Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:13:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 1  (Đọc 4319 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« vào lúc: 25 Tháng Tư, 2021, 01:43:14 pm »

Tên sách: Đường 5 anh dũng quật khởi-Tập 1
Nhà xuất bản: Hải Phòng
Năm xuất bản: 1998
Số hoá: ptlinh, quansuvn


Chỉ đạo nội dung:
   * HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
   * BAN LIÊN LẠC ĐỒNG ĐỘI TỈNH ĐỘI HẢI DƯƠNG - HƯNG YÊN TẠI HẢI PHÒNG

Biên soạn:
* VÕ AN ĐÔNG   ĐT : 031.701040
* NGUYỄN HUY TRƯỜNG   ĐT : 031.876862
* ĐÀO NGỌC QUẾ   ĐT : 031.838558
* NGUYỄN HƯU TRÍ   ĐT : 031.844126

Cộng tác viên:
* LÊ ĐỨC THỊNH   ĐT : 04.8256135
* VŨ XUÂN HÒA   ĐT : 04.9760332
* BÙI MẠNH CÁT   
* ĐÀM MINH   
* PHẠM BÁCH   ĐT : 032.858417
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Năm, 2021, 04:14:41 pm gửi bởi ptlinh » Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #1 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2021, 01:43:51 pm »

LỜI GIỚI THIỆU
(Tái bản lần thứ hai)


Đến nay, bộ sách "Đường 5 anh dũng, quật khởi" đã xuất bản được 4 tập.

Trong các tháng 5, 6, 7 năm 1998, tại Hà Nội, Hải Phòng và Hải Dương đã diễn ra các cuộc tọa đàm giữa Ban biên tập "Đường 5 anh dũng, quật khởi" với các nhân chứng lịch sử trên địa bàn quốc lộ số 5, từng giữ các chức vụ quan trọng ở các cấp Đảng, chính quyền, quân sự ở những thời điểm lịch sử khác nhau trong kháng chiến chống Pháp. Các đại biểu đánh giá bộ sách đã gây ấn tượng đẹp với người đọc và đã có tác dụng tốt:

1) Góp phần giáo dục truyền thống đánh giặc, giữ nước cho quân dân Đường 5, nhất là cho thế hệ trẻ.

2) Góp một số tư liệu đấu tranh rất phong phú và đa dạng, phục vụ việc nghiên cứu lịch sử cách mạng vùng Đường số 5.

3) Khơi dậy lòng tự hào chính đáng cho lớp lớp nhân chứng nay đã là người "xưa nay hiếm", từng hy sinh bao xương máu để góp phần không nhỏ cho lịch sử hào hùng của thế hệ đã qua.

Đáp ứng yêu cầu của nhiều bạn đọc, tập I "Đường 5 anh dũng, quật khởi" tái bản lần nay (có sửa chữa và bổ sung) nhằm giới thiệu lại Hồi ký của một số nhân chứng liên quan tới kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh, kinh nghiệm giành dân, tổ chức quần chúng, tổ chức lực lượng vũ trang, nghệ thuật tác chiến (đánh giao thông, chống càn quét, diệt địch, mở cơ sở, v.v..) trong hoàn cảnh địch hậu rốt khốc liệt mà quân dân Đường 5 đã trải qua.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc và mong được sự góp ý chân thành.


NGÔ ĐĂNG LỢI
(Chủ tịch Hội khoa học lịch sử HP)
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Năm, 2021, 07:34:32 am gửi bởi ptlinh » Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #2 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2021, 01:44:33 pm »

PHẦN I
HƯNG YÊN QUẬT KHỞI

(Hồi ký của đồng chí Võ An Đông, nguyên Tỉnh đội trưởng Hưng Yên,
về phong trào kháng chiến của tỉnh từ năm 1950 - 1954)


Suốt thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tôi may mắn được sống và chiến đấu cùng với quân dân tỉnh Hưng Yên ở cương vị lãnh đạo và chỉ huy Tỉnh đội. Cho nên, bản thân đã được vinh dự làm nhân chứng của một số sự kiện lịch sử chiến đấu quan trọng của tỉnh. Vì vậy, tập hồi kỷ của tôi nhan đề là: "Hưng Yên quật khởi” chỉ giới hạn thời gian từ 1950 đến 1954 và qua suy nghĩ, chọn lọc ra 5 sự kiện chính, nói về:

- Nghị quyết lịch sử cua Tỉnh ủy Hưng Yên (12/1950).

- Phá tan hệ thống tháp canh hương đồn, năm 1951.

- Đánh thắng quân cơ động chiến lược của địch.

- Diệt căn cứ hậu phương GM3, mở đầu chiến thuật mật tập.

- Phong trào nữ du kích Hoàng Ngân.


Tập hồi ký này chỉ đề cập tới những sự kiện liên quan tới nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật chỉ huy tác chiến về quân sự trong hoàn cảnh của một tỉnh nằm sâu trong địch hậu, địch rất mạnh, ta thì rất yếu. Do nhiều lý do, tôi chưa thể đề cập tới các sự kiện, các gương mặt chiến đấu trong hoàn cảnh rất ác liệt của các đơn vị, địa phương và các cá nhân đã từng anh dũng và thông minh đối mặt với quân thù.


Tập hồi ký này xin được trân trọng kính tặng quân dân Hưng Yên đã nuôi dưỡng và chắp cánh cho tôi được bay xa.

Mong bạn đọc chân thành góp ý kiến.

Xin chân thành cảm ơn!

VÕ AN ĐÔNG
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #3 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2021, 01:45:37 pm »

I
MỘT NGHỊ QUYẾT TỈNH ỦY LỊCH SỬ
(12 - 1950
)


Tháng 12 năm 1950, Tỉnh ủy Hưng Yên đã ra một nghị quyết lịch sử trên cơ sở tổng kết kế hoạch bình định bằng hệ thống tháp canh, hương đồn của địch, đề ra tư tưởng chỉ đạo về các mặt hoạt, động chính trị, địch vận, dân vận, quân sự, động viên quần chúng đấu tranh với địch vừa khéo léo vừa giữ gìn và phát triển lực lượng. Chính nghị quyết này đã chuyển phong trào Hưng Yên từ thế bị động sang thế chủ động, từ một tỉnh trong Liên khu 3 ở trạng thái bị kìm kẹp nặng nề nhất, đen tối nhất mà chỉ trong vòng một năm đã trở thành một tỉnh quật khởi, liên tiếp đánh thắng quân địch về mọi mặt, cả về mặt giữ vững và mở rộng cơ sở, cả về chính trị, địch vận và tác chiến tiêu diệt địch, phá tan hệ thống tháp canh, hương đồn của địch, lập nhiều chiến công quân sự khác.


Bối cảnh lịch sử lúc đó nói chung và ý nghĩa tác dụng của nghị quyết đó ra sao? Tôi là tỉnh ủy viên, lại phụ trách quân sự, thường đi sát, bàn luận với đồng chí Vũ Thơ là Bí thư Tỉnh ủy, cho nên vừa là nhân chứng, vừa là người được vinh dự tham gia việc thai nghén, xây dựng nghị quyết này, tự nhận trách nhiệm ghi lại sự kiện có ý nghĩa lịch sử này.


Ngày 22-12-1949, địch mở chiến dịch Diabolo chiếm đóng toàn tỉnh Hưng Yên và Hải Dương ở bắc sông Luộc, sau đó vài tháng chúng hành quản chiếm đóng Thái Bình ở phía nam sông Luộc và chiếm đóng Hà Nam bên hữu sông Hồng. Như vậy là tỉnh Hưng Yên không còn hình thái bốn huyện phía bắc (Mỹ Hào, Yên Mỹ, Văn Giang, Văn Lâm) là vùng tạm chiếm và năm huvện phía nam (Khoái Châu, Ân Thi, Phù Cừ, Tiên Lữ, Kim Động) là vùng tự do nữa. Toàn tỉnh không những đã bị chiếm đóng mà còn nằm sâu trong địch hậu. Muốn về Liên khu 3 phải vượt qua sông Hồng và sông Đáy, muốn lên Trung ương ở Việt Bắc phải qua tỉnh Bắc Ninh tạm chiếm và phải vượt sông Đuống và sông Cà Lồ. Tóm lại, hình thái chiến tranh hồi năm 1950 hoàn toàn bất lợi cho phong trào Hưng Yên, đòi hỏi phải có đối sách thích hợp thì mới có thể giữ gìn lực lượng, phát triển phong trào được.


Thực hiện kế hoạch "Revers" với mục đích chiếm đóng toàn bộ châu thổ sông Hồng, khai thác triệt để kho người, kho của ở đây, tất nhiên bọn địch phải tiến hành kế hoạch bình định, trong đó lấy Hưng Yên làm địa bàn trọng điểm cùng với việc đưa tên Vũ Trọng Kỳ làm tỉnh trưởng. Muốn thế, chúng phải xúc tiến lập hệ thống ngụy quyền, thực hiện chính sách chia để trị và tiêu diệt hoặc chí ít cũng đánh bật lực lượng chính trị và quân sự của ta ra khỏi khu vực của chúng. Trước hết, chúng lợi dụng một số tên như Đinh Văn Lực (một cán bộ của ta đầu hàng địch) khét tiếng gian ác, đóng ở Thiết Trụ (Khoái Châu) chuyên phá cơ sở của ta ở vùng Văn Giang, Yên Mỹ, Khoái Châu; hay là tên đội Cửu ở bốt Thổ Câu phá cơ sở của ta ở vùng huyện Ân Thi, Phù Cừ, v.v... Chúng lợi dụng một số cha cố đội lốt, tôn giáo, như ở Cao Xá (Phù Cừ), Cánh Lâm (Yên Mỹ), Ngọc Đông (Kim Động), vu cho cộng sản phá tôn giáo; hoặc những tên trong lòng hận thù với cách mạng như tổng Nham ở Hoàng Xá, Hoàng Các (Phù Cừ), tổng Thân ở xã Tân Dân (Khoái Châu) đứng lên liên lạc với Tây, xin súng về lập tề vũ trang, huy động dân đi cùng với chúng để càn quét các làng lân cận, vơ vét của cải, giết chóc, bắt bớ những dân thường, ép họ lập tề. Thêm nữa bọn Pháp trực tiếp chỉ huy ngụy quân từ vị trí đã được củng cố (như bốt Đởm, bốt Đông Tảo, bốt Đình   Cao...) thường ngày đi càn quét, lùng sục hầm bí mật, bắt bớ cán bộ và dân thường, rồi đem ra xử bắn không tiếc tay, hòng uy hiếp dân ta. Câu ca dao như:

Chiều chiều ra đứng bờ đê
Trông về bốt Đởm (bốt Binh Tri) mà ghê cả người.

Nghe ra bi quan, ngao ngán và uất hận làm sao. Tuy nhiên, cái đáng nguy hiểm mang tính đặc trưng là địch đã lấy Hưng Yên làm nơi để thực hiện âm mưu lập một hệ thống tháp canh, hương đồn khá hoàn chỉnh. Chúng đã dựa vào số ít loại tề thực sự phản động thường xuyên càn quét ở các làng lân cận, vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ, chọn lựa một số tên có thể tin cậy được, mạnh dạn phát súng lập tề võ trang (nơi ít thì dăm khẩu súng trường, nơi nhiều thì hai, ba chục khẩu), ép dân phải nộp vật liệu xây dựng để xây những lô cốt cố thủ ở bên trong, phòng khi ta tấn công. Xây dựng những hương đồn như trên, trong khi bộ đội và dân quân ta chỉ được trang bị súng trường, liên thanh, không có vũ khí công phá đồn, lại chưa đủ sức trụ lại ban ngày để đánh quân tiếp viện, thì quả là có tác dụng cho địch. Kết quả là trong vài ba tháng địch đã lập được cả một hệ thống tháp canh, hương đồn hoàn chỉnh, có sự hỗ trợ đắc lực của các vị trí lớn, cỡ đại đội, tiểu đoàn do Pháp chỉ huy, một hệ thống ngụy quyền hoàn chỉnh từ cấp tỉnh, xuống cấp huyện, cấp xã, thôn (lúc đó Hưng Yên có khoảng 550 thôn thì địch đã đóng 360 vị trí lớn nhỏ, đại đa số là tháp canh và hương đồn). Cho tới tháng 12 năm 1950, toàn tỉnh chỉ còn một xã tự do, không có tề, đó là xã Phan Tây Hồ (Tiên Lữ), gồm các thôn: Phí Xá, Canh Hoạch, Giai Lệ, v.v... Nhưng tới ngày 5-3-1951, địch chốt lại vị trí Canh Hoạch thì coi như toàn tỉnh đều có tề, ngụy quyền của địch đã có khắp nơi. Cơ sở hoạt động của ta bị tổn thất nặng nề, mất dần chỗ đứng cho cán bộ vào tuyên truyền, vận động. Cán bộ đảng viên ta một số rất anh dũng, kiên trì bám dân bám đất hoạt động nhưng không tránh khỏi bị địch bắn giết dã man. Ở tỉnh, có đồng chí Lôi - tỉnh ủy viên, bí thư huyện ủy Kim Động, đồng chí Thông - tỉnh ủy viên, bí thư huyện ủy Khoái Châu, đồng chí Trọng - bí thư huyện ủy Yên Mỹ bị địch giết hại, đồng chí Lãng (Hiệu) - tỉnh ủy viên, phụ trách địch vận, bị địch bắt, rồi đồng chí Huấn (Lễ) thay bí thư huyện ủy Kim Động cũng bị địch giết. Rất nhiều đồng chí khác ở huyện và xã cũng bị giết hại, bắt bớ. Tôi còn nhớ hình ảnh đồng chí Hốt - huyện ủy viên huyện Văn Giang. Đây là một huyện sớm bị chiếm đóng từ năm 1947, cơ sở bị mất trắng do tên Đinh Văn Lực, chánh Phả ở Cửu Cao rất phản động ngày đêm lùng sục. Thế mà đồng chí Hốt trong hai năm liền ban ngày nằm hầm bí mật ở ngoài đồng, ban đêm vào trong dân vận động, đến khi huyện sắp được giải phóng cũng bị địch bắt và giết hại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #4 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2021, 01:46:17 pm »

Một số khác, tuy vẫn kiên trì kháng chiến nhưng vì địch o ép, địa bàn bị dồn hẹp, phải bật sang nơi khác; thỉnh thoảng vọt cần câu về hoạt động chớp nhoáng rồi lại ra ngoài đồng nằm hầm bí mật hoặc ra ngoài căn cứ. Lúc này ở hữu ngạn sông Hồng, nam sông Luộc hoặc đông sông Đa Lộc (các tỉnh lân cận) cũng không phải an toàn mà vẫn thỉnh thoảng bị địch càn quét. Do đó mà sự hoạt động gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Lòng dân vẫn âm thầm theo kháng chiến, nhưng trước thế mạnh của địch về nhiều mặt nên buộc phải ra làm hội tề, đi phu phen, tạp dịch cho địch.


Một số khác không ít do hoàn cảnh kinh tế hoặc do sợ địch khủng bố nên buộc phải năm im, cầu an, thậm chí có một số ra đầu hàng, khai báo với địch, làm tay sai cho chúng. Trong hoàn cảnh thế và lực của địch hơn ta bội phần, thế mà giữa năm 1950, tại hội nghị Quyển Sơn, ta lại đã đưa ra khẩu hiệu: "Đả phá bệnh cầu an" nhưng thiếu sự phân tích kỹ lưỡng. Đáng lẽ phải đề ra biện pháp có thể chấp nhận được đối với những anh em ở trong trạng thái "thế thì phải thế”, nhưng ngược lại, đã sinh ra hiện tượng manh động, ấu trĩ, tả khuynh, lè tẻ xảy ra những vụ giết ẩu, làm cho phong trào không thể giữ vững và phát triển được mà lại ngày càng đen tối thêm.


Trong năm 1950, ta có những thành tích đáng ghi nhớ như trận nội ứng diệt bốt An Chiểu (Tiên Lữ), trận phục kích Bạch Binh ở thôn Tam Đa (Phù Cừ) diệt một trung đội, thu một trung liên (thời kỳ này cướp được một khẩu trung liên là rất hiếm có). Khu du kích Phan Tây Hồ (Tiên Lữ) bao lần chống càn quét mà vẫn giữ được địa bàn tự do. Trận chống càn thôn Tam Nông (Tiên Lữ) chống lại một tiểu đoàn địch đi càn quét giành thắng lợi. Các gương chiến đấu của dân quân, du kích và tiểu đoàn 124 thuộc E42, cùng bộ đội địa phương tỉnh phân tán hoạt động ở các huyện Tiên Lữ, Kim Động, Yên Mỹ, v.v...


Nhưng chính vì giữa hai xu thế, một mặt thì phong trào tuy đang bị suy yếu, đen tối, nhưng lại có những gương, những trận chiến đấu anh dũng thắng lợi, cổ vũ phong trào và nhất là từ tháng 10-1950, sau chiến thắng Biên giới, nên theo xu thế chung của cả nước là phấn khởi, đồng thời lại có xu thế khác là địch càng cần phải bám chắc châu thổ sông Hồng, càng gia tăng khủng bố, khai thác kho người kho của, sinh ra bi quan lo lắng. Chính giữa hai xu thế đối lập nhau đó, làm cho người lãnh đạo, cụ thể là Tỉnh ủy Hưng Yên, sau một thời gian tĩnh tâm suy nghĩ, phải tỉnh táo đề ra những chủ trương, biện pháp thích hợp.


Tháng 4-1950, Tỉnh ủy Hưng Yên họp trước rồi triển khai hội nghị cán bộ tại Quyển Sơn, trong một cái hang ở bên hữu ngạn sông Đáy. Số lượng một cấp ủy tỉnh hồi đó chỉ có khoảng 11 hoặc 13 người. Anh Vũ Thơ mới được Liên khu ủy 3 điều động về thay thế anh Dần làm bí thư được 2 tháng, mới đang tìm hiểu phong trào nhưng rất nhiều kinh nghiệm đấu tranh với địch thời kỳ còn bí mật, trước khởi nghĩa. Tỉnh ủy hồi đó còn có anh Nguyễn Ngọc Vũ - Phó bí thư Tỉnh ủy (từ trần năm 1997), anh Lê Quý Quỳnh, anh Nguyễn Chất - Chủ tịch UBKCHC tỉnh (đã từ trần), anh Anh (bí danh là Phán, sau đã hy sinh năm 1951 do bị địch phục kích bắn chết), anh Lê Đức Thịnh, anh Phúc Kiên (đã từ trần năm 1970), anh Việt ở Tiên Lữ và tôi. (Anh Lôi, anh Thông đã bị địch giết và anh Lãng (Hiệu) bị bắt sau hòa bình được tha và đã từ trần).


Không khí hội nghị lúc đó là lạc quan tin tưởng, tuy phong trào đang gặp khó khăn. Về khách quan, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, quân giải phóng Trung Quốc đã chiếm đóng biên giới Việt - Trung, đối diện với quân Pháp. Ta lúc đó chủ trương "tích cực chuẩn bị tổng phản công". Về chủ quan, phong trào tuy có tổn thất nhưng ta vẫn còn điều kiện bám dân, bám đất. Xu thế chính của hội nghị là muốn đánh thắng sớm quân địch, coi thường chúng và đánh giá khả năng của ta quá cao. Từ đó, đề ra một số chủ trương mang tính duy ý chí, đi ngược lại quy luật lịch sử, không phù hợp với tâm tư, nguyện vọng và khả năng của quần chúng lúc đó.


Chủ trương chính trị "đả phá bệnh cầu an", chủ trương quân sự "chống càn quét" là chủ trương đáng phải đem ra phân tích, phê phán. Sau vài tháng chủ trương đưa ra kiểm nghiệm trước, thực tế thì thấy rằng ta mới chỉ nắm được hiện tượng mà không đi sâu phân tích bản chất của vấn đề. Phải thừa nhận rằng hiện tượng cầu an trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên là phổ biến và hiện tượng địch càn quét cũng thường xuyên, liên tục, ngày nào và ở đâu cũng luôn xảy ra. Thế nhưng, ta lại không chịu đánh giá, phân tích kỹ lưỡng thế và lực cụ thể của ta và của địch lúc đó và ta cũng chưa thấu triệt tính chất đấu tranh giữa địch và ta trong điều kiện ở Hưng Yên lúc đó là địch ưu thế về mọi mặt hơn ta, về thực chất là đấu tranh với địch để giành dân, do đó mà cần phải đề ra nhiều chủ trương, biện pháp phù hợp với lòng dân và thích hợp với khả năng đấu tranh của dân. Nghị quyết đề ra không rõ ràng, thiếu sự hưởng dẫn chu đáo cho nên thực hiện đả phá bệnh cầu an thì nặng về áp đặt, chụp mũ, đối xử thì thô bạo, thậm chí có những manh động. Thực hiện chống càn quét thì nặng về hình thức, đánh trống gõ mõ, lại càng bộc lộ thêm lực lượng, tạo cho địch càng lấy cớ khủng bố cán bộ và nhân dân, càng làm cho quần chúng xa rời kháng chiến, phong trào càng sa sút.


Sau hội nghị Quyển Sơn, chúng tôi trở về để chỉ đạo phong trào. Anh Vũ Thơ và tôi thường đi sát với nhau, khi thì ở Thanh Miện (Hải Dương), khi thì ở xã Minh Tân, Nghĩa Vũ; Duyệt Văn, Duyệt Lễ (Phù Cừ), nơi nào cũng chuẩn bị sẵn hầm bí mật, người ở đầu thôn, người ở cuối thôn. Nhưng tin tức các nơi gửi về ngày càng xấu, phong trào ngày càng sa sút, cán bộ, nhân dân bị khủng bố dữ dội, tháp canh, hương đồn mọc ra như nấm.


Chính lúc đó, chúng tôi đón nhận một bức thư của Bác Hồ gửi riêng cho cán bộ và nhân dân Hưng Yên, thông cảm với hoàn cảnh đầy gian khổ và hy sinh của đồng bào và khuyến khích động viên phong trào. Riêng tôi rất thấm thía lời khuyên trong thư của Bác: "Các chú phải khéo đánh giặc, nhưng cũng phải khéo tránh giặc". Bác dùng chứ "khéo" sao mà ý nghĩa sâu xa thế. Đúng vậy, trong hoàn cảnh ở sâu địch hậu như Hưng Yên, đánh giặc và tránh giặc đều phải khéo. Khéo để giữ gìn lực lượng, khéo để giết được nhiều giặc, còn ta thì thương vong ít. Chỉ một câu, một chữ thôi cũng đã là phương châm chỉ đạo cho tôi trong suốt thời kỳ đánh giặc sau này.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #5 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2021, 01:47:05 pm »

Anh Vũ Thơ thường trao đổi ý kiến với tôi. Anh tỏ ra bực bội khi được tin ở nơi này, nơi nọ có những việc làm thô bạo, manh động, thậm chí xúc phạm đến mạng sống đối với một số đảng viên cầu an hoặc với người dân. Anh thường nói tới kinh nghiệm thời còn hoạt động bí mật hồi tiền khởi nghĩa, kinh nghiệm kết hợp đấu tranh hợp pháp với đấu tranh bất hợp pháp. Anh nói đại ý: Ngày nay, giặc Pháp đang tìm mọi cách dụ dỗ dân, tách dân ra khỏi hàng ngũ kháng chiến và xây dựng hệ thống tháp canh, hương đồn cũng để giành dân với ta. Cán bộ hay bộ đội như cá, và dân như nước, tình cá nước đó phải luôn gắn bó với nhau. Thí dụ, nếu địch dụ dỗ, phát chẩn gạo hay đường, sữa, nếu dân đang nghèo túng, cán bộ cúng phải theo dân đi lĩnh chẩn, nếu địch phát đủ thì ta cũng vạch tính gian dối lừa phỉnh của địch, còn nếu địch phát thiếu, ta lại càng có điều kiện vạch mặt bọn địch giả đạo đức. Nếu ta ngăn cản dân thì dễ đẩy dân theo địch.


Tôi hiểu ý kiến của anh Vũ Thơ muốn quan tâm thực chất tới cơ sở, phải có cách giữ gìn cơ sở, biết cất giấu lực lượng, nhưng luôn phải hướng dẫn quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao; đấu tranh hợp pháp hay không hợp pháp đều không câu nệ hình thức, miễn là quần chúng luôn tin tưởng, ủng hộ ta, sẵn lòng căm thù địch.


Về phía tôi hoàn toàn nhất trí với cách đánh giá của anh Vũ Thơ về hệ thống tháp canh, hương đồn là một công cụ để thực hiện âm mưu bình định của địch đang thu đươc kết quả tạm thời. Tôi cũng đồng ý rằng, mọi hoạt động phải hướng tới phục vụ cho giữ gìn và phát triển cơ sở. Tuy nhiên, tôi là tỉnh ủy viên phụ trách về quân sự, phải chỉ đạo tác chiến như thế nào để có tác dụng giữ gìn và phát triển cơ sở lại là vấn đề cần suy nghĩ.


Đánh phục kích, quấy rối, gài mìn ư? Hình thức này may lắm là có kế hoạch diệt địch và để chúng không khủng bố cơ sở, chứ không có tác dụng phát triển cơ sở.


Chống càn quét ư? Càn và chống càn là quy luật tất yếu trong đấu tranh địch hậu. Nhưng trong điều kiện toàn tỉnh đã nằm sâu trong địch hậu, chống càn quét ở nơi nào, hình thức chống càn ra sao, nhất là bằng quân sự thì cần phải cân nhắc kỹ, nếu không rất dễ bị địch khủng bố, đốt phá, bắn giết nhân dân vô tội.


Tháng 10-1950, Hưng Yên có trận chống càn rất ngoan cường và anh dũng của dân quân, du kích và một số ít bộ đội phân tán ở thôn Tam Nông, đã đẩy lùi một tiểu đoàn địch; nhưng sau đó địch huy động lực lượng lớn hơn, có phi pháo hạng nặng yểm trợ, kết quả địch triệt hạ toàn bộ thôn Tam Nông không còn một cái nhà nào, dân làng phải sơ tán đi chỗ khác. Trận chống càn Tam Nông rất đáng biếu dương, ngày nay vẫn được ghi vào sử sách một cách xứng đáng, thế nhưng so với yêu cầu lúc đó là phải giữ gìn và phát triển cơ sở thì hình thức tác chiến này không phải ở đâu cũng là thượng sách. Cho nên, tốt hơn hết, phải tập trung nỗ lực quân sự vào nhiệm vụ cùng với lực lượng chính trị phá tan hệ thống tháp canh, hương đồn. Nhưng khả năng quân sự của ta rất hạn chế. Tôi còn nhớ, hồi tháng 7-1950, anh Đạt - huyện đội trưởng, anh Tuyên - huyện đội phó Phù Cừ đem bộ đội vây đánh bốt Viên Quang, chỉ có 4 khẩu súng mà ta vây đến sáng, nhưng vẫn phải rút quân đi do bọn hương dũng rút lên lô cốt cố thủ mà ta thì không có vũ khí công đồn.


Tôi đã phải mất nhiều ngày đêm vất vả moi óc tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi, tôi đã đi đến kết luận là với hoàn cảnh của Hưng Yên lức này, phải tập trung sức lực, dùng hành động quân sự triệt phá tháp canh, hương đồn; đã đánh là phải thắng; thắng rồi phải giữ được cơ sở cả về chính trị và quân sự. Muốn vậy, phải được trang bị vũ khí có tác dụng công phá lô cốt và phải có biện pháp chặn đánh tiêu diệt quân ứng viện từ các vị trí xung quanh hội quân tới giải vây cho bốt hương dũng. Vũ khí công đồn phải xin ở đâu, tư tưởng chiến thuật nào để đáp ứng yêu cầu đó? Trong óc tôi cứ loay hoay tìm cách giải quyết. May thay cuối tháng 10-1950, sau chiến thắng Biên giới, tôi được triệu tập đi dự Hội nghị tổng kết chiến dịch vĩ đại này, đã giúp trang bị cho tôi những chìa khóa để giải đáp ẩn số đó. Tới đầu tháng 12-1950, ở Việt Bắc về, tôi vừa kịp dự hội nghị Tỉnh ủy Hưng Yên lịch sử này, tại thôn Nội (không nhớ tên xã), huyên Hưng Nhân (Thái Bình). Sau đây tôi xin tóm tắt tinh thần nội dung nghị quyết này.


Trước hết, anh Vũ Thơ đưa ra thảo luận bản dự thảo tổng kết hệ thống tháp canh hương đồn của địch, nhằm thống nhất nhận thức, coi hệ thống tháp canh hương đồn là biện pháp chủ yếu đế thực hiện kế hoạch bình định của chúng, hỗ trợ cho chúng vơ vét kho người, kho của của ta, đồng thời kiểm điểm sự lãnh đạo của Tỉnh ủy còn nhiều khiếm khuyết như chưa đánh giá hết âm mưu của địch, coi thường, coi nhẹ nguyện vọng bức xúc của quần chúng lúc đó; còn nặng tư tường chủ quan nóng vội, tư tưởng tả khuynh, chưa coi trọng các hình thức đấu tranh linh hoạt khác nhau.


Tỉnh ủy sau cùng đã nhất trí với báo cáo của đồng chí Vũ Thơ và nhất trí với sự chuyển hướng công tác cho phong trào Hưng Yên lúc đó, lấy việc kiên trì giành dân với địch, nắm dân là chính, giữ gìn lực lượng, không để bộc lộ cơ sở, coi trọng các hình thức đấu tranh hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp, tùy lúc, tùy nơi mà vận dụng, không dàn đều cho toàn tỉnh làm tư tưởng chỉ đạo công tác cho toàn Đảng bộ. Biện pháp lãnh đạo được xác định như sau:

1. Tuyên truyền vận động tề, hương - tổng dũng để tạo điều kiện tổ chức quần chúng, phân loại tề, dõng, không phá tề, xáo trộn tề ở thôn xã mà ta nắm được, đưa quần chúng đấu tranh với địch với những hình thức từ thấp tới cao, từ hợp pháp tới bất hợp pháp.

2. Động viên những cán bộ, đảng viên trước đây đã sợ địch, nằm im nên trở lại công tác, kế cả công tác công khai hợp pháp nếu có yêu cầu.

3. Trong các đoàn thể quần chúng, đặc biệt coi trong đoàn thể phụ nữ, vì phụ nữ Việt Nam rất giàu lòng yêu nước, chị em lại có nhiều khả năng hoạt động công khai hơn nam giới.

Tổ chức nữ du kích ở thôn xã, nhưng không tổ chức nữ du kích tập trung (về sau phong trào nữ du kích này lấy tên là nữ du kích Hoàng Ngân).

4. Đẩy mạnh công tác địch vận, lấy vận động ngụy binh là chính; trong ngụy binh, lấy việc vận động hương, tổng dũng là chính.

5. Mọi hoạt động quân sự phải phục vụ cơ sở, không được phiêu lưu, tùy tiện, cần cân nhắc trước khi có hành động; tác chiến nào có lợi cho cơ sở thì tiến hành, có hại cho việc giữ gìn cơ sở thì hạn chế. Mọi hành động quân sự phải có kế hoạch chống khủng bố kèm theo, "đánh giặc và giữ dân" phải đi song song.

6. Chấn chỉnh lại tổ chức và phương thức hoạt động của bộ đội tỉnh. Tỉnh chỉ giữ lại 3 đại đội, trong đó đưa 2 đại đội xuống huyện phân tán hoạt động cơ sở và củng cố một đại đội được tổ chức và trang bị mạnh để tác chiến tập trung (C20 hoạt động vùng Ân Thi, C27 hoạt động vùng Kim Động và C22 (tên bí mật là 095, sau đổi tên là C92) hoạt động tập trung.

7. Kiện toàn lại bộ máy chỉ huy Tỉnh đội, trên tinh thần tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy với Tỉnh đội trong việc giữ gìn và phát triển cơ sở. Trước đây, chỉ có phân công một tỉnh ủy viên phụ trách quân sự, nay phân công 3 tỉnh ủy viên; trong đó, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp làm chính trị viên tỉnh đội. Cụ thể, đồng chí Vũ Thơ làm chính trị viên, tôi từ chính trị viên chuyển sang làm tỉnh đội trưởng và đồng chí Phúc (Kiên) làm chính trị viên phó; còn đồng chí Phan Mạnh Hà là tỉnh đội trưởng mới về công tác ở Hưng Yên hồi đầu năm 1950, chưa quen phong trào, lại ít kinh nghiệm về công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, cho nên Tỉnh ủy đề nghị với Liên khu 3, sau đó một tháng được Tư lệnh Liên khu đồng ý quyết định chuyển đồng chí Hà về Liên khu (chẳng may do việc liên lạc giấy tờ khó khăn, đồng chí Hà đã bàn giao chuẩn bị lên đường về Liên khu thì bị địch bắt trong trận càn "Con rắn" (Reptile, hôi tháng 4-1951).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #6 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2021, 01:48:12 pm »

Tiện đây, cũng xin kể một câu chuyện riêng đối với tôi rất thú vị. Sau khi họp Tỉnh ủy xong; buổi tối cùng ở Nội thôn, huyện Hưng Nhân, chúng tôi họp ngay BCH Tỉnh đội Hưng Yên. Anh Vũ Thơ nói: "Để giữ bí mật hoạt động của ta, cần phải đặt tên bí danh, vậy tôi đặt tên tôi là Chính". Anh Phúc Kiên nói: "Thế thì tôi tự đặt tên là Phương". Còn tôi, ngôi ngẫm nghĩ một phút rồi nói với các anh: "Anh Thơ tên là Chính, anh Kiên là Phương, vậy tôi xin tự đặt là Đông. Ba anh em chúng tôi là Chính - Phương - Đông. Tỉnh ủy Hưng Yên ta đang lúc đen tối nhất thì ở Chính Phương đồng sẽ ló rạng đông, mặt trời sẽ tỏa sáng từ Chính Phương Đông này". Tôi tên là Hồ Quý Thoa. Sau đó tôi đổi cả họ và tên là Võ An Đông, với ý nghĩa rằng tôi đã chuyển sang quân sự, họ nhà Võ hoạt động trên đất quê thứ hai của tôi là Hưng Yên, nên lấy đệm là An, còn quê gốc tôi ở Hà Đông nên lấy tên là Đông. Từ đó (tháng 12-1950) tôi giữ mãi họ tên ấy cho tới ngày nay. Âu cũng là một kỷ niệm, đánh dấu một giai đoạn lịch sử của tôi chuyển từ thời hoạt động âm thâm, đen tối sang thời kỳ tạo ra những trận chiến thắng tiếp theo.


Như vậy, Tỉnh ủy Hưng Yên đã ra được một nghị quyết toàn diện đánh giá khá chính xác tình hình địch, ta lúc đó, đề ra phương châm, phương thức hoạt, động, quyết định các vấn đề về tổ chức Đảng, dân vận, quân sự...


Nghị quyết đã nhanh chóng thâm nhập vào trong Đảng bộ và ngoài quần chúng, biến thành thực tế sinh động, đã chỉ đạo, động viên mọi người chiến đấu, công tác, đã đập tan hệ thống tháp canh hương đồn trong vòng không đầy một năm, tạo một bước ngoặt, thực sự cho phong trào kháng chiến của Hưng Yên, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa địch và ta, có lợi cho ta, từ chỗ địa phương không còn chỗ đứng chân, nay đã mở ra những khu du kích, căn cứ du kích rộng rãi ngày càng được củng cố, đã động viên có hiệu quả sức người, sức của, đóng góp cho công cuộc kháng chiến cả nước.


Đến nay, sau khi các sự kiện đã được lịch sử kiểm chứng, ý nghĩa của nghị quyết tháng 12-1950 của Tỉnh ủy Hưng Yên thật là lớn lao đối với phong trào Hưng Yên trong suốt mấy năm kháng chiến chống Pháp, đồng thời cũng góp phần vào kho tàng lịch sử lãnh đạo chiến tranh trong địch hậu.

1. Ý nghĩa lớn nhất của nghị quyết là Tỉnh ủy đã toàn tâm, toàn ý lấy dân làm đối tượng lãnh đạo, đối tượng phục vụ, đề ra chủ trương, biện pháp không những phù hợp với nguyện vọng mà còn phù hợp với khả năng có thể chấp nhận được của nhân dân, biết dẫn dắt quần chúng đấu tranh với địch từ thấp tới cao, vừa đánh được địch mà vẫn giữ kín lực lượng của mình, kiên quyết khắc phục hiện tượng thoát ly quần chúng, khắc phục bệnh chủ quan, nôn nóng, lấy ý chí không tưởng của mình đem áp đặt cho quần chúng, khắc phục thái độ coi thường, thô bạo đối xứ với quần chúng.

Đó là bài học muôn thuở "lấy dân làm gốc" của tổ tiến ta mà ngày nay Đảng ta vẫn noi theo. Bác Hồ cũng nhắc nhở:
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu vẫn xong.

Ngày đó phải trải qua bao nhiêu xương máu, nhọc nhằn, nhờ lòng yêu nước nồng nàn của quân dân ta, Tỉnh ủy mới rút được bài học tưởng rất xưa mà lại rất nay đó.

2. Ý nghĩa lớn thứ hai là Tỉnh ủy đã xuất phát từ thực tế sinh động của sự so sánh lực lượng đôi bên, từ thực lực của Đảng bộ, của dân lúc đó đang suy yếu, dám nhìn thẳng vào sự thật mà đề ra chủ trương, biện pháp, mức độ đấu tranh đúng mức, đảm bảo vẫn đánh địch thắng lợi mà vẫn giữ gìn được lực lượng.

Trong hoàn cảnh sau chiến thắng Biên giới, cả nước phấn khởi sôi sục đẩy mạnh kháng chiến, thế mà Tỉnh ủy Hưng Yên lại không để điều kiện khách quan cuốn hút, không lạc quan "tếu" mà lại đề ra khẩu hiệu đấu tranh tưởng như là hữu khuynh, thực tế lại đạt kết quả rất lớn.

Cũng cần lưu ý, là mãi nửa cuối năm 1951, Trung ương mới ra nghị quyết về phân vùng ở địch hậu, chia ra vùng tạm chiếm, vùng du kích và vùng căn cứ du kích. Nghị quyết Tỉnh ủy Hưng Yên tháng 12-1950 đã hoàn toàn nhất trí với Trung ương, đang biến nghị quyết vào cuộc sống. Đây là bài học thực tế trong đấu tranh, đúng với câu nói của Tôn Tử: "Biết địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng".

Chủ quan, duy ý chí, giáo điều, không tưởng, đều dẫn đến sai lầm đau đớn.

3. Ý nghĩa lớn thứ ba mang đầy tính nhân bản trong thái độ đối xử với tề, ngụy, tù binh, với cán bộ, đảng viên nhất thời cầu an nằm im. Đối với tề, thì vận động lôi kéo, hướng dẫn họ tìm cách bảo vệ dân, giữ gìn cơ sở mà không để địch nghi ngờ. Mọi hành động ẩu tả đều bị phê phán và nghiêm cấm. Đối với ngụy binh, nếu bắt được chúng, không những cần chính sách khoan hồng với chúng, còn do vì ở sâu địch hậu, ta không thể giải chúng ra vùng tự do được. Tỉnh ủy chủ trương giáo dục chúng 1 hoặc 2 ngày, thậm chí vài giờ rồi thả chúng, khuyên răn chúng, nếu buộc phải đi ngụy binh tiếp thì ít nhất, đừng bắn giết đồng bào. Kết quả diễn ra thật không ngờ. Sau này, mỗi trận đánh, bắt được tù binh đều giao cho ban địch vận Tỉnh đội do anh Nguyễn Hữu Vận - trưởng ban, anh Giáp - phó ban, giáo dục rồi thả ra. Tù binh được thả về làm cái loa tuyên truyền cho chúng ta trong hàng ngũ địch, đẩy tề dõng đua nhau liên lạc với ta và sẵn sàng đầu hàng khi chạm súng với ta. Cách xử sự này thật khôn ngoan, đã làm cho hàng ngũ địch bị xôn xao về tinh thần, suy yếu về sức chiến đấu và làm cho quân ta càng mạnh lên cả thế và lực. Rất nhiều trận xảy ra sau này, vừa nổ súng đã chiến thắng, bắt được tù binh, thậm chí đối với lính Âu Phi bị bắt, nếu không giải đi được, ta cũng làm thế. Tôi còn nhớ, ngày 25-9-1951, trận đánh càn "Trái chanh" bắt được 25 tên lính người Angiêri thuộc đơn vị 4/7 RTA (tiểu đoàn 4, trung đoàn bộ binh Angiêri số 7) đưa sang Thái Bình, lại gặp trận càn "Trái quýt", ta cũng giáo dục rồi thả. Anh em cán bộ địch vận kể lại có nhiều tên rỏ nước mắt cảm ơn và từ biệt ta.


Hơn thế nữa, đối với anh em cán bộ, đảng viên cầu an, nằm im, nghị quyết Tỉnh ủy cũng yêu cầu phân loại, tuyên truyền thuyết phục họ trở lại công tác. Có một số, lúc đầu vẫn còn sợ, không dám ra nhận công tác, nhưng khi thấy phong trào lên mạnh, anh em lại vui vẻ nhận công tác, do đó mà lực lượng lãnh đạo ngày càng mạnh, càng dồi dào, nhất là lúc ta vừa mở rộng cơ sở rất thiếu những hạt nhân lãnh đạo công tác.


Cuối cùng, trong nghệ thuật tổ chức quần chúng, chỉ xin nhắc lại nghị quyết tổ chức phong trào nữ du kích Hoàng Ngàn. Phong trào đã góp phần đánh thắng quân giặc, đã xung phong đảm nhận mọi công tác như liên lạc, quân báo, hậu cần, làm cho bộ đội gọn nhẹ, thêm tai, thêm mắt, tăng tính cơ động chiến đấu rất cao mà bộ đội hoạt động ở địch hậu rất cần thiết phải có, không thể tổ chức quá nặng nề, ì ạch để lộ mục tiêu cho phi pháo địch sát hại. Phong trào nữ du kích Hoàng Ngân được lịch sử ghi nhận, đã làm rạng rỡ cho lực lượng kháng chiến Hưng Yên nói chung, cho đoàn thể phụ nữ tỉnh nói riêng.


Sự đối xử và tổ chức quần chúng đúng đắn như trên cũng thể hiện sự đánh giá bản chất, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam và của bà con Hưng Yên, mà đại đa số là nông dân. Viết, tới đây, tôi lại nhớ lời Bác Hồ kính yêu :
   Dùng người như dùng gỗ
   Năm ngón tay, có ngón dài ngón ngắn
   Nhưng tất cả họp lại ở nơi bàn tay


Ôi sâu sắc và thấm thía thay! 50 năm đã trôi qua, trải qua bao biến đổi, vui buồn, sướng khổ, trong tôi vẫn không phai mờ hình ảnh của hội nghị và nội dung nghị quyết. Anh Vũ Thơ, anh Nguyễn Ngọc Vũ, anh Lê Đức Thịnh (lúc đó lấy bí danh là Huyên), anh Lê Quý Quỳnh vẫn như thuở nào đây cùng hội họp với tôi. Tôi cũng không thể quên anh Chất, anh Phán (tên thực là Anh), anh Phúc(Kiên) cùng dự hội nghị lịch sử đó, nhưng nay đã từ trần.


Xin hứa với các anh, tôi rất tự hào về nghị quyết này, vì nó đã tạo một bước ngoặt lịch sử cho Hưng Yên hồi đó còn rất gian khổ và nhiều hy sinh. Tôi rất cảm ơn anh Vũ Thơ là chiến sĩ chủ công xây dựng nghị quyết này. Xin hứa với Đảng, Bác Hồ và nhân dân, xin thưa với chiến hữu cũ của tôi ở Hưng Yên, tôi viết mấy dòng này cũng là mong ta ôn lại lịch sử, ôn lại truyền thống, rút ra những bài học lịch sử không phải chỉ cho quá khứ mà cho cả hiện tại và tương lai, nhàm xây dựng tỉnh Hưng Yên thân yêu của chúng ta ngày càng giàu mạnh, phấn chấn, vững bước tiến lên.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #7 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2021, 04:05:43 pm »

II
NĂM 1951, PHÁ TAN HỆ THỐNG THÁP CANH, HƯƠNG ĐỒN CỦA ĐỊCH, ĐƯA PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN CHUYỂN SANG THẾ TRẬN MỚI


Sau chiến thắng Biên giới, hình thái chiến tranh đã có lợi cho toàn cục nước ta, nhưng địch vẫn còn ngoan cố tìm cách giữ cho được vùng đồng bằng Bắc bộ để khai thác kho người, kho của, hòng kéo dài chiến tranh.


Hưng Yên cho tới đầu năm 1951 chỉ còn xã Phan Tây Hồ thuộc huyện Tiên Lữ duy nhất không có tề, nhưng tới ngày 5-3-1951 địch cắm vị trí Canh Hoạch ở ngay giữa xã, thì coi như hoàn toàn trở thành vùng tạm chiếm. Tỉnh ủy Hưng Yên ngay từ cuối năm 1950 đã nhận định thực chất cuộc đấu tranh ở vùng địch hậu là giành dân, không cho hoặc hạn chế địch khai thác kho người, kho của của tỉnh, cho nên đã tổng kết kế hoạch của địch lập hệ thống tháp canh, hương đồn là để thực hiện âm mưu bình định của chúng và ra nghị quyết chuyển mạnh hoạt động cho vững và phát triển cơ sở, hướng mọi hoạt động quân sự đều phải phục vụ cho cơ sở. Về tổ chức, thì tăng cường cấp ủy viên tham gia các ban chỉ huy Huyện đội, Tỉnh đội, trong đó bí thư cấp ủy trực tiếp làm chính trị viên. Về lực lượng, thì sắp xếp lại mỗi huyện có một trung đội tập trung, tỉnh còn 3 đại đội là C22 (trươcs gọi là C95), C20 và C27, trong đó C20 và C27 phân tán xuống huyện hoạt động cơ sở, chỉ giữ lại C95 (C22) tập trung thành đại đội mạnh. Sau chiến thắng Biên giới, bộ đội tỉnh và huyện đã được tăng cường về trang bị, mỗi đại đội tỉnh có 6 trung liên, 2 súng cối, 18 tiểu liên, súng trường đầy đủ và tốt, đạn dược dồi dào riêng C22 là đại đội mạnh được trang bị thêm 2 đại liên. Qua tổng kết chiến dịch Biên giới, lại được học thêm về tư tưởng quân sự mới, cho nên trình độ bộ đội đã được nâng lên rõ rệt. Tinh thân chiến đấu được giữ vững và tạo được khí thế tin tưởng.


Thế nhưng, về góc độ quân sự, vấn đề đặt ra là hoạt động tác chiến như thế nào để phục vụ và phát triển cơ sở. Hình thức tác chiến thế nào để vừa góp phần phá hệ thống tháp canh, hương đồn, lại vừa giữ vững được cơ sở, đưa dần quần chúng đứng lên đấu tranh với địch bằng nhiều hình thức từ thấp tới cao, làm thế nào để vừa có thể tiêu diệt được địch mà lại vẫn bảo toàn được lực lượng trong điều kiện địch hoàn toàn có ưu thế; ta lại hoạt động trong thế bị bao vây tứ phía và thiếu địa bàn đứng chân vững chắc. Đó là những vấn đề rất gay cấn đối với những người chỉ huy quân sự chúng tôi hồi đó. Các đơn vị bộ đội tỉnh và huyện không phải không có những trận thắng lớn như bằng nội ứng diệt đồn An Chiểu (Tiên Lữ), chống càn thắng lợi ở Tam Nông hoặc trận phục kích ở Tam Đa (Phù Cừ) diệt địch và thu trung liên; những trận đánh đó có góp phần cổ vũ kháng chiến, uy hiếp địch nhưng vẫn không làm thay đổi được hình thái của hai bên; trái lại, địch vẫn tiếp tục phát triển tháp canh, hương đồn, thu hẹp phạm vi hoạt động của ta. Đó là không kể những trận bộ đội vào làng phá tề, xé thẻ tề, bắt tê đi giáo dục hôm trước thì hôm sau lại mọc lên ban tề mới phản động hơn, phá cơ sở ta dữ dội hơn, hoặc là ban đêm bộ đội vào phá đồn hương dũng thì bọn chúng rút lên lô cốt cố thủ bắn trả lại, ta bao vây tới sáng không làm gì được, đành phải rút đi, có khi kèm theo cả thương vong. Rõ ràng, những trận đánh của ta dù có thắng lợi nhưng vẫn không mang lại hiệu quả mong muốn là dồn hẹp ảnh hưởng của địch, ta giành được nhiều dân, mở thêm được căn cứ để bộ đội đứng chân. Như vậy, tình thế và hoàn cảnh buộc ta phải từ bỏ những hoạt động quân sự mang tính hình thức, thoát ly khỏi quần chúng, mà phải tìm ra cách đánh có hiệu quả thiết, thực hơn.


Từ suy nghĩ đó, chúng tôi đã đi tới một số kết luận sau: Về địch: Hưng Yên có binh đoàn cơ động số 3 (GM3) đóng ở Bần Yên Nhân và Dị Sử (Mỹ Hào) trên đường số 5. Bọn này hành quân theo lệnh của Tư lệnh Bắc bộ của địch, không phụ trách chiếm đóng. Tại thị xã, có phân khu (Sous secteur), do một đại tá người Việt tên là Dương Quý Phan chỉ huy quân chiếm đóng; tại mỗi huyện trung bình có một đại đội (Quartier) chia thêm một số vị trí lẻ cỡ trung đội, cuối cùng là hệ thống hương-tổng dũng tạo thành một mạng lưới chiếm đóng hoàn chỉnh.


Nếu lựa chọn đối tượng tác chiến cho ta thì rõ ràng chọn hương-tổng dũng là phù hợp nhất, bởi vì đó là loại quân yếu nhất (trang bị yếu từ vài súng tới vài chục khẩu, phần lớn là súng trường, được, huấn luyện sơ sài, cấp dưỡng kém cỏi, tinh thần yếu kém...) nhưng lại là thứ quân nguy hiếm nhất vì nó trực tiếp khống chế dân vùng chiếm đóng, đẩy lùi cơ sở chính trị của ta. Cho nên, chọn hệ thống hương-tổng dũng làm đối tượng tác chiến không chỉ là phù hợp với trình độ tác chiến của bộ đội ta hồi đó, mà còn là yêu cầu bức xúc của công cuộc giữ vững và phát triển cơ sở, ra sức giành dân với địch, phù hợp với nghị quyết của Tỉnh ủy. Chúng tôi quyết, định trước hết sử dụng đại đội tập trung của tỉnh là C95 (C/22), huấn luyện tác chiến đánh đối tượng tác chiến này, sau đó dần dần tập trung hai đại đội đang hoạt động phân tán về tập trung phá cho kỳ được hệ thống hương đồn trong thời gian ngắn nhất.


Tuy nhiên, bọn hương-tổng dũng có hai cái mạnh tương đối mà cho tới nay, bộ đội ta vẫn chưa khắc phục được, đó là chúng dựa vào lô cốt mà bộ đội ta chỉ được trang bị súng bộ binh, không có vũ khí công phá lô cốt và chúng ỷ lại vào quân ứng cứu của các vị trí lớn hơn ở gần đó; vì cho tới lúc đó, quân ta chỉ làm chủ được ban đêm, không làm chủ được ban ngày, chưa có khả năng đối địch trực tiếp với quân ứng chiến. Vì thế, chúng tôi phải nghĩ cách vượt qua hai chướng ngại vật tương đối đó, tìm ra cách đánh phù hợp, nghĩa là phải tạo ra cho mình một loại vũ khí có tác dụng phá lô cốt và phải đủ sức trụ lại ban ngày, sẵn sàng tiêu diệt hoặc chí ít cũng chặn được địch, chia cắt quân ứng chiến với bốt hương dũng. Nếu làm được như vậy, cũng tức là làm mất khả năng tự vệ của hương-tổng dũng, tạo thế cho cơ sở và nhân dân nổi dậy kháng chiến và làm mất khả năng vũ trang trở lại cho các hương đồn, do đó mà mở rộng địa bàn hoạt động của ta, xây dựng các khu du kích đang rất cần cho quân, dân trong tỉnh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #8 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2021, 04:06:46 pm »

Về vũ khí phá lô cốt, chúng tôi được Cục quân giới (Tổng cục Cung cấp, nay gọi là Tổng cục Hậu cần) phân phối trang bị cho vài quả mìn lõm làm mẫu, sau đó anh em công binh xưởng tỉnh do đồng chí Nhuận làm tổ trưởng theo mẫu đó mà chế tạo nhiều quả khác. Mìn lõm ngày nay là loại vũ khí quá thông thường, nhưng vào hồi cuối năm 1950, do trình độ quân sự của cá nhân tôi còn quá ấu trĩ, non nớt nên coi nó như một chìa khóa thiêng để mở cái lô cốt (cả nghĩa đen và nghĩa bóng) mà tôi hằng mơ ước, nó sẽ là một phương tiện đắc lực, là một công cụ phá đồn mà tôi đã phải mất bao tháng dằn vặt suy tư, mong ngóng. Xin cho phép tôi mở ngoặc vấn đề kể một chuyện vui vui nhưng cũng rất nghiêm túc sau:

Hồi tháng 6-1950, địch đang mở rộng hệ thống hương đồn. Bộ đội Phù Cừ mang quân vào phá bốt Viên Quang. Bọn hương dũng chỉ có 4 khẩu súng trường, nhưng đã rút lên lô cốt cố thủ mặc cho bộ đội ta gọi hàng, kết quả tới sáng, bộ đội ta phái rút về. Nghe chuyện, tôi thấy cần phải có vũ khí công đồn, nhưng được nghe nói trên Việt Bắc, kỹ sư Trân Đại Nghĩa đã sáng chế ra loại súng gọi là SKZ (súng khóng giật) có thể phá được xe tăng, lô cốt địch. Tới khi tôi được triệu tập lên Việt Bắc dự hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới hồi đầu tháng 11-1950, tôi chủ tâm lên Bộ cố xin cho kỳ được loại SKZ này. Tại hội nghị, tôi tìm gặp anh Nguyễn Ngọc Xuân, là Cục phó Cục quân giới. Anh Nguyễn Ngọc Xuân quê ở xá Bạch Sam (Mỹ Hào). Gặp anh, tôi lấy tình nghĩa đồng hương báo cáo tình hình phong trào tỉnh Hưng Yên đang gặp khó khăn, đen tối do các đồn hương-tổng dũng gây ra là chủ yếu, nhưng để tiêu diệt được các đồn này, phải có vũ khí phá được lô cốt như súng SKZ mà lực lượng vũ trang Hưng Yên không có, cần xin được Bộ chi viện. Anh Xuân cho biết đúng là Cục quân giới đã sản xuất, được loại súng này, sau gọi là ĐKZ (đại bác không giật), nhưng mới sản xuất được vài khẩu, trước hết cần phải trang bị cho bộ đội chủ lực, khi nào sản xuất được nhiều, Bộ sẽ trang bị cho. Trước mắt, để phá lô cốt, có thể dùng loại mìn lõm. Mìn lõm là loại mìn cấu tạo theo dạng của đạn badôca, lõm một đầu, khi được kích thích nổ sẽ có tác dụng nổ xuyên sâu vào trong lô cốt, chỉ cần dùng nụ xòe, dây cháy chậm kích thích nổ mà thôi. Tuy trong lòng chưa được toại nguyện, nhưng có cái để phá được lô cốt còn hơn là không, tôi đành xin anh cho người đi lĩnh ngay vài quả loại 5kg mang về tỉnh sử dụng. Quả nhiên anh Xuân giữ lời hứa. Mấy tháng sau, anh gửi trang bị cho tỉnh một khẩu SKZ và tới đầu tháng 11-1951 đưa ra sử dụng phá vị trí tổng dũng của tên tổng Thân ở xã Tân Dân (thôn Dương Trạch, huyện Khoái Châu) rất có kết quả, buộc chúng phải đầu hàng.


Trở lại nói về mìn lõm. Từ hội nghị trở về, tôi cử người lên kho lĩnh ngay 2 quả, rồi cùng với tôi mang về tỉnh theo đường dây qua Sỏi Mẹt, Yên Dũng (Bắc Giang), Quế Võ, Nhất, Nhị Trai (huyện Lương Tài - Bắc Ninh), Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện (Hải Dương) rồi về tỉnh. Anh em công binh xưởng của tỉnh nghiên cứu và nắm được ngay nguyên lý chế tạo, hứa rằng có thể chế tạo được, trọng lượng bao nhiêu, 5kg, 10kg hoặc 15kg tùy theo yêu cầu trận đánh. Chúng tôi lại cho nổ thử một quả tại cánh đồng huyện Hưng Nhân, nghiệm thấy kết quả rất tốt nên rất yên tâm. Để giữ bí mật, chúng tôi đặt bí danh cho mìn lõm là VKM (vũ khí mới). Thế mà địch cũng nắm được bí danh này, thông tri cho các vị trí yêu cầu tìm xem loại vũ khí gì và nhắc phải đề phòng. Còn phía chúng tôi, tổ chức huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ đại đội C95 (C22) sử dụng thành thạo và anh em rất tin tưởng.


Như vậy là cái mạnh thứ nhất của bọn hương dũng có thể khắc phục được. Còn cái mạnh thứ hai, thực chất là làm sao chia cắt được bọn hương dũng với quân ứng chiến ở các nơi khác tới cứu viện, từ đó tạo điều kiện cho ta phát động quần chúng đứng lên kháng chiến. Đối với cá nhân tôi, được dự hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới chỉ có 10 ngày thôi, không những tôi được gặp đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân giúp cho tôi kiến thức về mìn lõm mà quan trong hơn, coi như tôi đã qua một lớp đại học về quân sự, tôi đã được trang bị tư tưởng chiến thuật mới, phương pháp tổ chức chỉ huy bộ đội chiến đấu giành thắng lợi. Thực vậy, tôi đã được bồi dưỡng một số khái niệm quân sự lúc đó còn mới mẻ đối với tôi, như mối quan hệ giữa diệt sinh lực địch và giữ đất, thì phải lấy diệt sinh lực địch làm chính, giữa đánh địch trong công sự và ngoài công sự thì phải lấy đánh địch ngoài công sự làm chính, giữa đánh tiêu diệt và đánh tiêu hao, giữa đánh xa và đánh gần, thực hành "tam mãnh" (mãnh đả, mãnh xung, mãnh truy) thế nào; về tổ chức chiến đấu, cái gì cần làm chậm, chắc, cái gì cần phải làm nhanh...


Cho nên, sau khi dự hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới và sau hội nghị Tỉnh ủy Hưng Yên kết thúc, chúng tôi đã dành 2 tháng (tháng 1 và tháng 2 - 1951) để huấn luyện, tập huấn cho cán bộ, chiến sĩ đại đội 95 tạo một luồng sinh khí mới về kỹ thuật và chiến thuật, tác phong chiến đấu. Những nguyên tắc, tư tưởng chiến thuật mới rất cần thiết phải học tập nghiên cứu. Nhưng đó mới chỉ là những khái niệm chung, mà còn cần phải phân tích kỹ tình hình thực tế của nhiệm vụ chiến đấu mới theo đúng tác phong "thật sự cầu thị" để xây dựng được quyết tâm chính xác. Nếp nghĩ trước đây thường chỉ nghĩ đánh đồn, ít nghĩ tới đánh viện, thậm chí còn ngại và e sợ nữa. Bây giờ, theo tư tưởng chiến thuật mới, đánh đồn phải đi đối với diệt viện, lấy diệt viện là chính, diệt điểm hoặc vây điểm để diệt viện, vì đánh địch ngoài công sự dễ cho ta nhiều. Tất nhiên phải làm sao khắc phục được chỗ mạnh của địch, nhất là về phi pháo và cơ giới của địch và phải biết chọn đốì tượng tác chiến thích hợp.


Về đối tượng tác chiến, nếu ta đánh đồn hương dũng, rất nhiều khả năng là các vị trí ở gân, trước hết phải lo đi ứng cứu hoặc là hội quân một vài cứ điểm xung quanh, ít thì một trung đội, nhiều thì đại đội, về vũ khí thì địch không hơn hoặc kém ta. Tất nhiên, ta vẫn phải có phương án đánh quân ứng chiến của phân khu (Sous secteur) hoặc quân GM cơ động chiến lược của địch, mặc dầu khả năng này có rất ít. Nếu ta chủ trương đánh nhanh, không đánh kéo dài, và biết chọn khu vực tác chiến ở xa đường giao thông, thì hạn chế được khả năng hoạt động của cơ giới địch. Trường hợp quân cơ động địch dù có tới thì với trình độ quân sự và trang bị mới được cải tiến của bộ đội, ta cũng có khả năng tiêu diệt một bộ phận địch nếu ta biết đánh cận chiến (đánh gần) và giữ bí mật nơi xuất, phát tấn công của ta. Trường hợp xấu, ta có thể dựa vào làng chiến đấu phòng ngự bảo toàn lực lượng, giữ trận địa ít nhất, được ban ngày để đợi tối, ta cơ động đi nơi khác. Địa hình làng Việt Nam ở châu thổ sông Hồng có giá trị đặc biệt, về quân sự, nó có thể là bàn đạp bí mật bất ngờ để ta xuất phát tấn công địch, đồng thời nó cũng là một trận địa phòng ngự vững chắc cho ta. Mỗi làng có thể chiến đấu phòng ngự vòng tròn với địch, đồng thời lại chiến đấu liên hoàn với các làng khác cách nhau từ 300m tới 800m. Địa thế làng mạc ở Việt Nam tuy ở đông bằng mà rất hiểm trở đối với kẻ địch xâm lược phi nghĩa, đúng như câu thơ của Nguyễn Trãi:
   Quan hà bách, nhị do thiên thiết
   Hào kiệt công danh hữu địa tầng
Dịch ý là :
   Trời đã tạo nên núi sông này, hai người chọi được một trăm
   Hào kiệt ở đất này lúc nào cũng có.


Còn về khắc phục phi pháo của địch, chỉ còn là vấn đề đào công sự và ngụy trang, bộ đội đã quen làm, có chăng chỉ là vấn đề kỷ luật. Bộ đội hành quân tới đâu, dù muộn màng cũng phải đào công sự và làm kế hoạch chiến đấu đề phòng địch tấn công bất ngờ. Tiện đây, cũng cần nói lên giá trị của lũy tre làng Việt Nam. Làng Việt Nam nào ở Bắc bộ cũng có lũy tre bao bọc xung quanh, địch ở ngoài làng rất khó quan sát bên trong làng đang làm gì; ngược lại, ta ở rìa làng, qua chỗ hở của cây tre có thể quan sát mọi hành động của bên ngoài; lại nữa, gốc tre rất chắc, công sự làm ở gốc tre, pháo và bom thường chỉ nổ khi chạm vào cây tre, trước khi chạm mặt đất, cho nên tác dụng báo vệ rất tốt cho sinh lực của ta. Cấu trúc bên trong làng lại có ao lớn, ao bé, có những nhà không có hàng có lối, mỗi nhà có hàng rào bằng gạch hoặc bằng đất nện, chí ít cũng bằng cây xanh như dâm bụt, chẳng hạn. Hồi đó, làng chỉ có các ngõ nhỏ đi lại, ít làng có đường để xe cơ giới qua lại, cho nên cơ giới địch ít có khả năng tiến sâu vào trong làng và bên phòng ngự lại có thể dùng các nhà có hàng rào bao quanh tổ chức các ổ đề kháng rất hiểm ở ngay giữa làng.


Hiện nay, ta đang quy hoạch lại các làng mạc, tiến lên đô thị hóa nông thôn, ước gì ta hãy giữ lại cái đặc sản sẵn có của làng mạc trên ý nghĩa kết hợp kinh tế với quốc phòng, chí ít giữ lại lũy tre xanh bao quanh làng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #9 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2021, 04:07:43 pm »

Từ sự đánh giá, nhận định trên, chúng tôi rút ra kết luận là bộ đội ta, với trình độ mới, có khả năng tiêu diệt quân địch ở các vị trí xung quanh hương đồn hội quân tới, có đủ khả năng chia cắt hoàn toàn bọn chúng với lực lượng hương đồn. Đối với quân cơ động GM, ta cũng có thể chia cắt chúng với hương đồn ít nhất được một ngày thì ta cũng có đủ thời gian công phá hoặc bao vây gọi hàng bọn hương dũng còn ngoan cố cố thủ trong lô cốt được. Xong, tổng quát lại, chúng tôi kết luận một cách tin tưởng là ta có thể diệt hương đồn (điểm) và diệt quân ứng cứu của địch (viện). Tuy vậy, trong tư tưởng của chúng tôi vẫn còn lấn cấn với việc đối phó với quân cơ động GM của Pháp được phi pháo, cơ giới hùng mạnh yểm trợ chúng. Phải đợi tới ngày 25-9-1951, trải qua trận chống càn "Trái chanh" ở Phan Tống Xá mới thực sự được thực tế chiến đấu thể nghiệm những suy đoán của mình. Ngày nay, sau vài chục năm nhìn lại, chúng tôi thấy rằng chính nhờ những suy tư, tính toán kỹ lưỡng và thận trọng đó, đã giúp cho quân dân Hưng Yên đột phá hệ thống tháp canh, hương đồn của địch bằng hành động quân sự một cách táo bạo, hợp lý và có hiệu quả lớn. Chỉ trong vòng 8 tháng, kể từ ngày 31-3-1951 là ngày đầu tiên mở cơ sở ở Thọ Lão (Phù Cừ) tới hết tháng 12-1951, tất cả các huyện phía nam đường số 5 đã phá tan về căn bản tổ chức tề dũng của ngụy quyền. Huyện nào cũng có khu du kích vững chắc, công tác giành dân với địch thu được thắng lợi lớn.


Dưới đây, xin lần lượt kể việc mở cơ sở từng khu vực theo thứ tự thời gian, phối hợp với chiến trường chính.

1. Trận đột phá đầu tiên diễn ra đêm 31-3-1951 và ngày 1-4-1951 ở Thọ Lão, Viên Quang, Hạ Cát, Cát Dương.

Xin được kể chi tiết trận này. Thực ra, trước đó chúng tôi xây dựng kế hoạch phá bốt hương dũng Khả Duy (Phù Cừ), nhằm nối khu du kích Phan Tây Hồ (Tiên Lữ) với xã Minh Hoàng, gồm các thôn: Hoàng Tranh, Quế Ải (Phù Cừ), nhưng tới ngày 5-3-1951, địch càn quét và cắm bốt Canh Hoạch ở ngay giữa xã Phan Tây Hồ, làm mất bàn đạp tấn công của ta, buộc chúng tôi phải chuyển hướng nhằm vào bốt hương dũng Thọ Lão, dựa vào khu du kích huyện Thanh Miện (Hải Dương) làm nơi xuất phát tấn công; khu này chỉ ngăn cách với Thọ Lão bởi một con sông nhỏ. Đúng lúc đó, để phối hợp với chiến trường chính mở trên đường số 18 (chiến dịch Trần Hưng Đạo) theo chỉ thị của khu Tả ngạn, tiểu đoàn 664 thuộc E42 phối hợp chiến đấu với Hưng Yên. Chỉ huy tiểu đoàn gồm các đồng chí Mạc Đình Vịnh - tiểu đoàn trưởng, Phan Huy Thứ - chính trị viên, Trương Thao - tiểu đoàn phó. Kế hoạch tác chiến hợp đồng giữa tiểu đoàn 664 với bộ đội tỉnh Hưng Yên và cơ quan chính quyền, quân sự huyện Phù Cừ như sau: Mục tiêu mở cơ sở cho 3 xã ở phía đông huyện Phù Cừ thông với khu du kích huyện Thanh Miện (Hải Dương), trọng tâm diệt cho kỳ được bốt hương dũng công giáo phản động ở Thọ Lão. Chiến thuật vận dụng diệt điểm và diệt viện thời gian hoạt động 2 đêm và một ngày, bắt đầu từ đêm 31-5-1951 phân công cụ thể:


Đại đội 92 (đại đội Thanh Bình của tỉnh) được phân công tiêu diệt bốt Thọ Lão bằng sức mạnh lấy mìn lõm làm vũ khí công phá lô cốt, có một bộ phận chặn viện từ vị trí Nhật Lệ ở phía nam lên, bộ phận này bố trí ở thôn Ngũ Lão. Chỉ huy đại đội 92 gom các đồng chí Trần Trí Dũng - đại đội trưởng, Minh Chiếu - chính trị viên, Mai Dương - đại đội phó (đã từ trần năm 1085 ở Hải Phòng).


Tiểu đoàn 664 bố trí khu vực thôn Vũ Xã ở phía đông nam vị trí Cao Xá, có nhiệm vụ tiêu diệt địch từ Cao Xá hoặc Đình Cao cách đó khoảng 3km lên ứng cứu cho bọn địch ở Thọ Lão.


Bộ đội tập trung huyện Phù Cừ có một bộ phận hỏa lực của D664 hỗ trợ bao vây tiêu diệt bốt hương dũng Viên Quang. Sau 1 ngày chiến đấu, cụ thể là đêm ngày 1-4-1051, thực hiện kế hoạch khuếch trương chiến thắng (sau này có tên gọi kế hoạch dung dọa) tiến vào 2 thôn Hạ Cát và Cát Dương võ trang thuyết phục bọn hương dũng nộp súng và vận động nhân dân đứng dậy ủng hộ kháng chiến. Dân quân du kích ở thôn nào có bộ đội tới sẵn sàng hỗ trợ bộ đội phối hợp chiến đấu trong việc đào công sự, giữ bí mật; huy động nữ du kích Hoàng Ngân tổ chức tiếp tế, cứu thương bộ đội, đặc biệt lựa chọn một số chị em tốt, có điều kiện hoạt động công khai, giả làm 2 người đi chợ nắm tình hình địch ngay từ vị trí của chúng, làm nhiệm vụ quân báo cho bộ đội. Chỉ huy huyện đội Phù Cừ là các đòng chí Đạt - huyện đội trưởng, Bổn - chính trị viên, Tuyên - huyện đội phó. Đại diện Đảng và chính quyền huyện là đồng chí Biểu - thường vụ Huyện ủy và chủ tịch huyện Phù Cừ.


Tỉnh đội Hưng Yên có tôi - Võ An Đông và đồng chí Phan Mạnh Hà đi cùng, trực tiếp đi sát xây dựng kế hoạch tác chiến và chỉ huy C92 đánh Thọ Lão và cùng với lãnh đạo huyện Phù Cừ đặt kế hoạch huy động lực lượng địa phương phối hợp phục vụ chiến đấu trong và sau trận đánh. (Đồng chí Phan Mạnh Hà mới có quyết định chuyển về khu công tác, trong khi chờ giao thông đưa về khu công tác cũng vẫn theo sát bộ đội, đồng chí đã bị địch bắt trong trận càn "Con rắn" (Reptile) ở Bình Giang ngày 20-4-1951 thật đáng tiếc).


Trong ý định của kế hoạch còn có điểm hoàn toàn khác trước, là thái độ đối với tề và đối với tù binh bắt được. Theo tinh thần nghị quyết Tỉnh ủy hồi cuối năm 1950, cần phải tận dụng thế hợp pháp, công khai, giữ kín lực lượng bảo vệ dân ở mức tối đa, đưa quần chúng dân từng bước đấu tranh với địch, từ thấp tới cao, từ công khai tới bán công khai, bất hợp pháp, cho nên sau khi phá xong bốt hương dũng, ta vẫn chủ trương, vẫn giữ nguyên ban tề hoạt động, nhưng phải theo sự hướng dẫn của ta, lúc đầu vẫn nộp cho địch đủ phu sai tạp dịch, sau bớt dần, đi tới xóa bỏ hẳn. Ta lại mớm cho tề vừa hù dọa địch vừa khuếch trương sức mạnh của ta, làm cho địch càng khiếp sợ ta. Trong khi đó, ta tranh thủ tuyên truyền tập hợp tổ chức củng cố chi bộ, các đoàn thể, trang bị huấn luyện cho dân quân, du kích; bộ đội về làng thì đào công sự và sẵn sàng đánh địch, đồng thời có kế hoạch cho dân cất giữ thóc lúa, phòng tránh phi pháo, khi bộ đội rút đi thì dùng rơm lấp công sự và phủ trên lớp đất mỏng, đồng thời chuẩn bị cho tề và dân cách đấu tranh công khai với địch, hạn chế sự khủng bố hung bạo của chúng, cứ thế, cho tới khi ta mạnh và bọn địch ở các vị trí xung quanh không dám bén mảng nữa thì tự nhiên tề phải tự giải tán, không cần dùng các hình thức gì khác. Ví như thôn Thọ Lão, sau khi được giải phóng, tề vẫn còn, dân vẫn dùng thế tề đi lại công khai vào vùng địch hậu, dân vẫn yên ổn làm ăn và bọn địch xung quanh không dám bén mảng tớ ; cho nên tề tự nó không còn tác dụng, hương đồn cũng không lập lại được. Khu du kích của ta ngày càng được củng cố vững chắc, tình đoàn kết quân dân ngày càng gắn bó.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM