằng, có thêm viện trợ, là có thể cứu được Thiệu. Ông ta chờ hai ngày nữa, ngày 19 tháng 4 sẽ đến, để cho quốc hội Mỹ bỏ phiếu về hai vấn đề: Viện trợ cho miền Nam Việt Nam và cho lực lượng Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam để bảo vệ cho kiều dân Mỹ.

        Lạ thật! Đến bây giờ mà CIA chưa hề hay biết gì về sự có mặt của các đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Văn Tiến Dũng ở Lộc Ninh cả. Đây không phải chỉ là do ta giữ bí mật tốt, mà còn có thể là do bộ máy nắm tình hình của Mỹ quá tồi.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:41:47 am

        Ngày 18 tháng 4, một nhóm nhân vật ôn hoà và đối lập ở Sài Gòn đến gặp Thiệu. Theo họ, không phải chỉ có mặt trận quân sự, mà cả mặt trận chính trị, thời gian đã chấm dứt. Họ yêu cầu trong 6 ngày nữa, nếu Thiệu không chịu rút lui, thì sẽ công khai làm việc đó.

        Phản ứng đầu tiên của Thiệu là lập tức ra lệnh tống giam một số sĩ quan trong Quân đội Việt Nam Cộng hoà, những người bị Thiệu gắn cho cái tội là thiếu tinh thần trách nhiệm, trong đó có Phạm Văn Phú, từ ngày ở Tây Nguyên chạy về, cáo bệnh, nằm điều trị tại một bệnh viện ở ngoại ô Sài Gòn. Vô tình hay hữu ý, Thiệu quên khuấy rằng, đứng trước lịch sử, công bằng mà nói, thì kẻ đáng vào nhà tù trước tiên, phải chính là ông ta.

        Và cái ngày 19 kia với bao nhiêu nỗi hồi hộp mong đợi, tất nhiên đến. Quốc hội Mỹ, lần cuối cùng này vẫn cứ trơ trơ. Uỷ ban quân lực cũng bác bỏ luôn mọi điều khoản bổ sung về quân sự. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, Kissinger, người xưa nay vẫn nổi tiếng là thông minh, tự cao, tự đại, đã thú nhận là mình đã thất bại. Ông ta thổ lộ tâm tình với một nhóm nghị sĩ: “Cuộc tranh luận về Việt Nam thế là hết! Chính phủ sẽ chấp nhận sự phán xét của quốc hội mà không kêu ca, phàn nàn gì cả…

        Sáng ngày 21 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu triệu tập Trần Văn hương, phó tổng thống và Trần Thiện Khiêm đến dinh Độc Lập và ngỏ ý muốn từ chức, với lý do là tình hình quân sự đã trở nên vô vọng, nên cảm thấy nếu có cố ở lại cũng vô ích, chỉ tổ ngăn cản một giải pháp mà thôi. Nguyện vọng duy nhất của ông ta là “chuyển giao chính quyền một cách hợp hiến, để tránh tình trạng hỗn loạn”.

        Được lôi từ trong bóng tối ra, Trần Văn Hương khấp khởi mừng thầm. Hạnh phúc đến với ông ta quá đột ngột. Người ta thấy ông ta chống gậy, sờ soạn bước lên vũ đài chính trị. Ông ta chẳng hiêu mô tê gì, mà cứ tưởng mình là người hùng, chẳng biết thân phận, giữa lúc này mà giám xông ra, toan bẻ nạng chống trời. Chết đến nơi rồi, mà vẫn còn già mồm leo lẻo: “Nếu chúng ta không thể thương lượng một cách thoả đáng và thành công, thì Sài Gòn sẽ biến thành một biển máu, và chúng ta sẽ còn phải chiến đấu, vì danh dự quốc gia…”. Học tập Ngô Quang Trưởng trước đây ở Huế, ông ta còn thề quyết tử với thủ đô, thề với quốc dân đồng bào là Quân giải phóng muốn vào Sài Gòn, phải bước qua xác già khô của ổng.

        Ở Washington, tin Thiệu từ chức làm cho Kissinger buồn rầu. Ông ta chỉ còn có một yêu cầu là làm thế nào để Thiệu rời khỏi đất nước được yên lành. Ngờ nghệch, lẩm cẩm hay là quá ngây thơ, ông ta quên khuấy việc vợ Thiệu - từ mấy ngày trước đã dự kiến đầy đủ tình hình, và đã tếch khỏi Việt Nam với hàng bao nhiêu vàng rồi.

        Ở Sài Gòn, Ch.Times thì lại hốt hoảng, vội tìm Dương Văn Minh để tìm cách gạt Hương ra, vì nhận thấy Hương bệnh tật, mù loà, lẩm cẩm, đã hết thời rồi và cũng chẳng có cái thớ gì để nói chuyện với phía bên kia.

        Có một số người Việt Nam, khi nghe Thiệu đọc lời tuyên cáo với quốc dân, thì tỏ ra khoái chí, vì nghe Thiệu đá móc Mỹ mấy câu; một số khác, nhất là trong đám sĩ quan trẻ, thì thấy tội là do Thiệu, mà cũng chẳng thích thú gì Hương. Họ hy vọng là có thể nói chuyện bình đẳng với cộng sản, chứ không phải ở tư thế đầu hàng. Các chính khách cơ hội, chạy đi chạy lại như điên: Trần Thiện Khiêm thì muốn lập nội các, do ông ta và Viên điều khiển, còn Minh thì làm thủ tướng tượng trưng cốt để làm giảm nhẹ đòn tiến công của Quân giải phóng, tranh thủ thời gian lấy tinh thần quân lính. Trần Văn Đôn lại muốn nhảy ra, vồ lấy cái ghế tổng thống nhưng bị Pháp lắc đầu, nhắc khéo là chỉ có Dương Văn Minh, mới được bên kia chấp nhận.

        Về phần mình, Dương Văn Minh tự thấy mình có đủ tư cách hơn, trong sạch hơn và cũng được Pháp săn đón hơn. Ông ta đưa ra ý kiến muốn cử người sang ngày Paris để thảo luận với đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời và Chính phủ Pháp. Ông ta hy vọng sẽ có một cuộc mặc cả, thành lập một chính phủ có đầy đủ các thành phần để kêu gọi ngừng bắn. Ch.Times nghe lỏm được mừng quýnh, vì thấy rất hợp ý mình. Chi ra ngày một nghìn đô la để làm lộ phí. Tiếc thay, số tiền này đã không bao giờ được dùng đến. Ta bác bỏ mọi lời kêu gọi, nhất quyết đòi từ bỏ Thiệu, đòi chấm dứt sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Đài phát thanh giải phóng tuyên bố rất rõ ràng: “Nếu Mỹ không thực sự đáp ứng những đòi hỏi chính đáng đó, lại giở những thủ đoạn lừa gạt dư luận thì không thể giải quyết được gì và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm”.

        Rất kiên nhẫn, tình hình đã đến như thế này rồi, mà Washington cũng như Sài Gòn vẫn cứ cho là còn cơ hội để xoay sở. Cơ sở của niềm tin, lần này, lại phát sinh ra từ đại sứ quán Pháp. Một buổi sáng cuối tháng 4, các sứ quán nước ngoài lần lượt rủ nhau đóng cửa. Các sứ quán Anh và Canada, đã bỏ lại hầu hết những người đã gắn bó với họ từ trước đến nay, sứ quán Đài Loan thì bề ngoài, cũng bắt chước ra đi, nhưng lại bí mật để lại hơn 1.000 nhân viên tình báo. Chỉ riêng có sứ quán Pháp thì lại có vẻ đàng hoàng, chững chạc hơn: họ thông báo trước cho 1 vạn công dân Pháp hãy cứ an tâm ở lại, tin chắc rằng sắp có ngừng bắn đến nơi rồi. Trần Văn Hương lật đật cho mở cửa các nhà tù, thả tất cả tù chính trị, trong đó có 18 nhà báo. Ông ta lại còn tất tưởi đi gặp Minh, cố thuyết phục Minh tham gia vào nội các mới với tư cách là thủ tướng. Dĩ nhiên là Minh từ chối, vì tham vọng của Minh không phải chỉ dừng lại ở cái ghế què chân kia mà thôi. Thế là các nhân vật chính trị lại dấy lên như ong, chống Hương kịch liệt. Trần Quốc Bửu, chủ tịch công đoàn vàng, đòi tống cổ Hương. Thích Trí Quang, buộc Hương phải nhường chỗ cho Minh. Nguyễn Cao Kỳ, thì không tiếc lời mạt sát. Hy vọng, tham vọng tan vỡ như bọt xà phòng.

        Nhà chính trị già mới vỡ lẽ ra một điều: người ta thì ăn ốc, còn mình thi nai lừng đi đổ vỏ! Chính quyền Sài Gòn như rắn mất đầu.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:44:23 am

Chương 24

MỘT LẦN... MỘT NGÀY

        Đại tá Hoàng Ngọc Diêu đứng dậy, theo thói quen, sờ tay lên ve áo, chỉnh đốn trang phục, mặc dù ở chiến trường, không bao giờ, không bao giờ có mang phù, cấp hiệu. Anh nói đầy xúc động:

        - Chúng tôi hứa sẽ kiên quyết chấp hành mệnh lệnh của đồng chí. Bây giờ, xin đồng chí cho phép tôi ra ngay sân bay Thành Sơn ở Phan Rang, để gặp các đồng chí trong Bộ tư lệnh quân chủng. Quay sang đồng chí trung tá Hoàng Dũng, đại tá nói tiếp:

        - Đề nghị Bộ điện trực tiếp cho anh Lê Văn Tri, tư lệnh quân chủng vào ngay Đà Nẵng, để kiểm tra lại anh em lái MiG17, đang chuyển loại sang lái máy bay A37.

        Anh Tuấn mỉm cười, đứng dậy bắt tay đồng chí Diêu. Nhìn ra ngoài trời, tỏ vẻ ái ngại. Anh cố nói to, để át tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái nhà.

        “Các đồng chí chỉ còn có ba ngày nữa thôi đấy. Nếu quá ngày 28 tháng 4 mà chưa đánh được, thì không còn cơ hội nào nữa đâu. Không quân chiến đấu của các đồng chí, chỉ còn có một ngày, một lần này để lập công mà thôi. Cái khó khăn lớn nhất của các đồng chí trong khi tham gia vào chiến dịch lịch sử này là phải dùng máy bay địch để đánh địch. Như thế, sẽ đẻ ra nhiều cái khó khăn mới, nhưng cũng có nhiều cái lợi hơn: địch sẽ bị bất ngờ lớn, chúng sẽ hoảng loạn hơn. Phải phát huy tinh thần kiên cường dũng cảm và tính sáng tạo, đánh vào sào huyệt đầu não của địch, trong giờ phút quyết định nhất. Đánh như thế này cũng là để chi viện hoả lực, tạo điều kiện thuận lợi cho các mũi tiến công vào Sài Gòn, và cũng để cho nhân dân nổi dậy.

        Như sực nhớ thêm điều gì, đại tá lại đề nghị tiếp hai điểm:

        - Với anh lái của ta, nếu chỉ mới bay đơn được, đề nghị cũng cho đi chiến đấu; cho đồng chí Nguyễn Thành Trung dẫn đầu đội hình đi chiến đấu, vì đồng chí thông thạo địa hình thành phố Sài Gòn-Gia Định.

        Mưa tạnh đột ngột. Đồng chí Diêu vừa bước ra khỏi nhà, thì một chiếc xe honda cũng vừa xịch đến đỗ ngay trước sân. Như một cái máy, đồng chí leo lên xe, tay ôm lưng người lái. Một cán bộ của Ban 5, tất tả chạy ra, dúi vào sà cột đồng chí mấy gói lương khô và hai bao thuốc lá:

        - Mình có hút thuốc đâu.

        - Cho lái xe, đi đêm đỡ buồn ngủ.

        Chiếc xe honda sơn màu đỏ, chạy men theo các trảng tranh, vòng vèo dưới bóng những rạng cây thưa, thỉnh thoảng ngoặt phải, ngoặt trái rất bất ngờ. Ai đã từng qua đây, đều dễ dàng phát hiện bầu không khí tưng bừng, nhộn nhịp của khu rừng Lộc Ninh này. Chỉ trước đây mấy hôm thôi, kỷ luật giữ bí mật trong hành trú quân của “R” - tức là Trung ương Cục-nổi tiếng khắp miền là nghiêm ngặt chẳng đâu bằng. Thế mà từ ngày A75 vào đến đây, hình như mọi quy định nói trên đều thay đổi cả; xe honda chạy như mắc cửi, mùi xăng thơm lừng. Mật độ người tăng lên một cách đột ngột, lán trại dựng không kịp, tiếng máy chữ đánh lách cách suốt ngày đêm dưới các lùm cây.

        Ra đến bãi, chiếc xe com măng ca đã trực sẵn từ lâu.

        Đồng chí Diêu nói với lái xe:

        - Chúng mình không về chỗ cũ nữa đâu, mà phải ra tận Phan Rang kia. Bây giờ chúng ra Dầu Dây, rẽ lên đường 20, đến Đức Trọng, ra Đôn Dương rồi xuống Phan Rang.

        Cả đồng chí trợ lý tác chiến và đồng chí lái xe ngồi nghe, dạ chừng chừng, tưởng như đã rõ cả; kỳ thực cả hai người đều chẳng hiểu mô tê gì, vì lần đầu tiên họ mới nghe nói các địa danh xa lạ này.

        Họ chuẩn bị cho một chuyến đi xa và gấp-hơn nửa nghìn cây số, vòng quanh cao nguyên Lang Biên trong một đêm-nhẹ nhàng, thanh thản như thế đó. Và xe bắt đầu nổ máy, lên đường.

        Định bụng sẽ tranh thủ ngủ một giấc dài, để lấy lại sức, nhưng không tài nào chợp mắt được. Lòng dạ cứ nao nao, bồn chồn vừa lo lắng, lại vừa phấn chấn vui mừng. Đêm trước, từ Rừng Lá, phía bắc Xuân Lộc, về sở chỉ huy chiến dịch, đã mất ngủ cả đêm rồi. Một phần vì đường sóc, ngồi cứ lắc lư lắc la cả đêm, phần vì băn khoăn với câu hỏi: anh Tuấn gọi mình về để làm gì nhỉ? Hết đoán già lại đoán non, vẫn không tìm ra được câu trả lời. Nay thì lại quá rõ ràng rồi, nhưng lại rất bất ngờ, nên lòng dạ vẫn cứ rối bời. Là phó tư lệnh quân chủng Phòng không-Không quân, từ lúc bắt đầu chiến dịch tới nay, đồng chí Diêu được trên điều động về cơ quan làm đại diện quân chủng bên cạnh trung tướng Lê Quang Hoà. Gần một tháng nay, đồng chí làm nhiệm vụ tiếp thu hơn là hợp đồng tác chiến, vì các đơn vị pháo ca xạ, ngày này qua ngày khác, lo thần tốc hành quân cho kịp với bộ binh, chỉ đánh nhau có mấy trận lẻ tẻ. Được cử vào tiếp thu sân bay Đà Nẵng, mới xem qua, chưa kịp đếm hết chiến lợi phẩm, thì lại phải đi tiếp các sân bay phía nam: Chu Lai, Phù Cát, Đông Tác, Nha Trang, Thành Sơn, nơi nào cũng ngổn ngang đủ loại máy bay, bề bộn xe cộ và bom đạn. Vì vậy, chỉ mới có một khái niệm chung chung, chứ ai mà nắm cho cụ thể và chính xác được. Đồng chí chợt nhớ ra là trong hàng trăm chiếc máy bay chiến lợi phẩm mới thu được, không tìm đâu ra được một quyển lý lịch cho bất cứ một chiếc nào. Đưa ra sử dụng ngay, không kiểm tra, xác minh lại, liệu có phát sinh vấn đề gì không? Rắc rối quá chừng!


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:23:03 pm
   
        Lời dặn cuối cùng của anh Tuấn cứ văng vẳng bên tai: “Chỉ còn ba ngày nữa thôi đấy…”. Đồng chí mở xà cột, lấy mảnh bản đồ 1/500.000 ra xem. hầu hết những cán bộ tham mưu đi tham gia chiến dịch lần này, đều phải dùng loại bản đồ tỷ lệ quá lớn này để làm kế hoạch hành quân, vì địa bàn hoạt động của các đơn vị, luôn luôn toả ra rất rộng, dùng bản đồ tỷ lệ nhỏ, chẳng biết bao nhiêu mảnh cho vừa. Còn đang tìm kiếm, nhẩm tính thì xe đã đến ngã ba đường 13. Lái xe vừa giảm ga, chưa rẽ sang trái-nghĩa là hướng đi về hướng Lộc Ninh-thì đồng chí Diêu đã đoán trước ngay:

        - Không! Rẽ sang phải chứ. Xuống Chơn Thành, đi theo đường 14 ra Đông Xoài, nhanh hơn.

        - Đồng chí trợ lý tác chiến trả lời: hơi nguy hiểm đấy thủ trưởng ạ, nhất là đoạn từ Chơn Thành ra Đồng Xoài, không biết mấy hôm nay, công binh đã gỡ hết mìn chưa?

        - Chắc là họ đã làm rồi đấy, nhưng phải cái mới mẻ, xe cộ ít đi lại thôi. Đi vòng lên Lộc Ninh, ra Bù Đốp, vòng xuống, chưa chắc nửa đêm nay đã đến được Đồng Xoài.

        Chiếc xe lại hướng về Sài Gòn. Trời về chiều, quang cảnh trên đường, người đi lại tấp nập, phần lớn là bộ đội. Trông thấy mấy cô thanh niên xung phong đang cuốc tháo những vũng nước mưa đọng trên lòng đường, đồng chí lại thêm một nỗi lo: Đêm nay phải vượt qua bao nhiêu sông suối, nhỡ nước lên to, phải nằm lại thì nguy mất. Đang suy nghĩ miên man, thì xe đã đến cầu Nha Bích, một chiếc cầu bắc qua Sông Bé, đã bị ta phá sập từ lâu, nay phải đi ngầm. May quá, trận mưa ban chiều, ập xuống bất thình lình, nhưng rất ngắn, nên nước sông không lên to; chỉ có cái khổ là hai bên bờ rất hõm. Chiếc xe hai cầu lên xuống dốc rất vất vả. Nhờ có công binh đã cho túc trực một cái máy húc C100 ở ngay đấy, chủ yếu là để co kéo xe cộ qua lại, chứ không phải để hạ độ dốc, nên vượt ngầm đỡ tốn nhiều thời gian.

        Đường từ Chơn Thành ra Đồng Xoài, chỉ có hơn vài chục cây số, tráng nhựa, xe chạy tốt. Theo sự chỉ dẫn của đồng chí Thuận, tham mưu trưởng công binh, phải bám giữa lòng đường, không vượt, không tránh, không được tuỳ tiện dừng lại giữa đường. Trên đoạn đường này, nhất nhất đều phải nghe theo lệnh của hai trạm điều chỉnh ở hai đầu.

        Đến Đồng Xoài, các nhà đồng bào vừa mới lên đèn. Một đống đá to tướng nằm lù lù giữa nga tư, trên có cắm rất nhiều mảnh giấy trắng. Đây là một trạm điều chỉnh giao thông chiến dịch. Ngã tư Đồng Xoài là một đầu mới giao thông cực kỳ quan trọng. Gần một nửa lực lượng tham gia chiến dịch, bộ binh và các quân binh chủng, hầu hết khối lượng vật chất bảo đảm cho chiến dịch đều phải qua đây, trước khi rẽ vào các hướng tập kết. Biết vậy, nên mấy ngày gần đây, đối phương oanh tạc khu vực này rất dữ. Trạm điều chỉnh giao thông phải làm việc ngay trong hầm chữ A, ở gần đấy, nên mới phải đắp một đống đá to tướng giưa đường để ai qua lại đều lấy đó làm địa điểm liên lạc.

        Đồng chí Diêu xuống xe đến bên cạnh đống đá, bấm đèn pin soi vào những mảnh giấy trắng, tìm kiếm. Một chốc lâu, khẽ gật đầu nói:

        - Tốt quá! Anh em đã vào đủ rồi đấy.

        Lại lên xe đi về hướng đông, vì đã có quy định là không ai được dừng lại lâu ở nơi ngã tư nguy hiểm này. Đi được vài cây số, thấy một đoàn xe chở mấy quả tên lửa đỗ bên cạnh đường, ở bìa rừng.

        Thấy một đám người ngồi xung quanh một đống lửa, dưới một gốc cây to, đồng chí xuống xe tiến lại gần. Có người nhận ra ngay đồng chí:

        - Báo cáo thủ trưởng, anh em được lệnh dừng lại ở đây thôi ạ, không đi vào sâu nữa đâu, vì đường độc đạo, rất hẹp và các đơn vị bạn ở phía trước cũng đang bị ùn, đang tìm cách dồn đội hình lên.

        - Đồng chí Quang Hùng hiện nay ở đâu? Các đồng chí có biết không?

        - Phó tư lệnh ở trước kia đang chỉ huy đơn vị chiếm lĩnh.

        - Mấy hôm vừa rồi, địch có hoạt động gì nhiều không?

        - Vừa thôi. Mỗi lần vài chiếc, lượn mấy vòng ở Đồng Xoài, Bến Cầu,ném vung vít mấy quả bom vào rừng, vì bay rất cao.

        - Nên đề nghị với anh Quang Hùng cho triển khai tên lửa đánh máy bay trên vùng trời Sài Gòn, nếu không thì hết thời cơ.

        - Theo lệnh của trên, đơn vị chúng tôi phải bí mật bố trí ở đây, chờ đúng “B” mới được lên tiếng. Các loại “F” thì đã có cao xạ rồi. Hồm trước, ở ngoài Buôn Ma Thuột, chờ mãi chẳng thấy “B”, bung gì; không biết sắp đến, chúng có đến cho không, hay lại hẫng như lần trước. Kéo nhau đi từ ngoài kia vào đến đây, không khéo lại chẳng hạ được chiếc nào cũng nên.

        Nghe được cuộc trao đổi ngắn gọn hôm nay, không biết trong quốc hội Mỹ, có ai còn định dùng B52 để làm con ngoáo ộp, để đi cứu bọn tay sai hay đi bảo vệ những công dân Mỹ di tản không? Quay về xe, cả ba người bóc lương khô ra ăn tối. Uống xong một ngụm nước, lại tiếp tục lên đường. Tiếng pháo cối từ hướng Biên Hoà, đường quốc lộ 1 vọng lại, nghe như tiếng trống trận, càng làm cho lòng dạ nôn nao. Lời dặn dò lúc ban chiều còn văng vẳng bên tai: chỉ có một ngày, chỉ có một lần…

        Quân chủng được Bác khai sinh, dạy dỗ mọi điều, hôm nay, trong chiến dịch mang tên Bác, giải phóng thành phố mang tên Bác, nhất định phải lập được chiến công lớn để dâng Người. Mệnh lệnh của trên là có lý, có tình; khó khăn đến đâu cũng phải thực hiện cho bằng được.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:27:05 pm
        
        Là một cán bộ kỳ cựu của quân chủng, đại tá nhớ rất kỹ từng chặng đường trưởng thành, từng mệnh lệnh, từng chỉ chị của Bộ Tổng tham mưu nói chung và của anh Tuấn nói riêng. Mười năm về trước, cũng trong một buổi sáng tháng 4 như thế này, trực ban tác chiến vừa báo cáo với anh Tuấn có máy bay địch bay vào không phận miền Bắc, anh đã đến ngay trước bảng tiêu đồ. Nhìn vào tấm kính màu, những đốt vẽ bằng bút chì đầu xanh rõ nét, đang nhích dần ra hướng bắc. Địch đang hùng hổ tiến vào bằng nhiều hướng. Hôm qua, hôm kia, chúng đã ném bom, bắn phá đồn biên phòng Nậm Cắn, Nậm Giẽ; thì hôm nay chúng sẽ đánh ra xa hơn: Vinh, Hàm Rồng hay Nam Định? Một mũi dao nhọn, từng giây một, đang ấn sâu vào tim gan chúng ta… Anh chay mày, mắt không rời mặt kính, hỏi:

        - Hỏi lại quân chủng ta thế nào?

        - Báo cáo: biên đội Lan, Túc, Quỳ, Phương đã sẵn sàng trong buồng lái cả rồi. Bộ tư lệnh Quân chủng đang chờ ý kiến của Bộ để hạ lệnh xuất kích. Phương án tác chiến, đã phổ biến cho anh em cả rồi.

        Có tiếng râm ran ở cuối phòng: Đông quá! Toàn F4, F105 cả. bây giờ mà cất cánh thì chúng vũ vào như ong cho mà xem. Làm thế nào mà thoát khỏi vòng vây?

        Máy điện báo đặt bên kia tấm kính tiêu đồ, phát ra đều đều tè tè, tích tích, giục giã một quyết tâm nhanh chóng, chính xác và dứt khoát. Sinh mệnh của đồng bào, truyền thống của một quân chủng lớn, được định đoạt trong những phút giây cực kỳ căng thẳng này.

        Người ta thấy anh nói chầm chậm từng tiếng một.

        - Đồng ý đề nghị của quân chủng, lệnh cho cả biên đội xuất kích. Và quay sang nói với những người xung quanh:

        - Chả nhẽ tổ chức lực lượng ra, để đến lúc này lại ra lệnh chạy trốn à? Mây của ta, trời của ta, ta chiến đấu giữa lòng nhân dân ta, phải tìm cho ra cách đánh của ta. Những người ở mặt đất, phải nghiên cứu để tạo điều kiện cho anh em chiến thắng, xây dựng truyền thống cho đơn vị…

        Mười lăm phút sau, đã nghe có tiếng vang trong máy: “Rơi rồi! Hoan hô!”. Trận mở đầu thử thách đầu tiên ấy đã trở thành trận kiểu mẫu tuyệt vời, mở đầu cho hàng trăm trận chiến công về sau. Trong nghệ thuật quân sự Việt Nam, đã giải quyết được câu hỏi: lấy yếu đánh mạnh như thế nào, lấy biên đội nhỏ đánh địch đông mà hiệu suất cao như thế nào.

        Bước vào những năm đầu của thập kỷ 70, đế quốc Mỹ lại đưa ra một thủ đoạn ngăn chặn mới. Chiếc tàu chiến bọc thép New Jersey với nhung nhúc tàu hộ khu trục, tàu hộ vệ bám xung quanh, với tầm bắn 35 cây số, đêm ngày khống chế một đoạn đường dài trên tuyến vận chuyển Bắc-Nam, trong phạm vi tỉnh Quảng Bình. Không còn cách gì để làm đường vòng, đường tránh, vì núi đá chập trùng. Pháo bờ biển của ta với hết tầm, chúng vẫn trơ như đá, vững như đồng. Để kịp thời phá tan âm mưu này, cũng theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, một sân bay được xây dựng hết sức gấp rút, hết sức bí mật, giữa lòng dãy Trường Sơn. Một biên đội máy bay tiêm kích mang bom được khéo léo, bí mật đưa đến phục sẵn ở đấy. Lần xuất kích đầu tiên này đã nhận chìm ngay một khu trục hạm. Vừa đau nhói, lại vừa tức tối, các cơ quan tuyên truyền của Mỹ không hề hé rắng, la ó về trận thuỷ chiến này như trận đánh tàu Madox trước kia. Một sân bay, một máy bay,  có một lần đánh, một mục tiêu… và bây giờ thì chỉ có một ngày, chỉ có một lần. Giá mà cấp trên cho dùng cả trung đoàn tiêm kích MiG-21 thì còn nói làm gì. Lần này, lại chỉ cho dùng máy bay chiến lợi phẩm mới là rắc rối. Thông thường, muốn chuyển loại máy bay,với những tay láu cứng cũng phải mất mươi ngày, nửa tháng để nắm lai phần lý thuyết, phải bay ít nhất mươi, mười lăm giờ mới đánh được. Gặp thời tiết tốt, có nhanh cũng phải mất một tháng rưỡi mới gọi là chuẩn bị xong. Thế mà nay, tất cả mọi công việc phức tạp ấy chỉ được làm trong vài ngày, trong điều kiện thiếu giáo viên chuyên môn và chỉ có một máy bay huấn luyện. Tính năng, tác dụng, yếu lĩnh điều khiển, vị trí sắp xếp các nút trong buồng lái đều hoàn toàn khác máy bay ta, lại toàn ghi bằng tiếng Anh. Nếu có nhà chuyên môn về kỹ thuật nào biết được thời gian biểu đã vạch ra, chắc người ấy sẽ cho là điều viễn tưởng, khó tin hoặc là kỳ diệu: chiều ngày 22 tháng 4, bắt đầu học lý luận, để sáng ngày 25, bắt đầu huấn luyện lái, khoá học sẽ kết thúc vào chiều ngày hôm sau; như vậy là chỉ bay kèm được có một lần, tập hạ cánh rồi làm động tác kỹ thuật luôn. Có một chi tiết mà đồng chí Diêu chưa dám báo cáo hết với anh Tuấn: sang nay, trên sân bay Phù Cát, chiếc máy bay huấn luyện vừa đỗ xuống đã bị tắt máy giữa đường băng. Hú vía cho cả giáo viên và học trò. Nghĩ đến đồng chí Trần Mạnh, Tham mưu phó quân chủng, người phục trách chuyển loại các anh em lái, đồng chí Diêu thầm nghĩ. Anh em ta thông minh, dũng cảm và sáng tạo thật. Chỉ có như thế đấy, cứ mỗi lần hoàn thành một nhiệm vụ vừa phức tạp, nặng nề và mới mẻ, quân chủng lại tích lũy thêm được một số kinh nghiệm vô cùng quý báu, lại trưởng thành thêm một bước. Trên con đường dài tiến lên chính quy và hiện đại, quân chủng đã đi được những bước đi vững chắc, nhưng lại với một tốc độ phi thường: chỉ hơn một thập kỷ xây dựng và chiến đấu, trong chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở miền Bắc, quân chủng Phòng không-Không quân đã dũng cảm, kiên cường, sáng tạo ra những cách đánh rất độc đáo, đã góp phần quan trọng vào sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, đánh thắng không lực Hoa Kỳ là lực lượng không quân mạnh nhất trong các nước đế quốc. Cả thế giới phải kinh ngạc, những tay lái kiệt suất của Hoa Kỳ đã phải nghiêng mình khuất phục trước lòng dũng cảm và tài nghệ của những Trần Hanh, Phạm Tuân, Nguyễn Văn Cốc, Nguyễn Văn Bảy v.v… Đội ngũ này, rồi đây sẽ được nhân lên gấp bội…

        Đang suy nghĩ miên man, đồng chí cảm thấy lành lạnh. Xe tăng nhanh tốc độ. Thì ra trời đã sáng rõ, và cũng đã ra đến quốc lộ 11 tự lúc nào. Đến sân bay Thành Sơn buổi sáng, thì chiều hôm ấy tiếng súng tiến công đã bắt đầu giội lên ở Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:33:20 pm
       
Chương 25

MỞ MÀN VÀ... KẾT THÚC

        Từ sáng sớm ngày 26 tháng 4, sau khi phân đội trinh sát của sư đoàn 304 diệt mấy tên địch đang đi tuần tra, đối phương phát hiện được ta đang tiến gần đến căn cứ Nước Trong. Chúng dùng trực thăng vũ trang, điên cuồng đánh phá vào đội hình trung đoàn 9 và các trận địa cao xạ của ta. Bị bắn rơi một chiếc A37, nên càng lồng lộn, đánh trả quyết liệt bằng bom, rocket và cả bằng hoả lực pháo binh. Đến 11 giờ trưa, ném bom trúng vào đội hình của trung đoàn 101, tiểu đoàn bộ và đại đội hoả lực của tiểu đoàn 2 bị tổn thất nặng. Tiếng súng thưa dần, hoạt động của phi pháo cũng giảm hẳn. Càng về chiều, trạng thái hầu như trở lại bình thường. Tưởng thế là xong. Các tướng tá ngụy gồm chỉ huy trưởng các đơn vị bộ binh, thiết giáp, thuỷ quân lục chiến, trường cảnh sát, kéo nhau về họp tại trường bộ binh và nhận định: chiến sự trong ngày 26 tháng 4 coi như đã chấm dứt. Lại có một kế hoạch mới: đêm đến sẽ có thêm lữ đoàn thuỷ quân lục chiến đến tăng cường cho mặt trận phía đông này. Đã quen với lối sống trong những nhà cao cửa lớn, nên trong những giờ phút sôi động, nóng bỏng nhất, họ vẫn túm tụm nhau lại trong ngôi nhà đồ sộ này, để họp bàn kế hoạch tác chiến, vì có đầy đủ thiết bị, tiện nghi. Chính nơi đây, những cán bộ pháo binh của ta cũng thường hay chú ý đến, nếu không chọn làm mục tiêu bắn thử thì cũng là vật chuẩn rất tốt.

        Y như rằng! Đúng 17 giờ, mặt trời chưa tắt hẳn, bão lửa ập xuống, khói bụi phủ kín cả mấy ngôi nhà. Lại bị bất ngờ rồi! Họ đoán rằng ngày 27 tháng 4, ta mới nổ súng. Điều đó khá chính xác. Nhưng trước đấy, vì thấy đường tiến quân vừa xa hơn, lại phải vượt qua nhiều sông ngòi, nên trung tướng Lê Trọng Tấn đã đặc phái trung tá Lê Phi Long từ Rừng Lá, ngày đêm đi gấp về sở chỉ huy chiến dịch ở Lộc Ninh để đề nghị cho Cánh Đông được nổ súng tiến công trước các nơi, đúng 17 giờ ngày 26, và đã được Bộ tư lệnh chiến dịch phê chuẩn. Như một bầy ong vỡ ổ, mạnh ai, nấy chạy. Người nào nhanh chân hơn, nhảy kịp lên xe gíp, phóng một mạch về ngay đơn vị; kẻ chậm chân, vứt cả xà cột, kéo nhau lóp ngóp chạy bộ. Sau 40 phút bắn dồn dập, bộ binh ta xông lên như vũ bão.

        Ở Nước Trong, trung đoàn 9 là mũi đột kích chính. Tiểu đoàn 3 vừa mở cửa xong, bộ binh lên chiếm đầu cầu, thì tiểu đoàn 2 đã diệt được tiền đồn do một tiểu đoàn bảo an chống giữ, bắn cháy một xe tăng, rồi xông lên mở rào. Pháo chống tăng 85 ly cũng được đưa lên kịp thời, bắn trực tiếp vào các ụ súng, lô cốt trước mặt. Đối phương phát hiện ra được đây là hướng đột phá chủ yếu của sư đoàn, nên tập trung sức đối phó: dùng pháo bắn chặn và đưa xe tăng ra bịt cửa mở. Lập tức, ta bắn cháy ngay một chiếc. Toàn bộ địch ở đây tháo chạy, tiểu đoàn 2 nhanh chân truy theo sát gót, đánh thẳng vào sở chỉ huy của trường thiết giáp, đến 18 giờ 45, hoàn toàn làm chủ khu vực này. Bộ binh, xe tăng, hợp đồng rất chặt chẽ, phát triển rất nhanh, vượt qua lưới lửa dày đặc, chỉ 2 giờ sau phát triển đến rừng cao su. Nhưng khi còn cách quốc lộ 15 khoảng 3-4 cây số, thì bị chặn lại.

        Để chặn đứng làn sóng tiến công của ta hướng về đường 15, 22 giờ đêm hôm ấy, Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh vùng 3, đã đích thân đến ngã ba đường 15 và đường quốc lộ 1, gọi là để thị sát mặt trận. Phát hiện ra hướng tiến công chủ yếu của ta: Nước Trong, Long Bình, cầu xa lộ, ông ta thành lập bộ chỉ huy hỗn hợp gồm có bộ binh, thuỷ quân lục chiến, thiết giáp và cử đại tá, chỉ huy truởng trường thiết giáp phụ trách chung. Trong đêm, còn điều thêm chiến đoàn 318, chiến đoàn 313 đến Long Bình, rút chiến đoàn 322 từ Hố Nai trên đường quốc lộ 1 xuống để tăng cường thêm cho hướng này. Suốt cả ngày 27 tháng 4, một trăm bốn mươi lần chiếc máy bay, hết bổ nhào đến bay bằng, ném bom tọa độ, hết bom chát đến bom dù, bom bi, quyết chặn đứng hướng tiến công chủ yếu này. Trung đoàn 9, tổ chức tiến công ở ngã ba Nước Trong lần thứ hai, giành đi giật lại từng nhà, từng lô cốt. Khi thấy hướng chính diện bị chặn lại, trung đoàn phái ra 2 đại đội, bí mật vòng sang sườn tây bắc, đánh vào lưng đối phương, đập tan cuộc phản kích, họ lại về rừng cao su. Bên cánh trái của sư đoàn 304, sư đoàn 325, lúc đầu phát triển thuận lợi: sau đợt pháo bắn chuẩn bị, bộ binh và xe tăng xung phong lên, chiếm được ngã ba đường 10 và đường 15, áp sát quận lỵ Long Thành. Đối phương chống trả quyết liệt, kết hợp chặt chẽ giữa hoả lực và trực thăng vũ trang với hoả lực bộ binh, bố trí trên các nhà tầng. Chúng bắn cháy một xe tăng ta trên ngã ba đường vào quận lỵ. Thủ đoạn đối phó của địch ở đây rất xảo quyệt. Khi ta tràn qua thị trấn, sự chống cự không lấy gì làm mạnh lắm, nhưng chờ khi quân ta lướt qua mục tiêu, địch từ các ngõ ngách ngóc đầu dậy, đánh vào lưng đội hình ta.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 09:53:05 am

        Trung đoàn 101, buộc phải đưa tiếp đội dự bị vào, tổ chức tiến công lại; mãi đến chiều ngày 27 tháng 4, kết hợp chặt chẽ với xe tăng và được sự chi viện tích cực của các cụm pháo binh sư đoàn, quân đoàn, ba mũi đột phá trên hai hướng: tiểu đoàn 2 từ hướng đông bắc, tiểu đoàn 3 từ hướng bắc đánh xuống; xe tăng từ ấp Thái Lạc ở phía nam đánh lên. Đến 18 giờ 30, mới chiếm được toàn bộ quận lỵ Long Thành, diệt liên đoàn 938, sở chỉ huy quận, bắt 500 tù binh. Trên toàn mặt trận phía đông này, ta hạ 5 máy bay trong ngày. Trung đoàn 46, lúc đầu tiến khá nhanh: 18 giờ ngày 26, sau khi pháo chuyển làn, bắn sâu vào tung thâm, tiểu đoàn 3 đã chiếm được cầu Đông Hữu, vượt qua đường 15, phát triển lên Phước Thiềng. Tiểu đoàn 1, tổ chức tiến công trong đêm thị trấn này, nhưng không dứt điểm được. Nhiệm vụ chiếm cầu và ngã ba Phước Thiềng, tạo điều kiện chia cắt địch, hỗ trợ cho hướng chủ yếu, thì hoàn thành tốt; nhưng sức tiến công chưa mạnh, nhanh, giải quyết ấp Thái Lạc chậm.

        Nhìn lại sau 24 giờ chiến đấu, nhiệm vụ trước mắt của sư đoàn chưa hoàn thành. Việc bảo vệ sườn trái cho hướng chủ yếu làm tốt; lực lượng đối phương lăm le phản kích từ phía đông lên đã bị đập tan, nhưng nhiệm vụ phải làm chủ Nhơn Trạch, Cát Lái, Thành Tuy Hạ, một khu vực cực kỳ quan trọng, đối diện với cảng Sài Gòn, đúng ngay trước mặt quận I, để sớm đặt trận địa pháo ở Nhơn Trạch, khống chế sân bay Tân Sơn Nhất, đồng thời làm tê liệt hẳn lối ra vào bằng đường sông như trên giao, thì chỉ mới thực hiện được một nửa. Ở đây địch có kế hoạch tác chiến trì hoãn, rút từng bước, có tổ chức để ngăn chặn ta, và khi ta phát triển sâu vào phía sau, thì cố khôi phục lại để đánh vào sau lưng ta. Tình hình thiếu đạn pháo-sư đoàn chỉ có một cơ số-thiếu xăng-chỉ mới có nửa cơ số-cũng có ảnh hưởng đến tốc độ tiến công của sư đoàn.

        Phối hợp chặt chẽ với Quân đoàn Hương Giang, trên mặt trận phía đông thành phố Sài Gòn-Gia Định, vẫn là Quân đoàn Cửu long, với cả ba sư đoàn 341, 7, 6 và lữ đoàn 52.

        Không giờ ngày 27 tháng 4, sư đoàn 341 phát hiện địch ở Bầu Cá, sông Thao, đang rút chạy về Trảng Bom; thì cũng là lúc pháo ta bắt đầu bắn chuẩn bị. Đến 7 giờ sáng hôm sau, chiếm được Trảng Bom địch chạy về suối Đỉa. 10 giờ sáng thì phát triển được đến ga Long Lạc; nhưng sau đó, địch lại cho một bộ phận vòng ra phía sau, chiếm lại suối Đỉa. Chúng lại dở cái trò buộc ta phải đánh đi đánh lại như ở Long Thành; nhưng đến khi thấy ta vẫn tiếp tục tiến, các mục tiêu nằm trên đườn quốc lộ số 1 đều có nguy cơ mất nhanh, thì lại phải tập trung lực lượng về giữ Hố Nai, co luôn cả chiến đoàn 318, mới đêm hôm trước đưa xuống cứu nguy cho Long Thành. Mặc dù đường sá thuận lợi, tốc độ tiến công của ta rất chậm. Cho đến chiều ngày 28 tháng 4, sư đoàn 341 mới đến được Hố Nai.

        Ngồi ở sở chỉ huy chiến dịch, mọi người đều vô cùng lo lắng: nếu địch phá huỷ các cầu thì làm thế nào? Như trên đã nói: một trong những đặc điểm của Sài Gòn-Gia Định là nằm giữa những con sông lớn, đi vào bằng hướng nào cũng phải vượt qua vài ba cái cầu: ngắn như cầu Buông, chỉ có hơn vài chục thước, địch chỉ mới phá nham nhở mà cũng đã chặn đứng được cả thê đội 1 của sư đoàn 304 trong cả một ngày ròng rã, vẫn không qua được; thì nói gì đến các cầu lớn khác? Chỉ tính riêng trên đường tiến quân của sư đoàn 304, phải vượt qua những 7 cái cầu: cầu Buông, cầu xa lộ Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc, cầu Ghềnh, cầu Rạch Cát, cầu sông Sài Gòn và cầu Thị Nghè.

        Đêm 27 tháng 4, trong lúc pháo đạn nổ tứ tung, rầm trời, hoả châu đèn chiếu lên sáng rực, liên tục, thì các chiến sĩ đặc công vẫn rón rén, lặng lẽ nhích dần từng tý một áp sát các đầu cầu. Bỗng, nhanh như chớp, trong nháy mắt, đoàn 313 đã chiếm được cầu Rạch Chiếc, cầu Ghềnh, cầu Rạch Cát. Địch phản kích cố chiếm lại. Đoàn 116 tiến công cầu xa lộ Đồng Nai, rồi trụ lại đánh phản kích, cứ giành đi, giật lại với địch ròng rã hết cả ngày trời. Xa xa về phía đông, trên cánh trái của binh đoàn, sư đoàn 3, chỉ sau mấy giờ tiến công, đã hoàn toàn chiếm được chi khu Đức Hạnh, khu nhà máy nước Bà Rịa, đến 15 giờ ngày 27 thì làm chủ hoàn toàn thị xã Bà Rịa, sau đó phát triển về cầu Cỏ May, trên đường đi Vũng Tàu. Phối hợp với sư đoàn 3, tiểu đoàn địa phương Bà Rịa và hai đại đội địa phương huyện Long Đất tiến công vào Đất Đỏ, Long Điền, giải phóng khu vực Bình ba, Hoà Long, Phước Long và núi Nhọn. Đến 17 giờ ngày hôm ấy, hoàn toàn làm chủ từ Long Hải đến Phước Vinh.

        Các đơn vị pháo binh chiến dịch ở Hiếu Liêm cũng hoàn thành nhiệm vụ rất xuất sắc. Sân bay Biên Hoà bị tê liệt. Địch phải di tản số máy bay còn lại về Tân Sơn Nhất, Cần Thơ. Sở chỉ huy quân đoàn 3 cũng phải cuốn gói, chạy về Gò Vấp, ngay từ chiều ngày 28 tháng 4.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 09:57:02 am

        Trong những ngày vừa qua, chiến sự trên hướng tây bắc Sài Gòn cũng diễn ra rất quyết liệt. Xe tăng, bộ binh địch, dốc sức phản kích vào khu vực Phước Mỹ và nam Trảng Bàng. Các chiến sĩ của trung đoàn 148 và 149 thuộc sư đoàn 316 đã kiên cường bám trụ, đánh lui hai đợt phản kích, buộc đối phương phải co về Trảng Bàng. Trung đoàn 149 chớp thời cơ, đưa đội hình lên áp sát, vây chặt phía bắc chi khu này. Địch vô cùng hoang mang, hoảng sợ, đến 13 giờ ngày 28 tháng 4, toàn bộ tiểu đoàn thuộc trung đoàn 50 kéo cờ trắng đầu hàng.

        Trên hướng tây nam, việc cắt đứt hoàn toàn quốc lộ 14 đã được các đơn vị của Đoàn 232 thực hiện xuất sắc. Âm mưu của Thiệu, muốn đùm túm nhau chạy về Cần Thơ, dựa vào địa thế sông ngòi chằng chịt của đồng bằng sông Cửu Long để tổ chức kháng chiến lâu dài đã bị đập tan. Sáng ngày 27 tháng 4, tiểu khu Hậu Nghĩa và các đồn dọc tuyến sông Vàm Cỏ trong các xã An Bình, An Lộc, phát hiện pháo của Quân giải phóng ở phía tây sông Vàm Cỏ và một đại đội bộ binh đang vượt sông. Trung đoàn 46 và trung đoàn 10 thiết giáp quân đội Cộng hoà ra sức ngăn chặn, cố giải toả lộ 10 nhưng không được, vì hoạt động của phi cơ giảm, pháo gần như bị tê liệt, nên phải co về giữ thị xã. Họ rút chạy về Trảng Bàng, thì chi khu này đã đầu hàng. Như vậy là cánh cửa phía tây Sài Gòn được mở toang.

        Trên hướng tây nam, sư đoàn 22 bộ binh quân đội Cộng hoà được tăng cường 6 khẩu 105 và 5 vạn bao cát để lập tuyến phòng thủ quốc lộ 4. Bước sang ngày 27 tháng 4, đường này bị cắt đứt làm nhiều đoạn từ cầu Voi đến Bình Chánh. Trung đoàn 41 và một chiến đoàn thiết giáp, suốt cả ngày 27, cố giải toả nhưng không kết quả. Trung đoàn 42 thì cố giữ cho được cầu và chi khu Bến Lức. Các chi khu, các đơn vị dọc lộ bị pháo kích và tiến công liên tục, mặc dù có thêm sư đoàn 4 không quân trực tiếp yểm hộ, tiểu khu Long An vẫn không giải toả nổi quốc lộ 4 mà lại còn phát hiện thêm sư đoàn 8 bộ binh Quân giải phóng đang di chuyển về phía nam Sài Gòn.

        Kết quả sau 48 giờ chiến đấu, từ 17 giờ ngày 26 tháng 4 đến 17 giờ ngày 28 tháng 4, thủ đô Sài Gòn bị teo lại như một miếng da trên lửa đỏ: Trảng Bom, Long Thành, Bà Rịa đã bị ta chiếm được; ta đã làm chủ được một số cầu quan trọng ở phía đông. Các lộ quan trọng 4 và 15 bị cắt đứt; sông Lòng Tàu bị phong toả. Trên tất cả các hướng, các đơn vị đều đã chiếm được các mục tiêu và đang triển khai trên các tuyến đã quy định, chờ lệnh tiến công mới.

        Giữa lúc trên các cửa ổ rền vang tiếng súng, thì tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất im lặng như tờ.

        Từ lúc vợ Thiệu, bỏ chạy sang Bangkok, mang theo khá nhiều vàng bạc thì ông ta làm ra vẻ bình tĩnh hơn ai cả. Sẵn có trực thăng trong tay, lúc nào cũng chực sẵn trong sân dinh Độc Lập, ông ta còn lo nỗi gì nữa. Anh Thiệu - Nguyễn Văn kiểu - đại sứ ở Đài Loan, mấy hôm nay, cố thuyết phục Thiệu ra đi, nhưng Thiệu không nghe. Chẳng biết thân phận, Thiệu nói với Hoàng Đức Nhã: “Nếu có phả đi, thì cũng phải đi trong danh dự, với cả bộ tham mưu cùng đi theo”. Hương không dám buộc Thiệu ra đi, vì sợ những người ủng hộ Thiệu trả thù, muốn mượn tay Martin, nhưng ông này cố tránh, không muốn dính dáng gì đến việc hạ bệ Thiệu, như Ca-bốt-lốt trước kia đối với anh em Diệm-Nhu. Cuối cùng, vẫn là những khẩu pháo 130 đặt ở trận địa phía đông mới làm cho Thiệu đột nhiên thay đổi ý kiến, vội vã rời khỏi đất nước này mà không có một ban tham mưu nào, không trống, không kèn, không danh dự, không giấy phép của người Việt Nam. Người đứng ra tổ chức cho chuyến bay di tản chính là Ch.Times.

        Đêm hôm ấy, trời quang mây tạnh, trăng sáng như ban ngày. Giờ giới nghiêm đã qua lâu rồi. Đường phố Sài Gòn vắng tanh. Một vài tên cảnh sát, quần áo trắng, núp mình dưới gốc cây hay đứng co ro trên các ngả đường lấm lét nhìn ra xung quanh. Thỉnh thoảng, một vài loạt đạn, đanh gọn, nổ vàn từ một công viên nào đó, để cảnh cáo những người dân bất chấp nghiêm lệnh của nhà cầm quyền… Một chiếc xe Mercedes, lao vun vút trên đường cách mạng tháng 11; thừa lúc không ai chú ý, chui tọt vào cổng số 1 Bộ Tổng tham mưu, vòng phải, rồi đỗ ngay trước nhà Trần Thiện Khiêm. Hai người bước xuống. Người thứ ba chính là Ch.Times, còn ngồi nán trên xe, vì đang nhét vội khẩu súng ngắn xuống dưới nệm xe. Trong trường hợp hỗn quân hỗn quan này, mạng người rẻ như bèo, phòng xa là hơn cả. Biết đâu, trên đường đi ra sân bay, tuy không đầy một cây số, bọn kiêu binh lại không giở trò như chúng đã từng làm với anh em họ Ngô trước đây? Một người Việt Nam tầm thước, tóc chải ngược, mặt láng bóng vì xoa dầu, quần áo xám đậm khệ nệ bước xuống xe, vào nhà. Một lúc sau, mấy người ỳ ạch khiên ra một cái va ly rất to, nhét vội vào hòm xe. Tiếp theo là Nguyễn Văn Thiệu, Ch.Times và hai người nữa. Nhìn trước nhìn sau, chẳng thấy ai, họ vội vã chui vào trong xe như lẩn trốn. Cửa đóng sập lại, đèn tắt tối om. Thế là ổn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 11:26:31 am

        - Thưa ngài tổng thống! Vì lợi ích của ngài, xin ngài ngồi xuống. Ch.Times nói. Mùi rượu Whisky xông lên nồng nặc, trộn lẫn với mùi nước hoa và thuốc lá đắt tiền. Bầu không khí trong xe hơi căng thẳng. Mỗi người đang đeo đuổi một ý nghĩa riêng của mình. Bỗng Ch.Times phá tan sự im lặng:

        - Vợ con ngài bây giờ ở đâu?

        - Đã đi London để mua đồ cổ rồi.

        Những người nước ngoài lặng im, mỉm cười. Họ thừa biết đây chỉ là câu trả lời qua rào hay láo toét mà thôi.

        Chiếc xe lượn vòng dưới bóng những hàng cây, ra khỏi cổng, lúc đầu còn chầm chậm như sợ người ta trông thấy. Vừa ngoặt sang phải đã dấn thêm ga, lao vút về phía trước. Gần đến cổng sân bay, dưới ánh đèn pha, đài kỷ niệm những người Mỹ chết vì Việt Nam hiện ra trước mắt mọi người, lo láo, lạc lòi. Nguyễn Văn Thiệu nhìn vào dòng chữ: “Không bao giờ quên sự hy sinh cao quý của binh lính đồng minh”. Ông thở dài, quay mặt nhìn vào trong xe cho đỡ ngượng. Thiệu nắm chặt tay Ch.Times, dường như để phân trần, an ủi nhau. Xe chay thẳng vào sân đỗ. Một chiếc máy bay của không quân Mỹ đã chờ sẵn ở đó. Mấy tên lính thuỷ đánh bộ mặc thường phục và lính bảo vệ đi lại xung quanh máy bay. Martin đã chực sẵn ở cầu thang. Đại sứ hôm nay ăn mặc có vẻ chải chuốt hơn mọi ngày, mắt vẫn đeo kính bầu dục. Điều này không phải là không có ý nghĩa: người ta muốn xua đổi những ý nghĩa không tốt về một quá khú sai lầm và tội lỗi.

        Cửa xe bật ra, Thiệu vỗ vào vai người Mỹ ngồi trước mặt: Thank you! rồi chậm rãi, chui ra khỏi xe. Thấy không có gì đáng lo ngại, ông ta đứng dậy bắt tay Martin rất lâu. Cả hai đều nghẹn ngào, chẳng nói lên lời, cố giữ cho nước mắt khỏi trào. Động cơ máy bay rú lên. Thiệu giật mình bước vội lên cầu thang, trong lúc Martin vẫn còn muốn nắm chặt lấy cầu thang, không nỡ buông tay. Họ như còn đang vấn vương với nhau về dĩ vãng.

        Ông ta chua chát nhớ lại lúc ban chiều khi được Chính phủ Pháp báo tin là công thức chính trị trong đó Minh cầm đầu một chính phủ theo tinh thần hoà giải dân tộc là có thể chấp nhận được. Chưa hết mừng, thì liền sau đó có người thông báo là Hà Nội thông báo: xoá bỏ toàn bộ chính phủ Sài Gòn, quân đội Cộng hoà và đang kêu gọi lực lượng thứ ba hãy cùng nhân dân đứng lên khởi nghĩa…

        Tiếng pháo nổ ầm ầm từ hướng đông vọng lại, càng về khuya nghe càng rõ, tưởng như mặt trận mỗi lúc một nhích gần thêm vào trung tâm thành phố hơn. Chiếc thang máy bay êm thấm tách rời dần khỏi chiếc máy bay. Martin rơi về với thực tại. Ông ta thở dài: kết thúc của một đời làm đại sứ cuộc can thiệp hao người tốn của Hoa Kỳ, sau 20 năm đằng đẵng…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 11:36:16 am

Chương 26

ĐIỂM TRÚNG HUYỆT

        Thiếu tướng Lê Văn Tri cúi xuống, mắt nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ tình huống đang trải rộng trước mặt. Những mũi tên đỏ đã đánh dấu vị trí các Quân đoàn đang áp vào Sài Gòn.: Quân đoàn 2 ở Nước Trong, đang tiến đánh căn cứ này. Quân đoàn 4 ở Hố Nai, chuẩn bị đánh vào Biên Hoà. Quân đoàn 3 át sát Đồng Dù. Quân đoàn 1 ở Lai Khê, trên đường 13. Đồng chí nói:

        - Cái khó nhất của ta hiện nay là xác định cho được vị trí các trung đoàn phản kích của các quân đoàn.

        Trừ mái tóc của thiếu tướng đã chớm trở sang màu tiêu muôi, những mái tóc đen nhanh của đại tá Hoàng Ngọc Diêu, thượng tá Trần Hanh, trung tá Hồng Nhị chụm sát vào nhau. Họ đang nghiên cứu phương án của trận chiến đấu sắp đến.

        - Hồi phục được mấy chiếc rồi?

        - Việc chuẩn bị kỹ thuật đã có thiếu ta Hồ Thanh Minh hướng dẫn. Anh em thợ máy cũ ở đây có thêm số thợ máy ở Đà Nẵng vào tiếp sức nên tốc độ hồi phục được nâng lên nhanh chóng. Ngày 26 mới được 2, chiều nay có thể thêm 3.

        Đại tá Hoàng Ngọc Diêu mừng rỡ ra mặt:

        - Anh Tuấn cho phép nếu chỉ được một chiếc cũng cứ cho đánh, huống gì bây giờ ta được những 5. Thời tiết trong khu chiến thế nào nhỉ? Có ai nắm được không?

        - Dạo này hay có mưa nhiều. Bộ phận khí tượng đang theo dõi chặt. Xếp tấm bản đồ tình huống sang một bên, lại giở bản đồ Sài Gòn-Gia Định ra, tấm bản đồ tỷ lệ 1:10.000 màu hồng nhạt mới lấy ở trung tâm Đà Lạt đưa về. Những khoanh tròn vẽ bằng màu xanh, nổi lên rất rõ trên nền giấy trắng. Đó là những căn cứ lớn của địch ở nội thành. Cuộc thảo luận để lựa chọn mục tiêu diễn ra khá sôi nổi, tập trung vào ba điểm chủ yếu: Người thì đề nghị đánh vào dinh Độc Lập, nơi đầu não của chính quyền Sài Gòn nhưng có người đề nghị nên đánh vào Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà để làm rối loạn chỉ huy, hay là đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất để chặn đường rút lui của Mỹ vì bọn đầu sỏ trong chính quyền Sài Gòn.

        Trong những người ngồi họp ở đây, chưa ai biết qua thành phố này. Có người vừa mới hỏi Nguyễn Thành Trung, mới ở Lộc Ninh ra, cũng chỉ biết thêm được một vài nét lớn: đây là dinh Độc Lập, Toà đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất…

        Trao đi đổi lại hàng giờ, cuối cùng mới thống nhất được ý kiến: ném bom vào dinh Độc Lập hay Bộ Tổng tham mưu đều được cả, nhưng ít tác động, và để cho bộ binh chiếm lĩnh cũng được. Đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất thì sẽ cắt đường rút lui bằng máy bay có cánh cố định. Cũng không nên vào đường hạ cất cánh, vì nếu bị hỏng, sau này ta sẽ mất nhiều thời gian để sửa chữa, mới có thể tiếp tục máy bay ta được. Cho nên tốt nhất là đánh vào sân đỗ máy bay trực ban. Phương án này rất hợp, rất khớp với ý của anh Tuấn. Có người hỏi:

        - Thế thì trại David ở chỗ nào? Qua báo chí thấy nói ở trong sân bay Tân Sơn Nhất. anh Tuấn có căn dặn: cố gắng tránh những nơi này ra. Không biết Nguyễn Thành Trung có nắm được chắc không.

        - Anh ta chỉ biết được cơ quan DAO, nơi ở của phái đoàn Hungary, Ba Lan là giỏi lắm. Làm thế nào mà biết được trại David? Việt cộng nằm vùng như Nguyễn Thành Trung, thì có dám bao giờ bén mảng đến nơi này. Thậm chí, đối với những người lái trực thăng, máy bay vận tải, thường kỳ bay ra vùng giải phóng, Trung ương cũng chẳng bao giờ dám lân la đến gần, đả động đến vấn đề này. Lộ bí mật thì chết. Có thế thì hôm nay, Trung mới có mặt ở đây với chúng ta…

        Mọi người đều cười.

        Vấn đề chọn đường bãy cũng sôi nổi không kém. Trước đây, giặc lái Mỹ, sừng sỏ như Su-mê-cơ, phi công vũ trụ của Mỹ mà đã phải thừa nhận, chọn cho được đường bay vào Hà Nội là rất khó; có lúc, vòng lên phía bắc đánh xuống, vì vào hướng nào cũng vấp phải lưới lửa của ta. Có ai nghĩ rằng, chiều nay, tại sân bay Thành Sơn này, những người chỉ huy và anh em phi công của ta cũng phải chọn đường bay để vào đánh Sài Gòn - Gia Định? Nhắc lại chuyện hôm kia, khi chiếc máy bay trực thăng Mi8 của đồng chí Hồng Nhị đi tiền trạm, vừa đáp xuống sân bay Nha Trang, đã bị quân ta ở mặt đất bắn cháy ngay tại chỗ. May mà không ai việc gì. Đáng buồn cười là chọn đường bay không phải cốt để tránh lưới lửa phòng không của đối phương, mà lại là để tránh các đơn vị pháo cao xạ của ta. Cho đến bây giờ, các đơn vị cao xạ, tên lửa ỏ chung quanh thành phố này đều đã triển khai xong. Lưới lửa tuy không dày đặc như ở Hà Nội trước đây, nhưng cũng khá chặt chẽ. Để giữ yếu tố bất ngờ, nên cấp trên chưa phổ biến ý định tác chiến này cho các quân đoàn; lần này lại sử dụng toàn máy bay chiến lợi phẩm, làm sao tránh khỏi mặt đát bắn nhầm? Phương án được mọi người chấp nhận là phải bay dọc theo bờ biển để bảo đảm an toàn, và như thế thì đường bay phải kéo dài thêm 50 cây số, mút tầm bay, rất nguy hiểm. Những hạn chế nói trên vẫn không làm nản lòng những người chỉ huy giàu kinh nghiệm, mà càng làm cho mỗi người thêm quyết tâm, phát huy cao độ tinh thần chiến đấu, phát huy hết tính năng động chủ quan của mình.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 11:41:01 am

        Trưa ngày 28 tháng 4, 5 chiếc máy bay A37 từ sân bay Phù Cát vừa hạ cánh xuống sân bay Thành Sơn, thì cũng là lúc, mọi công tác chuẩn bị cũng hoàn thành. Trong lúc những người phục vụ lo chuẩn kỹ thuật thì thượng tá Trần Hanh và Hồng Nhị, phổ biến kế hoạch cụ thể cho tổ lái. Đến 13 giờ 30, thiếu tướng Lê Văn Tri động viên ngắn gọn:

        - Tôi thay mặt Đảng uỷ và Bộ tư lệnh quân chủng, ra lệnh cho các đồng chí xuất kích, tiêu diệt mục tiêu đã được bộ tư lệnh sư đoàn phổ biến.

        Việc tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử này có một ý nghĩa vô cùng trọng đại. Đây cũng là một ngày lịch sử của quân chủng chúng ta. Tôi xin nhắc lại: chỉ có một ngày, chỉ có một lần này mà thôi.

        Chúc các đồng chí thắng lợi.

        Đúng 16 giờ 37 phút, vào lúc ở Sài Gòn Dương Văn Minh đang làm lễ nhận chức tổng thống, thì trên sân bay Thành Sơn, một pháo hiệu đỏ bắn lên, cả 5 phi công lên máy bay. Một phút sau, hai phát pháo hiệu: bắt đầu nổ máy. Rồi 3 phát: cả biên đội lần lượt xuất kích, dẫn đầu là Nguyễn Thành Trung.

        Họ chỉ huy như thế đấy    không dùng VTĐ. Khi bay đến gần mục tiêu, nghe đài đối không ở sân bay Tân Sơn Nhất hỏi:

        - A37 thuộc phi đoàn nào?

        Không ai trả lời. Thời tiết nhiều đám mây tích điện dày đặc, bồng bềnh từ Trường Sơn, ùn ùn kéo ra hướng bắc. Thấp thoáng hai chiếc AD6 đang bay ngược chiều. May trời bỗng trở nên quãng đãng, bay ở độ cao, Nguyễn Thành Trung lao xuống mục tiêu. Theo sự phân công từ trước Trung, Lục, Đễ lần lượt vào đánh; Quảng, Vượng cảnh giới   đánh chặn máy bay địch.

        Công kích vào một nơi mà mình đã thuộc như lòng bàn tay, từng dãy nhà chứa những gì, có những ai ở, Trung đều biết rất rõ. Anh càng biết rõ hơn là hệ thống phòng không của đối phương trong khu vực này, nhất là gần đây, được biết là Mỹ cũng đã tháo gỡ những dàn tên lửa Hawk, nên lại càng bình tĩnh. Lấy đúng độ cao dự định, anh bổ nhào, cắt bom. Một tình huống hết sức bất ngờ: bom không ra, Đễ, Lục, rồi Vượng, Quảng bám sát nhau, lần lượt xông vào đánh. Mười hai tiếng nổ liên tiếp nhau. Lục cũng như Trung, chưa cắt được bom. Quảng, Vượng lại phải vọt ra ngoài sẵn sàng yểm hộ cho Lục, Trung tiếp tục vào đánh. Lần này bom vẫn không ra.

        - Xin phép cho vào đánh lần thứ 3.

        Hoàn thành xong nhiệm vụ chiến đấu, Đễ mới trả lời:

        - A37 sản xuất tại Hoa Kỳ đấy.

        Biên đội không thể bay theo ven biển như khi vào, vì nhiên liệu sắp cạn, nên dù biết lượt ra sẽ rất nguy hiểm, mà vẫn phải bay theo đường quốc lộ. Những người dướt đất, chỉ nghe những tiếng xẹt, rạch không khí, sát bên tai, mất hút. Tưởng đã làm cho những người dưới đất bất ngờ, ai dè theo anh em phi công kể lại, thì trong lúc bay ra, ngoái nhìn về sau, thấy đạn đỏ rực trên lưng!

        Gian truân chưa phải đã hết. Khi gần đến sân bay Thành Sơn, phải để cho Đễ hạ cánh trước, vì sắp hết dầu. Lục tiếp theo. Đến lượt Quảng vừa định bổ nhào, thì lại phải nhường cho Vượng xuống trước, vì dầu sắp hết. Tình thương yêu đồng đội, đã trở thành gần như bản năng của những người phi công tài ba này. Bên cạnh trình độ kỹ thuật điêu luyện, còn có thêm đức tính cao cả của những con người cộng sản; sẵn sàng nhận lấy sự nguy hiểm chết người này, dành ưu tiên cho bạn. Đến lượt Nguyễn Thành Trung là người hạ cánh sau cùng, thì trời đã sẩm tối. Máy bay vừa chạm đất, đã phải bật đèn pha lên để lăn bánh.

        Đứng dưới đài chỉ huy, Bộ tư lệnh Quân chủng: thiếu tướng Lê Văn TRi, đại tá Hoàng Ngọc Diêu, các thượng tá Trần Hanh, Hồng Nhị, đã sắp thành hàng ngang. Họ đếm: một, hai, ba, bốn rồi năm. Họ ôm chầm lấy nhau, vứt cả mũ xuống đất, hò hét như những đứa trẻ con, vì quá vui mừng, sung sướng. Khi biết ta ném bom vào Tân Sơn Nhất, hai chiếc AD6 đã gặp trên đường đi vào, vội vàng quay trở lại, vừa hạ xuống định ném bom bị pháo cao xạ hạ luôn: một chiếc bị thương, một chiếc rơi tại chỗ. Đêm 28 hai chiếc F5 cố đánh trả thù: nhưng vì trời tối quá, bom rơi cả ra cánh đồng…

        Hai mươi quả bom ném trúng vào khu nhà chứa máy bay và khu kho ở sân bay Tân Sơn Nhất, rồi tiếp theo đó là hàng loạt quả rocket của các đơn vị địa phương và đạn pháo 130 ly, trận địa vừa đặt ở Nhơn Trạch đã hợp thành một bản hoà tấu tuyệt vời, làm rung chuyển không những chỉ ở Sài Gòn mà cả đến Toà nhà trắng và Lầu năm góc. Cuối thế kỷ này, chẳng cần phải có bom nguyên tử mới làm nên chuyện động địa kinh thiên. Ford phải triệu tập phiên họp khẩn cấp hội đồng an ninh quốc gia có đầy đủ những tai to, mặt lớn, để có những quyết định mới. Lại cãi nhau nhưng vẫn không nhất trí với nhau được. Ở Sài Gòn những kẻ đàn em, chẳng còn biết làm gì khác hơn, là gửi cho phái đoàn một bức điện khẩn cấp vừa lạc lõng, vừa lỗi thời: “Phái đoàn Mỹ cực lực phản đối việc các ngài bắn pháo bừa bãi đe dọa sự an toàn của chúng tôi và yêu cầu các ngài, ngay lập tức, bảo đảm an toàn cho chúng tôi, theo thoả thuận về các quyền ưu đãi và miễn trừ…”. Điện trả lời của phái đoàn ta rất ngắn gọn, rõ ràng và sòng phẳng: “Chúng tôi cũng như các ngài thôi, chúng ta đang cùng ở trong một con thuyền”.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 11:59:37 am

        Tuy nói vậy, nhưng thái độ của mỗi người trong con thuyền lại rất khác nhau. Để độc giả hình dung được nỗi khủng khiếp, hãi hùng của những người Mỹ, ở trong thành phố lúc bấy giờ, xin mượn lời của một nhân chứng người Mỹ: “Tiếng nổ như muốn lật nhào cả phòng tôi đang ở. Tôi lần ra khỏi giường, lổm ngổm bò trên sàn. Trong bóng tối, mò tìm chiếc mũ sắt và áo giáp. Bò ra đến cửa sổ, tôi lắng nghe một loạt tiếng nổ nhỏ hơn tiếp theo, cố xem cách tôi bao nhiêu xa: vài dặm! Có lẽ là ở Tân Sơn Nhất. Phía rặng cây, tôi nhìn thấy những quả cầu lửa khổng lồ, bốc lên bầu trời ban đêm. Chân trời loé lên những ánh chớp của đạn pháo. Chiếc máy thu thanh đặt trên bàn, phát ra một giọng nói: Tân Sơn Nhất đang bị tên lửa và đạn pháo 130 ly. Tôi ra cầu thang, lao lên nóc nhà, nhìn… một quả tên lửa rơi ngay cạnh chiếc C.130 trên đường lăn, bóc toang cái vỏ ngoài của thân máy bay, dễ dàng như người ta bóc 1 tờ giấy bóc kẹo. Quả thứ ba, rồi quả thứ tư, rót vào trạm gác: hai hạ sĩ Ma-nông và Mớt chết ngay tại trận. Một quả tên lửa khác, bay qua khu nhà làm thủ tục và rơi vào trong sân rộng của cơ quan DAO. Một nghìn rưởi người Việt Nam đang đứng giữa trời, gần bể bơi, nháo nhác như những cây lúa bị gió giật. Họ cố bám lấy những người ở gần mình nhất, ấn họ nằm xuống đất, va anh ta suýt nữa bị hàng trăm người khác giẫm lên mình. Mấy giây sau, một quả đánh sập góc nhà thể dục, bóc đi một mảng mái và quảng vào một người nhà đứng ở giữa sân. Ba bốn trăm người bị mắc kẹt ở trong nhà thể dục, bám lấy những bức tường sắt, cố chui ra ngoài. Cách đất mấy trăm mét, mặt đất vỡ toác và phụt lên trời một chùm lửa, khi có một quả rocket vào đó. Tướng Smith bị sức ép quật ngã. Trên gác, một chiếc may điều hoà không khí bị bật ra khỏi tường, rơi cạnh giường ngủ một sĩ quan. Viên sĩ quan này hoảng hồn vơ vội lấy khẩu M.16, lao ra khỏi nhà và nhảy bừa xuống một cái hào. Một lát sau, anh ta mới nhận ra là mình chưa kịp mặc quần. Từ trên nóc nhà chúng tôi, cách đó ba dặm, cứ 5 giây đồng hồ, lại thấy một tia chớp loé lên, tiếp theo là một tiếng nổ rung cả mặt đất. Một trong những kho xăng ở cạnh Tân Sơn Nhất, bị trúng đạn pháo, tung ngay cả lên trời một đám mây đỏ rực, toé xăng ra hàng trăm phía. Vài giây sau, lại một quả nữa, vạch màn đêm, rơi vào cái lò thiêu người này. Phía Chợ Lớn, một khoảng trời đỏ ửng lên, chẳng khác gì một cơn giông lửa gặp gió…”.

        Cảnh nháo nhào trên đây, vẫn chưa đủ để làm cho đại sứ Martin bỏ thói lần khần. Ông ta vẫn còn vững tin mình, đặt nhiều hy vọng vào một cuộc đàm phán, thương lượng cuối cùng nào đó. Trước đó mấy tiếng đồng hồ, ông ta còn bảo đảm đối tướng Smith rằng: “Chúng ta sẽ ở đây cho đến tháng 7 hoặc tháng 6”. Vợ ông tướng này nghe lỏm được, từ Bangkok vội đáp máy bay về ngay Sài Gòn, nên phải một phen mất vía.

        Trong lúc pháo binh ta đang dội bão lửa xuống sân bay Tân Sơn Nhất, thì ở Lộc Ninh lại nhận được điện của Bộ Chính trị: “Toàn thể các cán bộ và chiến sĩ, với quyết tâm lớn nhất, hãy nhanh chóng đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch, với khí thế hùng mạnh của một quân đội trăm trận, trăm tháng, đập tan mọi sức đề kháng của địch, giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn-Gia Định và giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch lịch sử, mang tên Bác Hồ vĩ đại…”


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 12:02:48 pm
           
Chương 27

CHIẾN ĐẤU VÒNG NGOÀI

        Mười năm sau ngày giải phóng, trở lại chiến trường, thấy dấu vết bom đạn cày xới đã bị thời gian và bàn tay lao động của con người xoá sạch, không khỏi có người nghĩ rằng sau khi Thiệu, Khiêm bỏ chạy; Viên, Quang di tản, sự chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu đã rã rời và nhất là đến cuối ngày 28 tháng 4, khi Trần Văn Hương lóp ngóp tụt xuống vũ đài chính trị và Dương Văn Minh chuẩn bị lên thay thì mọi sự chống cự của phía đối phương coi như đã chấm dứt.

        Thực tế không phải như vậy. Chính trong những giờ phút cuối cùng này, trong ngày 29 tháng 4, mới diễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt. Chính trong những giờ phút này, cán bộ và chiến sĩ của ta đã nêu cao tinh thần chiến đấu, nêu lên tấm gương hy sinh vô cùng cao cả: thắng lợi đã ở trong tầm tay rồi, hạnh phúc chung và hạnh phúc riêng đang chờ đón mọi người, nhưng cán bộ và chiến sĩ ta vẫn bình tĩnh, nhận lấy sự hy sinh riêng mình, mà không mảy may tính toán thiệt hơn.

        Sau hai ngày chiến đấu, nhận thấy tất cả các cánh quân đều thực hiện đúng kế hoạch, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh công kích trên toàn mặt trận, đánh thẳng vào các mục tiêu đã quy định:

        Rạng ngày 29 tháng 4, thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân đoàn Tây Nguyên sau khi nghe thông báo tình hình phát triển tiến công trên các hướng trong những ngày qua, đã lệnh cho sư đoàn 316 tiếp tục vây chặt khu Trảng Bàng, nắm thời cơ, nếu địch rối loạn, thì phát triển tiến công, dứt điểm khu này. Sư đoàn 320A có nhiệm vụ tiêu diệt Đồng Dù; còn sư đoàn 10, được phối thuộc thêm trung đoàn 64 của sư đoàn 320A và trung đoàn 198 đặc công, chuẩn bị thọc sâu vào trung tâm thành phố.

        Đồng Dù là căn cứ của sư đoàn 25 Mỹ “Tia chớp nhiệt đới” trước đây. Nó nằm trên hướng tây bắc Sài Gòn-Gia Định, cách trung tâm thành phố 30 kilômét, diện tích khoảng 8 kilômét vuông, bốn bề dây thép gai chằng chịt; giữa lô cốt mẹ, lô cốt con, bãi xe, bãi pháo, nhà kho, nhà lính chẳng chịt. Trước kia Đồng Dù được dùng làm bàn đạp để tiến công vào căn cứ Tam giác sắt nổi tiếng. Trong thời buổi Việt Nam hoá chiến tranh, nó là điểm tựa cơ bản trong tuyến phòng thủ tây bắc Sài Gòn; và trong chiến dịch này, nếu không diệt được nó, thì nó là bàn đạp phản kích vào sau lưng, bên sườn của binh đoàn thọc sâu.

        Không xa Đồng Dù bao nhiêu, đường quốc lộ 1, chạy từ Trảng Bàng về Sài Gòn, phải vượt qua cánh đồng lúa rộng mênh mông, giữa có một cái cầu không dài lắm: cầu Bông; và phía bắc nó, trên đường 15, lại có một cái cầu nhỏ khác: cầu Sáng. Cả hai đều ngắn, trông chẳng ra gì, nhưng rất ác hiểm. Những trinh sát viên, đi điều tra ban ngày, đã đến tận nơi xem xét kỹ càng về báo cáo lại, càng làm cho Bộ tư lệnh quân đoàn thêm lo lắng. Hai bên đường là ruộng lầy, ở các đầu cầu, địch đã đặt sẵn những khối thuốc nổ to tướng. Vận động giữa đồng trống, trên những con đường độc đạo này, xe tăng và các loại xe cơ giới khác của ta sẽ là những cái bia di động rất tốt cho các khẩu pháo phòng tăng của địch, bố trí sẵn trên các mỏm đồi, hay trong rìa xóm làng ở gần đây. Kế hoạch tiến công Đồng Dù của sư đoàn 320A và đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng của trung đoàn đặc công 198 liên quan mật thiết đến việc thọc sâu của sư đoàn 10. Chỉ cần phối hợp không chặt chẽ, nổ súng không đúng thời cơ, là đối phương có thể gây khó khăn cho ta: nếu đánh chiếm hai cầu sớm một chút, họ ở Đồng Dù sẽ tung xe tăng ra phản kích vào đặc công; ngược lại, nếu đánh Đồng Dù sớm và khi cứ điểm này có nguy cơ bị tiêu diệt, họ sẽ giật mình, phá sập cầu, làm ngăn trở đường tiến công vào nội thành. Đây chính là chỗ mà người cán bộ chỉ huy phải tỏ bản lĩnh của mình. Sau khi cân nhắc, tính toán kỹ, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định thời cơ đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng và bàn đạp Hóc Môn là lúc mà 320A đã xiết chặt vòng vây chung quanh căn cứ Đồng Dù, nhốt chặt sư đoàn 25 trong hàng rào kẽm gai rồi.

        Đúng 2 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4, các cụm pháo binh của các trung đoàn 40, 675 và cụm pháo của sư đoàn 32A bắt đầu bắn phá Đồng Dù. Cùng lúc này, các chiến sĩ đặc công của trung đoàn 198 nhanh chóng đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng, phát triển đánh tan tiểu đoàn biệt kích dù ở đây. Chớp thời cơ, đại đội 10 và trung đoàn 64 lên chốt chặn trên đường quốc lộ 1, đánh phản kích, bảo vệ cầu Bông.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 08:56:54 pm

        Hoà trong tiếng súng ở cầu Bông, cầu Sáng, tại căn cứ Đồng Dù, các đơn vị bộ binh bộc phá mở cửa. Trên hướng tây bắc, đại đội 3 thuộc trung đoàn 48, trong nháy mắt đã phá được hai lớp hàng rào ngoài cùng. Địch phát hiện hướng cửa mở, vãi đạn vào đội hình đơn vị. Bộc phá viên bị chặn lại trước cửa mở. Đại đội trưởng Tăng cho tập trung hoả lực: súng B40-B41 được điều động lên nã đạn vào tuyến lô cốt ngoài cùng. Súng cối của khẩu đội Trần Văn Thành, dựng gần đứng, bắn vào bên trong tường đất. Hoả lực địch tạm tắt. Nhanh như sóc, bộc phá viên xông lên đánh tiếp được hai lớp rào; địch lại ngóc đầu dậy bắn như mưa. Trong ánh lửa, người ta thấy bóng Nguyễn Khắc Bảo, ôm bộc phá lao lên. Lại một hàng rào nữa bị đứt, nhưng người bộc phá viên dũng cảm kiên cường ấy đã ngã xuống anh dũng hi sinh. Được trung đội 7 hoả lực tập trung chi viện đắc lực. Nguyễn Văn Linh theo gương Bảo lao lên, cùng với cả khối thuốc nổ, phá tan hàng rào cuối cùng., Vũ Văn Sơn, trung đội trưởng trung đội 9 - dẫn đơn vị lên chiếm đầu cầu.

        Cửa mở thứ hai của trung đoàn 48 do đại đội 11 phụ trách. Đơn vị dùng mìn liên kết, phá tung 5 lớp rào ngoài. Cũng như trên hướng đại đội 3, địch vãi đạn như trấu vào đột phá khẩu, một chiếc xe tăng, từ trong tung thâm chạy ra, nấp sau ụ đất lớn, định dùng khối sắt thép này bịt cửa mở chặn các chiến sĩ ta đang ôm bộc phá lao lên. Đội hình ùn lại, nguy hiểm vô cùng. Đại đội trưởng Nguyễn Công Bạ, lùi ra sau, điều ngay chiến sĩ B41 Nguyễn Tiến Ngọ lên. Bạ nổ một loạt tiểu liên, tháp pháo của xe tăng địch vừa quay sang thì Ngọ đã ôm súng lách sang một bên tránh đạn, giương súng, bấm cò. Chiếc xe tăng bị cháy, sáng rực một góc đồn. Địch vẫn chống trả quyết liệt. Lại thương vong. Đại đội trưởng vớ ngay một khẩu B40 của một chiến sĩ bị thương nằm ngay bên cạnh, gọi bộc phá viên Lê Văn Sử đến. Quả đạn của Bạ vừa nổ, khói trùm cả khẩu đại liên, cũng là lúc Sử xông lên, đặt bộc phá vào lớp hàng rào thứ 6. sau một tiếng nổ long trời chuyển đất, cửa mở toang. Khi làn sóng người xông lên chiếm được hậu cứ của trung đoàn địch, thì trời đã sáng từ lâu.

        Ở hướng tây nam, trung đoàn 9 đang mở cửa thì hai đại đội địch, từ hướng Củ Chi ra phản kích, đánh vào sau lưng đơn vị. Sau khi đưa hai đại đội ra, để chặn địch lại, toàn bộ trung đoàn cùng với đại đội 11 trợ chiến, chia làm hai mũi vòng sang cổng chính, theo cửa mở sẵn của trung đoàn 48, chọc thẳng vào tung thâm. Mặt trời càng lên cao, sức tiến công của tiểu đoàn 1 cũng yếu dần, vì số xạ thủ B40-B41 của đại đội 3 đã thương vong gần hết, ban chỉ huy trung đoàn 48 phải tung tiểu đoàn 2 và 4 xe tăng là lực lượng dự bị, vào chiến đấu, đi theo cửa mở của đại đội 3, phát triển vào khu vực công binh.

        Trận đánh Đồng Dù là trận đánh gay go ác liệt nhất, trong tuyến phòng thủ tây bắc Sài Gòn. Nhờ có chỉ huy quyết tâm, lãnh đạo chặt chẽ, hiệp đồng gắn bó, cán bộ và chiến sĩ sũng cảm, mưu trí, linh hoạt nên đến 11 giờ trưa hôm ấy, sư đoàn 320A hoàn toàn làm chủ chiến trường. Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, trốn ra rừng cao su, bị nhân dân và dân quân du kích Củ Chi bắt sống.

        Tại chi khu Trảng Bàng, cách Đồng Dù 10 cây số về phía bắc, sau những ngày chốt chặn, bao vây, áp sát, sư đoàn 316 nhân lúc địch hoang mang dao động, chuyển sang tiến công. Bị pháo binh ta dần cho bốn ngày liền, sư đoàn 25 ngụy ở Bến Kéo, Cẩm Giang, Tà Vo, Đồng Chua, suối Sâu, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ tan rã từng mảng. Toàn bộ hai trung đoàn 46 và 49, liên đoàn bảo an 251, một chiến đoàn thiết giáp địch bị sư đoàn 316 cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích Tây Ninh bắt làm tù binh. hệ thống phòng ngự, từ Đồng Dù đến Gò Dầu Hạ bị quét sạch. Một bộ phận thiết giáp và liên đoàn biệt động quân 32, từ Khiêm Hạnh kéo chạy về, bị diệt luôn một số, số còn lại tan rã tại chỗ.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 08:58:44 pm

        Trong lúc sư đoàn 320A ghì chân địch lại để tiêu diệt, thì sư đoàn 10 nhanh chóng và khôn khéo vòng qua Đồng Dù; táo bạo lướt qua hệ thống đồn bốt địch chưa bị tiêu diệt, tiến vào Hóc Môn. Trung đoàn 24 và một tiểu đoàn xe tăng vòng sang tây bắc Củ Chi, theo quốc lộ 1, vượt qua cầu Bông. Trung đoàn 28, trung đoàn 4 pháo binh, tiểu đoàn 2 xe tăng thì rẽ qua Phú Hoà Đông, Tân Quy, theo tỉnh lộ 15 qua cầu Sáng. Trung đoàn 66 làm dự bị, đi sau. Đến 11 giờ, một cánh quân lớn của địch từ Hậu Nghĩa tiến ra ngăn chặn, bị sư đoàn 10 cùng với trung đoàn 1 Gia Định đánh tan, rồi tiếp tục tiến về Củ Chi. Ở đây, đã diễn ra cuộc chiến đấu rất quyết liệt giữa trung đoàn 64 của sư đoàn 320A, được phối thuộc cho binh đoàn thọc sâu, với thiết đoàn 10 xe tăng địch. Vừa lúc ấy, bộ phận đi đầu của trung đoàn 24 xốc tới, tiến công hợp đồng. Bị đánh cả trước mặt lấn sau lưng, thiết đoàn 10 xe tăng tháo chạy, rút qua cầu Bông, thì bị ngay tổ chốt của trung đoàn 64 và tiểu đoàn 20 đặc công chặn lại. Từ phía sau, trung đoàn 64 và 9 xe tăng dồn đánh thốc tới. Địch tán loạn, lao bừa xuống ruộng lầy. Trên mặt đường, đại đội 9 xe tăng của ta, ung dung diệt từng chiếc một, trong lúc chúng đang ngụp lặn dưới vũng bùn sâu. 28 chiếc xe tăng và xe bọc thép, hàng chục xe GMC bốc cháy, không thoát một chiếc. Toàn bộ địch, bị diệt không sót một người nào. Trung đoàn 24 tiếp tục phát triển đánh chiếm thành Quan Năm - Hóc Môn. Từ trung tâm huấn luyện Quang Trung, địch dùng xe tải làm vật cản, phối hợp với bộ binh, xe tăng ra ngăn chặn ta. Trung đoàn 24 đánh địch mở đường. Đến 16 giờ đến xướng dệt Vinatexco, lại gặp một tiểu đoàn địch, máy bay ném bom hoá học để ngăn chặn, nhưng đơn vị vẫn tiếp tục tiến về hướng Bà Quẹo.

        Trên đường 15, trung đoàn 28 cũng bị chặn ở Phú Hoà Đông. Đơn vị tổ chức đánh phản kích, tiến đến Tân Quy thì trời đã về chiều. Thời gian công kích vào nội thành, theo kế hoạch đã ấn định, sắp đến nơi rồi. Vượt qua cầu Sáng, thì cầu đã sập, đường tắc. Không cách nào vòng tránh được, nên trung đoàn phải quay trở lại Ba Ri-Tân Quy, theo tỉnh lộ 8, vượt qua Đồng Dù, tiến sang cầu Bông, chiếm khu tây nam trại huấn luyện Quang Trung, đến 18 giờ 30, đến cầu Hàm Luông.

        Trong một ngày tiến công, Quân đoàn Tây Nguyên đã đập tan tuyến phòng thủ trên hướng tây bắc Sài Gòn, quét sạch hệ thống đồn bốt trong dải phòng ngực từ Tân Quy qua Đồng Dù đến Gò Dầu Hạ; tiêu diệt sư đoàn 25, thiết đoàn 10, các liên đoàn biệt động quân số 32, 9; liên đoàn công binh 6 cùng toàn bộ lực lượng bảo an, biệt kích dù, cảnh sát, mở toang cánh cửa vào Sài Gòn-Gia Định. Vì sao sư đoàn 10, sau gần một tháng trời, hành quân vất vả vòng quanh cao nguyên Lang Biên, qua Ninh Thuận, Lâm Đồng, mãi đến ngày 25 tháng 4 mới về đến vị trí tập kết ở Dầu Tiếng an toàn. Thế mà, vừa đến nơi đã lao ngay vào chiến đấu, trên một địa hình có nhiều sông ngòi, đường sá như mạng nhện, rất phức tạp. Đây cũng là một chuyện thần kỳ. Thành tích của đơn vị này không thể tách rời khỏi sự đóng góp rất to lớn của lực lượng tại chỗ và đồng bào vùng Tam giác sắt kiên cường, Củ Chi đất thép.

        Từ sáng sớm, địch ở Hậu Nghĩa và Củ Chi, đã bị trung đoàn 1 Gia Định, chặn đánh ở Tân Thới Nhất, Xuân Thời Thượng thuộc quận Tân Bình, diệt và bắt trên 1 nghìn tên. Quần chúng nổi dậy giành chính quyền, giải phóng các xã trên, truy lùng ác ôn. Đến chiều thì diệt một chốt ở ngã ba Nhà Dòng, trên quốc lộ 9, bức hàng một đại đội biệt động, vận động quần chúng san bằng đồn bốt, thu chiến lợi phẩm. Một bộ phận quân dù lên phản kích thì bị trung đoàn 115 đặc công chặn đánh, giải phóng luôn xã Tân Thới Hiệp, quận Gò Vấp. Cùng lúc, tiểu đoàn 4 đánh chiếm cầu chợ Mới, bộ đội biệt động đánh thiệt hại nặng cầu Bình Phước và tiến công vào đài phát thanh Quán Tre. Trung đoàn 2 Gia Định cũng hoạt động sôi nổi: suốt cả ngày 29, chặn đánh tàn quân của trung đoàn 50 từ Đồng Dù chạy về dọc theo các tỉnh lộ 18, 15, diệt và bắt trên 300 địch, giải phóng xã Tân Thạnh Đông.

        Thực hiện khẩu hiệu xã giải phóng xã, du kích các xã Trung Lập Thượng, phối hợp với bộ đội địa phương đánh chiếm đồn bốt, chiếm phân chi khu Tân Hoà. Trên chiến trường bắc Sài Gòn-Gia Định, các nơi hoạt động rất đều. Ở Gò Vấp, tiểu đoàn 80 và các đội biệt động tiến công vào tiểu đoàn 61 và trại thiết giáp, đánh địch tại An Phú Đông, Xuân Thới Thượng, Cục cảnh sát Tân Sơn Nhì và cùng quần chúng đứng lên làm chủ ấp Đông Xuyên và cầu Rạch Bà.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 09:01:18 pm

        Đồng bào bất chấp những trận phản kích, ném bom ác liệt của địch, đêm ngày cùng bộ đội sửa sang lại công sự, ngụy trang trận địa, tiếp tế cho bộ đội, bí mật sửa chữa, làm thêm đường để nối các trục đường thành mạng hoàn chỉnh, phục vụ đúng theo yêu cầu kế hoạch tác chiến. Trong đêm 28, nhiều thanh niên trai gái đã thường trực ở Đồng Lớn, ngã tư Bầu Bàng để chỉ đường cho các đơn vị thọc sâu vào Sài Gòn. Thành uỷ thành đội Sài Gòn-Gia Định, mặc dù phải tập trung chỉ đạo các nơi, đẩy mạnh tiến công chín trị để phối hợp, giành giật từ trong tay địch từng nhà máy, xí nghiệp, v.v… vẫn phải cử ra những đoàn cán bộ, chiến sĩ biệt động, đến vị trí tập kết của quân đoàn, dẫn các đơn vị tiến công vào các mục tiêu đã định. Có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng tại chỗ, các đơn vị trong quân đoàn, bộ binh cũng như các binh chủng đều nhanh chóng phát huy sức mạnh của mình,tạo thành một sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn, đặt kẻ địch đứng trước một thế trận vô cùng hiểm hóc, không tài nào cứu vãn nổi.

        Đội chính trị cũng không phải nhỏ: hai bên đường, từng đợt sóng người xô tới vẫy tay, vẫy mũ, đón chào những chiến sĩ giải phóng. Ngược chiều với đoàn quân chiến thắng, là hàng đoàn sĩ quan, binh lính ngụy, quần đùi, áo cộc, vứt súng, trở về nhà.

        Đến chiều một đại đội của trung đoàn 24 với 3 xe tăng, phối hợp với đặc công thuộc trung đoàn 115, đánh chiếm trại huấn luyện Quang Trung, còn cả đơn vị thì tiếp tục tiến vào ngã ba Bà Quẹo. Địch trên các nhà tầng chống trả quyết liệt. Một số chiến sĩ thương vong, một số xe thiết giáp bị cháy, trung đoàn cao xạ 234, theo sát bộ binh, diệt các ổ đại liên trên các nhà tầng, bắn rơi 3 máy bay, yểm hộ đắc lực cho trung đoàn 24 tiến công vào lữ đoàn dù 4. Địch ở ngã ba Bà Quẹo vừa bị đánh tan, thì ban chỉ huy trung đoàn đã đưa ngay một đại đội bộ binh lên, áp sát ngã tư Bảy Hiền. Đúng 20 giờ ngày 29, mũi thọc sâu của Quân đoàn chỉ còn cách sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu trên 1 cây số.

        Ngồi trong sở chỉ huy, mọi người đều nôn nóng, bồn chồn, mong tin của Quân đoàn Quyết Thắng trên hướng đông bắc.

        Địch trước mắt là sư đoàn 5 và lực lượng địa phương quận Bình Dương, vốn đã bị đánh ít nhiều, trong thời gian chuẩn bị chiến dịch. Hôm Bộ tư lệnh quân đoàn đến nhận nhiệm vụ, tôi nói đùa với thiếu tướng Hoàng Mình Thi, chính uỷ Quân đoàn:

        - Lần này, Bộ ưu tiên cho “Anh cả” nhiều lắm đấy! Anh cả chỉ cần diệt Lai Khê, còn các nơi khác thì bao vây chúng lại. Thế là thẳng một mạch đến Gò Vấp, Bộ Tổng tham mưu của chúng rồi!

        - Chúng mình còn phải vượt qua bao nhiêu là cầu: Bình Triệu, Bình Phước và gì gì nữa… Đồng chí nên nhớ rằng, căn cứ Sóng Thần của thuỷ quân lục chiến, bộ tư lệnh thiết giáp, đều nằm ngay trên đường tiến quân của chúng tôi đấy nhé. Cứng lắm đấy.

        Với lại, Bộ đã cấp đủ đạn cho chúng tôi đâu. Vừa rồi, may nhờ có mấy trăm xe của Quân khu 5 đưa vào, mới có mà đánh, nhưng chưa đủ đâu. Riêng lực lượng của Bộ phối thuộc cho chúng tôi: một tiểu đoàn xe tăng, một trung đoàn cao xạ tự hành, một đơn vị hoả tiễn bắn máy bay A72, một đơn vị B72 v.v… toàn là những thứ ngốn đạn phải biết…

        - Địch phá cầu thì đã có xe tăng lội nước để vượt sông rồi còn gì. Còn số tên lửa phòng không A72 thì bộ tham mưu chiến dịch dành riêng ưu tiên cho các anh vì đoán các anh có thể vào trước. Những thứ này là để giành cho số người Mỹ di tản sau cùng đấy. Toàn là cỡ bụ đấy nhé. Nhớ để dành cho ngài đại sứ một quả.

        Mấy ngày qua, báo cáo của Quân đoàn không được đều, chỉ biết được là ngày 26, triển khai thuận lợi; ngày 27, phá huỷ được một số trận địa pháo, dùng một bộ phận lực lượng mở đường tiến quân, giải phóng được một đoạn trên lộ 16 từ Bình Mỹ đến cầu Bình Cơ. Sư đoàn 320B thì đã đứng ở bắc Bình Chuẩn, Thủ Dầu Một, 7 cây số, sẵn sàng thọc sâu.

        Càng sốt ruột hơn nữa, vì sang đến ngày 29 rồi, mà sư đoàn 312 của quân đoàn vẫn chưa dứt điểm được căn cứ Phú Lợi. Vì bộ đội chưa tiếp cận được, khí tài để mở cửa đột phá thì lên chậm, nên phải chuyển sang bao vây. Trên đường quốc lộ 13, ta vẫn chưa nắm được; nên cả ngày hôm ấy, đến 13 giờ chiều xe vẫn còn chạy từ Lai Khê về Bình Dương. Trên đường quốc lộ 14 ta nhổi chốt ở An Lợi, diệt một số xe đang kéo chạy từ Phước Hoà về. Số còn lại chạy về Lai Khê.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2017, 12:15:28 am

        Trên hướng tây nam, sư đoàn 3 của Đoàn 232 chiếm được thị xã Hậu Nghĩa lúc 10 giờ ngày 29 tháng 4, phát triển diệt chi khu Đức Hoà, bức rút chi khu Đức Huệ và đến chiều sau khi dứt điểm căn cứ Trà Phú, hành lang trên sông Vàm Cỏ Đông được mở toang. Sư đoàn 9 của Quân đoàn Cửu long, phối thuộc cho Đoàn 232 suốt cả ngày 29, vất vả vô cùng mới đưa được 4 xe tăng, xe bọc thép, 3 khẩu 130 ly và 8 khẩu cao xạ 23 ly qua sông Vàm Cỏ, lần lượt tiến vào Mỹ Hạnh và tây Vĩnh Lộc. Đêm hôm ấy, triển khai ở khu vực Ba Lát, trên tuyến đê Đại Hàn.

        Trên đường quốc lộ 4, địch ra sức phản kích để nối lại con đường giao thông huyết mạch sống còn; nhưng đều bị sư đoàn 5 nhanh chóng từ bắc Cần Giuộc, Hưng Long, áp sát vào phía nam Sài Gòn-Gia Định.

        Lực lượng tại chỗ hoạt động mạnh không kém phía bắc. Trung đoàn đặc công 429, tiến công vào liên đoàn 8 biệt động quân ở khu vực Tân Tạo, Bà Hom, đưa đội hình lên chiếm ấp Bình Hưng và cầu Nhị Thiên Đường. bộ đội địa phương huyện Bình Chánh chiếm các phân chi khu Tân Túc, Tân Hoà quận Tân Bình. Chiến sự trên mặt trận phía đông, bước sang ngày 29, vẫn còn sôi động. Từ tờ mờ sáng, sư đoàn 304 tiếp tục tiến công vào căn cứ Nước Trong, rừng cao su và ngã ba Long Bình. Đến gần trưa mới phát triển ra đến quốc lộ 15, cầu sông Buông. Sư đoàn 325, phát triển thuận lợi hơn ngày hôm trước. Vì phải đối phó với tàn quân địch, đến nửa đêm 28 mới đặt được trận địa pháo ở Nhơn Trạch. Sau khi thiết bị xong, lập tức khổi đội của Nguyễn Văn Biên thuộc lữ pháo 164, bắt đầu bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Bảy giờ sáng, bộ binh đã làm chủ được chi khu Nhơn Trạch và cả ngày hôm ấy đánh chiếm luôn Thành Tuy Hạ, Cát Lái.

        Trên quốc lộ 1, sư đoàn 6 được tăng cường thêm trung đoàn 209, đánh vào căn cứ thiết giáp của sư đoàn 18 ở ngã ba Yên Thế nhưng khi phát triển đến Hố Nai thì bị chặn lại. Sư đoàn 341 tiến công vào sở chỉ huy quân đoàn 3 quân đội Cộng hoà, Hóc Bà Thức, sân bay Biên Hoà, nhưng các mũi đều không tiến lên được.

        Những trận chiến đấu để giữ cầu và chiếm cầu của lực lượng tinh nhuệ đã diễn ra vô cùng ác liệt. Các đoàn 116-113, 10 đã chiến đấu trong điều kiện rất không cân sức; nhưng các đơn vị đều hoàn thành nhiệm vụ. Xa hơn nữa về phía đông, trung đoàn 10 làm chủ được ngã ba Động Tranh, trong 2 ngày bắn chìm và bắn cháy trên 10 tàu trên sông Nhà Bè.

        Nhờ rút kinh nghiệm nóng hổi ở Huế-Đà Nẵng, Bộ tư lệnh Quân đoàn Hương Giang cũng đã hoàn thành nhanh chóng việc tổ chức binh đoàn thọc sâu, gồm có lữ đoàn thiết giáp 203, trung đoàn 66 bộ binh ngồi trên xe, tiểu đoàn 7 của sư đoàn cao xạ 673, tiểu đoàn 2 công binh có một đại đội cầu phà, 1 tiểu đoàn hộ tống có pháo 85 ly đi cùng. Toàn bộ do đại tá Hoàng Đan, phó tư lệnh Quân đoàn trực tiếp chỉ huy. Nhiệm vụ của binh đoàn là đột phá trong hành tiến, sử dụng uy lực của xe tăng và bộ binh cơ giới, pháo đi cùng, phát triển rất nhanh, rất mạnh theo đúng phương châm: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, và chắc thắng, đánh thẳng vào trung tâm thành phố, mà mục tiêu chủ yếu là dinh Độc Lập. Binh đoàn không được tham chiến dọc đường, nếu không bị bắt buộc.

        Tại khu vực rừng ông Quế, binh đoàn đã làm lễ trao cờ, giao nhiệm vụ. Lữ đoàn trưởng Nguyễn Tất Tài, và chính uỷ Bùi Văn Tùng, hứa quyết tâm sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

        Không như ta dự kiến, khi vòng vây chung quanh Sài Gòn càng khép lại dần, thì địa vị của phái đoàn ta ở trại David được nâng dần lên. Đến hợm mình như Martin, mà đến lúc cùng đường cũng xuống nước. Tưởng đã đưa Nguyễn Văn Thiệu đi, bệ Hương lên để cho có vẻ hợp hiến, vừa làm cho vừa lòng đối phương, nhưng đối phương vẫn một mực từ chối: “Đây là chính quyền Thiệu, không có Thiệu". Lại phải hạ Hương xuống, cực chẳng đã, phải đưa con bài Dương Văn Minh ra.

        Tuy nhiên, đại sứ vẫn còn hy vọng vào một giải pháp chính trị.

        Hành động cuối cùng của viên đại sứ là cử Ch.Times đến dinh Độc Lập, mang theo một bức thư riêng, hứa sẽ đáp ứng yêu cầu chính thức của Minh là sẽ rút hết nhân viên cơ quan DAO ra khỏi Sài Gòn trong vòng 24 giờ, Martin cho rằng làm như thế, cốt để làm cho cái thế thương lượng của Minh, người mà Mỹ vốn không ưa, được vững mạnh hơn phần nào. Nhưng một giờ sau đó, Vũ Văn Mẫu, nhân danh thủ tướng mới, lại tuyên bố trên đài phát thanh: tất cả người Mỹ phải rút khỏi Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2017, 12:17:38 am

        Thế là hết! Mọi cuộc vận động chính trị đã trở thành con số không đối với Mỹ. Phương án 4 mang tên “Cơn gió hàm phong” bắt đầu. Đây là mật danh của kế hoạch rút lui ồ ạt bằng máy bay lên thẳng, sau khi sân bay Tân Sơn Nhất, đóng cửa đối với máy bay có cánh cố định. 36 chiếc máy bay lên thẳng rời tàu sân bay về hướng đất liền. Nhiều máy bay AD6 trên tàu Hen-kốc, máy bay con ma, thần sấm cũng từ Thái Lan bay lượn trên bầu trời Sài Gòn để hộ tống. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, ra vào được một số chuyến, thì những tên lửa tìm nhiệt quái ác, bố trí ở đầu đường băng đã hạ luôn 2 chiếc con ma và 3 chiếc khác, cũng bị rơi ở vùng ngoại ô. Mọi sự ra đi đã trở nên vô cùng nguy hiểm. Từ Washington, Kissinger nắm tình hình từng giờ, từng phút. Không rõ ai báo tin cho ông ta biết là Quân giải phóng đang chuẩn bị 200 viên đạn pháo 130 ly để nã xuống dinh Độc Lập vào khoảng 18 giờ. Kissinger vội vàng điện sang cho Martin: “Phương án 4 cũng bỏ đi. Toàn thể người Mỹ, kể cả số 150 người cốt cán dự định ở lại với Martin, đều phải rời khỏi Sài Gòn ngay tức khắc”. Martin nhún vai, nhìn bức điện không nói ra lời.

        Cách toà đại sứ không xa, quang cảnh trong dinh Độc Lập, dường như có vẻ ít ngột ngạt hơn. Các phòng làm việc vắng tanh vắng ngắt. Các cửa kính đều đóng kín mít, càng làm tăng thêm bầu không khí yên tĩnh, loại trừ tiếng pháo rền, thỉnh thoảng từ xa vọng lại. Dương Văn Minh đi lại trong phòng làm việc. Ông ta ngong ngóng trông chờ. Đã nửa đêm rồi mà chẳng nhận được câu trả lời của phía bên kia. Sáng nay, cử đặc phái viên đến trại David để gặp phái đoàn, nhưng bị đuổi về. Không nản chí, đến chiều lại cử một phái đoàn khác, thành phần xem ra có vẻ dễ coi hơn: Giáo sư Trần Ngọc Liễn, luật sư Chân Tâm Luân và linh mục Châu Tín, những người xưa nay vốn được tiếng là đứng trong hàng ngũ những người chống đối. Khác với buổi sáng, lần này Minh xuống giọng, muốn thương lượng, tìm cách giải phóng Sài Gòn một cách êm thấm. Một số người ở cạnh ông ta, thúc ông ta đầu hàng không điều kiện. Ông ta không muốn làm việc đó, vì sợ rằng, cả nước sẽ nghĩ xấu về mình. Vì vậy, ông ta chần chừ, muốn hoãn lại cho đến khi lập xong nội các rồi mới quyết định. Lúc bấy giờ sẽ có nhiều người khác cùng chia sẻ với ông ta nỗi nhục nhã này.

        Tuy sứ mệnh lúc ra đi như vậy, nhưng cả ba vị nhân sĩ đều thừa biết rằng chính phủ của Minh cũng chẳng còn gì để mà thương lượng. Họ tự động hạ thấp yêu cầu: Xin gặp phái đoàn ta với tư cách cá nhân. Có như thế, mới khỏi bị khước từ. Linh mục Chân Tín, vốn là trưởng ban cải tạo lao tù của chế độ Thiệu. Trong những buổi tranh cãi trước đây ở bàn hội nghị, mỗi khi ta đưa vấn đề tù chính trị ra bàn, đối phương chối đây đẩy. Chuẩn tướng Phan Hoà Hiệp, trưởng phái đoàn của chính phủ Thiệu, còn lên giọng thách thức: “Ở miền Nam, không có tù chính trị, nếu các ngài thấy có, thì xin đưa danh sách ra đây”. Chúng không bao giờ có thể nghĩ rằng đại tá Võ Đông Giang đã có sẵn bản danh sách ấy trong chiếc cặp da, mà người cung cấp thì không ai khác là vị linh mục tiến bộ kia.

        Giữa lúc tiếng súng nổ dồn ở khắp nơi, đạn pháo rít trên bầu trời Sài Gòn, đại tá Võ Đông Giang, tiếp họ trong căn hầm chật hẹp của mình, đào sâu trong lòng đất. Lúc đầu, họ còn hơi nhớn nhác, không khỏi mất bình tĩnh. Đại tá giới thiệu: xin các ngài yên trí. Hầm này có thể chịu đựng được đạn pháo lớn, theo sự tính toán của chúng tôi.

        Một bữa cơm thịnh soạn một cách khá bất ngờ, được bày ra. Đại tá lại giới thiệu:

        - “Đây toàn là những thứ chúng tôi tự túc cả: từ thịt lợn, thịt thỏ, cho đến các thứ rau và trái cây. Chỉ có rượu lúa mới, rượu cà phê thì phải lấy ở Lộc Ninh đưa vào. Mấy tuần qua vì bên kia bỏ họp, anh em mới có thì rảnh tổ chức liên hoan…”

        Suốt cả đêm hôm ấy, họ ngồi ăn chuối, hút thuốc lá, mà không hề đả động gì đến việc thương lượng cả. Câu chuyện xoay quanh những vấn đề thời cuộc và tương lai của đất nước, kéo dài cho đến lúc trời sáng, vừng hồng đỏ rực ở phương đông.

        Những tin tức giật gân lan truyền rất nhanh như một bệnh dịch, gieo rắc nỗi kinh hoàng, khủng khiếp trong những người Mỹ và nước ngoài còn lần khân, đến giờ phút này, vẫn còn chưa chịu rời khỏi Sài Gòn.

        Cũng như các đơn vị khác, sự hỗn loạn, điên cuồng, thường bắt đầu trong đám quân nhân, vốn rất nhạy bén với tinh hình, và đáng sợ hơn nữa, là khẩu súng luôn luôn cầm sẵn trong tay.

        Tối đến, nhóm lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở cơ quan DAO bắt đầu phá huỷ ngôi nhà này và những khu vực quan trọng của nó. Mệnh lệnh của trên là tuyệt đối không được để rơi vào tay cộng sản bất cứ một thứ gì có giá trị. Các thiết bị điện đài qua vệ tinh nhân tạo, rất hiện đại đã từng chuyển đi hàng chục vạn bức điện tối mật của DAO, là những thứ phải phá huỷ trước tiên và triệt để nhất, sau khi đã phát đi bức điện cuối cùng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2017, 12:20:13 am

        Người ta đặt những gói thuốc nổ chung quanh các cột anten và rải rác khắp nơi trong toà nhà. Những tiếng nổ long trời, tiếp nhau, những cột khói đen cuồn cuộn bốc lên, những cột lửa màu da cam phụt lên, sáng rực cả một góc trời. Cùng lúc đó, suốt sân bay, trải dài hết tầm mắt, chẳng chịt những vệt sáng của những quả cầu lửa, chuyển từ màu xanh lam đến xanh lục, rọi lên những chiếc máy bay, những xe hơi xếp hàng dài dằng dặc dưới mặt đất.

        Những lính dù căm hờn, thất vọng đi chạy lại như một bầy trâu điên, bắn loạn xạ vào đám lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Một cuộc giao tranh, tuy ngắn ngủi, nhưng mang rất nhiều ý nghĩa. Đây là những bài học đáng nhớ đời.

        Tình hình ở dưới Sài Gòn, trong và ngoài đại sứ quán Mỹ cũng hỗn loạn không kém. Một nhà báo Mỹ đã ghi lại như sau: các phóng viên báo chí nước ngoài cũng phải cố giành lấy mạng sống, cào cấu, cố làm sao đến gần được bức tường. Trên tường có hai lính thuỷ đánh bộ. Họ đang đá vào những người Việt Nam và những người Nhật bám vào tường… Viên lãnh sự bị làn sóng người xô đẩy đến rìa sân máy bay lên thẳng trên nóc nhà. Một bà già nện một gậy vào đầu anh. Một chiếc máy bay lên thẳng, từ trong bóng tối xuất hiện. Đám người giãn ra, tạo nên một khoảng trống, khi chiếc máy bay xà xuống gần. Người phi công vẫy tay gọi. Một người khác chĩa súng M.16 vào đám người. Viên lãnh sự vụt đứng thẳng dậy, gọi hai trung uý lục quân đi theo ông, bước như người mất hồn về phía máy bay. Khi vào được trong máy bay nhìn ra ngoài, anh ta nức nở. Máy bay vọt lên, và vọng đến tai anh ta những tiếng kêu gào, chửi rủa của những người Việt Nam bị bỏ lại”.

        Trong lúc ở Tân Sơn Nhất, từ dinh Độc Lập, ở toà đại sứ Mỹ đang diễn ra những cảnh hỗn loạn trên, thì ở bến tàu Bạch Đằng, Khánh Hôi, các sắc lính bắn nhau loạn xạ: người ta chen nhau lên tàu thuỷ, xà lan, dưới ánh sáng bập bùng của một kho xăng ở gần đấy đang cháy. Một số người nước ngoài, quen sống với Sài Gòn hoa lệ, không tránh khỏi ngộ nhận: đâu đâu cũng chỉ thấy có lửa, máu và nước mắt. Kể ra thì những điều tai nghe, mắt thấy, trong đêm hôm ấy, hãy còn rất xa với những câu chuyện hoang đường mà hàng ngày, bộ máy tuyên truyền Mỹ Thiẹu đa số nặn ra: nào những đòn trả thù, những cuộc tắm máu kinh rợn. Chính trí tưởng tượng của Mỹ Thiệu đã vô tình hay hữu ý, gây ra những hỗn loạn, gieo rắc hãi hùng.

        Hai mươi năm qua, trên mảnh đất Sài Gòn-Gia Định, đồng bào đã chứng kiến biết bao nhiêu lần thay thầy đổi chủ? Đêm đêm nghe tiếng súng bắn nhau: tiếng súng của Bình Xuyên, từ khu rừng Sát ở phía đông thành phố vọng ra, hay tiếng súng của nhóm sĩ quan bất trị, từ Bộ Tổng tham mưu dội lại? Sáng ra đâu lại hoàn đấy, không người này thì kẻ khác cưỡi lên đầu mình, kiếp trâu ngựa vẫn hoàn trâu ngựa.

        Lần này thì khác hẳn. Từ hơn một tháng nay, thành uỷ đã đưa vào nội thành một đội ngũ khá đông cán bộ. Đồng bào đã được nghe giải thích rành mạch các chính sách; những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc được vạch trần. Ở nhiều nơi, một khí thế rạo rực, sôi nổi của những ngày trước khởi nghĩa đang dâng lên. Cách mạng đã đi sâu vào lòng người. Ai nấy cũng hiểu rằng sự thay da đổi thịt lần này là triệt để, vĩnh viễn, mà chỗ khác nhau căn bản so với trước, là mọi người đều ý thức được rằng đây là nhiệm vụ của mình, là chủ nhân của thành phố, chính mình là diễn viên, chứ không còn là khán giả nữa.

        Tết đã qua từ lâu rồi, mùa xuân sắp hết. Nhưng đêm nay, nhân dân Sài Gòn-Gia Định cùng với nhân dân cả nước, như đang sống trong buổi giao thừa. Bốn vạn ngày dằng dặc, đau thương và tủi nhục, đang lùi vào dĩ vãng; một mùa xuân huy hoàng, rạng rỡ đang ngấp nghé bên thềm. Tiếng pháo rền vang bốn phía, tưởng như tiếng pháo mừng xuân.

        Kể sao cho hết những trận đánh nhau chớp nhoáng của tự vệ và đồng bào các khu phố, để dập tắt một ổ đề kháng; những loạt súng lẻ tẻ truy lùng bọn ác ôn đang lẩn trốn. Cuộc đấu tranh để giành quyền làm chủ các xí nghiệp, các nhà máy, cũng đang diễn ra vô cùng sôi nổi. Tuy không có những tiếng nổ lớn, nhưng việc âm thầm chặn bàn tay của những kẻ phá hoại, của bọn chủ còn tiếc rẻ, muốn đưa đi chôn giấu tài sản cũng vô cung gay go quyết liệt.

        Suốt cả đêm, Sài Gòn thao thức đợi chờ. Không có điện thì đã có đèn dầu. Ánh sáng lù mù, nhưng mà lòng rạng rỡ. Các mẹ, các chị, các em náo nức chuẩn bị quà, may cờ để ngày mai đón đoàn Quân giải phóng vào thành phố. Kỳ diệu vô cùng, ai ai cũng thừa biết rằng bộ đội chủ lực đã vào đến ngã tư Bảy Hiền, ở Lái Thiêu, cầu xa lộ, Bò Hom nhưng không một ai có ý nghĩ rằng, ngày mai, sẽ có đổ nát, mà người ta chỉ nói đến sự gặp gỡ, mừng vui. Đêm nay có hàng trăm người nông nổi, nhẹ dạ cả tin đã ra đi; thậm chí còn bám cả càng trực thăng chạy trốn nhưng lại có hàng ngàn, hàng vạn người trở về. Vành mũ tai bèo lấp ló bên song. Từ nhà lao Chí Hoà, anh em tù chính trị đã tập hợp lại cùng quần chúng khởi nghĩa giải phóng cả phường. Ở hãng BGI lá cờ của công nhân cách mạng phấp phới bay. Ngã tư Bảy Hiền, Thạnh Mỹ Tây, Bình Hoà, Tân Phú, quận 1, 2, 3, 5 rực rỡ màu hồng.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 01:37:26 pm

Chương 28

BÌNH MINH CỦA ĐẤT NƯỚC

        Trong sở chỉ huy chiến dịch, không còn nhớ rõ đêm nay là đêm thứ bao nhiêu, mình đã thức trắng. Thế mà đêm nay, mọi người vẫn tỉnh như sáo. Những đồng chí trợ lý tác chiến, quân báo, thông tin, v.v… dù không phải đến phiên mình trực ban, cũng vẫn xúm quanh các máy điện thoại, lắng nghe từng hồi chuông reo, theo dõi từng bước đi của mỗi binh đoàn. Nào phải đâu trong suốt cả cuộc đời chiến đấu, đêm nay mới là đêm đầu tiên, anh em mới phải trải qua những giây phút cực kỳ căng thẳng như thế này? Tết Mậu Thân, nhất là trong đêm ta đánh vào Sài Gòn-Huế, năm 1972, những lúc ngồi theo dõi tin tức địch phản kích đánh vào thành phố Quảng Trị, hay lúc ngồi dưới hầm tác chiến, theo dõi từng đợt ném bom của B.52, đầu óc người cán bộ tham mưu căng thẳng vô cùng. Nhưng cảm tác khác xa với đêm nay: bây giờ thì tuy căng thẳng, nhưng không bối rối, nơm nớp, mà người lại thấy lâng lâng, hồ hởi vô cùng. Đến 0 giờ ngày 30 tháng 4, các trợ các cánh đã tổng hợp xong tình hình chiến đấu trong ngày 29. Từ thuở có quân đội đến nay, đã có ngày nào ta diệt được nhiều địch như ngày hôm nay đâu: cả bốn sư đoàn của quân đội Cộng hoà 25, 18, 22,7 gần như bị tan rã hoàn toàn. Sư đoàn 18 và 25 bị thương vọng quá nặng, đang cầu cứu cấp trên liên tục và “khẳng định” với nhau là không cách gì cầm cự thêm được mấy tiếng đồng hồ nữa; lữ 3 kỵ binh thì báo cáo là sắp hết đạn, hết xăng; sư đoàn trưởng 22 đã bỏ chạy, chẳng thấy tăm hơi. Anh em nói đùa với nhau: không biết giờ phút này, ở Bộ Tổng tham mưu có còn ai mà nhận các báo bi đát này không. Tướng, tá chạy hết rồi, may ra còn được vài tên lính quèn gác điện thoại.

        Anh Tuấn cũng không ngủ. Giá như mọi hôm, thì đồng chí bác sĩ đã “nhắc nhở”, mời anh đi nghỉ, để mai còn lấy sức làm việc; nhưng thói quen ấy hình như cũng được bỏ qua. Chẳng những anh không nghỉ, lại còn luôn luôn đi lại trong phòng trực ban, theo dõi diễn biến tình hình trên các mặt trận như mọi người, nhắc nhở, bổ sung chỉ thị:

        - Cho pháo 130 ly thôi bắn, vì bộ binh ta đã áp sát các mục tiêu rồi.

        - Nhắc nhở Quân đoàn Tây Nguyên khi vào sân bay Tân Sơn Nhất thì cho một cánh đánh sang Bộ Tổng tham mưu, phối hợp với Quân đoàn Quyết Thắng, chú ý bắt liên lạc với nhau.

        - Kiểm tra lại các ký hiệu, tín hiệu hợp đồng…

        Mãi về sau này, tình hình mới rõ ra: trên hướng đông bắc, để bảo đảm cho mũi thọc sâu của Quân đoàn Quyết Thắng, buổi sáng ngày 30 tháng 4, sư đoàn 312 tiêu diệt và bức hàng địch tại căn cứ Phú Lợi gồm toàn bộ lực lượng của tiểu khu Bình Dương và một bộ phận của sư đoàn 5 quân đội Cộng hoà gần trưa, toàn bộ số còn lại của sư đoàn này, gần 8.000 người, từ Lai Khê-Bến Cát, rút chạy theo trục đường 13, 14 thì bị các chốt ở An Lợi và Búng chặn lại, bắt hàng toàn bộ. Riêng sư đoàn trưởng Lê Nguyên Vỹ, đã tự sát trước cửa hầm chỉ huy. Khi xung phong vào, các chiến sĩ ta thấy xác nó nằm bên cạnh những bao cát màu xanh, đầu chúc ngược. Đàn chim bồ câu, từ sáng đến giờ len lét trong các xóm nhà xung quanh, bắt đầu lục tục kéo về đậu đầy trên nóc chuồng, làm trên nóc hầm, xỉa lông, rẽ cánh, gáy. Sắp bước vào một kỷ nguyên hoà bình chăng?

        Đơn vị có nhiệm vụ thọc sâu-sư đoàn 320B-xuất phát từ lúc 1 giờ 30 ngày 29 tháng 4, nhưng do bị lạc đường, nên đánh vào tiểu đoàn 316 ở Tân Uyên, ngoài kế hoạch. Gần 30 xe bị ùn lại, cả ngày không tiến lên được. Sáng hôm sau, mới giải quyết được Lái Thiêu, theo đường quốc lộ 13 tiến về cầu Bình Phước. Tiểu đoàn đặc công 51, cũng vừa chiếm được cầu này, bàn giao lại. Cùng lúc đó, gần 200 xe các loại của lữ đoàn 3 kỵ binh quân đội Cộng hoà, rùng rùng kéo chạy từ Biên Hoà về, chưa kịp qua cầu, đội hình rải dài từ cầu Vinh Bình, nam Lái Thiêu hàng cây số đến cầu Bình Phước. Trung đoàn 27 chặn đánh quyết liệt, đồng thời trung đoàn 28 cũng triển khai đánh địch từ ngã ba Bình Phước đến cầu Bình Triệu. Con vật bị dồn đến bước đường cùng, còn ra sức chống cự để tìm lấy mạng sống; huống chi cả một lữ đoàn kỵ binh với từng ấy khối sắp thép, đang ở trong cái thế chỗng đỡ, sau lưng là sông lớn. Những xác xe tăng cháy rụi, nằm rải rác trong các ruộng mía, vườn dừa, bãi trống, đã nói lên trận đánh gặp gỡ này, tuy kết thúc rất nhanh nhưng cũng rất ác liệt. Toàn bộ lữ đoàn kỵ binh 3 bị tiêu diệt và tan rã. Độc đáo hơn các nơi khác, anh em ta bắt hàng binh lái 8 xe tăng địch, dẫn đường cho sư đoàn vượt qua chiếc cầu lớn này, đánh vào khu binh chủng và tiến về hướng Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 01:40:29 pm

        Suốt cả đêm 29, sư đoàn 10 của Quân đoàn Tây Nguyên điều chỉnh đội hình lên áp sát ngã tư Bảy Hiền. Mặc dù đây đến dinh Độc Lập chỉ có một đường thẳng-lúc bấy giờ là đại lộ Lê Văn Duyệt-nhưng nhiệm vụ chính của sư đoàn là đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu nên phải thực hiện đúng kế hoạch. Từ 6 giờ sáng, pháo bắn mạnh vào sân bay, sau 2 giờ, một tiểu đoàn của trung đoàn 24 cùng với bốn T.54, một K.63 tiến công chiếm ngã tư Bảy Hiền, phát triển theo đường Võ Tánh vào cổng Phi Long của sân bay. Địch bố trí trên cácnhà tầng, trước Lăng Cha Cả, chống trả quyết liệt. Ta bị cháy hai xe tăng và một K.63. Sư đoàn lập tức đưa hai khẩu pháo chống tăng 85 ly lên, yểm hộ đột phá. Chỉ sau 1 giờ, chiếm được cổng, thọc sâu chiếm bộ tư lệnh sư đoàn 5 không quân, khu thông tin.

        Anh em trong phái đoàn quân sự ta, ngồi trong hầm ở gần ngay đấy, bỗng nghe thấy gọi ở bên ngoài.

        - David đâu rồi?

        Vừa bước ra khỏi hầm, với cái giấy phép được đi lại trong thành phố, do phái đoàn ta vừa mới cấp, linh mục Chân Tín thốt lên:

        - Chà! Lính trẻ và đẹp quá.

        Bên cánh phải, trung đoàn 28 vòng sang đánh vào cổng 1 Bộ Tổng tham mưu, nhưng rồi bị chặn lại. Trước đó một tiếng đồng hồ, đã có một lực lượng biệt động nội thành 21 người, chia làm 3 tổ đánh vào khu vực này. Cổng 1, không vào được vì bị chống cự mạnh; cổng hai ta chiếm được, chưa cắm được cờ phì bị pháo binh từ sân bay bắn sang; phải lùi ra. Đến đường xe lửa, thì gặp xe tăng của Quân đoàn Quyết Thắng dẫn vào. Một cuộc hội sư tuyệt đẹp của ba đơn vị tại Bộ Tổng tham mưu lúc 11 giờ.

        Trên hướng tây nam, trung đoàn 1, sư đoàn 9, đêm 29 tháng 4, từ bàn đạp Vinh Lộc tiến theo sau đội hình sư đoàn 10. Đến 10 giờ 30 đến biệt khu thủ đô, tướng Lâm Văn Phát, vừa mới nhận chức, ngồi chưa nóng chỗ, vội vã đầu hàng. Ở phía nam thành phố, sáng hôm ấy, trung đoàn 24 cùng với đặc công diệt đồn ngã ba Bình Hưng Đông, bốt cảnh sát quận 8, tách ra một bộ phận đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường vừa bị địch chiếm lại, rồi phát triển lên cầu chữ Y. Cùng lúc với biệt khu thủ đô, bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia xin đầu hàng.

        Trung đoàn 88 không cùng vào thành phố, mà lại tiến thẳng, diệt phân chi khu Đa Phước, bức hàng đồn cậu ông Thìn, ngã ba An Phú rồi phát triển sang khu vực Nhà Bè.

        Trên quốc lộ 4, sư đoàn 5 của ta tiến công tiêu diệt toàn bộ sư đoàn 22 và liên đoàn 6 biệt động quân, chiếm thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa, cả vòng ngoài, đặc khu rừng Sát, quận Bình Chánh, quận Tân Bình cũng được giải phóng trong buổi sáng.

        Mặt trận phía đông cũng rộ lên hơn những ngày trước. Từ 7 giờ sáng đến 9 giờ sáng ngày 30 tháng 4, sư đoàn 6, phối hợp với một mũi của trung đoàn 3, sư đoàn 341, chiếm chớp nhoáng sở chỉ huy quân đoàn 3 và bộ tư lệnh sư đoàn 3 không quân, làm chủ sân bay Biên Hoà; gần trưa, vượt qua cầu để vào nội đô. Trung đoàn 2, cùng với tiểu đoàn 9 đặc công, chiếm toàn bộ khu vực Hóc Bà Thức trong buổi sáng. Tại đây, có chỉ huy sở của trung đoàn 15 thiết giáp và trung tâm tiếp viện Biên Hoà.

        Thi đua với đơn vị bạn vào trung tâm thành phố, sư đoàn 7 từ 3 giờ sáng đã bắt đầu tiến quân; nhưng bị địch ở căn cứ Tam Hiệp ngăn chặn, bắn hỏng của ta ba xe tăng. Cuộc chiến đấu kéo dài cho đến 8 giờ mới giải quyết xong. Địch bỏ chạy về Biên Hoà. Sư đoàn giữ nguyên đội hình tiến vào Sài Gòn. Chiều hôm ấy, chiếm được bộ chỉ huy sư đoàn thuỷ quân lục chiến, căn cứ hải quân, bộ quốc phòng, cảng Bạch Đằng và đài phát thanh.

        Bên cánh trái, sư đoàn 325, từ sáng sớm tổ chức vượt sông Sài Gòn. Phà thiếu, phải huy động thêm thuyền của dân. 7 giờ sáng, khi xe lội nước của ta đến giữ sông thì bị tàu của hải quân chặn lại. Ta bắn chìm luôn cả ba chiếc. Địch ngoan cố đưa thêm ra 5 chiếc nữa tiếp chiến. Sau mấy loạt pháo, toàn bộ 5 tàu cùng với 3 xà lan, một tàu kéo bị nhận chìm. Được sự giúp đỡ rất tích cực của anh em công nhân bến phà, sư đoàn đưa pháo nặng và quân sang sông chiếm quận 9.

        Trên hướng chủ yếu, 5 giờ sáng, binh đoàn thọc sâu đến cầu xa lộ, bắn cháy liền một lúc bốn xe tăng địch. Cầu vẫn còn nguyên vẹn. Đây là thành tích của tiểu đoàn 25, đoàn 116 đặc công. Đơn vị này đã chiếm giữ các cầu từ trước, và đã phải chiến đấu cực kỳ quyết liệt trong suốt cả một ngày, giành đi giật lại với một kẻ địch đông hơn gấp bội.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 01:43:59 pm

        Binh đoàn thọc sâu được ba cụm pháo binh của Quân đoàn Hương Giang trực tiếp chi viện cho từng giai đoạn chiến đấu: trận địa ở Nước Trong, chi viện khi đánh cầu An Lộ, trận địa cầu An Lộ, chi viện lúc đánh chiếm ngoại vi Sài Gòn, trận địa ở Thủ Đức chi viện trong giai đoạn đánh vào nội thành.

        9 giờ sáng, bộ phận đi đầu gồm có xe trinh sát, một tiểu đoàn tăng, một đại đội bộ binh ngồi trên xe, đã đến cầu Rạch Chiếc. Bộ phận còn lại: Lữ đoàn 203, trung đoàn bộ binh 66, cùng với tiểu đoàn 2, trung đoàn 9, tiểu đoàn 5 trung đoàn 24, triển khai đánh địch ở phía tây đường. Trên tuyến phòng thủ cuối cùng này, đối phương đã dựa vào địa hình thiên nhiên, rất thuận lợi cho việc phòng ngự, nên chiến đấu có tổ chức hơn các nơi khác. Đại đội 8 của trung đoàn 66 phải đưa pháo chống tăng 85 ly lên, bắn trực tiếp vào đội hình địch; pháo cao xạ 57 ly cũng phải hạ nòng để diệt các đài quan sát; trận địa cối bố trí hai bên đường.

        Chiếc xe tăng mang số 707 do Trần Quang Nhạ chỉ huy, rất xông xáo, một mình đánh vòng sau huấn khu Thủ Đức, chọc thẳng vào trận địa phòng ngự của địch, diệt một lúc 50 tên. Tất cả cac chiến sĩ trong xe đều anh dũng hy sinh. Bà con xã Tân Nhơn Phú quận Thủ Đức, đã tận mắt thấy gương chiến đấu của các liệt sĩ. Binh đoàn lại tiếp cận Sài Gòn. Cầu dài 986 thước. Đối phương đã phòng ngự sẵn ở hai đầu cầu, dựa vào hoả lực của 8 xe M113, một M48, bốn M41 và của sáu chiếc tàu đậu ở Tân Cảng. Cùng với bộ binh trên cầu, họ vãi đạn vào đội hình quân ta, dùng máy bay ném bom vào đội hình ta. Hai xe tăng bị cháy, một số cán bộ bị hy sinh. Lữ đoàn xe tăng 203 triển khai đội hình, vừa quét bộ binh địch trên mặt cầu, vừa bắn tàu dưới sông. Tiểu đoàn 1 bắn cháy hai xe M41, một tàu chiến; một tiểu đội ĐKZ bắn bị thương hai chiếc xe tăng khác. Đến 8 giờ sáng, đại đội 4 xe tăng do đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy, được cô Nga, người của đoàn 316 biệt động dẫn đường, dẫn đầu đội hình binh đoàn, vượt qua cầu.

        Được báo cho biết “Cottu”-mật danh của Martin, đã lên chiếc trực thăng Lady 09 ra đi từ lúc 5 giờ sáng; hoảng hốt trước sức tiến công như vũ bão của quân ta, nhìn ra cả bốn mặt thành phố, đã bị vây chặt. Dương Văn Minh và cái nội các còn đang bọc giấy bóng của ông ta, đã mất hết hy vọng ở các sứ giả phái đi gặp phái đoàn ta ở trại David, vì đã đến 9 giờ sáng rồi, mà chẳng thấy ai về. Dương Văn Minh buộc phải đưa ra một bản tuyên bố đề nghị ngừng bắn tại chỗ. Bản tuyên bố ấy, được thu vào băng ghi âm và phát ngay trên đài phát thanh.

        Từ Hà Nội, khi được tin đề nghị ngừng bắn, Bộ Chính trị đã chỉ thị ngay cho Bộ tư lệnh chiến sĩ.

        “Tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch, tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí địch, giải tán chính quyền các cấp, đập tan mọi sự chống cự của địch”.

        Đúng 9 giờ 30 ngày 30 tháng 4, Bộ tư lệnh chiến dịch đã hạ lệnh cho các đơn vị:

        1.Các quân khu, quân đoàn, đơn vị tiếp tục phát triển tiến công thật nhanh vào các khu vực và mục tiêu đã quy định trong thành phố và ở các địa phương.

        2.Kêu gọi quân địch đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí, bắt giữ và tập trung các sĩ quan địch, từ cấp tá trở lên.

        3.Nếu chỗ nào địch chống cự, thì lập tức tiến công tiêu diệt ngay.

        Trong lịch sử chiến tranh của đất nước ta, có thể rất có ít trường hợp như đã xảy ra trong giờ phút lịch sử này. Khi nghe tin đề nghị ngừng bắn, mặc dù có lệnh của trên, tất cả các đơn vị trên toàn mặt trận, từ cán bộ đến chiến sĩ, vẫn có một quyết tâm duy nhất: tiến nhanh vào Sài Gòn. Anh em ta động viên nhau: “Không có chuyện ngừng bắn, cứ tiến công. Thời cơ nghìn năm có một là đây…”. Đến đầu cầu Thị Nghè, binh đoàn thọc sâu của binh đoàn Hương Giang lại gặp sự chống cự. ta diệt luôn xe M41, vừa qua cầu, diệt thêm một chiếc M113. Chiếc xe tăng đi đầu màn số hiệu 843 do Thận chỉ huy, với Thái Bá Minh làm pháo thủ số 1, Nguyễn Văn Kỳ làm pháo thủ số 2, Lư Văn Hải lái xe, mở hết tốc lực, húc đổ cổng sắt trước dinh Độc Lập, rồi cùng ba chiếc xe tăng, thiết giáp khác, toả ra chiếm giữ các vị trí quan trọng trong sân dinh Độc Lập.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 01:45:16 pm

        Giữa đám xe tăng M48, M41, M113 của địch đang nằm yên dưới những gốc cây ở trước sân; giữa hàng ngàn sĩ quan và binh lính của đối phương mặt mày ủ rũ, súng đặt nằm dài trên mặt đất, kẻ đứng người ngồi; những chiếc xe tăng T54, tung hoành như vào chỗ không người. Một vài tên nấp trên các toà nhà cao tầng xung quanh, giở trò bắn lén, lập tức bị trừng trị, dập tắt ngay. Trung đoàn phó trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ và chủ nhiệm chính trị lữ đoàn 203 Lê Minh, cùng một số cán bộ và chiến sĩ, nhanh chóng nhảy xuống xe, tiến vào phòng họp của “tân nội các”. Trong lúc đó, Bùi Quang Thận tháo lá cờ nửa đỏ nửa xanh đang cắm trên xe 843, cùng các chiến sĩ, bắt đại tá Võ Quang Chiêm, chánh văn phòng phủ tổng thống dẫn lên tầng một,giật lá cờ ba que xuống, treo cờ cách mạng lên, lúc bấy giờ là  11 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4.

        Trong căn phòng rộng ở dinh Độc Lập, Dương Văn Minh tiếp tục duy trì cuộc họp của các tổng trưởng để bàn vễ lễ ra mắt của “tân nội các”, dự định sẽ tổ chức vào trưa hôm ấy. Cửa phòng lại xịch mở. Các cán bộ chiến sĩ mũi thọc sâu của Quân giải phóng, các chiến sĩ biệt động thành phố hiên ngang bước vào, súng lăm lăm trong tay. “Tân nội các” ngồi yên, không một cử động nhỏ kháng cự lại.

        Theo lệnh của cán bộ Quân giải phóng, Dương Văn Minh được đưa ra đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện:

        “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân lực cộng hoà, hạ vũ khí đầu hàng vô điều kiện Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ Trung ương đến địa phương, giải tán hoàn toàn, giao toàn bộ chính quyền cho chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam”.

        Chính uỷ Bùi Văn Tùng chỉ huy lữ đoàn xe tăng 23, cán bộ cấp cao nhất tại đó bước tới, chấp nhận sự đầu hàng. Người ta thấy đủ mặt cả “tân nội các” ngoài Dương Văn Minh ra còn có 11 vị nữa:

        - Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống

        - Vũ Văn Mẫn, thủ tướng

        - Bùi Tường Huynh, phó thủ tướng

        - Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng kinh tế

        - Nguyễn Quý Trung, bộ trưởng bộ thông tin

        - Lê Quang Trường, bộ trưởng bộ tài chính

        - Nguyễn Văn Diệp, bộ trưởng bộ thương mại

        - Bùi Thế Dung, thứ trưởng bộ quốc phòng

        - Nguyễn Văn Ba, thứ trưởng bộ thông tin

        - Vũ Quang Chiêm, chánh văn phòng phủ tổng thống

        - Nguyễn Hữu Hạnh, chuẩn tướng, phụ tá tổng thống.

        Tại sở chỉ huy chiến dịch, từ lúc phát lệnh đi, mọi người đều mong ngóng trông chờ trong một bầu không khí vừa hồ hởi, phấn khởi, vừa rất thân mật, chan hoà. Cơm đã dọn lên từ lâu rồi, nhưng chẳng ai thiết ăn uống gì.

        Bỗng nhiên, ở phòng bên cạnh, các đồng chí cán bộ tác chiến reo vang:

        - Đầu hàng rồi! Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện rồi.

        - Đâu, đâu nào!

        Một đồng chí cán bộ tác chiến, tay cầm cái đài bán dẫn, chạy sang, nói ba hơi nhập một:

        - Đầu hàng rồi! Sài Gòn hoàn toàn giải phóng.

        Các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng tươi cười ngồi vào bàn. Các đồng chí khác đứng vây chung quanh, im lặng. Tiếng nói của Dương Văn Minh phát ra lại rất rõ ràng.

        Bất chấp mọi lễ tiết hàng ngày, mọi người nhảy lên, ôm hôn nhau, công kênh nhau, reo hò và cả nước mắt giàn giụa vì vui sướng.

        Kẹo đâu, rượu đâu, đem cả ra đây!

        Hình như đã có sự chuẩn bị từ trước, thấy bưng ra cả một khay đầy.

        Đồng chí Đinh Đức Thiện ngồi ở góc bàn, lấy khăn lau nước mắt. Đồng chí nghẹn ngào:

        - Ôi, giá lúc này mà có Bác ở đây…

        Những giọt nước mắt xúc động như thế này rất dễ hay lây sang trong chúng ta mỗi khi nhớ đến Bác. Bác chúng mình lúc nào mà chẳng ở bên cạnh chúng ta, trong những lúc khó khăn gian khổ nhất, cũng như trong ngày vui đại thắng này…


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:05:43 pm

Chương 29

SÓNG ĐỒNG BẰNG

        Từ sau khi mất Xuân Lộc, Sài Gòn trực tiếp bị uy hiếp, Mỹ Thiệu đã nghĩ đến việc di chyển thủ đô về Cần Thơ. Địa hình ở vùng đồng bằng sông Cửu Long rất thuận lợi cho việc phòng thủ, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, khó triển khai lực lượng lớn, nhất là khi có nhiều binh chủng hợp thành. Lực lượng đối phương hãy còn đông, và sẵn có kho người kho của dồi dào, vật chất kỹ thuật đầy đủ, có thể đảm bảo cho một cuộc cầm cự lâu dài để mặc cả với ta.

        Chỉ nói riêng về thị xã Cần Thơ, trên một địa bàn không rộng lắm, địch đã tổ chức phòng thủ, tập trung đến 5 trung đoàn chủ lực, 4 của sư đoàn 21 và 1 của sư đoàn 7; toàn bộ lực lượng địa phương, thiết giáp, cùng với một số khá lớn máy bay,tàu chiến, từ Đông Dương-Biên Hoà kéo theo về, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của bộ tư lệnh sư đoàn 21. Chúng lấy lộ Vòng Cung làm cái vỏ rất cứng để bảo vệ chốt này.

        Trung tuần tháng 4 năm 1975, Quân khu 9 đã dùng sư đoàn 4, vượt lộ Vòng Cung, định đánh sâu vào Trà Nóc, Lộ Tẻ, Bình Thuỷ nhưng nửa chừng phải rút ra. Địch vội vàng đưa quân ra bịt cửa đột phá. Toàn bộ trung đoàn 10 bị kẹt bên trong lộ, buộc phải đánh phản kích suốt mấy ngày mới ra được.

        Đến cuối tháng 4, trên toàn bộ chiến trường, địch đã tơi tả, rã rời, nhưng riêng ở vùng đồng bằng, so sánh lực lượng quân sự đơn thuần, ta vẫn chưa có ưu thế mạnh hơn. Không như ở Khu 5, mặc dù địch đang trên đà sụp đổ, nhưng ở đồng bằng, chưa có trận đánh nào thôi động, mà cũng chẳng như ở miền Đông, có đại quân ở ngoài ùn ùn kéo vào để làm thay đổi lực lượng. Vì vậy cho nên đối phương còn giữ được tinh thần chiến đấu. Hơn nữa, họ đã hết đuờng chạy trốn, nên rất có thể có những thủ đoạn liều mạng, điên cuồng. Cũng có ý nghĩ cho rằng, một khi Sài Gòn-Gia Định đã được giải phóng, ta sẽ có điều kiện đưa xuống đồng bằng một vài binh đoàn, nghiền nát kẻ địch, huỷ diệt một số thị xã là xong. Bắt tay vào làm kế hoạch tác chiến mới thấy không dễ dàng gì. Muốn làm như vậy, phải mất một thời gian khá lâu, vì phải đưa những binh đoàn nặng nề, vượt qua vùng đồng bằng, mênh mông, bát ngát, chằng chịt sông ngòi, mà chỉ có một con đường độc đạo xuyên suốt là quốc lộ 4. Mấy tháng qua, số đồn bót, chi khi, phân chi khu, bị diệt cũng nhiều nhưng số còn lại, tính đến ngày 29 tháng cũng không ít: nhiều như Trà Vinh cũng còn đến gần 400, ít như Cần Thơ cũng còn trên 100. “Nghiền nát” cho hết những đồn bót này, ai dám bảo là chuyện ngày một ngày hai? Vả lại, trong giai đoạn này ở đồng bằng sông Cửu Long không cần phải phá tan các thành phố mới gọi là chiến thắng trọn vẹn và triệt để, và thực tế chiến trường cũng không đòi hỏi phải có hành động đó.

        Nắm vững quy luật của chiến tranh nhân dân, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được giải phóng theo một phương thức hoàn toàn khác, vừa nhanh chóng nhất, triệt để nhất, thương vong ít nhất và ít đổ vỡ nhất. Cũng như các nơi khác, trong thời gian vừa qua vừa đánh địch lại vừa xây dựng, lực lượng vũ trang ở đồng bằng đã lớn mạnh lên rất nhiều. Đặc biệt từ trung tuần tháng 4 trở đi, đã có những bước tiến nhảy vọt. Trong 7 tỉnh: Cà Mau, Rạch Giá, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Vĩnh Long, Long Châu Hà đã có 23 tiểu đoàn tỉnh, quân số đầy đủ; nhiều huyện cũng thành lập được tiểu đoàn; ngoài ra còn tổ chức thêm 60 đại đội huyện. Nhưng điều đáng nói lên là lực lượng chính trị cũng thi đua lớn lên, càng nhanh hơn gấp bội. Cũng trong một thời gian, lực lượng này đã tăng lên gấp 10 lần, và đến những ngày cuối tháng, thì phải nói đến gấp trăm nghìn lần. Chất lượng lãnh đạo cũng khác trước rất nhiều. Nhiều cán bộ, đảng viên, đoàn viên được đưa về nằm ngay trong nội ô các thị xã: cơ sở binh vận phát triển cực kỳ nhanh.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:08:15 pm

        Đứng trước tình hình nói trên, mặc dù kế hoạch trong tháng 4, thay đi đổi lại nhiều lần, nhưng không hề gây khó khăn thêm cho dưới mà trái lại, càng làm cho cấp dưới vững tin hơn. Lúc đầu, dự kiến diệt vài ba thị xã-mở đầu là Vị Thanh - đánh quỵ sư đoàn 21, chỗ dựa chủ yếu của đối phương ở vùng đồng bằng, đẻ gây thối động mạnh, tạo điều kiện cho việc giải phóng vùng nông thôn. Tiếp đến, lại có chủ trương khác; cùng nổi dậy đồng loạt. Và đến nay, thì lại được giao nhiệm vụ cho chủ lực: trực tiếp phối hợp với chiến dịch Hồ Chí Minh, khống chế hoàn toàn sân bay Trà Nóc, giải phóng và làm chủ hoàn toàn một đoạn quốc lộ 4, từ Cần Thơ đến Vĩnh Long, không để cho một đơn vị nào của địch rút về cứu nguy cho Sài Gòn-Gia Định; cũng không để cho một tên nào ở Sài Gòn-Gia Định chạy về. Trong toàn vùng, phát động một cao trào tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, quyết liệt, đều khắp, kết hợp chặt chẽ cả ba mũi, bằng nhiều hình thức mọi sáng kiến nhằm thực hiện mục tiêu xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, nhằm làm tê liệt chính quyền, phá rã quân đội Cộng hoà đi đến xoá bỏ hoàn toàn. Một bầu không khí tiền khởi nghĩa hừng hực dấy lên khắp cả vùng đồng bằng. Mọi nơi, ngày cũng như đêm, ngày sau cao hơn ngày trước, một thôn cũng nổi dậy, một người cũng đứng ra trực diện đấu tranh.

        Ở Cần Thơ, Nguyễn Khoa Nam tổ chức phòng thủ với một lực lượng khá lớn như đã nói trên. Ông ta còn huy động thêm trên dưới 50 phần trăm bính lính ở các cơ quan ra giữ các đồn, nhà cao tầng. Trong khi đó, chính ngay trong nhà của ông ta, trong nhà truyền tin của vùng 4 và của tiểu khi trong trại nhập ngũ số 4, ty an ninh, trong lực lượng giang đoàn, hải đoàn xung phong, trong đội bảo vệ đài phát thanh, trong các khám giam nhà tù, chính trị, trong nhà máy điện v.v… hàng nghìn cán bộ, cơ sở binh vận hoạt động gần như công khai, dưới sự chỉ huy trực tiếp của thành uỷ, ở ngay trong nội ô. Đêm 29 tháng 4, trong lúc lực lượng vũ trang tiến công ở ngoại vi thị xã, áp sát sân bay Trà Nóc, thì ở bên trong, quần chúng ở các phường Hưng Lợi, Hưng Phú, Hưng Nghĩa, An Binh, nổi dậy giành chính quyền, phá khám, giải thoát trên 1.000 tù chính trị, để thành lập ngay tiểu đoàn chiến thắng, chiếm giữ một số mục tiêu, 3.000 thanh niên bị bắt lính cũng bung ra, phối hợp với lực lượng quần chúng, rầm rộ xuống đường. Vừa bị áp lực của lực lượng vũ trang, vừa bị tác động của quần chúng, địch ở Trà Nóc tan rã, mở cửa để đưa lực lượng ta vào thành phố, phối hợp với cơ sở binh vận, chiếm và giữ đài phát thanh và truyền đi các lệnh của uỷ ban khởi nghĩa thị xã. Chẳng ai thèm chú ý đến mệnh lệnh cuối cùng của Nguyễn Khoa Nam: “Ngừng bắn tại chỗ, nhưng nếu bị tiến công thì chống trả”. Chết đến nơi rồi mà ông ta vẫn còn ngoan cố bàn kế hoạch chống lại cách mạng. Toàn bộ sư đoàn 21, từ cán bộ đến binh lính, đã vứt súng, cởi áo và tự động về nhà tự lúc nào. Nhìn ra bốn chung quanh chả thấy ai theo, ông ta phải tìm con đường tự sát.

        Tại Trà Vinh, nửa đêm 29 tháng 4, lực lượng quân sự bắt đầu tiến công, đánh chiếm một số nơi trong thị xã, có mũi đã áp sát nhà tỉnh trưởng. Ta bắc loa phóng thanh kêu gọi đồng bào đứng lên giành chính quyền. Tám đồn ở ấp Tri Tân B đầu hàng cùng một lúc. Mờ sáng hôm sau, bức hàng thêm 7 đồn, giải phóng hoàn toàn ấp Tri Tân A và Tân Phương. Một chị phụ nữ, tay không và một cán bộ người Khơme, đứng lên vận động 60 lính ở sân bay đầu hàng. Rất sôi nổi khí thế đấu tranh. Hơn hai vạn rưởi người, hàng trăm sư sãi, rầm rộ xuống đường, xông vào các trại lính, tranh thủ, lôi kéo binh lính, cô lập sĩ quan, phá ra từng mảng địch, tạo thế cho mũi quân sự phát triển. Cờ nửa đỏ  nửa xanh, tung bay trên khắp phố phường. Đến gần trưa, lực lượng quần chúng từ các ngả ập vào toà hành chính, nhà tỉnh tưởng, buộc đối phường đầu hàng. Hai tiểu đoàn bảo an bị giải giáp tại chỗ ngay tức khắc.


Tiêu đề: Re: Xuân giải phóng - Thiếu tướng Phan Hàm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:11:08 pm

        Cuộc nổi dậy ở thị xã Bạc Liêu lại mang một sắc thái khác. Từ nửa tháng nay, ta đã tranh thủ tiếp xúc với tỉnh trưởng và các trưởng ty cảnh sát, tham mưu trưởng tiểu khu. Đến ngày 28, lực lượng chính trị đã phá rã hạ tầng cơ sở trong thị xã, một số người ra mặt ngoan cố muốn đàn áp, nhưng thực hiện không được. Tỉnh trưởng dần dần nghe ra lẽ phải, chịu giao xe cho ta đi làm công tác vận động quần chúng. Thấy ông ta còn chần chừ, muốn chờ lệnh trên, chưa chịu giao chính quyền cho Cách mạng, tỉnh uỷ một mặt gửi một tối hậu thư, mặt khác huy động lực lượng chính trị của huyện Vĩnh Lợi, tiến vào thị xã. Đoàn người biểu tình, người già, phụ nữ đi trước trẻ con kéo theo vào xe đạp, xe honda đầy đường, giương cao các biểu ngữ, vừa hăm dọa, vừa cô lập bọn cầm đầu. Nhân lúc chúng hoang mang, ta chiếm luôn dinh tỉnh trưởng, ty ngân khố, ty thông tin, chiêu hồi và bắt địch phải tập trung xe, rước lực lượng của ta vào thị xã.

        Rất mực ngoan cố là bọn địch ở Bến Tre. Sáng ngày 30 tháng 4, chúng còn điên cuồng tung 4 tiểu đoàn bảo an đi giải toả Lương Quới ở vùng ven thị xã. Thậm chí, mãi đến trưa, khi được tin Dương Văn Minh đầu hàng, tỉnh trưởng còn hô hào binh lính tử thủ. Địch ở các phân chi khu,chi khu vẫn còn chống trả với ta quyết liệt. Cho đến chiều, các lực lượng vũ trang, chính trị đã tiến công hầu hết các đồn bốt, các căn cứ quan trọng ở các huyện và hàng loạt đồn đồn ở ven thị xã. Trước áplực mạnh mẽ của gia đình binh sĩ, cơ sở nội chiến và khí thế của quần chúng, bọn sĩ quan, nhân viên ngụy quyền lần lượt rời bỏ hàng ngũ. Đến đêm tỉnh trưởng ngoan cố cũng chuồn mất. Sáng ngay 1 tháng 5, số còn lại chịu chấp nhận đầu hàng.

        Ở những nơi xa xôi như các đảo, nơi không có người như ở các đảo Sinh Tồn, Nam Yết, cấp trên đã đưa lực lượng ra chiếm lĩnh thì chẳng nói làm gì, đến những nơi như Côn Sơn, Phú Quốc, từng bị cách ly với thế giới bên ngoài, anh em tù nhân, cũng tự mình đứng lên phá tan xiềng xích, giành lấy chủ quyền, tống cổ bọn chúa đảo vào nơi mà chúng đã giam cầm mình trong bấy lâu nay.

        Như thế đó, chỉ trong vòng hai ngày, hơn 30 vạn tên địch, trong đó có 19 vạn chủ lực và 12 vạn địa phương, đã hoàn toàn bị tan rã, hàng nghìn đồn bót, bị xoá sạch sành anh. Ngày 30 thì Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trắng, Trà Vinh, Rạch Giá, Châu Đốc hoàn toàn giải phóng, thì ngày hôm sau đến lượt Vị Thanh, Vĩnh Long, Cà Mau, Long Xuyên…

        Với sức mạnh quân sự thì còn có thể dựa vào các khí tài, phương tiện hiện đại, tối tân để nghiên cứu, tính toán đưa ra các phương án để lựa chọn, cân nhắc, nhưng với sức mạnh chính trị, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân thì vô bến, vô bờ. Sức mạnh ấy, không nghiền nát một thành phố nào, thậm chí có lúc không gây ra một cuộc đổ máu nào, nhưng hiệu quả thì vô cùng to lớn: tiêu diệt địch vừa kịp thời,vừa triệt để lại vừa nhanh chóng mà lại ít đổ vỡ nhất, tránh được những thương vong không cần thiết.

        Nhân dân Việt Nam đã thực hiện đầy đủ lời dạy của Bác Hồ: “Khi còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu, quét sạch nó đi…”. Chúng ta đã quét sạch nó sạch sành sanh và bằng muôn vàn biện pháp. Ở miền Trung Trung Bộ, Mỹ-Thiệu đã bị quét sạch trong trạng thái hỗn loạn, hỗn quân hỗn quan, thầy chạy đằng thầy, tớ chạy đằng tớ, tướng không nắm được quân, quân không tìm ra tướng; còn ở đồng bằng sông Cửu Long thì bị quét sạch theo một kiểu khác: quân tướng hãy còn trơ ra đấy, tổ chức hãy còn nguyên vẹn, súng còn lăm lăm nắm chặt trong tay, mà cả một đội quân đông đảo, trang bị đến tận răng, vẫn cứ phải chìm dần, chìm dân xuống đấy đại dương mênh mông của chiến tranh nhân dân; trong lúc đó các loại quan thầy đều phải ngậm đắng nuốt cay đứng lặng nhìn, để rồi chuồn thẳng.

HẾT