Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 02:53:28 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến đấu ở phía trước  (Đọc 5174 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 07:58:14 am »

Tên sách: Cuộc chiến đấu ở phía trước
Tác giả: trung tướng Trần Phi Hổ
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật
Năm xuất bản: 2014
Số hóa: macbupda


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Lịch sử đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và các thế lực thù địch dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh của dân tộc ta đã đi vào sử sách như những mốc son chói lọi, hào hùng. Tinh thần bất diệt vì chính nghĩa, vì độc lập, tự do của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta không những được ghi lại trên các kênh phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, tạp chí, truyền hình... mà còn được khắc họa trong ký ức của hàng triệu người dân và những người đã trực tiếp vào sinh ra tử trên các chiến trường. Trên góc nhìn của một người con quê hương Nam Bộ “thành đồng”, lớn lên trong gia đình cách mạng, trên quê hương giàu truyền thống yêu nước, đồng thời là người lính Cụ Hồ từng bước trưởng thành cùng với sự lớn mạnh và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam trung kiên, Trung tướng Trần Phi Hổ cũng đã ghi lại những năm tháng lịch sử đó theo cách của riêng mình thông qua cuốn hồi ký Cuộc chiến đấu ở phía trước.

Đọc cuốn hồi ký này, bạn đọc sẽ nhận thấy sự hiện diện của Quân đội nhân dân Việt Nam và bản thân Trần Phi Hổ, trải qua năm tháng với những biến đổi của hoàn cảnh lịch sử, luôn cùng nhau lớn lên, trưởng thành và lớn mạnh. Bằng lối kể chuyện mộc mạc cùng chất giọng Nam Bộ thân thương, tác giả Trần Phi Hổ đã đưa người đọc đi từ những năm tháng ấu thơ đến khi trở thành người cán bộ, vị tướng lĩnh lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang chiến đấu trên mặt trận chống đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, cũng như trên mặt trận chống “diễn biến hòa bình” trong thời kỳ mới, góp phần xây dựng Quân khu 9 nói riêng, Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”.

Có lẽ những ai đã đi qua những năm tháng đấu tranh đó đều có thể thấy được mình trong những câu chuyện của Trung tướng Trần Phi Hổ. Giá trị lớn nhất của cuốn hồi ký Cuộc chiến đấu ở phía trước là đã góp phần làm sáng rõ tính chính nghĩa, cách mạng trong cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam nói chung và hình ảnh “Anh bộ đội Cụ Hồ” kiên cường, dũng cảm nói riêng. Chính vì vậy, cuốn hồi ký rất có ý nghĩa trong giáo dục truyền thống tốt đẹp cho thế hệ trẻ hôm nay và đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân.

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 9 năm 2014
                                                                                           
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Sáu, 2022, 07:49:13 pm gửi bởi ptlinh » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 07:59:16 am »

LỜI GIỚI THIỆU

Trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược nói chung và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia nói riêng, quân và dân ta luôn phải đương đầu với những kẻ thù có tiềm lực quân sự hùng mạnh, những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo và vô cùng thâm độc. Vượt qua tất cả, nhân dân ta đã lần lượt đánh thắng chúng, bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế giúp bạn vẻ vang. Điều gì đã làm nên sức mạnh to lớn đó? Đó là do quân và dân ta đã phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thế trận của chiến tranh nhân dân, cùng với trang bị vũ khí đã phát huy cao độ kinh nghiệm truyền thống đánh giặc của tổ tiên, ưu thế chính trị, tinh thần, tài trí, thông minh, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, tìm ra phương thức tác chiến thích hợp; đó là cách đánh Việt Nam, nhằm tiêu diệt địch, hoàn thành thắng lợi mục đích, nhiệm vụ chiến đấu, chiến dịch, chiến lược trong mỗi cuộc kháng chiến.

Là một sĩ quan quân đội, sinh ra trong giai đoạn chuyển giao của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong một gia đình có truyền thống cách mạng, lớn lên được nuôi dưỡng từ những giá trị văn hóa tốt đẹp, lòng yêu nước sâu sắc của hai mảnh đất giàu truyền thống cách mạng Ba Tri, Bến Tre và Đầm Dơi, Cà Mau; được Đảng dìu dắt, bồi dưỡng và rèn luyện, được anh em đồng chí, đồng bào giúp đỡ, nuôi dưỡng và hết lòng ủng hộ; đồng chí Trần Phi Hổ sớm tham gia cách mạng, trực tiếp chiến đấu, chỉ huy chiến đấu giải phóng quê hương trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu thời kỳ mới.

Trên bất kỳ cương vị nào, từ chiến sĩ du kích xã Trần Phán anh hùng đến Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Trần Phi Hổ đều tỏ rõ tinh thần chiến đấu dũng cảm, chỉ huy bộ đội mưu trí, sáng tạo, kiên quyết tiêu diệt địch, quyết đánh và quyết thắng.

Sau nhiều năm ấp ủ, đồng chí Trần Phi Hổ đã hoàn thành cuốn hồi ký Cuộc chiến đấu ở phía trước, khép lại 42 năm rèn luyện, học tập, chiến đấu và trưởng thành trong Quân đội ta. Cuốn hồi ký đã mô tả một cách trung thực những khó khăn, thử thách to lớn của quân và dân ta trước sức mạnh quân sự và âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của đế quốc Mỹ và tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari. Vượt qua tất cả, bằng ý chí chiến đấu kiên cường, thông minh, sáng tạo trong từng trận chiến đấu, trong mỗi chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ ta đã đoàn kết, không sợ gian khổ, hi sinh, lập nên những chiến công vẻ vang.

Dựng lại các sự kiện mắt thấy, tai nghe và những suy nghĩ, tình cảm của mình hơn 40 năm sát cánh cùng với đồng chí, đồng đội và nhân dân chiến đấu giải phóng, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu trong thời kỳ mới, đồng chí Trần Phi Hổ cho bạn đọc thấy rõ hơn những năm tháng mà Đảng ta. Quân đội ta, nhân dân ta đã giáo dục, rèn luyện nên một thế hệ thanh niên xuất sắc thời chống Mỹ, cứu nước và bảo vệ Tổ quốc, luôn hướng ra “trận tuyến đánh quân thù” với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”.

Đây là cuốn sách viết với nhiều tâm huyết, phục vụ tốt cho việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống, gọi mở nhiều vấn đề về kinh nghiệm tổ chức chiến đấu, tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, công tác bảo đảm ở chiến trường, giúp cho việc trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu và vận dụng vào học tập, huấn luyện bộ đội trong thời kỳ mới.

Xin trân trọng giới thiệu cùng các đồng chí và bạn đọc.

Thượng tướng LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Nguyên Phó Chính ủy, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 9
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 07:59:51 am »

LỜI TÁC GIẢ

Tôi sanh ra trên quê hương Bến Tre, Đồng Khởi, lớn lên trên mảnh đất Đầm Dơi, Cà Mau, cái nôi căn cứ địa cách mạng của “Nam Bộ thành đồng”; được nuôi dưỡng từ truyền thống cách mạng của gia đình, của quê hương - những mảnh đất anh hùng; sớm được tiếp cận, giáo dục hình ảnh cao đẹp của anh giải phóng quân, căm phẫn trước tội ác dã man, tàn bạo của Mỹ - ngụy... Hoàn cảnh đó đã thúc giục tôi tham gia cách mạng từ rất sớm, ngay khi vừa tròn 16 tuổi (năm 1969).

Cùng với sự phát triển phong trào cách mạng của quê hương căn cứ địa cách mạng và sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang Quân khu, trải qua những năm tháng chiến đấu trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược và trong thời kỳ đổi mới, từ khi còn là chiến sĩ du kích xã Trần Phán cho đến khi đảm nhiệm Tư lệnh Quân khu, trong suốt 42 năm chiến đấu dưới lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Quân đội ta, chứng kiến biết bao sự kiện anh hùng của đồng bào, đồng chí, những tấm gương lẫm liệt đã cống hiến và hi sinh trọn vẹn cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng ta, tôi luôn nuôi dưỡng trong mình nguồn cảm xúc to lớn, sự kính trọng, tự hào về những năm tháng chiến đấu không thể nào quên.

Hưởng ứng cuộc vận động của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam “Viết về kỷ niệm sâu sắc trong kháng chiến”, được sự giúp đỡ của Cục Chính trị Quân khu, tôi viết cuốn hồi ký này nhằm tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn và góp phần cắt nghĩa vì sao quân và dân ta đã đánh thắng đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch. Cảm ơn anh em, đồng chí, đồng bào đã sát cánh cùng tôi chiến đấu, đã đùm bọc, cưu mang tôi trong suốt chặng đường phấn đấu 42 năm quân ngũ làm người lính Cụ Hồ, mà cho đến hôm nay có người còn, người mất.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9, cảm ơn Cục Chính trị và Ban Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị, nhất là Đại tá Đặng Văn Tọa cùng nhiều đồng chí khác đã giúp tôi hoàn thành ý nguyện của mình.

Trung tướng TRẦN PHI HỔ
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 08:00:28 am »

Chương I

QUÊ HƯƠNG VÀ THỜI THƠ ẤU
(1953-1969)

Tôi sinh ngày 16 tháng 3 năm 1953, khi quê hương, đất nước đang bước vào giai đoạn cuối của chiến dịch Tổng tiến công kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại xã An Bình Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Được sự đồng ý của ông bà ngoại, ba má đặt tên tôi là Lê Đức Quý, mang họ bên ngoại vì ông bà nội tôi mất sớm, ba má rất quý ông bà ngoại; hơn nữa ông bà ngoại rất thương quý tôi, là một trong những đứa cháu ông bà thương yêu, tin cậy.

Lớn lên trên mảnh đất Trần Phán anh hùng, thuộc huyện Đầm Dơi, Cà Mau. Khi vào du kích xã, được lãnh đạo, chỉ huy góp ý, tôi đổi lại tên là Trần Lê Quý cho đúng với tổ tông, dòng họ đã sinh ra mình (họ Trần), tuy vậy tôi vẫn giữ lại chữ “Lê” làm tên đệm, như muốn ghi lại tình cảm, mối quan hệ bang giao sâu đậm của hai dòng họ lớn Trần - Lê đã làm nền vững chắc tạo dựng tình cảm hạnh phúc cho ba má tôi nên vợ chồng. Đối với tôi, đây cũng là việc lưu giữ một kỷ niệm đẹp với bên ngoại trong những năm tháng vất vả đầu đời.

Tôi được sinh ra, nuôi dưỡng, giáo dục và trưởng thành trong hai gia đình nội, ngoại có truyền thống cách mạng. Ông nội tôi họ Trần, Trần Văn Nhơn, lấy bà nội tôi họ Nguyễn, Nguyễn Thị Giang, quê ở xóm Giữa, Cầu Ngang, Trà Vinh. Hai ông bà lấy nhau sinh được ba người con, chị hai của ba bị bệnh và mất lúc nhỏ, ba tôi, Trần Tư Hiện, là con trai thứ hai, em trai của ba khi nhỏ bị thất lạc trong chiến tranh; sau giải phóng (1975) tôi và gia đình nhiều lần cất công đi tìm, song không có kết quả gì. Năm ba tôi 14 tuổi, ông nội tôi mất. Gia cảnh mất đi người đàn ông trụ cột, làng xã, xóm ấp lại đang thời kỳ chiến tranh loạn lạc, không biết bấu bíu vào ai, cuối cùng bà nội tôi quyết định: Bà và ba tôi sang nương tựa vào ông cậu, em trai của bà.

Ông cậu sinh được 10 người con, hầu hết đều tham gia kháng chiến, người đi bộ đội, người tham gia phong trào cách mạng của địa phương. Con thứ hai của cậu đi bộ đội ở Trung đoàn 1 chủ lực Khu, con thứ sáu là cán bộ xã đã hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, con thứ bảy (Tám Lời) đi bộ đội làm Chính trị viên Đại đội 2 - Tiểu đoàn 309, hi sinh trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, con thứ mười đi bộ đội tỉnh, là thương binh mù cả hai mắt. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, con đông, thu nhập thấp, song gia đình ông cậu thực sự là nơi ấm cúng nhất, là chỗ dựa vững chắc cả về vật chất và tinh thần cho bà nội và ba tôi nương tựa trong hoàn cảnh khó khăn, loạn lạc.

Năm 16 tuổi, được các chú, các bác dìu dắt, ba tôi tạm biệt bà nội đi làm cách mạng, được kết nạp Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, ông công tác ở Ban Binh vận R, sau khi ổn định công tác, giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ba tôi được các chú, các bác ở Ban Binh vận Miền cho về phép xây dựng gia đình với má tôi (Lê Thị Dung). Ba má tôi sinh được 10 người con, chị hai tôi là Trần Kim Loan, chị tham gia cách mạng thời chống Mỹ, cứu nước, làm công tác Đoàn (Phân đoàn trưởng); tôi là con thứ hai trong gia đình (Lê Đức Quý, Trần Lê Quý), dưới tôi còn có tám em trai và gái. Em sát tôi là Trần Phi Hùng, từng là Xã đội trưởng xã Trần Phán vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau đó chuyển về đại đội địa phương quân của huyện Đầm Dơi; kế đến là Trần Phi Dũng đi bộ đội ở Sư đoàn bộ binh 4, tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ chiến đấu giúp bạn ở Campuchia trên địa bàn tỉnh Cô Công; các em còn lại công tác và làm ăn sinh sống tại địa phương.

Trong những năm chiến tranh, trước sự mua chuộc, đe dọa, đàn áp, truy bức của chủ nghĩa thực dân mới; xã hội miền Nam bị đảo lộn, phân hóa thành nhiều lực lượng. Một bộ phận tham gia ngụy quân, ngụy quyền, cầm súng làm tay sai cho Mỹ, phản bội con đường cách mạng của dân tộc, của đất nước. Còn lại phần đông nhân dân miền Nam dù phải sống dưới chế độ phát xít của Mỹ - ngụy vẫn một lòng một dạ hướng về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tích cực đấu tranh giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Rất may, cả 10 chị em tôi được sống trong địa bàn căn cứ cách mạng, được ông bà ngoại và ba tôi đều là những chiến sĩ cách mạng, đảng viên cộng sản nuôi dưỡng dạy bảo, do vậy không một ai làm tay sai cho địch.

Gia đình bên ngoại tỏi, ông ngoại (Lê Văn Quảng) tham gia cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ chống thực dân Pháp. Ông lấy bà ngoại (Nguyễn Thị Tốt) là cơ sở cách mạng. Khi ông hoạt động vận động cách mạng ở địa phương, gia đình bà là cơ sở đùm bọc, nuôi giấu, cho chở, bảo vệ ông. Quá trình hoạt động tại đây, ông tích cực tuyên truyền giác ngộ bà trở thành một cơ sở cách mạng tin cậy. Bà vừa nuôi giấu cán bộ, vừa tham gia và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ ông giao. Cảm phục, tin cậy tính cách, chí hướng của nhau, hai ông bà đã nên vợ nên chồng trong sự nhất trí cao của anh em đồng chí, đồng đội và hai gia đình thân tộc.

Hai ông bà cùng sinh được 10 người con, má tôi (Lê Thị Dung) là con thứ ba (theo cách gọi của Nam Bộ). Cũng như gia đình bên nội, cà 10 người con của ông bà ngoại lớn lên không ai bị bắt đi làm tay sai cho địch, nhiều cậu mợ tham gia và trưởng thành cùng kháng chiến, như cậu Lê Văn Thành (Tư Thành) là cán bộ, Chính trị viên phó Tiểu đoàn 306 (nay là Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 1 - Sư đoàn 330); cậu Lê Văn Quang - cán bộ cách mạng hoạt động ở địa phương, là liệt sĩ (tôi sẽ kể vào đoạn sau về cuộc đời và cái chết của cậu). một trong sự kiện sâu sắc tác động mạnh đến suy nghĩ, tình cảm và chí hướng của tôi, quyết định con đường đi theo kháng chiến của tôi; cậu Lê Văn Tân (Bảy Tân), đảng viên thời chống Mỹ, cứu nước; dì Lê Thị Kiểu (Dì Tám) là cơ sở cách mạng; cậu Lê Văn Quân là chiến sĩ du kích xã Trần Phán anh hùng, cậu chiến đấu dũng cảm, bị thương vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 08:01:41 am »

Do ông bà nội mất sớm, ba lại thường xuyên vắng nhà đi hoạt động cách mạng, má và các chị em tôi thường xuyên ở bên ngoại, gắn bó với ông bà ngoại và các cậu, các dì suốt quá trình từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành, cho đến hôm nay khi đã đi hết cuộc đời quân ngũ, nhìn lại mình, tôi phải ghi nhận tình cảm, tính cách, nhận thức của tôi được hình thành, nuôi dưỡng bồi đắp bắt đầu từ môi trường bên ngoại. Cùng với má, ông bà ngoại, cậu Lê Văn Quang (Năm Quang) không chỉ giành cho tôi sự yêu thương, đùm bọc, tin cậy của những người thân tộc, mà còn là những tấm gương để lại trong tôi những dấu ấn sâu đậm đầu đời, quyết định con đường tham gia kháng chiến và những năm tháng phục vụ cách mạng sau này.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào giai đoạn cuối của chiến lược “chiến tranh đơn phương” (1958-1960). Trước tội ác dã man, tàn bạo, cuồng sát của Mỹ - Diệm, trong các năm 1958-1959, để giữ gìn lực lượng, Trung ương có chủ trương thực hiện giải pháp “điều lắng” lực lượng cách mạng ở miền Nam, chuyển cán bộ, đảng viên từ địa phương này sang địa phương khác, từ trên xuống cơ sở, từ cơ sở lên R (Xứ ủy) để che giấu tung tích quá trình hoạt động cách mạng, tránh bị địch phát hiện.

Thời điểm này, địa bàn Khu 8 và Khu 9 không thể chịu được hành động và âm mưu đàn áp, bắt bớ, truy sát dã man, tàn bạo của kẻ thù. Trước đòi hỏi của tình hình, để đáp ứng một phần nguyện vọng thiết tha, cháy bỏng của quần chúng, nhiều cấp ủy đảng ở các tỉnh đã tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền nhằm diệt ác trừ gian, tạo điều kiện cho quần chúng nới lỏng ách kìm kẹp, đồng thời làm cho bọn tề điệp ác ôn ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ phải co lại. Tôi nghe ba kể lại, phong trào này vướng với chủ trương của trên (chưa cho đấu tranh vũ trang), song được quần chúng hả lòng hả dạ, ủng hộ đồng tình. Lợi dụng chủ trương này của cấp ủy (tỉnh ủy), nhiều địa phương chỉ đạo, lãnh đạo không chặt chẽ, kiên quyết, nên đã xảy ra hiện tượng diệt ác ôn tràn lan, manh động, bộc lộ lực lượng; có địa phương địch tập trung lực lượng bao vây tiêu diệt, xóa sạch cơ sở cách mạng và đã phải trả giá bằng sự hi sinh của nhiều đồng bào, đồng chí.

Trước tình hình trên, thực hiện chủ trương của Trung ương, Xứ ủy đã quán triệt, triển khai kế hoạch “điều lắng” cán bộ, đảng viên, ở miền Tây Nam Bộ, Khu ủy Khu 9 đã điều lắng 2.751 đảng viên(1). Kế hoạch “điều lắng” của Khu ủy Khu 9 không chỉ thực hiện giai đoạn trước Đồng Khởi mà sau Đồng Khởi năm 1960 vẫn tiếp tục triển khai. Nằm trong số đó, năm 1960, sau Đồng Khởi, ông ngoại tôi (Lê Văn Quảng) bị lộ ở địa bàn Ba Tri, Bến Tre, địch truy nã ráo riết vì tội làm “Cộng sản”. Được tổ chức phân công, ông đã đưa toàn bộ gia đình bên ngoại và gia đình tôi vào “điều lắng” ở U Minh (Cà Mau). Năm ấy tôi vừa tròn 7 tuổi, cái tuổi thơ này hôm nay bắt đầu vào lớp 1 của hệ phổ thông tiểu học; còn trước đó, con cháu của chúng ta đã được chăm sóc, dạy dỗ trong các lớp mầm, lớp lá, chồi ở các trường mầm non. Với tôi, ở thời điểm đó cũng được dăm ba chữ mà ông bà ngoại dạy cho, má tôi cũng không có điều kiện dạy chữ cho tôi nhiều vì suốt ngày phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, lao động ở ngoài đồng lo cái ăn, cái mặc cho một đàn con nheo nhóc khi ba vắng nhà đi kháng chiến. Chuyện đi, ở, ông ngoại không cho ai biết, ngoại trừ má, bà ngoại và tôi. Tôi đành phải chia tay đám bạn nhỏ thời ấu thơ một cách lặng lẽ vì phải bảo đảm yếu tố bí mật của nhiệm vụ “điều lắng”, ông bà ngoại và má tôi trước ngày lên đường hạn chế tôi gặp gỡ bạn bè trang lứa; song mỗi khi có điều kiện gặp mấy thằng bạn thân, thấy tôi không vui vẻ, sôi nổi và hăng hái như những lần trước, chúng nó tưởng gia đình có chuyện gì quay lại tìm hiểu, động viên tôi rất nhiều. Nhớ lời ngoại dặn, tôi không nói nhiều, việc chia tay với bạn bè trang lúa ở miền quê đã sinh ra mình rất lặng lẽ, âm thầm, song nó chất chứa nhiều kỷ niệm đầu đời sâu nặng không thể nào quên.

Gia đình ông bà ngoại và má tôi chuyển đến cư ngụ ở xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Tại đây, được sự giúp đỡ của chính quyền và bà con, cô bác trong vùng căn cứ địa kháng chiến nổi tiếng này, gia đình ngoại và gia đình tôi đã nhanh chóng có chỗ ăn, chỗ ở, có đất làm nhà, làm ruộng và sớm ổn định cuộc sống. Biết tin vợ và các con được ông bà ngoại đưa về cư ngụ ở Đầm Dơi, Cà Mau, theo nguyện vọng của ba, Ban Dân vận của Xử ủy đã nhất trí “điều lắng” ba về Ban Dân vận tỉnh Cà Mau. Từ đó, gia đình tôi sau bao nhiêu năm xa cách nay được đoàn tụ tại căn cứ địa U Minh, trên mảnh đất căn cứ địa với những làng rừng nổi tiếng giữa vòng vây tầng tầng lớp lớp của Mỹ - ngụy.

Ở cái tuổi thiếu nhi (7 tuổi), cái tuổi còn đòi ăn, đòi mặc, vô tư, lo nghĩ chưa tới này, chị em tôi rất náo nức được đến với một vùng đất mới, không biết rằng vùng đất ấy (Cà Mau) lại là nơi mình được đùm bọc, nuôi nấng, dạy dỗ nên người và trưởng thành trong muôn vàn khó khăn, thử thách sau này. Sống, trưởng thành, kiếm miếng cơm manh áo đã phải lao động cật lực, huống hồ lại bị cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, dã man nhất, ngày đêm mang đến sự bất an về tài sản, ruộng vườn, sinh mạng của bản thân, gia đình và quê hương thì thử thách ấy càng tăng lên bội phần.


(1) Ban Biên soạn lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến, Tập 2 (1955 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, 2010, tr. 148.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 08:03:44 am »

Cà Mau là một tỉnh ở cực Nam của Tổ quốc, một thành viên trong gia đình các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất Cà Mau tận cùng của Tổ quốc (nếu theo cách gọi của một số văn nghệ sĩ là mảnh đất cuối trời cực Nam của Tổ quốc) một bức tranh thiên nhiên hài hòa với rừng tràm, rừng đước bạt ngàn, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, với biển cả mênh mông nhiều sản vật phong phú và quý hiếm. Sự gặp gỡ tương tác giữa hai dòng hải lưu của Biển Đông và vịnh Thái Lan cùng với các cửa sông lớn gặp nhau ở mũi Cà Mau làm cho một khối lượng lớn phù sa theo sông Cửu Long tích tụ về đây bồi đắp cho đất mũi mỗi năm vươn dài ra biển hàng chục mét. Vì vậy, khi giới thiệu về lịch sử, truyền thống của mảnh đất này, Nhà thơ Xuân Diệu, trong bài thơ Mũi Cà Mau đã viết:

“Mũi Cà Mau: Mỏm đất tươi non
Mấy năm trời lấn luôn ra biển
Phù sa vạn dặm tới đây tuôn
Lắng lại và chân người bước đến
Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau...”.


Trong cuộc trường chinh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hàng ngàn năm của dân tộc ta, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, mỗi địa phương, mỗi vùng đất của Tổ quốc đều có những đóng góp to lớn, xuất sắc vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập, thống nhất Tổ quốc. Mỗi địa phương do điều kiện địa lý, truyền thống văn hóa và cách mạng đặc thù đã có những đóng góp và vai trò, ý nghĩa độc đáo riêng, góp sức tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, cả dân tộc để chiến thắng mọi kẻ thù. Với vị trí là “mũi của một con tàu”, Cà Mau cùng với cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy cao nhất truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí cách mạng kiên cường, góp phần đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đạp qua sóng to gió cả đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, cập bến vinh quang.

Người dân trên vùng đất Cà Mau vốn mang trong mình truyền thống anh hùng, cần cù, thông minh, sáng tạo của ông cha. Những giá trị truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng luôn được kế thừa, phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhất là khi Đảng ta ra đời, có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn và sâu sắc hơn. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khi bị thực dân Pháp dìm trong biển máu, ngày 23 tháng 11 năm 1940 tại Cà Mau, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Phan Ngọc Hiển, cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai đã giành thắng lợi, nghĩa quân chiếm được đảo và lấy được súng. Thắng lợi cuộc khởi nghĩa và sự hì sinh anh dũng của các chiến sĩ không chỉ nói lên lòng yêu nước, ý chí cách mạng kiên cường của quân dân Cà Mau, đồng thời Hòn Khoai đã viết lên những trang sử hào hùng, mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Cà Mau, Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay và mai sau. Không chỉ sáng tạo trong khẩn hoang, dựng làng lập ấp, quân dân Cà Mau còn sáng tạo ra nhiều vũ khí và xây dựng nhiều cách đánh độc đáo, giành những chiến công vẻ vang, làm nức lòng đồng bào và chiến sĩ cả nước trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Với địa hình hiểm trở, được rừng tràm, rừng đước bao bọc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, cùng với Đồng Tháp Mười, U Minh đã trở thành căn cứ địa kháng chiến của “Nam Bộ thành đồng”, là trung tâm xây dựng, phát triển lực lượng, là đầu não trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phong trào kháng chiến ở Nam Bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với Nam Bộ, quân dân Cà Mau đã lập nhiều chiến công xuất sắc. Tiêu biểu là trong kháng chiến chống thực dân Pháp sáng tạo ra thủy lôi chiến, tổ chức diệt tàu chiến Pháp ở Mây Dốc - Vàm Đình năm 1946, đắp cản ngăn sông ở Mương Điều năm 1947...; trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân Cà Mau đã xây dựng và tổ chức những làng rừng (1959-1960), chiến thắng Cái Nước, Đầm Dơi, Chà Là năm 1963,...

Biển rộng có nhiều đảo và hải đảo. Bờ biển dài với ba mặt giáp biển cùng với hệ thống sông, kinh(1), rạch chằng chịt, có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển như Cửa Lớn, Ông Đốc, Đầm Dơi, Đầm Chim, Trèm Trẹm... tạo nên hệ thống giao thông đường thủy vô cùng thuận lợi. Chính vì vậy, trong những giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân Cà Mau theo sự chỉ đạo của Khu ủy đã thiết lập các bến bãi và tổ chức các đơn vị vận tải đặc biệt góp phần hình thành nên con đường Hồ Chí Minh trên biển như ghi nhận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Anh cả của Quân đội ta: “Là một kỳ tích anh hùng, một chiến công huyền thoại, là khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, một sáng tạo chiến lược tuyệt vời của Đảng ta trong thời đại Hồ Chí Minh”(2).


(1) Kênh (BT).
(2) Quân chủng Hải quân: Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr. 7.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 08:04:16 am »

Những chiến công chói lọi này không chỉ nói lên lòng yêu nước nồng nàn, sự hi sinh to lớn, ý chí cách mạng quật cường, tinh thần chiến đấu quả cảm, thông minh, sáng tạo, quyết chiến quyết thắng của quân dân Cà Mau, mà còn thể hiện rõ niềm tin, tấm lòng thủy chung son sắt với Đảng, Bác Hồ, sức mạnh đoàn kết to lớn vô địch của thế trận chiến tranh nhân dân, của quân dân Cà Mau dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Năm tháng sẽ đi qua, song những giá trị truyền thống hào hùng ấy của Cà Mau anh hùng sẽ tiếp tục được các thế hệ người Cà Mau bồi đắp, phát triển, tỏa sáng, tạo nên sức mạnh to lớn hơn để quân dân Cà Mau thực sự xứng đáng là “mũi tàu”, đưa con tàu Việt Nam vững vàng chống chọi với phong ba bão táp, sóng to gió cả, dưới sự chèo lái của Đảng, ra biển lớn hòa nhập với cộng đồng quốc tế.

Sau khi ông ngoại thực hiện nhiệm vụ “điều lắng” của trên giao, cả gia đình tôi và ông bà ngoại ổn định nơi cư trú ở xã Trần Phán, Đầm Dơi, Cà Mau. Đây là một xã nghèo, song có truyền thống cách mạng. Xã được thành lập năm 1950 thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Bạc Liêu. Khi thành lập, theo nguyện vọng của nhân dân, theo đề nghị của lãnh đạo, chính quyền xã, sự chuẩn y của trên, đã nhất trí đặt tên xã là Trần Phán, tên một đồng chí cán bộ tiêu biểu, ưu tú của Đảng. Đồng chí Trần Phán thuộc thế hệ cán bộ, đảng viên tiền khởi nghĩa, một chiến sĩ cách mạng kiên trung của Đảng, là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bạc Liêu. Trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), đồng chí đã hi sinh anh dũng, để lại cho Đảng, cho dân tấm gương một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một chiến sĩ cách mạng kiên cường.

Khi mới đến, do còn nhỏ, tôi ít quan tâm đến tên tuổi của xã được mang tên ông. Lớn lên khi cắp sách đến lớp học, được thầy cô giải thích, về nhà ông bà ngoại dặn dò, tôi và đám bạn cùng trang lứa bắt đầu tìm hiểu về ông sâu hơn, kỹ hơn. Đầu tiên thấy tự hào, kính phục, đến tuổi thanh niên thấy phải noi gương ông, phải làm việc tốt cho xã, ấp, để xứng đáng với ông. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ, cứu nước, địa danh, địa giới của xã có nhiều biến động; đến nay xã Trần Phán thuộc huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Xã Trần Phán nằm giữa hai con sông Đội Cường - Bảy Háp và Mương Điều. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xã có 7 ấp (Bờ Đập, Tân Điền, Công Điền, Tân Phú, Thành Vọng, Trung Cang và Nhị Nguyệt); ngày nay phía bắc xã giáp sông Gành Hào, bên kia là thành phố Cà Mau; phía nam giáp xã Quách Văn Phẩm A, phía đông giáp với xã Tạ An Khương qua ranh giới sông Mương Điều, phía tây giáp xã Tân Hưng, Lý Văn Lâm(1), qua ranh giới sông Đội Cường - Bảy Háp.

Người dân quê tôi sống chủ yếu bằng nghề nông; bám dọc theo các tuyến sông, kinh rạch để làm nhà, trồng lúa... Tuy vậy, việc trồng trọt năng suất còn rất thấp, phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên vì đất thấp, nước ngọt ít, chủ yếu là nước lợ, nguy cơ nước mặn tràn vào phá hoại hoa màu rất cao, vì vậy mỗi hộ gia đỉnh có hàng chục hoặc vài chục công đất trồng lúa, song vẫn nghèo. Sau này, mặc dù chuyển đổi từ trồng lúa sang chăn nuôi, thủy sản, nhưng đời sống kinh tế của nhân dân nhìn chung vẫn còn thấp.

Dù vậy, nhân dân xã Trần Phán vẫn giữ gìn, nuôi dưỡng truyền thống đoàn kết, yêu nước và cách mạng. Truyền thống ấy được hình thành và phát triển trong lịch sử khai khẩn đất hoang, lập làng dựng ấp; trong quá trình chống chọi với thiên nhiên, thú dữ, với cường quyền áp bức. Đặc biệt, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống cao đẹp ấy như được tiếp thêm sức mạnh mới, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành nhiều chiến công vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia và trong thời kỳ đổi mới. Với truyền thống và những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 6 tháng 1 năm 1978, Đảng bộ và nhân dân xã Trần Phán đã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.

Sau khi ổn định nơi ăn, chốn ở, do ba tôi thường xuyên đi công tác vắng nhà nên má con tôi chủ yếu sống bên nhà ngoại, được ông bà ngoại chăm lo, dạy dỗ hằng ngày. Mặc dù đã 8-9 tuổi, dáng vóc tôi vẫn nhỏ thó, tính tình trầm lắng, ít nói, nhưng rất nhanh nhẹn, vừa đi học vừa đi làm. Má cho tôi đi học ở các lớp vùng ven, đây là vùng giáp ranh giữa ấp chiến lược và vùng ta (vùng giải phóng, ta làm chủ). Tại vùng này, cách mạng đã tổ chức các lớp học giành cho con em từ trong ấp chiến lược ra và vùng giải phóng theo học. Các lớp học ở thời điểm này luôn bị các cuộc càn quét và máy bay địch uy hiếp, bắn phá; vì vậy khi được báo động, thầy trò đều phải tìm nơi ẩn trú; báo động tan, thì quay lại lớp trong tình trạng khi thì ướt đẫm mồ hôi, khi thì quần áo dính đầy bùn đất, có bạn phải bỏ về “ngang xương” giữa buổi học.


(1) Tên các xã này đều được mang danh các đồng chí cán bộ kiên trung tiêu biểu cho phong trào cách mạng của địa phương qua các thời kỳ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 08:06:16 am »

Sau khi ổn định nơi ăn, chốn ở, do ba tôi thường xuyên đi công tác vắng nhà nên má con tôi chủ yếu sống bên nhà ngoại, được ông bà ngoại chăm lo, dạy dỗ hằng ngày. Mặc dù đã 8-9 tuổi, dáng vóc tôi vẫn nhỏ thó, tính tình trầm lắng, ít nói, nhưng rất nhanh nhẹn, vừa đi học vừa đi làm. Má cho tôi đi học ở các lớp vùng ven, đây là vùng giáp ranh giữa ấp chiến lược và vùng ta (vùng giải phóng, ta làm chủ). Tại vùng này, cách mạng đã tổ chức các lớp học giành cho con em từ trong ấp chiến lược ra và vùng giải phóng theo học. Các lớp học ở thời điểm này luôn bị các cuộc càn quét và máy bay địch uy hiếp, bắn phá; vì vậy khi được báo động, thầy trò đều phải tìm nơi ẩn trú; báo động tan, thì quay lại lớp trong tình trạng khi thì ướt đẫm mồ hôi, khi thì quần áo dính đầy bùn đất, có bạn phải bỏ về “ngang xương” giữa buổi học.

Tôi còn nhớ, trong một học kỳ, lớp học của tôi bị bỏ bom napan tới ba lần; do được báo động kịp thời nên chúng tôi chạy kịp, không ai bị hại. Tuy vậy, báo động tan, lớp học chỉ còn là một đống tro tàn nghi ngút khói. Các thầy cô, nhất là cô Phượng, thầy Kiệt cùng với chính quyền đã nhanh chóng vận động bà con đóng góp, người ít tranh, người ít cây que... quyết tâm dựng lại lớp học. Chỉ trong hơn một ngày, đám trẻ chúng tôi đã có một ngôi nhà mới để tiếp tục học tập. Sau khi ta giải phóng đồn Mương Điều, tình hình đỡ căng thẳng hơn, việc học hành của chúng tôi ổn định hơn, nền nếp hơn, trường lớp được dựng bằng các cây tràm, xung quanh đã có vách, bàn ghế cũng được đóng bằng cây tràm, dùng sậy làm mặt. Trong chiến tranh, lớp học được xây dựng như vậy là khá tươm tất. Tôi đã học đến lớp 6, lớp do cô Dung và thầy Thọ phụ trách. Do thiếu giáo viên, mỗi thầy cô đứng lớp phải đảm nhiệm ba đến bốn môn. Mặc dù điều kiện học tập khó khăn như vậy, song chúng tôi vẫn luôn nỗ lực duy trì học tập một cách đều đặn, rất chăm chỉ đến lớp, tập trung nghe thầy cô giảng bài, kết quả học tập có nhiều tiến bộ. Trong số học sinh thời ấy, đến nay nhiều người đã thành đạt như: Sáu Trường, Ba Hổ...

Học hết lớp 8, tôi phải nghỉ học để trông em và tham gia lao động sản xuất phụ giúp má như: đi đào đầm thuê, trông coi đầm tôm, cá thuê, cấy mướn... Lúc rảnh rỗi, tôi đan thúng, dần, sàng... - cái nghề mà lúc còn sống ông ngoại đã dạy tôi; sau đó đem bán lấy tiền giúp má trang trải cuộc sống.

Tôi nhớ đầu năm 1962, trước khi ông ngoại hi sinh vài tháng, khi đó tôi được 9 tuổi. Một buổi sáng ông gọi tôi và nói: “Thằng Ba, cháu ngoại ngoan của ông, có muốn ông dạy cho biết đan thúng, dần, sàng không?”. Thấy tôi còn lưỡng lự, ông động viên: “Làm người, muốn trưởng thành phải giỏi một nghề, biết nhiều nghề cháu ạ. Miếng cơm manh áo nó không xa lánh những người chăm chỉ, cần cù lao động”. Thương ông, thấy ông nói vậy, tôi vui vẻ nhận lời. Đầu tiên, ông dạy tôi cách ra nan rất cụ thể, tỉ mỉ và đồng bộ, từ khâu chọn tre, ra thanh, vót nan. Quan sát ông làm, nghe ông hướng dẫn, tôi nghĩ: “Việc này dễ ợt”. Khi bắt tay vào làm mới thấy khó trăm bề, không đơn giản chút nào, thao tác được vài lần, đôi bàn tay tôi khi bị dao, khi thì bị nan cứa, máu ra ở nhiều nơi, sưng vù như muốn nát bàn tay. Thấy vậy ông cười bảo: “Để làm cho giỏi, phải yêu nghề, tinh trí, tinh mắt, khéo tay và kiên trì cháu ạ!”. Tuy vậy, sau ít ngày học ông, tôi bắt đầu thích công việc này và ra nan khá thành thạo.

Bắt tay vào học đan, ông đọc cho tôi nghe câu ca dao lục bát mà ông yêu cầu tôi phải nhớ:

“Bắt tam, đệ tứ, anh ơi
Bắt nhị xong rồi, trở lại đề tam”.

Thấy tôi ngạc nhiên, học đan thúng mà cũng phải bắt học cả dân ca, ông ngoại rắc rối quá! Mặt ông vui lên, giọng ông ôn tồn, chậm rãi kể cho tôi nghe câu chuyện “Mối tình của người đan thúng”. Sà vào lòng ông, mắt tôi chăm chăm nhìn cái miệng kể chuyện rất duyên của ông. Câu chuyện ấy đã hút hết sự chú ý của tôi từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc. Ông kể:

“Có một chàng thanh niên nghèo khó, đi ở đợ cho gia chủ khá giả ở trong làng. Với tính tình hiền lành, nhưng lại thông minh, chịu thương chịu khó, vì vậy chàng đã lọt vào mắt xanh cô con gái rượu chủ nhà. Hay chuyện, vợ chồng ông tìm mọi cách ngăn cấm, thậm chí đầy ải chàng thanh niên này ra trông coi “đìa cá” ngoài làng, cách xa nhà năm đến bảy cây số nhằm chia cắt mối tình “phạm thượng” của họ. Song, càng tách họ ra bao nhiêu thì đôi trai gái ấy tìm mọi cách gắn chặt lại bấy nhiêu. Biết không thể ngăn cách họ bằng cấm đoán, ông chủ nghĩ ra một kế thử tài chàng bằng cách bắt chàng đan một cái thúng, nếu làm được sẽ gả con gái cho, bằng không phải chịu phạt 100 roi và đuổi việc. Biết người mình yêu có tố chất thông minh, sáng dạ, có bàn tay khéo léo, ra nan giỏi, song chưa biết đan thúng bao giờ, cô gái bèn nghĩ ra một kế, nhéo vào đít em cho nó khóc ầm lên, rồi nhanh chóng bồng em lên võng đung đưa và cất lên lời ru ngọt ngào, tha thiết. Nội dung của lời ru chính là câu ca dao lục bát mà ông đã bắt tôi học thuộc. Biết người yêu của mình mách bảo, chàng thanh niên đã hoàn thành xuất sắc lời thách đố của ông chủ. Hai người yêu nhau đã nên vợ nên chồng”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 08:07:11 am »

Chăm chú nghe câu chuyện kể về chàng thanh niên ấy, tôi cảm thấy ông ngoại rất xúc động như kể về chính cuộc đời mình, vì vậy tôi càng thương ông ngoại hơn, tích cực làm theo lời chỉ bảo, hướng dẫn của ông. Ít lâu sau, tôi cũng đã trở thành “người thợ vừa ra nan khá thành thạo, vừa biết đan thúng gần bằng được như ông”. Không ngờ cái nghề đan dát mà ông truyền lại giúp tôi ra nghề hữu hiệu, giúp một phần khó khăn cho má.

Qua lao động tôi cảm nhận thấy, cùng với sự phát triển về dáng vóc, tôi từng bước có sự trưởng thành trong nhận thức về quê hương, đất nước; nhất là mỗi lần ba về, gia đình được sum họp đông đủ trong căn cứ địa kháng chiến, gần ba, nghe ba kể chuyện về những tấm gương chiến đấu, hi sinh của các chiến sĩ cách mạng, về những người anh hùng, về Bác Hồ... đã gieo vào lòng tôi những tình cảm yêu thương kính trọng những người đi kháng chiến, như ông ngoại, như ba, cậu Năm. Đặc biệt, sống trong vòng vây kẻ thù, tiếng nói, niềm tin cách mạng đã như ánh sáng mặt trời dù Mỹ - ngụy dùng muôn vàn âm mưu, thủ đoạn thâm độc, trăm phương ngàn kế cũng không thể che lấp, ngăn cản được “ánh sáng tự nhiên” ấy đến với nhân dân, đến với lớp thanh thiếu niên mới lớn chúng tôi. Mỗi khi có điều kiện, chúng tôi tập trung lại, chọn nơi kín đáo mở Đài Giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam nghe tin tức, nhất là chương trình “Tiếng thơ”, nghe sao mà hấp dẫn, thích thú đến thế! Một lần được nghe bài thơ “Bài ca Xuân 68” của Tố Hữu phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi thích nhất đoạn:

“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỳ XX
Một dây ná, một cây chông, cũng tiến công giặc Mỹ”.


Nghe không hiểu nhiều, song mỗi chúng tôi đếu thấy, hình ảnh anh chiến sĩ giải phóng quân đẹp quá, từng đứa ước được đi chiến đấu và chiến đấu anh dũng như anh giải phóng quân.

Giữa năm 1966, năm ấy tôi đã 13 tuổi, xảy ra một chuyện và mãi mãi là một kỷ niệm khó quên đối với tôi. Lúc đó ba tôi đang bị bệnh thận nặng ở trên cứ; ở nhà, trong một trận càn, địch bắn cối trúng hầm nhà dì tôi, làm Lam (em của dì) chết, tôi bị mảnh cối găm vào trúng phổi, máu ra nhiều. Được sự giúp đỡ của bà con, má lấy ghe chở tôi đi tìm nơi cứu thương, ở một vùng xảy ra chiến tranh ác liệt như thế này, tìm đâu ra các điểm y tế cơ sở, huống chi tôi bị thương khá nặng cần phẫu thuật cấp cứu kịp thời. Thấy vậy, cậu Ba cùng ấp đã lập tức lấy xuồng gắn máy của nhà chở cấp tốc đưa má con tôi ra Cà Mau. Dọc đường đi, nhiều trạm gác của địch chặn lại, cậu Ba chỉ vào tôi la lớn: “Pháo của các ông bắn người ta bị thương, để cho người ta đi bệnh viện, mọi chuyện tính sau”. Thấy vậy, bọn địch cho đi ngay. Đến bệnh viện, nhờ có người bà con của cậu Ba mà tôi được nhập viện ngay. Tuy vậy, bệnh của tôi khá nặng, sau khi sơ cứu, Ban Giám đốc quyết định chuyển tôi lên bệnh viện tuyến trên, Bệnh viện Phan Thanh Giản (Cần Thơ) bằng máy bay trực thăng.

Tại đây, tôi được phẫu thuật dưới bàn tay có trình độ chuyên môn cao của một nữ bác sĩ người Mỹ và êkíp mổ của bệnh viện. Do hoàn cảnh gia đình nghèo, tôi phải được tiếp máu, rất may mắn nhóm máu tôi trùng với nhóm máu của má. Bà bác sĩ người Mỹ nói tiếng Việt rất giỏi. Quá trình chăm sóc tôi, bà đã nảy ra tình cảm má con thân thiện, bà nói với má tôi: “Tôi là người Mỹ, hiện chưa có gia đình, tôi rất thích cậu bé, vóc dáng tướng số nó ngon lành, đề nghị với bà tôi xin cháu làm con nuôi, dạy bảo nó nên người”. Mặc dù đã nhiều lần năn nỉ, má tôi vẫn kiên quyết không cho. Sau một tuần điều trị, tôi đã trốn viện, hai má con lặn lội về vùng giải phóng xã Bảy Đồng (sau này đổi tên là xã Tạ An Khương) - xã anh hùng.

Sống giữa cái nôi của cách mạng, nhỏ là gia đình, lớn lên là quê hương Đồng Khởi và quê hương Cà Mau, nhất là trong vùng căn cứ địa kháng chiến, tôi được sự tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ cách mạng rất sớm, từ gia đình, các tổ chức quần chúng cách mạng như đội, đoàn thanh niên; sự giúp đỡ của các cô, các chú cán bộ, đảng viên đi trước. Ngay trên quê hương mình, bản thân tôi được chứng kiến những thủ đoạn thâm độc, tội ác dã man, tàn bạo của kẻ thù. Vì vậy, mặc dù ngay từ khi chưa đến tuổi trưởng thành, song tôi đã có ý nguyện lớn lên sẽ đi theo kháng chiến, theo ba, các bác, các chú, đánh giặc trả thù cho quê hương, cho đồng bào thoát khỏi cảnh “đầu rơi, máu chảy” và sự truy sát của kẻ thù. Tôi và thế hệ thanh niên chúng tôi với hành trang là trang sử truyền thống hào hùng của quê hương Bến Tre đồng khởi, của Cà Mau đất mũi kiên cường, nhất định sẽ trưởng thành như anh giải phóng quân. Tôi tin mình sẽ sống và làm được như thế. Niềm tin ấy lớn dần trong tôi, thường trực trong tôi cả lúc ăn, lúc ngủ và lúc làm việc trong suốt giai đoạn này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2022, 08:08:15 am »

Chương II

CHIẾN ĐẤU GIỮA VÒNG VÂY ĐỒN GIẶC
(1969-1975)

Sau thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 của ta, Tổng thống Níchxơn buộc phải thay đổi chiến lược từ “chiến tranh cục bộ” sang “Việt Nam hóa chiến tranh”. Âm mưu cơ bản của chiến lược mới này là: Níchxơn và chính quyền Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh dùng “người Việt đánh người Việt”, rút dần quân Mỹ về nước hòng xoa dịu làn sóng đấu tranh ngày một dâng cao của nhân dân Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh, đưa con em họ trở về với gia đình.

Thực hiện âm mưu đen tối trên, Mỹ - ngụy vẫn dựa vào ba phương thức chủ yếu mà Mỹ gọi là ba cuộc chiến tranh: “chiến tranh giành dân”, “chiến tranh hủy diệt”, “chiến tranh bóp ngẹt”. Cùng với việc đôn quân bắt lính, tăng cường trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại cho ngụy, chúng còn đẩy mạnh các cuộc hành quân càn quét, đánh phá ác liệt vào các vùng giải phóng, khu vực căn cứ địa cách mạng để bình định, gom dân, chia cắt dân với cách mạng bằng các kế hoạch “bình định cấp tốc”, “bình định bổ sung”, “bình định phát triển”.

Càn quét bình định đến đâu chúng tổ chức lực lượng đóng dày thêm hàng ngàn đồn bốt, phát triển thêm các ấp chiến lược để kìm kẹp, khống chế dân, bóc dỡ, truy sát phong trào cách mạng. Đây là cuộc phản công quyết liệt, hủy diệt tàn khốc của địch vào địa bàn chiến lược nông thôn của ta.

Tại Cà Mau quê tôi, hơi nóng và tính hủy diệt của “Việt Nam hóa chiến tranh” đã hiện diện và ngày một tăng lên trên vùng căn cứ địa kháng chiến. Ngay từ cuối năm 1968, địch đã đẩy mạnh các cuộc hành quân bình định với tham vọng sẽ lấn chiếm xong U Minh vào cuối năm 1969. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng đưa lực lượng chiếm và xây dựng căn cứ tiếp vận Năm Căn, tổ chức lực lượng hải quân (Giang đoàn 42, 45), tàu chiến kết hợp với lực lượng Hạm đội 7 vừa phong tỏa bờ biển, kiểm soát chặt chẽ các cửa Bồ Đề, cửa Lớn, Gành Hào, Bảy Háp, sông Đốc..., vừa đánh phá ác liệt các tuyến sông Tam Giang, kinh xáng Cả Ngay, sông Bảy Háp, Đội Cường. Độc ác hơn, tàn bạo hơn, Mỹ - ngụy dùng B52 ném bom rải thảm vào các khu vực Cái Chồn Lớn, kinh Ba, kinh Năm, rải chất độc hóa học tàn phá màu xanh của các cánh rừng U Minh Hạ, gây nên biết bao cảnh tang thương, chết chóc cho bà con, cô bác. các em nhỏ vô tội; nhà cửa, ruộng vườn bị thiêu rụi và tàn phá xác xơ, mồ mả ông cha bị cày xới, san ủi, cuộc sống của hàng ngàn người dân trong vùng căn cứ bị đảo lộn, đe dọa.

Chứng kiến thảm cảnh dã man này, tôi và đảm bạn bè đồng trang lứa trong ấp vô cùng đau xót và căm phẫn chiến tranh, mong muốn mảnh đất này, quê hương mình không còn chiến tranh để mọi người được sống trong thanh bình, yên tâm làm ăn, sum vầy trong tình làng nghĩa xóm.

Trên địa bàn xã Trần Phán quê tôi, tội ác của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” diễn ra không kém phần khốc liệt. Cùng với việc củng cố hệ thống chính quyền, các tổ chức chính trị phản động, các lực lượng vũ trang phòng vệ dân sự, cảnh sát, tề ấp, cán bộ bình định chìm nổi phát triển như nấm, có mặt ở khắp nơi để theo dõi, mua chuộc, đe dọa khống chế nhân dân; đồng thời chúng ra sức nâng cấp, củng cố hệ thống đồn bốt, cả xã có 7 ấp, chúng bố trí 7 đồn, ngoài ra còn 4 đồn giáp ranh với các xã lân cận.

Hàng ngàn người dân xã tôi phải sống trong các ấp chiến lược, lại bị tác động, tra tấn bằng vô vàn những âm mưu và hành động độc ác của kẻ thù như: các luận điệu chiến tranh tâm lý, các cuộc càn quét, lùng sục, truy bắt, truy quét cán bộ, đảng viên. Cuộc sống hết sức ngột ngạt, bức xúc.

Cũng như bao nhiêu người dân xã Trần Phán, tôi vô cùng căm phẫn trước tội ác của giặc; lớp thanh niên chúng tôi luôn trăn trở cần phải làm gì, phải hành động như thế nào để ngăn chặn và tiêu diệt bàn tay vấy máu của kẻ thù, bảo vệ bà con, cô bác, bảo vệ đồng bào. Ở tuổi 15, 16, cũng như biết bao thế hệ thanh niên của dân tộc, của đất nước từ xưa tới nay, chúng tôi đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, phải lựa chọn và trả lời nhiều câu hỏi để xác định hướng đi cho tương lai. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước ở từng giai đoạn lịch sử, mỗi thế hệ thanh niên lại có những hướng đi riêng mang tính thời đại. Các bạn trẻ hôm nay, khi đất nước đã độc lập, thống nhất, trên con đường đổi mới, đang mở cửa hòa nhập với cộng đồng quốc tế, có biết bao con đường để lựa chọn, còn chúng tôi và các thế hệ thanh niên lớp trước, khi đất nước chìm đắm trong đêm dài nô lệ thì ít có con đường lựa chọn, chỉ có con đường đúng đắn nhất là “trên trận tuyến đánh quân thù”.

Sau mỗi ngày đi đào đất, cấy thuê cho chủ, tối đến bọn thanh niên đồng sàng lại tụ tập dăm ba đứa bàn chuyện kháng chiến, tìm cách gặp gỡ các cô chú là đồng chí của ba đề đạt nguyện vọng tham gia du kích hoặc thoát ly theo giải phóng quân. Tôi nhớ, một buổi tối khi chúng tôi đang tụm năm, tụm ba bàn chuyện kháng chiến, bà Năm (bà ngoại tôi) đi qua ghé lại tỉ tê góp chuyện: “Tụi bây sao còn bàn tới bàn lui chuyện đi ở. Phải đi đi (đi theo kháng chiến)”. Ngoại đọc luôn mấy câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Bính về vai trò danh phận làm trai:

“Thà rằng chết giữa chiến trường
Còn hơn chết ở trên giường thê nhi”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM