Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 09:03:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định  (Đọc 8592 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #100 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2020, 05:31:41 pm »

BÀI HỌC VỀ CÔNG TÁC BẢO ĐẢM HẬU CẦN
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng LÊ HỒNG DŨNG
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần


Đến giữa năm 1967, sau những thất bại nặng nề, Mỹ rơi vào thế lúng túng, bị động cả về chiến lược và chiến dịch; chiến lược "chiến tranh cục bộ" đứng trước nguy cơ bị phá sản. Nhằm cứu vãn tình thế, chính quyền Mỹ tăng cường lực lượng, đưa tổng số quân Mỹ ở chiến trường miền Nam lên khoảng 535.000 người, ráo riết chuẩn bị đợt phản công thứ ba vào mùa khô 1967-1968. Trước tình hình đó, tháng 10-1967, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã họp đánh giá tình hình sau thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô (1966-1967), xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968. Hội nghị dự kiến có thể giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn, chuyển hướng tiến công chiến lược từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não hiểm yếu nhất của địch là các thành phố, căn cứ trung tâm; quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên chiến trường miền Nam vào Đông - Xuân 1967-1968, trọng điểm là Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn, nhằm thúc đẩy và chớp lấy thời cơ chiến lược giành thắng lợi có tính quyết định.

Thực hiện chủ trương trên, cùng với giữ bí mật nghiêm ngặt ý đồ chiến lược, kế hoạch tác chiến, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tập trung chỉ đạo nâng cao khả năng tác chiến của bộ đội, chuẩn bị hậu cần ở các cấp và các chiến trường.

Nhằm chuẩn bị cho chiến trường miền Nam tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, nhất là đúng dịp Tết Xuân Mậu Thân, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo tập trung nguồn lực tạo chân hàng cho Đoàn 559 ở Nam Khu 4, đến tháng 10-1967, lượng vật chất dự trữ ở các kho phía tây Đường 12 lên tới 10.000 tấn và Đường 20 khoảng 4.000 tấn. Từ đó Đoàn 559 chuyển vào các chiến trường. Đầu tháng 1-1968, Đảng ủy Tổng cục Hậu cần quyết định tập trung mọi lực lượng, mọi khả năng bảo đảm đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu cho Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam.

Với hậu cần Miền, "Các đoàn hậu cần Miền được bố trí thành hai tuyến: Tuyến trước trực tiếp bảo đảm chiến đấu gồm 5 đoàn hậu cần, bố trí xung quanh Sài Gòn là các đoàn 81, 82, 83, 84 đứng chân trên các hướng tây bắc, bắc, đông bắc và tây nam; Đoàn hậu cần 100 (thành lập tháng 3-1968) triển khai ở phía tây Sài Gòn. Tuyến sau gồm 4 đoàn: Đoàn 17 khai thác ở Campuchia, Đoàn 86 nối với Tuyến 559 ở Sê rê pốc và 2 đoàn 50, 70 triển khai ở phía tây và phía đông Đường 13 để tiếp nhận hàng của Đoàn 17 và Đoàn 86 chuyển về giao cho các đoàn đứng chân ở phía trước.

Đến trước ngày nổ súng tiến công đồng loạt vào các đô thị, hậu cần Miền và các đoàn hậu cần đã tổ chức các phân đội hậu cần cơ động bảo đảm cho tác chiến, như các đội điều trị, các đội phẫu thuật, các tiểu đoàn và đại đội vận tải sẵn sàng cơ động theo đội hình chiến đấu của các đơn vị. Về vật chất, hậu cần Miền đã chuẩn bị được 5.554 tấn lương thực, thực phẩm, 5.079 tấn vũ khí đạn. Hậu cần các phân khu, các khu, tỉnh đều lập kế hoạch, sẵn sàng huy động nhanh chóng lương thực, thực phẩm, thuốc men tại chỗ phục vụ bộ đội trong tác chiến. Ở Quân khu 9, hậu cần cần mở thêm các khu vực hậu cần ở Nước Trong, Ba Hồ, Châu Thành, Trà Ôn tạo thành thế liên hoàn với các khu căn cứ đã có từ trước là U Minh, Năm Căn và vây quanh thành phố Cần Thơ. Hậu cần Quân khu 8 củng cố thêm căn cứ ở vùng Chợ Gạo áp sát tỉnh Mỹ Tho".

Như vậy, hậu cần chiến lược đã kết hợp với hậu cần Miền và các quân khu, phân khu tạo thành thế trận hậu cần tại chỗ gắn liền với các địa bàn tác chiến, áp sát các mục tiêu, sẵn sàng bảo đảm cho chiến đấu trên nhiều hướng, nhiều mũi tiến công... Tính chung trong ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, hậu cần Miền đã chuẩn bị 46.282 tấn hàng (có 10.872 tấn vũ khí đạn), cung cấp cho các đơn vị 35.648 tấn (có 5.983 tấn vũ khí đạn). Các cơ sở quân dân y đã thu dung điều trị 94.636 lượt thương binh, bệnh binh (trong đó có 22.535 thương binh điều trị khỏi trả về đơn vị đạt tỷ lệ 72%). Riêng trong Tổng tiến công đợt 1 vào mục tiêu trọng yếu Sài Gòn (Xuân Mậu Thân), đã cấp phát cho các đơn vị 132 tấn đạn, thu dung và chuyển về tuyến sau điều trị 3.698 thương binh, điều trị khỏi, ra viện 944 người (đạt tỷ lệ 25,5%).

Cùng với đó, Hội đồng cung cấp các địa phương "đã huy động 600.000 dân công, thanh niên xung phong, trong đó nhân dân Long An đóng góp nhiều nhất. Hậu cần địa phương tỉnh, hậu cần nhân dân đã đóng góp to lớn cùng hậu cần quân đội, bảo đảm cho hướng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định và trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong năm 1968".

Thành công của công tác hậu cần trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc.

Thứ nhất, quán triệt đường lối, quan điểm, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, xác định rõ nhiệm vụ và chủ động chuẩn bị hậu cần sớm, chu đáo trên cơ sở kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, hậu cần tại chỗ, trong đó hậu cần Miền là nòng cốt.

Đây là nguyên nhân hàng đầu của mọi thành công về công tác hậu cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng. Do quán triệt sâu sắc đường lối, nhiệm vụ cách mạng và các quan điểm của Đảng, lấy đó làm cơ sở chủ yếu nhất để xác định nhiệm vụ, yêu cầu bảo đảm cho các lực lượng đồng loạt nổi dậy tổng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam, công tác hậu cần chủ động chuẩn bị sớm, chu đáo trên cơ sở kết hợp chặt chẽ các lực lượng hậu cần.

Thực hiện hậu cần đi trước, "... ngay từ năm 1965, hậu cần đã chuẩn bị các cơ sở hậu cần trong nội đô theo Kế hoạch X (địa bàn Sài Gòn - Gia Định), sẵn sàng tiến công 25 mục tiêu trong nội đô Sài Gòn. Đây là cơ sở chuẩn bị rất sớm cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968".

Đầu năm 1968, Cục Hậu cần Miền đã chuyển tuyến vận tải 50 thành Đoàn hậu cần khu vực 50. Hậu cần địa phương tỉnh và hậu cần nhân dân các cấp được củng cố phát triển rộng khắp kết hợp với hậu cần chủ lực đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn về hậu cần của lực lượng vũ trang trong xây dựng, tác chiến. Nhờ có sự "Kết hợp chặt chẽ giữa hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân trên địa bàn, ta có điều kiện đẩy mạnh xây dựng và thực hiện hậu cần tại chỗ phù hợp với tình hình kinh tế mỗi địa phương; với yêu cầu nhiệm vụ quân sự, cách đánh của các thứ quân và quyết tâm tác chiến trên từng hướng chiến trường. Đồng thời, việc thực hiện kết hợp hậu cần tại chỗ của từng địa phương, chiến trường với hậu cần Trung ương đã tạo ra khả năng bảo đảm tại chỗ ngày càng cao, bảo đảm cho bộ đội đứng chân, xây dựng, đánh địch trên mọi địa bàn, giành thắng lợi ngày càng lớn".

Hậu cần nhân dân có chức năng rất quan trọng và thường xuyên là tổ chức bảo đảm cho lực lượng vũ trang quần chúng xây dựng, đánh địch ở cơ sở; trực tiếp bảo đảm cho tác chiến rộng khắp ở địa phương. Hậu cần nhân dân tích cực tham gia bảo đảm cho mọi hình thức đấu tranh của nhân dân các địa phương, cho thực hiện phương châm hai chân, ba mũi, cho đấu tranh chính trị, binh vận... Đồng thời, còn bổ sung, phối hợp, chi viện tích cực cho hậu cần quân đội hoạt động trên địa bàn. "Trên nhiều địa phương ở miền Nam, đã sớm hình thành các tổ chức hậu cần nhân dân cơ sở do quần chúng trung kiên tham gia hoạt động, được cấp ủy Đảng địa phương lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ. Từ tháng 3-1965, sau chiến dịch Bình Giã, chủ trương xây dựng hội đồng cung cấp các cấp được thực hiện, đã thống nhất chỉ đạo hoạt động của hậu cần nhân dân từ Miền đến cơ sở xã, ấp".

Quán triệt tư tưởng hậu cần chủ động đi trước trong chuẩn bị cho thời cơ lớn trên cơ sở định hướng của Trung ương, Ngành Hậu cần đã từng bước tạo lập được thế trận và tiềm lực vững chắc trên các chiến trường, nhất là chiến trường Nam Bộ-nơi xa hậu phương nhất; kết hợp chặt chẽ giữa hậu cần chiến lược với hậu cần Miền, hậu cần các phân khu, quân khu thuộc Miền, hậu cần các tỉnh và hậu cần nhân dân rộng khắp... với hậu cần Miền là nòng cốt; chuẩn bị chu đáo mọi mặt và đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu về hậu cần, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đặc biệt là ở Sài Gòn - Gia Định, nơi có cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Khả năng bảo đảm liên tục, bền bỉ cho nhiều hướng mũi tiến công, trên nhiều tỉnh thành phố Nam Bộ, duy trì sức chiến đấu mạnh mẽ đã làm kẻ thù bàng hoàng, sửng sốt và choáng váng. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, đặc biệt là Xuân Mậu Thân tạo bước ngoặt của chiến tranh cách mạng miền Nam.

Thứ hai, tổ chức bố trí hậu cần phù hợp với loại hình tác chiến và cách đánh của từng lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho tác chiến thắng lợi trong mọi tình huống.

Quá trình tác chiến sử dụng nhiều lực lượng với quy mô khác nhau, cách đánh cũng rất phong phú, linh hoạt... Vì vậy, tổ chức và bảo đảm hậu cần cũng rất linh hoạt, phù hợp với thực tiễn tác chiến của từng lực lượng, trên từng hướng, khu vực. Nhận thức rõ điều đó, Hậu cần Miền đã sớm chuẩn bị lực lượng, tạo thế bố trí hợp lý, kết hợp chặt chẽ các đoàn hậu cần của Miền với hậu cần 6 phân khu, hậu cần các quân khu và tỉnh đội, hậu cần nhân dân, hình thành thế trận hậu cần tại chỗ liên hoàn cơ động, vững chắc... có tiềm lực mạnh.

Đến đầu năm 1968, quân số hậu cần Miền phát triển lên tới 21.000 người, xây dựng được 24 bệnh viện, 20 đội điều trị cơ động trực tiếp phục vụ chiến đấu; 8 đại đội vận tải cơ giới với 139 xe ô tô, 10 tiểu đoàn và 10 đại đội thồ tải với 4.412 xe đạp, 8 đại đội công binh làm đường. Trên chiến trường miền Đông đã có 500 km đường vận tải cơ giới và trên 280 km đường thồ xe đạp, 350 km luồng lạch vận tải đường sông... Các đoàn hậu cần Miền được bố trí thành 2 tuyến, tuyến trước và tuyến sau hỗ trợ nhau trong bảo đảm. Hậu cần các quân khu thuộc Miền "cũng chuyển hướng tổ chức bố trí, đưa lực lượng ra phía trước, bao quanh áp sát Sài Gòn. Hậu cần Quân khu 9 xây dựng căn cứ tiền phương ở các khu vực Nước Trong, Ba Hồ, Châu Thành (Cần Thơ), Trà Ôn... tạo thành thế liên hoàn với các vùng căn cứ cơ bản ở U Minh, Năm Căn và vây quanh thành phố Cần Thơ. Hậu cần Quân khu 8 phát triển thêm căn cứ hợp nhất với Sài Gòn - Gia Định và hậu cần các tỉnh Bà Rịa, Long An xây dựng thành 6 phân khu hậu cần, bảo đảm cho tác chiến ở vùng ven và nội đô Sài Gòn".

Riêng việc bảo đảm cho lực lượng biệt động tác chiến ở nội đô Sài Gòn là bảo đảm đặc biệt, có các cơ sở ở nội đô bố trí gần mục tiêu chiến đấu, có hầm bí mật kiên cố chứa vũ khí, có phương tiện cơ động phù hợp (ô tô, xe máy). Hậu cần các phân khu là tuyến sau trực tiếp chi viện bảo đảm.

Với thế trận và tiềm lực được chuẩn bị trước chu đáo, lấy bảo đảm tại chỗ theo khu vực, hướng tiến công là chính nên đã đáp ứng được cách đánh, quy mô sử dụng lực lượng phong phú đa dạng, tính cơ động của từng đơn vị.

Thứ ba, xây dựng và phát huy vai trò quan trọng của hậu cần quân sự địa phương, kết hợp với hậu cần nhân dân trong tạo nguồn bảo đảm.

Kế thừa truyền thống hậu cần địa phương và hậu cần nhân dân trong kháng chiến chống Pháp, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã có bước chuẩn bị và phát triển mới, mang lại hiệu quả thiết thực. Hậu cần các tỉnh có bước phát triển vững chắc, vừa tạo nguồn bảo đảm cho lực lượng vũ trang địa phương, vừa tạo nguồn bảo đảm cho bộ đội chủ lực Miền tham gia chiến đấu.

Để tạo nguồn vật chất hậu cần, kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động của lực lượng vũ trang, các đoàn hậu cần khu vực cũng như các quân khu, tỉnh, một mặt dựa vào nhân dân địa phương, mặt khác rất chú trọng hoạt động thu mua, tiếp nhận từ trong các đô thị, các vùng địch tạm chiếm bằng nhiều biện pháp rất linh hoạt, táo bạo, đưa ra các khu vực để dự trữ sẵn tại chỗ, giảm bớt được công sức vận chuyển từ xa tới. Từ thực tế bảo đảm hậu cần ở chiến trường, Ngành Hậu cần đã kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm đề ra phương châm trong chỉ đạo việc thu mua "3 có": có dân, có đất đứng chân, có vật chất; "4 được": mua được, vận chuyển được, bảo quản, bảo vệ được và sử dụng được.

Hoạt động thu mua của các đơn vị hậu cần khu vực, của các quân khu, tỉnh và của hậu cần nhân dân các địa phương đã biến hậu phương của địch thành hậu phương của ta. Không những khai thác ở miền Nam mà các đoàn hậu cần, các quân khu, tỉnh lân cận còn đẩy mạnh khai thác, thu mua ở Campuchia, coi đây như hậu phương chiến lược kế cận, có vị trí rất quan trọng đối với miền Đông Nam Bộ.

Trong 2 năm 1967-1968, hậu cần Tây Ninh thu mua được 460 tấn lương thực (trong đó mua cho hậu cần Miền 200 tấn), 106 tấn thực phẩm, 100 tấn muối, 15.000 mét nilon, 26.000 mét vải (may 2.000 bộ quân phục, 2.000 chiếc tăng); 1,6 triệu viên thuốc các loại, 700.000 lọ kháng sinh, 1,92 triệu ống thuốc, 100.000 cuộn băng cá nhân và 1 bộ trung phẫu cứu chữa thương binh.

Từ năm 1965-1968, hậu cần Bình Dương thu mua bảo đảm cho các đơn vị tác chiến thọc sâu, lực lượng bám trụ chiến đấu vùng tranh chấp và phía sau được 3.729 tấn vật chất hậu cần kỹ thuật. Các huyện tổ chức thu mua, dự trữ vật chất hậu cần tại chỗ trong dân thông qua các đoàn thể quần chúng ở địa phương và các gia đình có cảm tình với cách mạng.

Tại nội đô Sài Gòn, nhân dân hết lòng ủng hộ cách mạng. Tiêu biểu là nhà tư sản dân tộc Bùi Duy Cận, quê ở huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Năm 1952, ông vào Sài Gòn xây dựng nên Hãng sơn Bạch Tuyết (trong phim "Biệt động Sài Gòn" gọi là hãng Sơn Đông Á). Từ năm 1962 đến năm 1972, Biệt động Thành gặp khó khăn đến vận động ông góp phần nuôi quân đánh Mỹ, hàng tháng ông tự nguyện đóng góp 150.000 đồng (tương đương 40 lượng vàng).

Nhờ vậy, năm 1968 hậu cần chiến trường đã thu mua được khối lượng lớn vật chất (45.514 tấn, trong đó có 44.893 tấn lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng; 1.621 tấn xăng dầu và 192 xe ô tô, 215 ca nô, 3.275 xe đạp thồ ... Hậu cần địa phương và hậu cần nhân dân đã kết hợp cùng hậu cần Miền chuẩn bị chu đáo trên các hướng, khu vực tác chiến, bảo đảm kịp thời cho các lực lượng tiến công, nhất là trong đợt 1 Xuân Mậu Thân.

Thứ tư, coi trọng công tác vận tải và bảo đảm hậu cần trong suốt quá trình chuẩn bị, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Công tác vận tải quân sự là công tác trung tâm, cơ bản, thường xuyên, xuyên suốt của công tác hậu cần quân đội trong chiến tranh, đã trở thành công tác quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ngay từ đầu cuộc chiến tranh. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (số 134/NQTW, ngày 27-12-1965) đã chỉ rõ: "Để tăng cường chi viện miền Nam, vấn đề mấu chốt là phải bảo đảm thông suốt giao thông, vận tải trên những đường chiến lược quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân ta phải khắc phục mọi khó khăn để giữ vững con đường chi viện cho miền Nam".

Từ năm 1965, Bộ Chính trị, Quân Ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã sớm chủ trương đẩy mạnh xây dựng Tuyến 559 phát triển lên vận tải cơ giới, chi viện ngày càng lớn cho các chiến trường với tư tưởng "Mở đường mà tiến, đánh địch mà đi". Vì vậy, cuối năm 1967, Tuyến 559 đã vươn tới Nam Lào nối thông với Tuyến C4 ở Đông Bắc Campuchia và chi viện cho Nam Bộ. Chuẩn bị cho mùa vận chuyển 1967-1968, Quân ủy Trung ương quyết định "đẩy mạnh hơn nữa vận tải cơ giới trên tuyến chi viện chiến lược, kéo dài thêm cung vận tải ô tô vào đến Chà Vằn để chuyển hàng cho Khu 5; tăng cường lực lượng cao xạ, công binh, thông tin; bổ sung thêm xe vận tải cho Đoàn 559 để vận chuyển với quy mô lớn hơn. Khối lượng vận chuyển mùa khô 1967-1968 giao cho Đoàn 559 là 60.650 tấn (trong đó giao cho chiến trường miền Nam 20.700 tấn, chiến trường Lào 6.300 tấn, bảo đảm cho bộ đội hành quân 5.650 tấn, cho nội bộ đoàn 28.000 tấn)".

Giữ vững mạch máu giao thông, chi viện toàn diện, liên tục, mạnh mẽ cho các chiến trường là quyết tâm to lớn của hậu phương miền Bắc. Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông, vận tải Khu 4, cử đồng chí Phan Trọng Tuệ - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải làm Tư lệnh và Thiếu tướng Lê Quang Hòa - Chính ủy Quân khu 4 làm Chính ủy; có nhiệm vụ "chỉ đạo và tổ chức hiệp đồng các lực lượng giao thông, vận tải có mặt trên địa bàn Khu 4, cùng tiền phương Tổng cục Hậu cần, tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh động viên sức người, sức của cho chống chiến tranh phá hoại, bảo đảm giao thông, vận tải thông suốt. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần được cử làm cố vấn...".

Mặt khác, Trung ương cũng chỉ đạo mở tuyến đường biển chi viện cho miền Nam. Riêng với Đông Nam Bộ, ta mở bến Lộc An, Rừng Sác đón tàu biển chở vũ khí từ miền Bắc chuyển vào và hàng từ Bến Tre chuyển lên.

Sau khi tuyến đường biển bị lộ (2-1965), Quân ủy Trung ương chỉ đạo Ngành Hậu cần phải chủ động tạo nguồn hàng và tìm thêm những hướng vận chuyển mới, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Với sự giúp đỡ của Campuchia, ta đã tổ chức thu mua tại chỗ và chuyển hàng quân sự quá cảnh qua cảng Sihanúcvin, chuyển về biên giới, giao cho các đoàn hậu cần Miền chuyển về các chiến trường. Từ năm 1966-1969, ta đã "thực hiện được 10 chuyến tàu biển với 90.870 tấn hàng quân sự các loại qua cảng, chuyển về chiến trường ở Nam Bộ 60.380 tấn...".

 Nắm chắc, chỉ huy, điều hành chặt chẽ công tác vận tải, mặc dù phải triển khai lực lượng lớn trong làm đường, vận chuyển vật chất trên quy mô lớn, phạm vi rộng mà vẫn giữ được bí mật ý đồ tác chiến là yếu tố quan trọng để hậu cần Miền hoàn thành tốt nhiệm vụ chuẩn bị và bảo đảm cho tác chiến.

Năm mươi năm đã trôi qua, những bài học kinh nghiệm đó vẫn còn nguyên giá trị, cần nghiên cứu, kế thừa, phát triển trong điều kiện mới, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #101 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2020, 05:38:02 pm »

CÔNG TÁC HẬU CẦN TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 Ở MẶT TRẬN HUẾ



Đại tá, PGS.TS. DƯƠNG HỒNG ANH
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Tháng 10-1967, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam. Thực hiện quyết định trên, đêm 30 rạng sáng 31-1-1968, quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công kết hợp với nổi dậy ở 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn, tập trung đánh vào nội thành và các cơ quan đầu não, các căn cứ hậu cần, sân bay, bến cảng lớn, nhiều Sở chỉ huy cấp quân khu, quân đoàn, sư đoàn của địch. Ở nhiều vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, đập tan bộ máy chính quyền của địch. Cuộc tiến công và nổi dậy làm chủ thành phố Huế và cuộc tiến công vào nội đô Sài Gòn là những hoạt động quy mô rất lớn, được coi như những chiến dịch tiến công có tính chất chiến lược. Bài viết tập trung vào công tác hậu cần ở Mặt trận Huế - trọng điểm thứ hai của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Kế hoạch tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 xác định mặt trận Huế chia làm 2 cánh:

Cánh Bắc: gồm khu tả ngạn và huyện Hương Trà. Đây là hướng chính tiến công và nổi dậy. Lực lượng tham gia có eBB6 (+1d/eBB9), 1dĐC, 3 đại đội hỏa lực (cối 82, ĐKZ75 và súng máy phòng không (SMPK) 12,7 ly), 2 đội biệt động thành, các lực lượng bảo đảm và lực lượng vũ trang huyện Hương Trà. Nhiệm vụ của các lực lượng ở Cánh Bắc là cùng nhân dân tiến công và nổi dậy đánh chiếm các mục tiêu tiến tới chiếm toàn bộ khu Tả Ngạn, thiết lập chính quyền cách mạng, kiềm chế căn cứ Mỹ ở Đông Lâm (ngoại ô), đánh bại phản kích của địch.

Cánh Nam: gồm khu Hữu Ngạn và 2 huyện Hương Thủy, Phú Vang. Lực lượng tham gia gồm eBB9 (-1d), 2dBB độc lập/thành Huế, 2dĐC, 3 đại đội hỏa lực (cối 82, ĐKZ75, SMPK12,7 ly), lực lượng bảo đảm và lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy, Phú Vang có nhiệm vụ cùng nhân dân tiến công và nổi dậy chiếm lĩnh khu Hữu Ngạn làm tê liệt căn cứ Phú Bài, thiết lập chính quyền và đánh địch phản kích vào thành phố.

Ở hướng phối hợp Nam Quảng Trị, lực lượng ta có 4dBB, 1dĐC, 1cCo82 và ĐKB; ở Phú Lộc có 1dBB, 1cĐC, 1cCB (đánh giao thông), 1cCo82 và ĐKB.

Thực hiện kế hoạch đã định, từ ngày 7-1 đến ngày 27-1-1968, trên hướng phối hợp, các lực lượng tiến công địch tạo thế đạt kết quả tốt. Địch bị hút ra hai đầu Quảng Trị và Phú Lộc tạo điều kiện để các lực lượng áp sát Huế. Chiều 30-1, các lực lượng ở Cánh Bắc đã triển khai áp sát mục tiêu. Ở Cánh Nam, một số đơn vị bị địch ngăn chặn nên vào triển khai chậm.

Đúng 2 giờ 33 phút ngày 30-1, pháo binh Quân giải phóng đồng loạt bắn phá các mục tiêu địch, mở đầu cho tổng tiến công vào nội đô Huế. Ngay sau đó, ta đồng loạt đánh vào các mục tiêu trong thành phố. Tới sáng 1-2, phần lớn thành phố nằm trong tay Quân giải phóng (trừ khu Mang Cá và sân bay Tây Lộc...). Sáng 3-2, quần chúng nổi dậy mạnh mẽ truy diệt ác ôn, thiết lập chính quyền cách mạng. Tại các vùng ven, lực lượng vũ trang và quần chúng đánh chiếm các mục tiêu, bức rút đồn bốt, gọi hàng... mở rộng vùng giải phóng. Sau đó, địch phản kích quyết liệt, đánh bật ta ở một số điểm thuộc Cánh Bắc; ở Cánh Nam, lực lượng ta phải bật ra bám trụ ở tuyến ngoại thành. Lúc này, eBB8 được Bộ tăng cường gấp cho mặt trận Huế vào chiếm lĩnh khu vực Bắc và Tây Bắc Huế.

Từ ngày 7-2, địch huy động lực lượng lớn (cao điểm ngày 18-2, địch huy động tới 23 tiểu đoàn) có pháo binh, không quân, xe tăng chi viện ồ ạt phản kích. Ngày 8-2, Khu ủy họp xác định quyết tâm giữ vững khu vực đã chiếm được trong thành phố, ngăn chặn và đánh địch phản kích, phát động quần chúng nổi dậy mạnh hơn nữa. Từ 9-2, nhiều trận đánh quyết liệt diễn ra nhất là ở Cánh Bắc. Ta thương vong nhiều, đạn rất thiếu. Từ ngày 20 đến ngày 22-2, ta chỉ đủ sức kiềm chế địch từng bước. Ngày 22-2, Khu ủy và chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng tác chiến ra ngoài thành phố.

Đêm 23-2, eBB6, dBB819/e9 rút ra Kim Long, Xuân Hoà; eBB8 rút ra An Ninh Thượng, dBB815/e9 trả về Cánh Nam. Ngày 24-2, eBB6, eBB8 tiếp tục rút về vị trí quy định. Ở Cánh Nam, từ ngày 25-2, các đơn vị lần lượt rút ra ngoài. Đến ngày 29-2, các lực lượng rút hết khỏi thành phố. Sau khi rút khỏi thành phố, ta không thực hiện được ý định chiếm giữ vùng giáp ranh vì địch huy động lực lượng lớn, đánh phá ác liệt, chiến trường chưa được tổ chức chu đáo, lương thực cạn. Địch nhanh chóng chiếm lại vùng đồng bằng, truy kích ta lên vùng giáp ranh, rừng núi gây thương vong nhiều cho các đơn vị.

Kết quả, sau hơn 25 ngày đêm chiến đấu, chiếm giữ thành phố, mặt trận Huế cùng các lực lượng phối hợp loại khỏi vòng chiến đấu 25.700 tên địch, phá hủy, phá hỏng nhiều máy bay, xe tăng, tàu chiến và xe quân sự; thiết lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi. Ngày 5-5-1968 thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân khu Trị - Thiên mở đợt tiến công lần thứ hai vào Huế nhưng do tình hình và tương quan lực lượng đã thay đổi nên cuộc tiến công không thực hiện được như ý định. Nhiều đơn vị bị tổn thất, các cơ sở quần chúng ở nông thôn bị đánh phá, đường chi viện từ miền Bắc vào bị địch ngăn chặn nên lương thực, đạn dược cạn dần. Đến cuối tháng 5, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và cả du kích phải rút lên vùng núi để củng cố.

Về công tác hậu cần, từ tháng 10-1967, thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, chiến trường Trị - Thiên - Huế bắt tay vào chuẩn bị mọi mặt cho Tổng tiến công và nổi dậy tại mặt trận Huế. Đầu tháng 12-1967, Ban chỉ huy và lãnh đạo hậu phương trực thuộc Khu ủy được thành lập do đồng chí Phó Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu làm Trưởng ban và 3 đồng chí khu ủy viên khác làm ủy viên, chịu trách nhiệm huy động, tiếp nhận, vận chuyển cung cấp vật chất, điều trị thương binh và nhân dân bị thương, tổ chức dân công phục vụ Tổng tiến công và nổi dậy. Hậu cần Quân khu chỉ đạo hậu cần các đơn vị phối hợp với các địa phương xây dựng kế hoạch huy động nhân, vật lực trên các địa bàn sẵn sàng phục vụ tác chiến.

Để bảo đảm cho tác chiến, hậu cần quân khu triển khai bộ phận tiền phương, tổ chức 2 cụm kho phía trước: Hướng bắc ở Núi Gió (phía tây Huế), phía Nam ở sông Hai Nhánh (tây nam Huế). Đội điều trị 84 (do Tổng cục Hậu cần tăng cường) triển khai ở Núi Gió trực tiếp bảo đảm cho hướng chủ yếu. Ngoài ra, còn có mạng lưới quân dân y bố trí sẵn ở chiến trường (gồm 8 đội phẫu thuật tại các huyện đồng bằng, 7 đội phẫu thuật và 13 bệnh xá lớn nhỏ) triển khai tại vùng giáp ranh và vùng núi, có khả năng thu dung khoảng 3.200 thương binh. Trong đó, ở bắc Huế có 900 giường trên núi và 400 giường ở đồng bằng, nam Huế có 400 giường trên núi và 200 giường ở đồng bằng.

Khi nhận chỉ thị của Quân ủy Trung ương, chiến trường đã đề nghị Bộ tăng cường lực lượng, vũ khí, trang bị, trước mắt tăng cường thêm 2eBB, 1.000 tấn đạn và 500 tấn gạo; Bộ chuẩn y cấp cho chiến trường Trị - Thiên - Huế 350 tấn gạo, 400 tấn vũ khí đạn. Tuy nhiên, tháng 11-1967 do mưa nhiều, mực nước sông Sáp thường xuyên lên 2-3m xe ô tô không vượt được, đường sá hư hỏng, lầy lội nên đến cuối tháng 12-1967, hậu cần quân khu mới tiếp nhận được chuyến hàng đầu tiên của mùa vận chuyển 1967-1968. Hậu cần quân khu gấp rút tổ chức gùi trong 40 ngày, kết quả chuyển được 300 tấn đạn tới kho phía trước kịp thời cung cấp cho đơn vị. Về lương thực, thực phẩm và thuốc men chuẩn bị lượng dự trữ chủ yếu từ thu mua, khai thác từ đồng bằng chuyển lên hậu cứ và tạo lượng dự trữ ở các đơn vị. Từ năm 1967, quân khu tổ chức tuyến hành lang Hải Phong (Hải Lăng - Phong Điền) do Phó Chủ nhiệm hậu cần quân khu phụ trách. Kết quả, đến ngày Tổng tiến công và nổi dậy, toàn chiến trường thu mua và huy động trong nhân dân được 2.000 tấn gạo (1.000 tấn đã vận chuyển lên căn cứ). Riêng Mặt trận Huế mới dự trữ được 130 tấn. Trung đoàn 6 dự trữ được gạo 1 tháng, thuốc men bảo đảm cho 800 thương binh, đạn xấp xỉ 2 cơ số, đủ bảo đảm cho trung đoàn đánh từ 1-2 trận.

Cuối năm 1967, Quân khu thành lập 3 đại đội vận tải ở đồng bằng; tổng số lực lượng vận tải quân khu có 1.800 người rải ra trên các tuyến. Quân khu không có lực lượng vận tải cơ giới, vận chuyển chủ yếu là gùi bộ. Để bảo đảm cho mặt trận Huế, ngành hậu cần sử dụng các tuyến vận tải bộ từ hậu cần quân khu tới cụm kho phía Bắc dài 7-8 cung, đến cụm kho phía nam 10-12 cung, hướng đi Phú Lộc tới 20 cung. Khi chuẩn bị trực tiếp cho đánh Huế, hậu cần phát triển thêm tuyến B trên Đường 12 để tiếp nhận hàng từ Đoàn 559 ở khu vực Làng Ngòi, từ đó tiếp chuyển sức người về phía nam đến Khe Đại, về phía bắc đến Khe Trái cho các đơn vị. Để bảo đảm cho Cánh Bắc, ngoài lực lượng vận tải của các đơn vị, quân khu còn sử dụng đại đội vận tải của quân khu ở đồng bằng và lực lượng vận tải đi theo bộ phận tiền phương tham gia vận chuyển trên tuyến của eBB6. Ở Cánh Nam, quân khu không chi viện như Cánh Bắc, mà cử đồng chí chủ nhiệm hậu cần quân khu xuống trực tiếp nắm 1 tuyến vận tải để chỉ huy đôn đốc thực hiện kế hoạch vận chuyển và quan hệ trực tiếp với Binh trạm 42/Đoàn 559 để giải quyết khó khăn; 1 đồng chí tham mưu phó quân khu trực tiếp nắm một tuyến khác; đồng chí Trưởng ban vận tải và một số cán bộ vận tải của quân khu xuống các tuyến vận tải chính để hướng dẫn, đôn đốc.

Từ ngày 30-1 đến 6-2, ta tiến công thuận lợi, sau 2 đến 3 ngày địch tổ chức phản kích nhưng lực lượng còn ít. Công tác bảo đảm hậu cần trong giai đoạn này cơ bản đáp ứng được yêu cầu của các đơn vị.

Để cứu chữa vận chuyển thương binh, lực lượng vận tải trung đoàn xuống tận đại đội, thậm chí tổ chiến đấu chuyển thương binh về đội phẫu thuật trung đoàn; huy động dân công nhân dân, học sinh, sinh viên và các phương tiện tham gia vận chuyển thương binh về và vận chuyển đạn lên. Một bộ phận vận tải của quân khu và lực lượng vận tải trung đoàn chuyển thương binh về bệnh xá hoặc đội điều trị. Từ ngày 3-2, khi eBB8 vào chiến đấu và chiến sự ác liệt hơn, hậu cần đã tổ chức trạm chuyển tiếp ở An Ninh Thượng (ở tây bắc Huế) để thu dung phân loại thương binh và tiếp chuyển đạn. Đồng thời, quân khu cũng chỉ thị cho đội phẫu thuật của eBB6 đảm nhiệm tất cả thương binh nặng ở tây và tây bắc nội thành Huế như một cơ sở của quân khu. Quân khu bố trí 1 đội phẫu thuật ở đông bắc huyện Quảng Điền để nhận thương binh cho dBB8/e8 làm nhiệm vụ đánh chặn địch tiếp viện từ phía tây bắc xuống Huế.

Trong giai đoạn này, các đơn vị tổ chức ăn uống theo tổ hoặc theo tiểu đội. Nhìn chung, các đơn vị bảo đảm ăn uống khá tốt do được cung cấp nguồn thực phẩm tươi chuẩn bị ăn Tết của nhân dân. Khi quân khu có chỉ thị các đơn vị trong thành dự trữ cho chiến đấu dài ngày (gạo 3 tháng) các đơn vị đã tổ chức lực lượng, phương tiện lấy gạo của địch và thực phẩm về dự trữ ở đơn vị mình. Tiểu đoàn 1/eBB6 lấy được 1.800 bao gạo, dBB2/eBB6 lấy được 19 tấn.

Từ ngày 7-2 đến 22-2, địch phản kích ác liệt, ta thương vong nhiều, bị bật dần ra khỏi thành phố. Giai đoạn này bảo đảm hậu cần gặp khó khăn nhiều mặt, đặc biệt ở Cánh Bắc. Các trạm phẫu thuật ở trong thành, ở vùng giáp ranh và An Ninh Thượng thương binh tăng gấp hai, ba lần. Trạm chuyển tiếp An Ninh Thượng được tăng cường thành trạm quân y, từ ngày 7-2 tổ chức 1 bàn mổ từ đội phẫu thuật của eBB8 và từ ngày 22-2 cả đội phẫu thuật của eBB6 trong thành cũng rút về đây. Từ ngày 20-2 đến 23-2, đội phẫu thuật của eBB6 và eBB8 thu hẹp phạm vi cứu chữa để giải phóng nhanh thương binh. Thời gian này, ta tiếp tục kết hợp lực lượng vận tải, dân công và huy động thêm học sinh, sinh viên, nhân dân tham gia chuyển thương, tải đạn. Những tình huống khó khăn cấp thiết thì sử dụng cả bộ đội chiến đấu chuyển thương cho kịp thời; sử dụng nhiều phương tiện như ô tô, thuyền để vận chuyển. Trong cả 2 giai đoạn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, ta đã sử dụng 4 - 5 thuyền của nhân dân để vận chuyển đạn trên một đoạn sông Bồ vùng cửa rừng Hương Trà và 3 thuyền khác chở thương binh từ Huế về An Ninh Thượng trong 20 đêm, mỗi đêm chuyển được từ 70 đến 160 thương binh; sử dụng nhân dân tình nguyện chuyển thương binh lên vùng giáp ranh, mỗi ngày khoảng 50 thương binh. Do từ An Ninh Thượng lên vùng giáp ranh dài nên quân khu bố trí thêm 1 trạm chuyển tiếp cách vùng giáp ranh khoảng 3 giờ đi bộ.

Trong lúc đang tấn công địch ở Huế, hậu phương chuyển được 52 tấn gạo vào bổ sung cho quân khu. Từ ngày 7-2, những đơn vị trong nội thành phát hiện nhiều kho gạo của địch, các đơn vị chủ động lấy dự trữ tại chỗ. Đến ngày 16-2 quân khu có chủ trương lấy gạo ở trong thành ra, nhưng lúc đó cầu đã bị địch đánh hỏng, các tuyến đường bị địch đánh phá, phong tỏa ác liệt. Vì vậy, số lượng chuyển ra được ít: Cánh Bắc được 20 tấn, Cánh Nam được 100 tấn. Quân khu thành lập Ban Cung cấp tiền phương để thu mua, thu chiến lợi phẩm bảo đảm cho Cánh Bắc nhưng địch lại đánh phá ác liệt, nhân dân sơ tán nên kết quả rất hạn chế.

Từ ngày 23-2 đến 29-2, ta tổ chức rút ra khỏi Huế để bảo toàn lực lượng. Lúc này, các đường vận chuyển từ đồng bằng lên vùng giáp ranh bị địch phong tỏa gay gắt, thương binh ở các đơn vị và các đội phẫu thuật còn nhiều. Các đơn vị chủ yếu tập trung vào chiến đấu ngăn chặn địch và vận chuyển thương binh. Công tác vận tải thực hiện vận chuyển 2 chiều, nhưng chủ yếu là vận chuyển thương binh ở đồng bằng lên, đạn chuyển về rất ít. Giai đoạn này, lực lượng chuyển thương chủ yếu là vận tải bộ và bộ đội. Đêm 24-2, toàn eBB8 tập trung chuyển 150 thương binh về gửi đội phẫu thuật quân ở Quảng Điền. Quá trình rút quân, trung đoàn tiếp tục bị địch truy kích nên việc giải quyết thương binh rất khó khăn do không có đội phẫu thuật đi cùng. Trung đoàn 6, đêm 26-2 tập trung chuyển thương binh về vùng giáp ranh có 336 thương binh trong đó 252 người phải cáng. Do đường bị phong tỏa, thương binh một số đơn vị bị kẹt lại trong thành phố và một số huyện đồng bằng phải gửi lại nhân dân nuôi dưỡng chữa trị.

Sau đợt 1 Tổng tiến công và nổi dậy ở Huế, lượng vật chất dự trữ còn rất ít. Khi rút khỏi Huế, ta vẫn có chủ trương mang gạo ra, nhưng vì phải vận chuyển thương binh nên ít đơn vị mang được gạo, đơn vị mang được thì số lượng cũng không nhiều. Từ tháng 5-1968, hầu hết mọi nhu cầu vật chất phải tiếp nhận từ miền Bắc chuyển vào. Tháng 4-1968, địch đánh chiếm lên vùng giáp ranh, hầu hết các tuyến vận tải bị địch khống chế. Vì vậy, đợt 2 tiến công và nổi dậy, hậu cần không đủ sức bảo đảm. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến không thực hiện được đợt 2 theo kế hoạch.

Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng hậu cần quân khu và các đơn vị đã có nhiều cố gắng trong chuẩn bị và bảo đảm vật chất trong quá trình tiến công và nổi dậy. Kết quả là trước nổ súng, hậu cần quân khu đã tiếp nhận, vận chuyển 300 tấn đạn tới các kho phía trước và bổ sung cho các đơn vị bước vào chiến đấu, thu mua, khai thác, huy động được 2.000 tấn gạo, trong đó 1.000 tấn đã vận chuyển lên căn cứ, 1.000 tấn gửi lại các cơ sở dưới đồng bằng. Các đơn vị cũng đã chủ động tiếp nhận, khai thác thu mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược đủ bảo đảm cho đơn vị bước vào chiến đấu. Trong quá trình tác chiến, hậu cần quân khu đã tích cực tiếp nhận, vận chuyển bổ sung cho các đơn vị, cùng với việc các đơn vị chủ động sử dụng nguồn tại chỗ nên đã bảo đảm tương đối đầy đủ và kịp thời vật chất cho chiến đấu.

Về cứu chữa, điều trị thương, bệnh binh, hậu cần quân khu và các đơn vị đã cố gắng vận chuyển cứu chữa, điều trị một số lượng lớn thương binh và giải quyết tử sĩ. Số thương binh của eBB6 chiếm tới 29,13% quân số chiến đấu, số tử sĩ là 11,8%. Trung đoàn 8 từ ngày 4-2 đến 23-2 đã có 687 thương binh, tổng số toàn đợt trung đoàn có 743 thương binh, chiếm 45,1% quân số chiến đấu. Thương binh được cấp cứu và chuyển về đội phẫu thuật trung đoàn kịp thời nên việc cứu chữa khá thuận lợi.

Cuộc tiến công và nổi dậy ở Huế là một trọng điểm trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong cuộc tiến công và nổi dậy này, ta đã phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, lực lượng vũ trang địa phương cùng với bộ đội chủ lực chiến đấu và bảo đảm cho chiến đấu. Công tác hậu cần trong cuộc tiến công càng về sau càng gặp nhiều khó khăn. Địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt; từ vùng giáp ranh về Huế địa hình trống trải, phải qua vùng đồng bằng nơi ta và địch xen kẽ; bố trí hậu cần khó tiếp cận các đơn vị; chiến trường chưa được chuẩn bị kỹ để bảo đảm cho bộ đội chủ lực đánh lớn; việc chi viện của hậu cần chiến lược chưa kịp thời...

Từ thực tiễn bảo đảm hậu cần ở mặt trận Huế cho thấy:

Về chuẩn bị hậu cần, khu ủy, quân khu đã sớm chủ động chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy với việc thành lập Ban bảo đảm hậu phương, chỉ đạo các địa phương kết hợp với đơn vị chủ lực lập kế hoạch huy động nhân, vật lực; hậu cần quân khu tổ chức hành lang thu mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang... Bản thân các đơn vị (các trung đoàn) cũng rất tích cực, chủ động thu mua khai thác vật chất tạo lượng dự trữ. Nhờ vậy, ta đã dự trữ được một lượng vật chất đáng kể cho các lực lượng bước vào chiến đấu. Hệ thống quân, dân y trên địa bàn cũng được triển khai tốt góp phần quan trọng trong việc cứu chữa điều trị thương binh sau này.
Hạn chế lớn nhất trong công tác hậu cần là chuẩn bị còn thiếu chu đáo, toàn diện. Về phía hậu cần chiến lược bổ sung vật chất, nhất là vũ khí đạn cho quân khu còn chậm và không đủ. Về phía quân khu, trong chuẩn bị chưa dự tính được các tình huống tác chiến và nhu cầu bảo đảm hậu cần nên chuẩn bị chưa sát đúng (thương binh trong đợt đầu Tổng tiến công và nổi dậy gấp 2 lần dự kiến của quân y, gấp 4 lần dự kiến của tham mưu quân khu).

Về tổ chức, bố trí hậu cần, nhìn chung việc triển khai hậu cần tiền phương trên cả 2 cánh và tập trung cho Cánh Bắc là phù hợp. Kết hợp và phát huy được vai trò của hệ thống dân y (ở các vùng giải phóng) trong cứu chữa thương bệnh binh. Quá trình tiến công và nổi dậy kịp thời điều chỉnh tổ chức, bố trí nên hạn chế bớt khó khăn trong bảo đảm hậu cần. Bên cạnh những kết quả trên, tổ chức, bố trí hậu cần vẫn còn bộc lộ một số điểm chưa phù hợp là: mạng lưới đường vận tải chưa vững chắc, lực lượng còn mỏng, khu vực triển khai hậu cần tiền phương còn xa tuyến chiến đấu và xa hậu cứ. Kết quả bảo đảm của hậu cần quân khu cho đơn vị chiến đấu còn chưa đáp ứng đủ yêu cầu.

Trong bảo đảm vật chất, đã khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tại chỗ bằng thu mua, huy động trong nhân dân, thu hồi chiến lợi phẩm... đáp ứng kịp thời cho chiến đấu. Song, khó khăn lớn nhất vẫn là thiếu đạn, đặc biệt đạn hỏa lực do dự trữ trước khi bước vào chiến đấu còn mỏng, bổ sung không kịp thời, đạn chiến lợi phẩm không có nhiều. Bộ Tổng Tham mưu cho sử dụng máy bay IL-14 vận tải chi viện cho mặt trận Huế, nhưng không đạt được mục tiêu đề ra.

Trong cứu chữa vận chuyển thương binh, đã huy động được nhiều lực lượng tham gia, cả quân y và dân y, cả lực lượng chuyên trách và tự cứu chữa. Ở eBB8 bộ đội tự băng và đồng đội băng bó ở hỏa tuyến chiếm 78,4%. Khi rút khỏi Huế sử dụng bộ đội chuyển thương là chủ yếu. Đã kịp thời, linh hoạt vận dụng các biện pháp trong cứu chữa, vận chuyển thương binh như thu hẹp phạm vi cứu chữa, tổ chức chuyển tiếp, gửi phân tán trong nhân dân, nhờ nhân dân nuôi dưỡng, điều trị. Lúc khó khăn phát huy được khả năng của các cơ sở dân y tại chỗ... Điểm yếu nhất trong cứu chữa, vận chuyển thương binh là chuyển từ đội phẫu thuật về các đội điều trị chậm, nhất là ở Cánh Bắc thương binh bị dồn lại nhiều gây khó khăn cho rút quân.

Trong công tác vận tải, ưu điểm lớn nhất là đã huy động được nhiều lực lượng, phương tiện tham gia vận chuyển; đã linh hoạt thực hiện kết hợp trên dưới cùng chuyển không cứng nhắc theo phân cấp; đã kết hợp cả vận chuyển bộ và cơ giới, đường bộ và đường thủy ở những nơi, những thời điểm cho phép. Vì vậy đã giải quyết được nhiều khó khăn, nhất là vận chuyển ở hỏa tuyến. Tuy vậy, do tổ chức tuyến vận tải quá dài, sử dụng lực lượng vận tải và dân công chưa hiệu quả nên dù đã rất cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu vận chuyển bảo đảm cho chiến đấu.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại mặt trận Huế đã để lại những bài học kinh nghiệm quý về nghệ thuật quân sự nói chung và công tác hậu cần nói riêng. Những bài học về công tác hậu cần trước hết là sự quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, nắm chắc nhiệm vụ, quyết tâm tác chiến và sự vận dụng sáng tạo truyền thống và kinh nghiệm công tác hậu cần trong điều kiện cụ thể của từng địa bàn. Trên cơ sở đó để thường xuyên xây dựng lực lượng hậu cần đủ mạnh, chủ động xây dựng tạo lập thế trận liên hoàn, vững chắc để đáp ứng mọi nhu cầu bảo đảm hậu cần cho tác chiến thắng lợi. Mặt khác đã quán triệt sâu sắc quan điểm hậu cần nhân dân, quan điểm tự lực tự cường để kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, phát huy sức mạnh của lực lượng hậu cần các cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho chiến dịch.

Ngày nay, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chiến tranh xâm lược (nếu xảy ra) sẽ là chiến tranh mà phía đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao là chủ yếu. Vì vậy, đòi hỏi ngành hậu cần quân đội phải nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận bảo đảm hậu cần để huấn luyện xây dựng ngành hậu cần vững mạnh toàn diện và góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tuy vậy, những bài học kinh nghiệm về hậu cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, bảo đảm hậu cần trong Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968 tại mặt trận Huế nói riêng luôn là những kinh nghiệm quý báu để nghiên cứu kế thừa và vận dụng phát triển trong điều kiện mới.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #102 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2020, 06:02:38 pm »

CÔNG TÁC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
MẬU THÂN 1968 TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU 7



Thiếu tướng NGUYỄN MINH HOÀNG
Phó Chính ủy Quân khu 7


Đêm giao thừa và đêm mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 và 31-1-1968) quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam; đồng loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/44 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bao gồm cả 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ, 30 sân bay và nhiều tổng kho lớn. Trong đó, địa bàn Quân khu 7 - Trung tâm đầu não chỉ đạo bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn - trọng điểm lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, diễn ra rất nhiều trận đánh lớn. Tiêu biểu là các trận đánh vào sân bay Biên Hòa, sân bay Tân Sơn Nhất, Toà Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Đài Phát thanh Sài Gòn, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát; các Sở chỉ huy sư đoàn bộ binh Mỹ số 1, 9, 25, 101. Sau gần hai tháng tiến công và nổi dậy, quân và dân miền Nam đã tiêu diệt và làm tan rã khoảng 15 vạn tên địch (có hàng nghìn lính Mỹ) phá hủy 1/3 vật tư chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, phá 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã mới với hơn một triệu dân...

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", góp phần chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc lập lại hòa bình tại Việt Nam. Đây là một thắng lợi to lớn cả về chính trị, quân sự, ngoại giao; đã trở thành một sự kiện lịch sử trọng đại, giữ vai trò to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam như một chiến công bất hủ.

Để có được thắng lợi này, biết bao cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh và nhiều người trong số đó đã mãi mãi nằm lại trong lòng đất mẹ yêu thương. Theo số liệu thống kê, tổn thất của ta năm 1968 là rất lớn. Toàn miền Nam: hy sinh 44.824 người, bị thương 61.267 người, mất tích 4.511 người. Trong đó, chỉ tính riêng các tỉnh miền Đông Nam Bộ thuộc địa bàn Quân khu 7: hy sinh 14.121 người, bị thương 17.752 người, mất tích 1.907 người.

Đến nay, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã trôi qua gần 50 năm và nước Việt Nam chúng ta đã độc lập, thống nhất được hơn 40 năm. Mặc dù Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta đã và đang có rất nhiều nỗ lực trong công tác tìm kiếm, quy tập, nhưng nhiều đồng chí, đồng bào ta hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn chưa tìm được hài cốt. Chính vì vậy, làm thế nào để sớm đưa các chú, các cô, các anh, các chị trở về với quê hương, về bên gia đình, người thân luôn là trăn trở của Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh, và của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 7.

Quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, liệt sĩ và thấm nhuần truyền thống, đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, những năm qua, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ hy sinh trong chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; trong đó có việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Ban Chỉ đạo 1237 các cấp được bổ sung kiện toàn, vận hành đúng quy chế, kế hoạch. Lực lượng làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập được thành lập, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong tổ chức thực hiện; phương tiện, cơ sở vật chất, trang bị, chế độ, chính sách được bảo đảm; công tác kiểm tra, quản lý tình hình, xử lý các vướng mắc phát sinh được tiến hành thường xuyên, kịp thời. Cùng với đó, ngành Chính sách Quân khu đã chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng, nhất là ngành lao động - thương binh và xã hội, Hội Cựu chiến binh, bộ chỉ huy quân sự các tỉnh tham mưu cho tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các địa phương có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thống nhất, chặt chẽ và toàn diện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã lãnh đạo, chỉ đạo Ban Chỉ đạo 1237 và các cơ quan chức năng của Quân khu hướng dẫn các đơn vị, địa phương cung cấp thông tin, vận động, tuyên truyền các tầng lớp nhân dân tham gia Chương trình "Đi tìm đồng đội"; truy cập thường xuyên "Cổng thông tin điện tử ngành chính sách quân đội" và đưa tin tuyên truyền về kết quả thực hiện nhiệm vụ, các gương "người tốt, việc tốt" trong thực hiện tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Các cơ quan, đơn vị và địa phương đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, làm cho lực lượng vũ trang và nhân dân trên địa bàn nhận thức sâu sắc công lao to lớn của các thế hệ đi trước, các anh hùng liệt sĩ, thương binh đã cống hiến xương máu, hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Từ đó, mỗi người tự đề cao trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Để việc rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách mộ liệt sĩ và xây dựng cơ sở dữ liệu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ được chính xác, Quân khu đã tổ chức tập huấn về công tác rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ; đồng thời, chỉ đạo Báo, Truyền hình Quân khu 7 lập chuyên mục Thông tin liệt sĩ và mộ liệt sĩ bằng phần mềm tiện ích dễ truy cập trong quá trình tìm kiếm (từ ngày 13-3-2017, Báo Quân khu 7 điện tử ra mắt chuyên trang Thông tin liệt sĩ và Mộ liệt sĩ). Các đơn vị trong Quân khu đã tổ chức các nhóm đi khảo sát, xác minh, thu thập thông tin, tài liệu lưu trữ liên quan đến nơi mai táng các liệt sĩ; tiến hành phân tích, kết luận những thông tin chưa khớp nối, chồng chéo để hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ. Đến nay, nhiều đơn vị, địa phương cơ bản hoàn thành việc rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ, đáp ứng một phần công việc tìm kiếm thông tin liệt sĩ cho thân nhân và những người làm công tác chính sách trên cả nước. Trên cơ sở các thông tin do nhân dân địa phương và các cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh tại Việt Nam cung cấp, các đơn vị được giao nhiệm vụ đã phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng trên địa bàn tiến hành tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin và triển khai tìm kiếm, quy tập.

Với phương châm "Còn thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ, còn tổ chức tìm kiếm, quy tập", Quân khu đã chỉ đạo quyết liệt công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; trong đó, trọng tâm là các địa bàn diễn ra các trận đánh ác liệt trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Thực hiện chủ trương đó, các đơn vị, địa phương trong Quân khu đã chủ động khắc phục mọi khó khăn, tìm ra nhiều cách làm sáng tạo trong khai thác, xử lý thông tin và tìm được nhiều mộ tập thể, với nhiều hài cốt liệt sĩ.

Nhờ thực hiện đồng bộ các biện pháp trên nên việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn của Quân khu 7 đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Tính đến nay, Quân khu đã tìm kiếm, quy tập được 1.253 hài cốt liệt sĩ trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 (đây là số liệt sĩ do Quân khu 7 trực tiếp quy tập, chưa tính số liệt sĩ đã rõ danh tính do các ban, ngành, đoàn thể địa phương quy tập). Điển hình là việc tìm kiếm được 182 liệt sĩ tại khu vực hố chôn tập thể ở sân bay Tân Sơn Nhất vào năm 1995 và 150 liệt sĩ ở sân bay Biên Hòa trong năm 2017. Hiện nay, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đang tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chức năng của Quân khu và Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan mở đợt tìm kiếm có quy mô lớn phía tây sân bay Tân Sơn Nhất để tìm kiếm khoảng 600 liệt sĩ trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Trong những năm tới, việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7 sẽ ngày càng khó khăn hơn; một phần do các nhân chứng ngày càng ít đi, số còn lại do tuổi tác nên trí nhớ giảm sút, một phần là sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội trên địa bàn làm cho những "vật chuẩn" để nhận biết nơi các liệt sĩ nằm lại bị mất dấu tích. Chính vì vậy, bằng trách nhiệm và tình cảm của mình, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu xác định cần phải đẩy nhanh tiến độ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ nói chung, tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7 nói riêng, để sớm đưa các cô, các chú, các anh, các chị về với quê hương, về bên gia đình, người thân.

Để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ trên, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu xác định cần tập trung thực hiện tốt những nội dung, biện pháp chủ yếu sau đây:

Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, địa phương phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Ban Chỉ đạo 1237 các tỉnh, thành phố tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương khẩn trương hoàn thành rà soát, bổ sung, hoàn thiện hồ sơ danh sách liệt sĩ của các đơn vị, địa phương; làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, thực hiện đúng quy trình nắm và xử lý thông tin về hồ sơ liệt sĩ; đẩy mạnh công tác thu thập, kết nối và xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ ở tất cả các cấp (mở hội nghị lấy ý kiến, thu thập thông tin liệt sĩ, mộ liệt sĩ ở cả cấp Quân khu, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã).

Hai là, đánh giá, phân tích cụ thể tình hình thực tế của từng địa bàn. Trên cơ sở kinh nghiệm đã có, đánh giá đúng thuận lợi, khó khăn; đặt ra kế hoạch tìm kiếm từng đợt, từng giai đoạn một cách sát thực; chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tranh thủ thời gian, đẩy nhanh tiến độ, từng bước kết luận địa bàn. Đồng thời, bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp và có chính sách sử dụng hợp lý; thường xuyên bảo đảm nhu cầu cần thiết, tạo điều kiện tốt nhất cho các đơn vị trực tiếp thực hiện công tác tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ. Phấn đấu tìm kiếm, cất bốc, toàn bộ số liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7, đưa về an táng tại các nghĩa trang liệt sĩ.

Ba là, các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục kiện toàn các lực lượng chuyên trách, lâm thời làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở các địa phương thuộc địa bàn trọng điểm; ưu tiên bố trí lực lượng, phương tiện, khẩn trương hoàn thành việc rà soát, lập hồ sơ, danh sách liệt sĩ; xây dựng cơ sở dữ liệu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm về công tác rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7.

Bốn là, đề xuất với Ban Chỉ đạo Quốc gia 1237 liên hệ với các nước có tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây, đồng thời, thông qua kênh ngoại giao nhân dân để cựu chiến binh đã trực tiếp tham chiến tại Việt Nam cung cấp thông tin chính xác vị trí chôn cất liệt sĩ. Bên cạnh đó, kiến nghị với Ủy ban chuyên trách Chính phủ thường xuyên theo dõi tình hình, kịp thời chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu. Đề nghị Bộ Quốc phòng chỉ đạo các đơn vị chủ lực hoàn thiện danh sách liệt sĩ, bàn giao cho các tỉnh, thành phố. Cơ quan chức năng hướng dẫn việc xác định lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ba cấp để các địa phương tác nghiệp trong quá trình thực hiện, sớm đưa những người con đã hy sinh vì Tổ quốc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7 trở về với gia đình, người thân.

Thực hiện trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước, nhân dân và với lòng biết ơn sâu sắc các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, bằng những kinh nghiệm thực tiễn tích lũy được trong những năm qua, Quân khu 7 quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu trong thời gian sớm nhất.
 
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #103 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 09:38:39 am »

SỰ KIỆN TẾT MẬU THÂN 1968 - NHÌN NHẬN TỪ ĐỐI PHƯƠNG



Đại tá, TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam (1954-1975), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bước ngoặt lịch sử; là bước phát triển tất yếu trong chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam. Chỉ trong thời gian ngắn, ta đã làm thay đổi căn bản thế trận chiến lược, đưa chiến tranh vào tận sào huyệt cuối cùng của địch; làm chuyển biến căn bản tương quan lực lượng, chuyển chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Trong cuộc tổng tiến công ấy, "ta tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng và phương tiện chiến tranh của địch..., ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay, địch phải xuống thang, ngồi lại đàm phán với ta ở Pari".

Năm mươi năm đã trôi qua kể từ sau sự kiện Mậu Thân 1968, nhưng khoảng thời đó không hề làm cho sự kiện lịch sử này bị phai nhạt, trái lại, nó vẫn luôn lôi cuốn giới chính trị, quân sự, sử học, báo chí... tìm hiểu, nghiên cứu, nhằm làm rõ hơn nhiều vấn đề xung quanh sự kiện quan trọng này. Theo thống kê của Bộ Quốc phòng Mỹ, kể từ tháng 1-1968 đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, chỉ riêng tại Mỹ đã có hàng nghìn ấn bản phẩm cùng hàng trăm phim phóng sự tài liệu đề cập đến sự kiện Mậu Thân 1968. Nội dung các ấn bản phẩm, phim tài liệu phần lớn tập trung vào lý giải những vấn đề như: tác động của Tết Mậu Thân 1968 đối với xã hội và các chiến lược chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam; nước Mỹ có bị bất ngờ, ai chịu trách nhiệm trước sự kiện Mậu Thân 1968?... Nhiều ấn bản phẩm, phim tài liệu còn đề cập một cách chi tiết đến những vấn đề chuyên biệt như: vai trò của báo chí, truyền thông; trách nhiệm của cộng đồng tình báo Mỹ; phản ứng của chính quyền Oasinhtơn và Sài Gòn trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của đối phương...

Liên quan đến câu hỏi: Nước Mỹ có bị bất ngờ trước sự kiện Mậu Thân 1968 hay không? trong cuốn The Tet offensive - A concise history (tạm dịch là Lược sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968), tác giả Giêm Uynbanh (James H. Willbanks) đã đưa ra không ít nhận định của nhiều tướng lĩnh, sĩ quan và các quan chức cấp cao Chính phủ Mỹ, kể cả Tổng thống Giônxơn về vấn đề này. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng: Trước khi cuộc tổng tiến công nổ ra, CIA đã thu thập được không ít thông tin chứng tỏ đối phương đang chuẩn bị cho một cuộc tiến công quy mô lớn. Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) lại không tin vào vào điều đó và cho rằng, cộng sản chưa thể tiến hành một cuộc tiến công quy mô lớn vào dịp Tết. Bản thân tướng Oétmolen còn khẳng định, nếu tiến công, cộng sản sẽ không dám tiến công vào thành phố. Vì vậy, Oétmolen vẫn tập trung phần lớn binh lực cho các khu vực dọc biên giới giữa Việt Nam với Lào và Campuchia, nơi mà ông cho là mối đe dọa chính của quân Mỹ đang tập trung ở đó. Chỉ vài ngày trước khi cuộc tiến công nổ ra, tướng E. Uylơ (Earle Wheeler), Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân cũng đã nhận được không ít thông tin về "khả năng cộng sản có thể mở một cuộc tiến công giống như cuộc tiến công của quân Đức tại Ácđen trong Thế chiến thứ hai". Tổng thống Giônxơn còn cho biết, ông cảm nhận thấy Cộng sản đang chuẩn bị một việc gì đó tương tự như vụ máy bay Thần phong Nhật tiến công Trân Châu Cảng. Mặc dù nhận được không ít thông tin về cuộc tiến công quy mô lớn của đối phương, nhưng chính quyền Giônxơn vẫn quyết định không sử dụng thêm bất kì một giải pháp nào để chuẩn bị tinh thần cho binh sĩ, thậm chí còn đưa ra những tuyên bố và báo cáo đầy thuyết phục để trấn an dư luận trong nước.

 Về phía chính quyền Sài Gòn, ngày 8-1-1968, tướng Cao Văn Viên nhận được thông tin mật báo về việc Việt cộng đang có nhiều "động thái lạ" tại nhiều thành phố, thị xã. Nhưng trong buổi làm việc với tướng Oétmolen để bàn về lệnh ngừng bắn trong dịp Tết Nguyên đán, tướng Viên vẫn đề nghị chỉ nên giảm thời gian ngừng bắn xuống còn 24 giờ chứ không nên hủy bỏ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì cho rằng, việc hủy bỏ lệnh ngừng bắn trong dịp Tết sẽ tác động lớn đối với tinh thần của binh sĩ và người dân Nam Việt Nam. Vì vậy, ông đề nghị không nên hủy bỏ mà chỉ nên giảm thời gian ngừng bắn xuống còn 36 giờ. Thời gian ngừng bắn sẽ bắt đầu từ tối 29-1-1968.

Vào đêm trước của cuộc Tổng tiến công, Thiếu tướng P. Đavitxơn (Philip Davidson), Trưởng phòng tình báo MACV, đã đưa ra lời cảnh báo: "cuộc tấn công sắp xảy ra trên khắp đất nước vào tối nay hoặc sáng ngày mai". Nhận được các thông tin đó và cùng với những dấu hiệu hoạt động của cộng sản, Oétmolen đã ngay lập tức đặt quân đội Mỹ trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, nhưng ông lại không thực hiện bất kỳ một cuộc điều binh nào. Binh lính thì quá chủ quan vì trước đó họ đã được báo động nhiều lần. Trước đêm giao thừa, tướng Oétmolen vẫn đinh ninh đòn tiến công chủ yếu của đối phương sẽ vẫn tập trung tại Khe Sanh, nhưng mọi nhận định của ông được chứng minh là hoàn toàn sai lầm.

Về tác động của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đối với xã hội cũng như các chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam, phần lớn các chính khách, học giả, tướng lĩnh và sĩ quan Mỹ đều cho rằng, dù lập luận theo cách nào thì Mậu Thân cũng là bước thụt lùi đối với chính quyền của Tổng thống Giônxơn cũng như với các chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Sau sự kiện đó, chính giới Mỹ bị cuốn vào vòng xoáy phân hóa. Đúng như cựu Tổng thống Mỹ Aixenhao đã thừa nhận: "Chưa bao giờ nước Mỹ gặp phải tình trạng đáng buồn và bị chia rẽ sâu sắc về cuộc chiến tranh như hiện nay". Tại Quốc hội, nhiều thượng nghị sĩ thì quả quyết: "Tết đã lột bỏ mặt nạ của một ảo tưởng chính trị mà chúng ta che giấu hàng chục năm qua". Thượng nghị sĩ Mác Catthy (Eugene McCarthy) (bang Minnesota) thì cho rằng: "Cuộc tổng tiến công đã chứng minh các báo cáo trước đây của chính quyền là sản phẩm của sự tự lừa dối". Trong cuộc họp cuối tháng 3 - 1968 của nhà thông thái (Wise Men) - những người chỉ vài tháng trước đây được Tổng thống rất tin tưởng thì nay quay sang phản đối chiến tranh và khẳng định rằng: đã đến lúc nước Mỹ nên chấm dứt leo thang chiến tranh và rút quân về nước; và rằng, nếu tiếp tục tăng quân tới Việt Nam thì nước Mỹ cũng phải mất 10 hay 15 năm nữa mới đánh bại được cộng sản.

Cùng với sự phân hóa chính trị, nội tình nước Mỹ cũng trở nên phức tạp hơn do phong trào phản chiến phát triển rộng khắp trên toàn quốc. Theo thống kê, sau sự kiện Mậu Thân 1968, các cuộc biểu tình, đình công, bãi công diễn ra triền miên với sự tham gia của hàng triệu công dân Mỹ thuộc mọi tầng lớp. Điển hình là cuộc biểu tình của hàng vạn công nhân, học sinh, sinh viên và hàng nghìn lính Mỹ trở về từ cuộc chiến Việt Nam diễn ra vào ngày 15-10-1968. Kể từ đó, ngày 15 hằng tháng được gọi là ngày đình chiến. Đây là dấu mốc khắc ghi sự phát triển cả về quy mô lẫn hình thức của phong trào phản chiến. Trong các năm 1968 và 1969, trên toàn nước Mỹ đã diễn ra tới 1.785 cuộc biểu tình của sinh viên. Ngoài ra, còn có hàng nghìn cuộc biểu tình chống chiến tranh của các đơn vị quân đội, cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Mặc dù phong trào phản chiến không làm thay đổi được bản chất cuộc chiến mà chính quyền Níchxơn tiếp tục thực hiện tại Việt Nam những năm sau đó, nhưng nó đã phần nào giúp nhân dân tiến bộ Mỹ và thế giới thấy được bản chất thật của chủ nghĩa chiến thắng vốn đã ngự trị và là niềm tự hào của nhiều chính khách "diều hâu" Mỹ về cuộc chiến tại Việt Nam nói chung, trong các vấn đề quốc tế nói riêng.

 Đánh giá về hậu quả của sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đối với cả hai phía, giới nghiên cứu, các nhà sử học và các chiến lược gia quân sự Mỹ đều cho rằng, nếu xét theo phương thức "đếm xác" truyền thống mà Mỹ thường lấy đó để làm căn cứ đánh giá "thắng - thua" trong cuộc chiến, thì Mậu Thân là một thắng lợi của phía Mỹ, nhưng nếu xét trên tổng thể các phương diện thì đó lại là thắng lợi của đối phương. Bởi vậy, muốn đánh giá đúng sự kiện này cần phải đặt nó trong mối quan hệ tổng thể và cần phải có cách nhìn ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau. Đúng như sử gia Đuicơ (William J. Duiker) nhận xét: "Muốn đánh giá đúng sự kiện Mậu Thân cần phải quy nạp quanh nó tất cả các yếu tố ở mọi tầng nấc và cấp độ khác nhau chứ không chỉ đơn giản là suy xét ai thiệt hại nhiều hơn trong trận chiến".

Nếu đánh giá sự kiện Mậu Thân theo quan điểm của Đuicơ thì Tổng tiến công và nổi dậy là một thắng lợi của Hà Nội bởi sau sự kiện đó, Mỹ đã buộc phải xuống thang chiến tranh, từng bước rút quân về nước và giao gánh nặng chiến tranh lên vai quân đội Sài Gòn. Đối với Tổng thống Giônxơn đã phải chấp nhận chiến lược "phi Mỹ hóa" chiến tranh, khước từ đề nghị tăng quân của tướng Oétmolen và tuyên bố không tái tranh cử tổng thống nhiệm kỳ hai. Việc Tổng thống Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ Vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pari cũng là một thất bại mà chính Tổng thống Giônxơn cũng như nhiều tổng thống tiền nhiệm không hề mong muốn. Tại chiến trường Nam Việt Nam, sau sự kiện Mậu Thân 1968, chương trình bình định bị ảnh hưởng trầm trọng: chính quyền Sài Gòn tại nhiều địa phương bị rệu rã; gần 500 đồn bốt của lực lượng dân phòng và lực lượng địa phương quân bị tiến công và triệt hạ. Ngoài ra, Chính quyền Sài Gòn còn phải huy động hàng nghìn binh sĩ từ khu vực nông thôn lên thành thị để đối phó với các cuộc tiến công, bao vây của đối phương và điều đó đã làm cho tình hình an ninh ở nhiều làng mạc miền Nam Việt Nam bị đe dọa, bị đối phương giành lại quyền kiểm soát...

Điều quan trọng hơn là sau sự kiện Tết Mậu Thân, một bộ phận lớn dân chúng ở các khu vực đô thị trước đây còn tin theo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thì nay bắt đầu xuất hiện tư tưởng bán tín bán nghi về chế độ. Theo một nghiên cứu được tiến hành tại Sài Gòn vào cuối năm 1968, có không ít thị dân quay sang muốn hợp tác với Việt cộng. Mặc dù các cuộc tiến công của đối phương đã bị đẩy lui, nhưng người dân miền Nam Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp quan chức vẫn tỏ ra lo lắng về khả năng của quân đội Việt Nam Cộng hòa, không ít người trong số họ còn đưa ra nhận xét: quân đội Sài Gòn sẽ không đứng vững trước các cuộc tiến công giống như các cuộc tiến công mà cộng sản đã tiến hành trong dịp Tết nếu người Mỹ rút khỏi Việt Nam. Sự hoài nghi đó đã tác động mạnh mẽ đến chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" mà Tổng thống Níchxơn tiến hành sau này. Theo một nghiên cứu độc lập khác: "Tết Mậu Thân đã làm bộc lộ những điểm yếu chí mạng của Chính phủ Nam Việt Nam vốn lâu nay vẫn được giấu kín dưới vỏ bọc của những thắng lợi quân sự".

Đánh giá về sự kiện Tết Mậu Thân không nên chỉ dừng lại ở yếu tố quân sự, mà phải xem xét đến cả các mục tiêu chính trị. Đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn, mặc dù quân Mỹ và đồng minh đã gây không ít tổn thất cho đối phương, nhưng theo nhận định và cách nói của nhiều người thì Mậu Thân là "tiếng sét làm cả thế giới giật mình; cuộc Tổng tiến công đã mang lại thắng lợi chiến lược hết sức ấn tượng cho cộng sản". Nhận định về khía cạnh này, nhiều chiến lược gia quân sự và chính trị Mỹ còn cho rằng: cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đã làm đảo lộn toàn bộ chính sách của Mỹ và tạo cho Hà Nội một luồng sinh khí mới đúng vào thời điểm mà họ đang gặp khó khăn ở miền Nam. Vì vậy, xét trên bình diện chính trị, chiến lược và cả tâm lý thì cộng sản đã giành thắng lợi quan trọng và cực kỳ to lớn. Khẳng định này còn có thể tìm thấy trong nhiều cuộc tranh luận xung quanh sự kiện đối phương tiến công tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Nhà sử học Ácnôn (James R. Arnolt) viết: "có một nghịch lý là một cuộc tiến công nhỏ vào mục tiêu lớn đã trở thành hành động quyết định cho cuộc chiến tranh chỉ vì nó đã tác động mạnh vào công chúng Mỹ". Một số chiến lược gia quân sự Mỹ còn cho rằng: "Trong sự kiện Tết Mậu Thân 1968, ngoài thắng lợi về mặt chính trị và tâm lý, đối phương còn giành được thắng lợi ở chính Oasinhtơn chứ không phải ở Việt Nam. Sở dĩ đối phương có được thắng lợi đó là do báo chí Mỹ đã chớp thời cơ đưa những thông tin trung thực nhất về những gì đang diễn ra tại Việt Nam. Các thông tin mà họ đưa ra đã làm đảo lộn tất cả, kể cả lòng tin của dân chúng Mỹ và nhân dân tiến bộ thế giới đối với chính quyền Giônxơn". Trên thực tế, Tết Mậu Thân đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược, kết thúc giấc mơ giành thắng lợi bằng việc leo thang chiến tranh của Mỹ. Tết Mậu Thân cũng đã làm cho nước Mỹ thức tỉnh và nhận thấy rằng, dù họ có lắm của nhiều tiền thì cũng không buộc một quốc gia dù nhỏ yếu phải quỳ gối đầu hàng, nếu như quốc gia đó có khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng.

Đánh giá về thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 đã chứng minh tính đúng đắn về chiến lược chiến tranh vì "trước Tết người Mỹ nghĩ họ có thể giành chiến thắng, nhưng sau Tết họ nghĩ điều đó là không thể". Khẳng định của tướng Giáp là hoàn toàn có cơ sở bởi ngay sau sự kiện Tết Mậu Thân, tình hình chính trị tại nước Mỹ đã có những thay đổi quan trọng, biểu hiện rõ nhất là trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1968, hay như cách nói của Đ. Obơđôphơ (Don Oberdorfer): "Tết Mậu Thân đã làm cho hệ thống chính trị của nước Mỹ rơi vào tình trạng do dự và lúng túng". Khẳng định của tướng Giáp hay nhận định của Đ.Obơđôphơ cũng là nhận định và đánh giá chung của không ít người, trong đó có cả các quan chức cấp cao của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc. Hốpxơ (Townsent Hoopes) - một trong những cố vấn thân cận của Tổng thống - khi nhận định về tác động của Tết Mậu Thân đối với nước Mỹ đã viết: "Các cuộc tiến công dịp Tết đã làm cho Nhà Trắng bối rối, thậm chí mất phương hướng, chính sự kiện đó đã dẫn tới sự sụp đổ của chính quyền Giônxơn và tạo nên bước ngoặt trong cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam", còn B.Brôđi (Bernard Brodie) - một nhà khoa học chính trị thì cho rằng: "Tết Mậu Thân không chỉ đơn giản là dấu mốc mà còn là nguyên nhân dẫn đến Mỹ phải chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam". D. Smitdơ (David F. Schmitz) thì cho rằng: "Tết Mậu Thân đã tác động mạnh đến các quan chức cấp cao của chính quyền Giônxơn và chính tác động đó đã buộc Giônxơn phải thay đổi chính sách về cuộc chiến tại Việt Nam, phải tuyên bố ngừng ném bom Bắc Việt Nam, tạo điều kiện cho việc nối lại các cuộc đàm phán hòa bình tại Pari và cuối cùng là buộc tổng thống phải rời Nhà Trắng".

Nói tóm lại, Tết Mậu Thân đóng vai trò quan trọng trong các quyết định của chính quyền Giônxơn và cả chính quyền Níchxơn sau này. Đó là sự kiện dẫn tới việc Mỹ phải từng bước rút quân khỏi Việt Nam và chấm dứt việc can thiệp quân sự tại khu vực Đông Nam Á. Theo cách nói của Đ.Smidơ: trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, cộng sản tuy có tổn thất trên chiến trường, nhưng Chính phủ Mỹ còn mất một cái lớn hơn, quan trọng hơn đó là lòng tin của nhân dân Mỹ. Tết Mậu Thân 1968 còn là bằng chứng chứng minh cho nước Mỹ thấy rằng: giành thắng lợi trong cuộc chiến tại Việt Nam là điều không thể. Tác động của nó cũng đã buộc Tổng thống Giônxơn phải ra đi, mở đầu cho "phi Mỹ hóa" rồi đến chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Níchxơn; tuy nhiên mọi nỗ lực của Mỹ thời kỳ sau Mậu Thân cũng chỉ là "sự kéo dài cơn hấp hối". Đối phương đã giành thắng lợi cuối cùng vào Xuân 1975.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #104 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 10:27:02 am »

VỀ SỰ ĐÁNH GIÁ CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CUỘC
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



PGS.TS. NGUYỄN MẠNH HÀ         
Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta năm 1968 là một sự kiện lịch sử trọng đại trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang giải phóng và nhân dân trên toàn miền Nam đã bí mật, bất ngờ đồng loạt tiến công và nổi dậy ở hầu hết các thành phố, thị xã, căn cứ, sân bay, kho tàng, bến cảng của Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn trên phạm vi toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra ba đợt trong năm 1968, đã làm thay đổi bộ mặt và chiều hướng của cuộc chiến tranh. Cho đến nay, nửa thế kỷ đã trôi qua, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn còn có ý kiến khác nhau trong đánh giá về những thành công cũng như khuyết điểm, tổn thất. Bài viết này nêu lên mấy suy nghĩ về sự đánh giá của Đảng đối với sự kiện lịch sử trên.

Để có cơ sở đánh giá, trước tiên cần nắm được những chủ trương và mục tiêu mà Đảng đề ra cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1968).

Về chủ trương, dùng lực lượng quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng đánh một đòn chiến lược táo bạo, bất ngờ vào đầu Xuân 1968 bằng hình thức tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm kết thúc chiến tranh.

Về mục tiêu, Nghị quyết nêu lên ba mục tiêu chủ yếu: Một là, tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền các cấp của địch, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; hai là, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị, quân sự của chúng ở Việt Nam; ba là, trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, hòa bình, dân chủ, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.

Qua diễn biến của ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy (tháng 1, tháng 5 và tháng 8-1968), có thể thấy, so với mục tiêu đề ra, quân và dân miền Nam đã đạt được một số kết quả chủ yếu sau:

- Đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, tạo ra một sự thay đổi đột biến trong cục diện chiến tranh; so sánh lực lượng chuyển biến theo hướng có lợi cho ta; làm đảo lộn thế bố trí chiến lược, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của địch, tiếp tục đẩy chúng lún sâu vào thế phòng ngự bị động, tiếp tục khẳng định và duy trì quyền chủ động chiến trường của quân và dân ta.

- Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã thực hiện một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào tất cả các thành phố, thị xã, căn cứ quân sự, sân bay, quân cảng, kho tàng... của kẻ thù, tạo nên nhân tố mới, thế trận mới. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tính đến thời điểm đó, chưa có cuộc tấn công nào đồng loạt và quy mô, gây cho địch hoàn toàn bất ngờ về chiến lược. Cuộc Tổng tiến công báo hiệu một thời kỳ mới, thời kỳ không còn nơi nào ở miền Nam là an toàn đối với địch.

- Đã làm lay chuyển tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải nhận ra một sự thực là không thể thắng Việt Nam về quân sự cho dù đã đưa nửa triệu quân đến miền Nam và đã mất gần ba năm để xoay chuyển tình hình. Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, phải tính đến giải pháp đàm phán một cách thực sự để giải quyết chiến tranh. Thất vọng và mệt mỏi về kết quả điều hành chiến tranh của mình, ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã phải lên đài truyền hình tuyên bố hạn chế ném bom miền Bắc, không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai, không gửi thêm quân chiến đấu Mỹ đến miền Nam, không mở tiếp cuộc phản công chiến lược lần thứ ba và cách chức Tổng Chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam của Oétmolen. Đây là sự thể hiện rõ ràng việc Mỹ đã thua về chiến lược.

- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy về cơ bản đã đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đưa cuộc kháng chiến sang một giai đoạn mới, mở ra khả năng hiện thực để "đánh cho Mỹ cút", tiến tới "đánh cho ngụy nhào", giành lại độc lập, thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc.

Như vậy, kết quả của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã minh chứng nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh kịp thời, kiên quyết và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, so với chủ trương, mục tiêu đề ra, có những nội dung không đạt được, thậm chí còn bị tổn thất nghiêm trọng về lực lượng và thế trận đối với cách mạng miền Nam. Điều này thể hiện rõ như sau:
Trên thực tế, cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa đã không diễn ra hoàn toàn như dự kiến. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy thì hoạt động nổi dậy của quần chúng nhân dân để phối hợp với tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng chưa thể hiện rõ và không mang tính phổ biến, chưa hỗ trợ hiệu quả cho tiến công. Lực lượng vũ trang bị tổn thất rất lớn.

Quân và dân ta đã không tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, không đánh đổ được chính quyền các cấp của địch, chưa giành được toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Trái lại, cơ sở cách mạng và địa bàn ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở khu vực nông thôn đồng bằng bị thu hẹp nghiêm trọng, khiến lực lượng vũ trang sau khi rút từ thành thị ra không còn đất đứng chân.

Tuy ta đã làm lung lay tận gốc nhưng chưa phải là đã đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và chưa đạt được mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước.

Không đạt được mục tiêu là giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn và không thực hiện được chủ trương: công - nông - binh liên hiệp... do ta đặt ra mục tiêu cao so với khả năng hiện thực và so với thực tiễn tình hình xã hội miền Nam lúc đó, nhất là ở trong vùng do quân Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn kiểm soát.

Đánh giá và lý giải về những mục tiêu không đạt được cũng như hạn chế, khuyết điểm của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 6-1970 đã phân tích rất rõ rằng: lúc này những khó khăn và tổn thất của ta, thế và lực cách mạng yếu đi chủ yếu không phải do quân địch mạnh mà do sai lầm và sơ hở của ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 10-1973, đánh giá: "Cuộc tổng tiến công chiến lược ấy đã giành được những thắng lợi rất to lớn buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự... Tuy nhiên, chúng ta cũng đã mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó (ý muốn nói đặt ra khả năng cao nhất cho đợt 1 - T.G); nhất là sau cuộc tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Níchxơn, cho nên ta gặp khó khăn trong một thời gian...".

Từ đánh giá trên đây, có thể minh chứng cụ thể hơn những "sai lầm lớn về chỉ đạo chiến lược" của Đảng ở các nội dung:

Thứ nhất, chủ quan trong đánh giá tình hình.

Thực tiễn đã chứng minh, sự chủ quan trong việc đánh giá tình hình của Đảng ta thường bộc lộ ở một số thời điểm có sự chuyển biến quan trọng của cách mạng, sau khi giành được thắng lợi, cuộc kháng chiến có sự phát triển tích cực, xuất hiện thời cơ mới... Ở những thời điểm này, ta thường có xu hướng đánh giá cao khả năng, lực lượng của mình, đánh giá thấp âm mưu và khả năng của đối phương. Ví dụ như trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do nhận thấy rằng Giải phóng quân Trung Quốc đang tiến công ào ạt quân Trung Hoa Quốc dân Đảng xuống miền Nam và có khả năng truy kích xuống cả miền Bắc Việt Nam, Đảng ta cho rằng đây là cơ hội để chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn tổng phản công, nên đã tổ chức huy động tối đa nhân tài vật lực để thực hiện sớm cuộc tổng phản công trong khi cuộc kháng chiến còn gặp nhiều khó khăn, thế và lực chưa đủ và thực tế là Giải phóng quân Trung Quốc chỉ dừng lại ở bên kia biên giới. Hoặc là việc đánh giá tình hình, thế và lực của ta sau thắng lợi to lớn của chiến dịch tiến công Biên giới Thu - Đông 1950 cũng không chính xác dẫn đến mở liên tiếp ba chiến dịch tiến công xuống trung du và đồng bằng không đạt yêu cầu đề ra.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta cũng bộc lộ sự chủ quan trong đánh giá tình hình, tin tưởng vào thắng lợi nếu đối phương nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Vì thế, Đảng đã chủ trương sử dụng biện pháp đấu tranh chính trị, đấu tranh hòa bình đòi đối phương thi hành Hiệp định để đối chọi lại với các hành động khủng bố tàn bạo những cán bộ, người dân yêu nước ở miền Nam của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Kết quả là phong trào cách mạng miền Nam bị tổn thất hết sức nặng nề trong những năm từ 1955 đến 1958.

Đến Tết Mậu Thân 1968, đặc biệt là sau kết quả của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, khi mà những khuyết điểm, sai lầm của đợt này còn chưa được khắc phục, Đảng vẫn chủ quan cho rằng "ta đang ở thế thắng, thế mạnh và có đủ lực lượng để thực hiện quyết tâm đánh thắng Mỹ trong bất kỳ tình huống chiến tranh nào". Và cũng vì lạc quan, thiếu cơ sở thực tiễn trong đánh giá tình hình sau đợt 1, nên ta quyết định mở thêm hai đợt tiến công quy mô lớn vào đô thị vào tháng 5 và tháng 8 nhưng không thành công, khiến cho thế và lực của cách mạng bị tổn thất nghiêm trọng, vùng nông thôn đồng bằng bị mất đất, mất dân, phải mất tới ba năm mới từng bước khôi phục được phong trào.

Thứ hai, không đánh giá hết âm mưu của địch.

Sau đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cho đến cuối năm 1970, việc không đánh giá hết âm mưu nham hiểm, thâm độc của kẻ thù đã làm cho cách mạng gặp những khó khăn, tổn thất không nhỏ. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, trong cuốn Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học đã chỉ ra: "Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ta còn tiếp tục mở thêm hai đợt tiến công nhằm vào các mục tiêu thành thị vào tháng 5 và tháng 8-1968... Ở đây cần chỉ rõ giới hạn sai lầm chính của ta là ở chủ trương tiếp tục lao vào tiến công trên hướng các thành thị trong lúc các yếu tố bất ngờ không còn nữa, sức ta đã đuối, trong khi đó địch đã thay đổi biện pháp chiến lược, từ "tìm diệt và bình định" sang "quét và giữ". Ngoài hành động điều quân Mỹ từ vòng ngoài cùng quân ngụy phía trong tập trung phòng giữ dày đặc và phản kích điên cuồng để chiếm lại và bảo vệ các thành thị, địch còn đẩy mạnh các chương trình bình định nông thôn để giành dân và phá căn cứ đứng chân của ta ở các vùng nông thôn lúc này đang bị ta bỏ lỏng. Các cơ sở chính trị của ta hầu hết đã bộc lộ trong cuộc tiến công và nổi dậy Tết, nên bị địch đàn áp, khủng bố. Lực lượng cách mạng vì thế mà bị thiệt hại lớn. Sau đợt Tết, sức ta đã xuống, chưa kịp thời xốc lại lực lượng và củng cố bổ sung, ta lại ráng sức mở các đợt tiến công tiếp theo vào những mục tiêu quân địch đã có đề phòng chặt chẽ nên hiệu quả tiến công thấp, mức độ tổn thất của quần chúng và lực lượng vũ trang càng thêm nặng. Thế và lực tiến công của ta càng sút giảm, cách mạng mất đất, mất dân trước những cuộc phản kích điên cuồng của địch nhất là bằng các chương trình bình định kế tiếp nhau của chúng. Chỗ đứng chân của chủ lực ta bị thu hẹp và đẩy lùi ở nhiều vùng rộng lớn. Tình hình khó khăn này kéo dài mãi cho đến đầu năm 1970 mới từng bước được phục hồi và ổn định".

Thứ ba, do chủ quan trong đánh giá tình hình, do không thấy hết khả năng và sức mạnh của kẻ thù, khả năng và hạn chế của ta, nên đã đề ra yêu cầu không sát và vượt quá khả năng thực tế.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Đảng đã đề ra một số yêu cầu phải đạt được vượt quá khả năng thực tế khi đó. Điều này thể hiện rõ vào thời điểm cuối năm 1967, đầu năm 1968, trong khi các lực lượng vũ trang cách mạng (gồm cả bộ đội từ miền Bắc đưa vào) chỉ có hơn 27 vạn người, thì tổng số quân địch lên tới 1,1 triệu (quân Mỹ: khoảng 500.000, quân đồng minh của Mỹ: 50.000, quân đội Sài Gòn: 550.000), tức là lực lượng của ta chỉ bằng ¼ lực lượng địch, chưa kể địch có vũ khí, hỏa lực, phương tiện chiến tranh và khả năng cơ động vượt trội. Vậy mà ta lại đặt ra khả năng cao nhất cho đợt 1 là giành thắng lợi dứt điểm trong thời gian tương đối ngắn.

Thêm nữa, cả ba đợt, quân ta đều tiến công vào đô thị, vào nơi mạnh nhất của địch, trong khi tính bất ngờ không còn. Rõ ràng là "ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời". Vũ khí, trang thiết bị, đạn dược do phải chuyển vào trong điều kiện giữ bí mật nên số lượng không nhiều so với quy mô cuộc tiến công trong các đô thị lớn đủ cho thấy sự bất cập trong đảm bảo hậu cần, kỹ thuật, cứu chữa thương bệnh binh; trong khi đó, ta lại không chú ý đúng mức để điều chỉnh hoạt động ở khu vực nông thôn đồng bằng. Vì thế, đây là một sai lầm trong chỉ đạo. Đảng đề ra chủ trương và mục tiêu thực hiện lớn nhưng sự chỉ đạo chuẩn bị để đáp ứng đủ và hiệu quả cho yêu cầu trên lại chưa tập trung, chưa tương xứng; có nội dung đề ra theo ý chí chủ quan, chưa tính đủ các điều kiện đảm bảo thắng lợi. Việc chỉ đạo phối hợp giữa tiến công quân sự với chuẩn bị để nhân dân nổi dậy không đầy đủ nên hiệu quả không rõ rệt.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã để lại những bài học kinh nghiệm quý giá. Bên cạnh những thành công, kết quả to lớn đạt được, thì những hạn chế, khuyết điểm trong việc đề ra chủ trương và chỉ đạo thực hiện của Đảng cũng cho thấy, sau mỗi lần giành được thắng lợi, cần phải tỉnh táo, sáng suốt đánh giá, nhận định tình hình phát triển mới, so sánh lực lượng địch - ta trên chiến trường và xu thế cuộc chiến tranh để đề ra chủ trương phù hợp và kế hoạch sát đúng với thực tế tình hình, tránh chủ quan, duy ý chí, gây khó khăn, tổn thất cho cách mạng.

Thành công và thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chính là cơ sở quan trọng đảm bảo cho Đảng ta rút được các kinh nghiệm hữu ích để tiếp tục đề ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp, từ đó tạo ra những bước ngoặt, đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi cuối cùng. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng ta có những lúc mắc sai lầm khuyết điểm, đây là điều hết sức bình thường. Chính vì thế, việc chỉ ra, phân tích những thắng lợi, hạn chế để từ đó rút ra kinh nghiệm, vận dụng vào thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là điều rất cần thiết.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #105 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 10:30:22 am »

KÝ ỨC NHỮNG THÁNG NGÀY CHUẨN BỊ TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
TẾT MẬU THÂN 1968 TRÊN "ĐẤT THÉP" VEN ĐÔ



LÊ QUANG THÀNH
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng,
nguyên Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam,
nguyên Bí thư Đặc Khu ủy Vũng Tàu - Côn Đảo


Cuối tháng 3-1965, Đoàn Thanh niên nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ nhất, bầu Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa I, tôi được bầu làm Bí thư Trung ương Đoàn.

Sau Đại hội, tôi được tập thể phân công về triển khai Nghị quyết Đại hội và chỉ đạo công tác tại T4 tức Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định. Lúc bấy giờ, Khu đoàn gồm nhiều bộ phận, chia nhau đóng ở vùng "Đất thép" ven đô, chủ yếu ở các huyện Củ Chi (Gia Định), Bến Cát (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh). Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, chuyển sang thành "chiến tranh cục bộ". Trên địa bàn ven đô, tuy chiến tranh đã diễn ra cực kỳ ác liệt nhưng quân và dân ta, Mặt trận Dân tộc Giải phóng còn giữ được nhiều cụm rừng khá rậm rạp, còn những xóm làng, vườn cây, nhà cửa sầm uất để bám trụ và làm căn cứ đánh địch. Khu đoàn xây dựng được nhiều căn cứ khá an toàn ở các xã An Thành, Thanh Tuyền (Bến Cát), An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức (Củ Chi). Trong các căn cứ đó, cuộc sống và hoạt động cách mạng vẫn tấp nập, sôi nổi, hào hùng, việc ra vào nội thành vẫn thuận lợi với những đường dây giao liên chặt chẽ, chu đáo... Công tác tại đây gần hai năm, đến cuối năm 1966 tôi trở về cơ quan Trung ương Đoàn.

Tháng 11-1967, được Ban Thường vụ Trung ương Cục và Ủy ban Trung ương Mặt trận phân công, tôi trở lại vùng "Đất thép" ("Tam giác sắt" - Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát) để chuẩn bị cho một hoạt động mới, một chiến dịch lớn lúc bấy giờ chưa được công bố tên. Xa nơi đây mới gần một năm, mà khi trở lại tôi chứng kiến những đổi thay của cảnh vật đến ngỡ ngàng. Trước mắt, quanh tôi là cả một vùng bình địa, không còn những cụm rừng, những vườn cây rậm rạp. Hầu hết nhà của dân, do bị đạn pháo địch bắn hư, đánh sập, phải thu gom gọn lại thành những chòi, trại nép mình dưới vài tán cây lưa thưa. Nhiều nhà dân phải âm xuống đất, tức đào hầm rộng, lát gỗ và phủ đất bên trên, cả gia đình ở dưới hầm để tránh bom pháo do địch bắn bất ngờ, không theo quy luật nào. Đi ra đồng, ra vườn, mọi người phải ngụy trang, và chỉ đi làm từ xế chiều lúc địch không còn càn quét, máy bay, trực thăng không còn quần đảo trên đầu. Đã từ lâu, đây là vùng tự do oanh kích của địch. Hễ phát hiện một dấu hiệu tình nghi hoạt động của Việt cộng ở đâu thì địch dùng pháo bầy bắn cấp tập, hoặc cho máy bay dội bom, bắn phá tan nát tới nơi đó. Mỗi tấc "Đất thép", một mảnh đạn bom. Ý đồ của địch là chà đi xát lại, đánh ráo riết vùng vành đai thép, biến thành vùng trắng để Việt cộng không còn chỗ dựa bám tấn công chúng, bảo đảm đầu não của chúng được an toàn. Nhưng chúng đã lầm to.

Quân và dân, trong đó có đoàn viên và thanh niên vùng "Đất thép", mới gần một năm rưỡi đụng đầu với quân xâm lược Mỹ đã nắm được quy luật hoạt động của chúng, đã sớm thích nghi với hoàn cảnh mới của "chiến tranh cục bộ", quyết tâm bám đất giữ làng, kiên quyết bám trụ trên "Đất thép" để đánh và tiêu diệt địch. Ngày tôi trở lại vùng "Đất thép", cũng là lúc nhiều đoàn cán bộ quân - dân - chính cấp trên về đây, để chuẩn bị cho chiến dịch. Tôi trực tiếp liên hệ làm việc với Phân khu đoàn (Phân khu 1) và các Huyện đoàn Củ Chi, Trảng Bàng. Nhiệm vụ của Đoàn là rà soát lại, củng cố tổ chức các Xã đoàn, nắm chắc lực lượng thanh niên có chân trong các đội du kích, số còn lại Đoàn tập hợp thành các đội dân quân - lúc bấy giờ hằng ngày được phân công canh gác, hằng đêm làm dân công khiêng tải vũ khí đạn dược hoặc thu dọn chiến trường khi có các trận đánh nhau giữa ta và địch. Những cán bộ Đoàn mà tôi thường xuyên đi lại giao tiếp để làm việc là các đồng chí Chín Bình - Bí thư, Tư Tươi - Thường trực Phân khu đoàn 1, Hai Bắc - Bí thư Huyện đoàn Củ Chi, Năm Cương - Bí thư, Tư Tròn (nữ) - Thường trực Huyện đoàn Trảng Bàng; tôi còn thường xuyên liên hệ với Ban Thường vụ Phân khu ủy 1 để kịp thời nắm những thông tin, chủ trương chỉ đạo của Đảng. Gần một tháng chuẩn bị, chúng tôi đi lại, làm việc trong một tình hình cực kỳ căng thẳng, chỉ gặp nhau hội họp, làm việc vào buổi chiều và ban đêm vì ban ngày phải đối phó với những cuộc càn quét thường xuyên của địch.

Căng thẳng nhất là những ngày đầu khi tôi trở lại vùng "Đất thép" Củ Chi. Kịch tính nhất là những cuộc xuống hầm bị động, suýt chết, đã để lại những kỷ niệm nhớ đời.

Từ sáng sớm tôi và đồng chí Chín Bình, Bí thư Phân khu đoàn, mỗi người đều có một cận vệ, sang ấp Đồng Lớn (xã Trung Lập Thượng) để làm việc với đồng chí Hai Bắc, Bí thư Huyện đoàn Củ Chi. Làm việc được khoảng hai tiếng trong tình hình yên ả, đến khoảng 9 giờ trực thăng ào ào kéo đến, đổ quân chụp xuống ngay giữa hai ấp Đồng Lớn và ấp Ráng xã Trung Lập Thượng. Quá bất ngờ, tôi nhớ lại là khi mới đến quên hỏi vấn đề hầm bí mật phòng khi bị địch càn. Lúc bấy giờ đồng chí Hai Bắc trấn tĩnh chúng tôi: "Các anh theo chúng tôi, có hầm đủ sức chứa các anh". Giao tất cả tài liệu cho đồng chí Hai Bắc cất giấu, chúng tôi theo anh ra hầm. Cả sáu người (ba chúng tôi và ba cận vệ) ra đến hầm, cũng là lúc địch đã đổ xong quân xuống cánh đồng giữa hai ấp. Đáng lý nếu còn kịp thì đồng chí Hai Bắc phải chạy về một hầm riêng cách xa đó để chúng tôi được rộng rãi ở hầm này. Nhưng không kịp, nên đồng chí Hai Bắc phải ở lại cùng với chúng tôi. Sáu người xuống một hầm chỉ đủ chứa bốn, năm người thì quá chật, nhưng trong hoàn cảnh bức bách đành phải chịu. Đồng chí Chín Bình lại xin được "ưu tiên" xuống sau cùng, trấn miệng hầm để được hít thở thoải mái vì đêm qua đồng chí thức gần như suốt đêm đi công tác cùng với anh em thanh niên dân quân xã Phước Hiệp, đang rất mỏi mệt.

Sau khi mọi người đã xuống hầm, đồng chí Chín Bình đóng sập nắp hầm. Mọi người dặn dò, động viên nhau phải ráng chịu đựng, và phải rất trầm tĩnh vì kinh nghiệm nếu trong tình cảnh như vậy mà hoảng sợ thì càng gây oi bức, ngột ngạt trong hầm. Thỉnh thoảng, đồng chí Chín Bình hé nắp hầm để nghe ngóng tình hình địch và tranh thủ thở. Đồng chí báo cho biết là chưa nghe tiếng địch đi về phía Đồng Lớn. Mọi người thở phào. Nhưng độ một tiếng sau, đồng chí Chín Bình kêu mệt, đuối sức. Đồng chí đề nghị cho mở nắp hầm, nếu không thì đồng chí bị ngộp. Vả lại, đồng chí Chín Bình nói, địch chắc là đi càn về ấp Ràng, không đi về hướng chúng ta. Đồng chí Chín Bình được hé mở nắp hầm, đôi lúc thò đầu lên để thở, nhưng mọi người dưới hầm cứ phải ngồi yên vì từ xa còn nghe tiếng súng, tiếng trái nổ, tiếng trực thăng quần đảo. Tình trạng như thế kéo dài suốt buổi sáng đến khoảng ba giờ chiều thì địch rút về hết, mọi người mới lên khỏi hầm. May quá hôm ấy địch chỉ càn ở ấp Ráng. Thật là hú vía cho chúng tôi.

Chiều hôm đó tôi trở về cơ quan Phân khu Đoàn ở ấp Sa Nhỏ, chúng tôi trao đổi rút kinh nghiệm và tôi đã cẩn thận đi kiểm tra căn hầm mà các đồng chí Phân khu đoàn đã dành cho chúng tôi. Những ngày sau đó, địch chỉ đổ quân càn ở các xã xung quanh.

Xã Trung Lập Thượng được yên ít hôm, thì bỗng một hôm, khoảng 5 giờ sáng, mọi người vừa thức dậy, tư thế sẵn sàng như thường lệ, thì đã nghe tiếng trực thăng bầy sầm sập bay về ấp Sa Nhỏ. Chúng bay sát ngọn cây, qua ngay trên đầu chúng tôi. Trong chớp nhoáng, chúng đã đổ quân trên cánh đồng đầu ấp. Hầm dành cho chúng tôi cũng ở phía đầu ấp, nếu chạy lên hầm thì sẽ đụng địch. Làm sao? Nguy quá! Bị động bất ngờ rồi! Đồng chí Tươi trấn tĩnh nói: "Không sao, chúng tôi còn có hầm dự phòng cho anh". Cất giấu tài liệu xong, tôi và đồng chí Công, cận vệ, theo chân đồng chí Tư Tươi chạy nhanh ra hầm dự phòng.

Đến miệng hầm, vừa giở nắp thì... Trời ơi! Dưới hầm đã có một cậu thanh niên. Chết rồi, sao vậy, Tư Tươi? Tôi kêu trời. Đồng chí Tư Tươi la khe khẽ - Cậu ở đâu mà biết và chiếm hầm của tụi tui? Lên mau! Cậu thanh niên hoảng quá leo lên. Tư Tươi cho biết, cậu này là thanh niên trốn lính, chiếm nhầm hầm của cơ quan. Tình huống thật là gay go, nhưng tôi và đồng chí Công cận vệ phải nhanh chóng xuống hầm vì nếu chần chờ, địch đến thì nguy, hoặc có ai đi qua đây nữa thì miệng hầm bị lộ, không còn an toàn. Cậu thanh niên năn nỉ: "Hầm còn rộng lắm các anh cho tôi xuống cùng, nếu chạy đụng địch thì chết mất". Tôi nghĩ ngay, nếu để cậu ta chạy bị địch bắt, cậu ta lại dẫn địch chỉ hầm thì càng nguy to. Tôi đề nghị Tư Tươi cho cậu thanh niên ở lại với chúng tôi. Tư Tươi đồng ý và đậy nắp hầm, nghi trang giúp chúng tôi. Chúng tôi xếp chỗ cho cậu thanh niên và tôi khẽ dặn dò cậu ta: "Ở đây phải tuyệt đối theo lệnh của tôi. Phải thật bình tĩnh. Có tình huống gì thì để chúng tôi đối phó". Mấy ngày qua, tôi đã quán triệt với đồng chí Công, cận vệ: "Khi ở dưới hầm, nếu lỡ bị địch phát hiện thì phải tỉnh táo kiên quyết chống lại. Phải sẵn sàng các quả lựu đạn để tung lên - khi địch phát hiện, súng AK phải lên đạn sẵn, lên khỏi miệng hầm phải nhắm đúng phía địch mà ria... một mất một còn, thoát chạy hoặc hy sinh, không để địch bắt sống...". Cậu thanh niên im lặng, chúng tôi nghe ngóng tình hình, căng thẳng từng giây, từng phút. Khoảng chưa đầy 15 phút, bỗng lại nghe tiếng động nhẹ mỗi lúc một gần, và... tiếng động vỗ nhẹ trên nắp hầm kèm tiếng gọi khe khẽ: "Mày ở dưới đó phải không?" - Chết thật! Như vậy là thế nào? Tôi hỏi cậu thanh niên dưới hầm. - "Nó cùng tôi thường xuống hầm này, nên hôm nay nó cũng đến như mọi lần". Nguy hiểm quá! Nhưng biết làm sao! Nếu lên tiếng không cho nó xuống, nó lại chạy lung tung, bị địch bắt thì càng tai hại, thôi thì cứ cho nó xuống.

Cậu thanh niên thứ hai mới xuống hầm đã tỏ ra ngạc nhiên sao trong hầm có đến ba người. Tôi khẽ hỏi: "Có ngụy trang lại kỹ nắp hầm chưa?" và ra lệnh như đối với cậu thanh niên trước. Thế là hầm dành cho hai người bất đắc dĩ chứa bốn người. Cậu thanh niên mới xuống hầm cho biết là địch rất đông, còn càn quét lùng sục dữ dội trong ấp, nhưng không đi về phía chúng ta. Từ dưới hầm, chúng tôi nghe văng vẳng tiếng trực thăng đang bay lượn hỗ trợ cuộc càn của bộ binh, thỉnh thoảng lại nghe tiếng nổ lớn, có thể là chúng đánh trái.

Đã 12 giờ trưa mà tiếng động của cuộc càn vẫn chưa dứt. Nhớ lại sáng sớm, chưa kịp ăn uống gì đã chạy càn, bây giờ mới thấm đói. Hai cậu thanh niên ngồi im, tựa vào nhau, cảm giác bây giờ cái hầm không còn chật hẹp như lúc mới xuống. Sợ các cậu ngủ, tôi khẽ dặn dò "không được ngủ, phải để cho tinh thần thật tỉnh táo, nếu có tình huống xảy ra thì đối phó kịp thời". 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ, rồi 4 giờ... mà địch vẫn chưa rút. Mãi gần 5 giờ mới nghe im tiếng súng, tiếng nổ, tiếng trực thăng.

Đồng chí Công - cận vệ, hé nấp hầm nghe ngóng, xác định địch đã rút hẳn. Chúng tôi thở phào, thoáng mát biết bao khi thoát khỏi hầm lên hưởng không khí trong lành trên mặt đất, sau ngót 12 tiếng đồng hồ ngột ngạt dưới hầm. Đồng chí Tư Tươi đón tôi, trên đường về cơ quan đã nói lời xin lỗi và tự phê bình: "Chúng tôi có lỗi và thiếu sót quá, xin anh Tư bỏ qua cho" và đồng chí giải thích: "Hầm là của cơ quan đào, nhưng một số thanh niên phát hiện thấy gần đây mình không dùng, họ tưởng mình bỏ, họ chiếm". Chiều và tối hôm đó, sau khi chia nhau đi thăm hỏi và giúp đỡ đồng bào trong ấp nơi địch đã càn qua, chúng tôi họp kiểm điểm rút kinh nghiệm về việc bảo đảm an toàn cho các hầm trú ẩn.

Những ngày sau đó, cho đến cuối tháng 11 tôi được đưa về ấp Đồng Lớn ở tại nhà ông Chín Quỳnh, hội viên Nông hội. Gần nhà ông Chín, Phân khu đoàn có đào một hầm bí mật dành cho chúng tôi. Ở đây tôi chỉ đi làm việc, hội họp từ 3 - 4 giờ chiều đến đêm, vì ban ngày không thể đi lại an toàn, luôn phải nơm nớp đối phó với những cuộc đổ quân càn quét bất ngờ của địch với những trận pháo bầy, với những đợt oanh kích của máy bay. Có đêm tôi phải đi làm việc xa tận các xã ven đường số 1, gần các đồn bốt; có lần về sát Đồng Dù xã Phước Vĩnh An. Họp hành thông thường phải ở dưới hầm với nhiều ngóc ngách địa đạo phòng khi bị địch úp chụp bất ngờ thì còn có đường bí mật rút đi, không trồi lên mặt đất. Đêm nào cũng tận 12 giờ, 1 giờ mới về đến nhà, 4 giờ sáng đã phải thức dậy. Thế mà có hôm, sáng sớm chúng tôi chưa kịp ăn sáng địch đã đổ quân xuống càn, chúng tôi phải nhịn đói ngồi hầm gần suốt cả ngày. Lúc đầu chúng tôi cảm thấy rất căng thẳng, nhưng rồi cũng sớm thích nghi với nhịp độ của cuộc chiến tranh, với cuộc sống hằng ngày của quân và dân địa phương. Mặc cho địch tập trung đánh phá cực kỳ ác liệt vùng "Đất thép" bằng mọi phương tiện chiến tranh, bằng mọi thủ đoạn tinh vi thâm độc, quân và dân, trong đó có đoàn viên và thanh niên vùng này vẫn "một tấc không đi, một ly không rời", vững vàng bám đất, đánh địch giữ làng.

Trong hoàn cảnh chung đó, đoàn viên và thanh niên luôn tỏ ra xứng đáng là tuổi trẻ của "Đất thép" anh hùng, có nhiều sáng kiến, rất thông minh, dũng cảm đánh và diệt địch, lập công, đi đầu trong phong trào thi đua diệt Mỹ. Địch càng đưa nhiều quân Mỹ đến chiến trường này thì phong trào thi đua diệt Mỹ càng nở rộ, càng xuất hiện nhiều dũng sĩ diệt Mỹ trên "Đất thép", đa số là đoàn viên và thanh niên.

Đúng vào đêm giao thừa và đêm mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 và 31-1-1968) cùng với quân và dân toàn miền Nam, quân và dân, đoàn viên và thanh niên "Đất thép" đã đồng loạt tổng tiến công bằng cả ba mũi chính trị, binh vận, vũ trang, đánh vào các đồn bốt, căn cứ, huyện lỵ của địch ở Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng. Địch bị bất ngờ, co cụm để tìm cách đối phó. Chúng hết sức hoang mang dao động, vì với lực lượng rất mạnh, với nhiều vũ khí rất hiện đại mà lại bị ta đánh bất ngờ ngay những nơi là sào huyệt hết sức kiên cố của chúng, ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị suy sụp nghiêm trọng. Trái lại, qua cuộc tổng tiến công, quân và dân ta càng vững tin ở khả năng sức lực của bản thân, ở chiến thắng trong tương lai.

Đoàn viên và thanh niên vùng "Đất thép" rất tự hào được trực tiếp làm lực lượng xung kích trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, một cuộc Tổng tiến công lịch sử gây tiếng vang cả thế giới, giành thắng lợi vẻ vang, tạo thêm thế và lực để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #106 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 10:38:18 am »

TRUYỀN THỐNG ĐỒNG LÒNG, CHUNG SỨC, QUẬT KHỞI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM -
SỰ KẾ THỪA VÀ BỒI TỤ TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tá, ThS. CÔNG PHƯƠNG KHƯƠNG
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử quân sự Cổ - Trung - Cận đại,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi này không chỉ tạo ra một cú sốc lớn làm chấn động nước Mỹ mà còn buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận đàm phán về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Cùng với thời gian, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ngày càng được khẳng định trên nhiều khía cạnh, góc độ trong đó có sự kế thừa và bồi tụ truyền thống đồng lòng, chung sức, quật khởi của dân tộc Việt Nam.

Nằm ở vị trí địa - chiến lược quan trọng của khu vực Đông Nam Á, trải dài bên bờ Thái Bình Dương, nối liền với lục địa châu Á, là điểm nút trên con đường giao lưu văn hóa Đông - Tây, Nam - Bắc, tiếp liền Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, cư dân người Việt Nam trên dải đất hình chữ S đã sớm xây dựng được một nền văn hóa bản địa đặc sắc và hình thành quốc gia dân tộc. Địa lợi mang lại cho dân tộc Việt Nam tiềm năng và cơ hội phát triển, nhưng cũng đặt ra bao thử thách, nguy cơ. Để giành và giữ nền độc lập dân tộc, các thế hệ người Việt Nam đã liên tục tiến hành nhiều cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống quân xâm lược. Đó là lúc ý chí độc lập, tự chủ, thống nhất đất nước, truyền thống đồng lòng, chung sức, quật khởi của dân tộc được hun đúc và phát huy cao độ, tập trung tất cả nỗ lực giành lấy thắng lợi có ý nghĩa quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của các thế lực ngoại xâm.

Nhìn lại lịch sử dựng nước và giữ nước kiên cường của dân tộc Việt Nam, cuộc đấu tranh chống chính quyền Đông Hán đô hộ do Hai Bà Trưng lãnh đạo diễn ra trên đất Việt gần 2.000 năm trước "là một hiện tượng hết sức độc đáo trong lịch sử dân tộc và hiếm có trong lịch sử thế giới cổ đại". Đây là cuộc kháng chiến đầu tiên được tổ chức bởi một chính quyền độc lập, tự chủ và là sự mở đầu cho một hành trình đấu tranh liên tục, bền bỉ, ngoan cường giành độc lập, tự chủ của cộng đồng cư dân Việt.

Trong gần một thế kỷ tiếp nối, các thế hệ người Việt luôn kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, khẳng định vị thế, bản lĩnh của một dân tộc trước âm mưu và dã tâm thôn tính, đồng hóa của các thế lực ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, sức mạnh của cả nước được huy động và phát huy trong một trận thủy chiến, chặn đứng và đánh tan đạo quân xâm lược Nam Hán ngay tại vùng địa đầu Tổ quốc; nhanh chóng đập tan những nỗ lực để thiết lập lại ách đô hộ, "chấm dứt vĩnh viễn nền thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc ta". Lần đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, thế "thiên hiểm" của vùng cửa biển Bạch Đằng được Ngô Quyền khai thác tài tình để giành chiến thắng, để lại "tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ". Cũng tại vùng cửa biển hiểm yếu này, truyền thống thạo thủy chiến thêm một lần được vận dụng và thể hiện sức mạnh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (980-981). Với sự phối hợp, dốc sức của các tầng lớp nhân dân, thuyền chiến của Lê Hoàn đã bịt chặt sông Bạch Đằng, khiến tướng nhà Tống là Lưu Trừng lo sợ, phát bệnh mà chết.

Sức mạnh vật chất và tinh thần, đặc biệt là tinh thần yêu nước, ý chí độc lập và tinh thần quật khởi của một dân tộc đang ở khí thế vươn lên đã được phát huy cao độ vào cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược (1075-1077). Dưới sự chỉ huy của danh tướng Lý Thường Kiệt, mùa Xuân năm 1077, quân dân Đại Việt chủ động xuất binh "ban đêm sang sông đánh úp, đại phá được. Quân Tống 10 phần chết đến 5, 6". Sự đồng lòng, chung sức và quật khởi của quân dân Đại Việt đã làm nên chiến thắng Như Nguyệt, giáng một đòn quyết định làm phá sản hoàn toàn kế hoạch xâm lược nước ta của nhà Tống.

Vào thế kỷ XIII, vó ngựa Mông Cổ đã tung hoành khắp châu Á, châu Âu, dựng lên một đế chế rộng lớn chưa từng có trong lịch sử, nhưng đã phải dừng bước trong cả ba lần tiến vào Đại Việt. Chỉ trong một ngày (29-1-1258), quân thủy Đại Việt đã đánh bại đạo quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy. Cũng chỉ trong một tuần đầu mùa Hè (1285), với quân thủy làm nòng cốt, những trận thắng lớn liên tiếp trên bến Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết... còn vang vọng trong những vần thơ hào sảng của Thượng tướng, Thái sư Trần Quang Khải: "Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù"... Vua tôi nhà Trần đã đồng lòng, chung sức thực hiện đòn chí mạng vào tham vọng của quân xâm lược, buộc quân Nguyên phải rút lui và tiếp tục bị đánh thiệt hại nặng trên đường rút chạy. Khói lửa của cuộc kháng chiến chống Nguyên (1285) còn chưa kịp lắng xuống, quân dân nhà Trần lại phải bước vào một cuộc chiến tranh gay go, ác liệt hơn. Vết thương chiến tranh chưa kịp hàn gắn, tiềm lực quốc gia tích lũy chưa được bao nhiêu, thời gian chuẩn bị cũng không nhiều... đã đặt ra những thử thách, nguy cơ trước sự tồn vong của quốc gia - dân tộc. Song cũng chính trong thời điểm ngặt nghèo, truyền thống đồng lòng, chung sức, quật khởi của dân tộc Việt Nam lại được phát huy cao độ. Trên khắp thôn cùng xóm vắng, hào khí chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử vẫn nức lòng người. Quân dân Đại Việt được trui rèn qua khói lửa chiến tranh, kinh nghiệm và tinh thần chiến đấu còn nóng hổi, khí thế và niềm tin chiến thắng còn dạt dào, tạo nên sức mạnh quan trọng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Bằng những chính sách hợp lý, nhà Trần đã động viên, huy động "cả nước nhà góp sức", đoàn kết toàn dân "tạo thành một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân là lính, cả nước đánh giặc". Kế thừa kinh nghiệm của Ngô Quyền (năm 938), Lê Hoàn (năm 981), bằng việc lợi dụng thế "thiên hiểm" của vùng cửa biển Đông Bắc, Quốc công Tiết chế, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chủ động mở trận quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng. Kinh nghiệm của những người dân đã "quen việc chiến trận" kết hợp với chiến lược quân sự đúng đắn của Bộ Chỉ huy kháng chiến, sức mạnh toàn dân tộc được tập trung và phát huy đến cao độ, làm nên những chiến công vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia, mở ra hơn một thế kỷ hòa bình tiếp theo trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

 Thế kỷ XV ghi đậm dấu ấn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống ách đô hộ của nhà Minh (được ví như lần Bắc thuộc thứ hai trong lịch sử Việt Nam). Phát triển từ một cuộc khởi nghĩa dân tộc thành chiến tranh giải phóng quy mô lớn, nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và bộ thống soái thuộc quyền tài ba thao lược diễn ra bền bỉ, liên tục suốt 10 năm. Ý chí, nghị lực và khát vọng giành độc lập tự chủ của một dân tộc phải chịu ách đô hộ bạo tàn của nhà Minh trong suốt 20 năm đã hun đúc và kết tinh trong những trận quyết chiến chiến lược. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động (cuối năm 1426) đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh, đẩy quân Minh lún sâu vào thế phòng ngự bị động. Tiếp đó, chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang (1427) đã hoàn thành trọn vẹn khát vọng về một nền hòa bình, độc lập, tự chủ, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử Việt Nam.

Hai cuộc kháng chiến chống Xiêm (Thái Lan) và chống Thanh (Trung Quốc) liên tiếp trong thập kỷ 80 của thế kỷ XVIII do người anh hùng "áo vải" Nguyễn Huệ lãnh đạo mang một sắc thái mới. Từ một cuộc khởi nghĩa nông dân chống phong kiến phát triển thành phong trào dân tộc, những nghĩa sĩ Tây Sơn vươn mình đảm trách nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm. Chỉ trong vòng một ngày (19-1-1785), với chưa đầy 30.000 quân, bằng trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã "quét sạch quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ nước ta, thu hồi toàn bộ những vùng đất đã bị chiếm đóng và làm tiêu tan tham vọng của quân Xiêm đối với vùng lãnh thổ phía nam Đại Việt".

Bốn năm sau, trận quyết chiến chiến lược Xuân Kỷ Dậu (1789) tiếp tục ghi thêm một mốc son chói lọi trong lịch sử quân sự Việt Nam. Là trận quyết chiến trên hướng chủ yếu tiến công chính diện vào các mục tiêu then chốt trong hệ thống phòng thủ phía nam Thăng Long của quân Thanh, trận Ngọc Hồi đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ nhất của địch. Phát huy thắng lợi, chỉ trong một thời gian ngắn, trên hướng thứ yếu, quân Tây Sơn đã tập trung nỗ lực thực hành vu hồi, thọc sâu bất ngờ, đánh thẳng vào cửa ngõ Kinh thành Thăng Long, trực tiếp uy hiếp bộ chỉ huy đầu não của đối phương. Với quyết tâm và ý chí "đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ" (đánh cho sử sách biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ), chiến thắng Đống Đa vào rạng sáng ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu (1789) đã giáng đòn quyết định, nhanh chóng đập tan cuộc tiến công chiến lược của quân Thanh, đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù. Các trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa thực sự là một trong những "vũ công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta", biểu hiện tập trung của ý chí quyết chiến, quyết thắng và bản lĩnh chiến đấu của quân đội Tây Sơn với sự tham gia ủng hộ mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân.

Nhìn lại mấy nghìn năm kiên cường chống ngoại xâm phương Bắc, phương Nam, những trận quyết chiến chiến lược chính là sự bồi đắp, kết tinh và trỗi dậy của cả một dân tộc, cũng là sức mạnh của tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường, quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm, khát vọng độc lập, tự chủ và hòa bình của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo và tổ chức của những người Việt Nam ưu tú, sức mạnh kỳ diệu đó được huy động và nhân lên gấp bội, để lần lượt đánh bại mọi thế lực ngoại bang xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, bờ cõi quốc gia, mở ra những kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.

Thế kỷ XIX và thế kỷ XX đánh dấu một trang mới trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, anh dũng của quân và dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Đó là "thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới". Với quyết tâm "đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng" , Việt Nam đã huy động 86.800 người (gồm 53.800 quân và 33.000 dân công, thanh niên xung phong phục vụ hỏa tuyến) và 20.125 tấn vật chất các loại bảo đảm cho chiến dịch. Bất chấp hàng trăm tấn bom rải xuống các trục lộ giao thông, con đường tiếp vận cho các lực lượng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ chưa bao giờ ngưng trệ. Chính H. Nava - Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đã phải thốt lên: "sức mạnh to lớn của Việt Minh nằm trong sức mạnh huyền thoại của dòng giống người Việt, lòng yêu nước và nhất là ý thức xã hội mà họ đã xây dựng được. (...) Chính phủ Việt Minh đưa cuộc chiến vào tất cả các lĩnh vực - chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội và quân sự - tạo ra một động lực hết sức mạnh mẽ". Và một lần nữa, các nhà quân sự Pháp được đào tạo bài bản cũng buộc phải thừa nhận "kỹ thuật lại bị thua bởi những con người có tâm hồn và một lòng tin". Lịch sử một lần nữa minh chứng không phải các phương tiện kỹ thuật hiện đại mà chính là "sự thông minh và ý chí của đối phương"  đã bịt kín lối thoát trong danh dự của giới hiếu chiến Pháp trên chiến trường Đông Dương.

Song hòa bình vẫn chưa thật sự trọn vẹn, non sông chưa thu về một mối, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục sự nghiệp trường chinh chống Mỹ, cứu nước. Để giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, giáng một đòn quyết liệt vào dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ, trong vòng nhiều năm các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã nỗ lực, kiên trì xây dựng thế trận, tạo thế và lực sẵn sàng chớp thời cơ. Thực hiện mục tiêu và khát vọng lớn lao, từ đầu năm 1967, cán bộ, đảng viên liên tục được bí mật tăng cường vào các thành phố, thị xã nhằm điều nghiên mục tiêu, gây dựng cơ sở, tạo chỗ đứng chân, bảo đảm vật chất cho các hoạt động chiến đấu, xây dựng hệ thống hầm chứa vũ khí và vận chuyển vũ khí từ căn cứ vào ém sẵn trong nội thành, phục vụ yêu cầu tác chiến. Các cơ sở cách mạng bí mật được hình thành, chỉ tính riêng Sài Gòn - Chợ Lớn, Ban Bảo đảm thuộc biệt động thành đã xây dựng được 19 "lõm" chính trị, "lõm" căn cứ gồm 325 gia đình công nhân và lao động trung kiên. Điển hình như nhà số 15 Nguyễn Bình Khiêm (Quận 1), nhà 436/58 Lê Văn Duyệt (Quận 3), căn nhà 183/4 đường Trần Quốc Toản (Quận 4) hay các cơ sở cách mạng ở Nhi Tỳ Quảng Đông, đường Trần Quốc Thảo (Quận 3), Cao Đạt (Quận 5), Minh Phụng, Cây Gõ (Quận 6), Trường đua Phú Thọ (Quận 11)... Bên cạnh đó lực lượng quần chúng yêu nước, nhất là các nhân sĩ, trí thức được các tổ chức như trí vận, Hoa vận, công vận, phụ vận... bí mật vận động, tập hợp trong các tổ chức công khai, bán công khai trở thành đội quân chính trị hùng hậu sẵn sàng tham gia tổng tiến công...

Sau một quá trình tích cực chuẩn bị, đêm ngày 29 rạng sáng ngày 30-1-1968, quân và dân các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung và Tây Nguyên đồng loạt nổ súng mở màn cuộc tổng tiến công. Hai mươi bốn giờ sau, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra ở khắp các tỉnh và thành phố lớn miền Nam. Toàn bộ hậu phương an toàn của địch đều bị tiến công và trở thành tiền tuyến nóng bỏng. Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam như các đợt sóng đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Tại nhiều đô thị, lực lượng vũ trang ta, được sự đùm bọc chở che, giúp đỡ tích cực của nhân dân đã tiến công và chiếm giữ nhiều mục tiêu quan trọng trong nhiều ngày, nhiều giờ. Quân giải phóng đã đánh mạnh, đánh trúng 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong số 11 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh quân khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, tuyến giao thông huyết mạch. Ta đã chiếm giữ và làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm, vây hãm địch nhiều ngày ở Khe Sanh, tiến công và nổi dậy ở nhiều vùng nông thôn tạm bị chiếm, tiêu diệt nhiều sinh lực cao cấp và phương tiện chiến tranh, dự trữ hậu cần hiện đại nhất của địch, giải phóng hàng triệu đồng bào, đưa chiến tranh vào sâu trong hậu phương của địch.

Mặc dù thời gian chuẩn bị trực tiếp cho nhiệm vụ chiến lược không nhiều, trong khi có quá nhiều khó khăn về quân số, vũ khí trang bị, lương thực và chia cắt về chiến trường... nhưng tất cả đều nổ súng đúng mục tiêu và thời gian quy ước "với một sự hợp đồng về chiến lược tuyệt diệu". Đó chính là kết quả của trí thông minh, lòng quả cảm, với khát vọng cháy bỏng về một nền hòa bình, thống nhất, từ Bộ thống soái tối cao chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng đến những địa phương, đơn vị vũ trang, những tổ đội biệt động, những chiến sĩ mới nhập ngũ trong đêm giao thừa, những người dân một lòng trung trinh với cách mạng... đã biến những điều không thể trở thành hiện thực. Miền Bắc dồn sức chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn nhanh chóng mở rộng, tăng sức vận chuyển. Miền Nam khẩn trương chuẩn bị thế trận và lực lượng, hình thành các phương án công kích về quân sự và nổi dậy của quần chúng. Nhân dân trinh sát, nắm tình hình, dẫn đường, che giấu cán bộ và tích cực tham gia chiến đấu, tiếp tế cơm nước cho bộ đội, nuôi dưỡng thương binh. Nhiều gia đình bị bắt, khủng bố, tù đày... vẫn một lòng hướng về cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Đó là sự đồng thuận, giúp đỡ, ủng hộ, đùm bọc, chở che, là tấm lòng trung kiên với cách mạng của người dân đô thị, vùng ven, vùng tạm chiếm, vùng tranh chấp dành cho những người lính Quân giải phóng; là sự tham gia tích cực bằng nhiều hình thức như tải đạn, tiếp lương, dẫn đường, che giấu bộ đội, cứu chữa thương binh, truy tìm ác ôn, tề điệp của những người dân sống trong vùng Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Nhờ đó nhiều sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn bí mật rời căn cứ, qua bao xóm làng, đồng ruộng, sông, suối để ém sát các vùng ven đô, các mục tiêu trong vùng nội đô an toàn. Điều đó đã khiến giới lãnh đạo Oasinhtơn kinh hoàng và nhận thức được ngay rằng: Cuộc tấn công Tết Mậu Thân, chứng tỏ Mỹ hoàn toàn không kiểm soát được gì đất nước này. Tết chứng tỏ nhân dân Nam Việt Nam ủng hộ kẻ thù của Mỹ.

Truyền thống đồng lòng, chung sức và quật khởi được kế thừa và phát huy trong cuộc tiến công vào hệ thống dinh lũy sào huyệt của địch. Dựa vào sự đùm bọc, đồng thuận, giúp đỡ, chở che, tham gia tích cực của nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã triển khai thành công lối đánh dũng mãnh, táo bạo, bất ngờ, đồng loạt, nhằm trúng các mục tiêu yết hầu "huyết mạch", "tim óc" của địch gồm các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, các Sở chỉ huy, các bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, sân bay, bến cảng, kho tàng, đầu mối giao thông... Đó là những mục tiêu tập trung sinh lực của địch, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, cuộc tiến công vào Tòa Đại sứ Mỹ của các chiến sĩ biệt động Quân giải phóng vượt xa ý nghĩa của một trận đánh thông thường, gây tiếng vang lớn trên khắp thế giới và ở nước Mỹ.

Các trận tiến công chiến lược trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một trong những nét đặc sắc nhất, đánh dấu những bước trưởng thành vượt bậc, minh chứng cho sự kế thừa, phát triển tư duy và truyền thống quân sự của dân tộc, là những "thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn nhất của dân tộc ta". Thắng lợi của những trận tiến công chiến lược phản ánh thắng lợi chung của các cuộc chiến tranh và chính là cơ sở có ý nghĩa quyết định để kết thúc chiến tranh bằng những biện pháp chính trị, ngoại giao khéo léo, mềm dẻo, bảo đảm giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Nhìn một cách tổng thể, các trận tiến công chiến lược chính là cuộc chiến đấu một mất một còn trên chiến trường, là sự thử thách lớn lao nhất về mọi mặt - cả về quyết tâm lẫn tài thao lược, cả về vật chất lẫn tinh thần giữa hai bên đối chiến. Cũng với ý nghĩa đó, có thể xem trận tiến công chiến lược là điểm hội tụ tập trung mọi tinh lực chủ yếu cũng như các tình huống chủ yếu của chiến tranh, tạo thành ảnh hưởng cô đọng nhất, tác động mạnh mẽ nhất đối với toàn cuộc. Các chiến công chói ngời Bạch Đằng (938, 981, 1288), Như Nguyệt (1077), Đông Bộ Đầu (1285), Tốt Động - Chúc Động (1426), Chi Lăng - Xương Giang (1427), Rạch Gầm - Xoài Mút (1785), Ngọc Hồi - Đống Đa (1789), Điện Biên Phủ (1954) và Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trở thành những cột mốc trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc và mãi mãi được khắc ghi vào lịch sử Việt Nam như "những chiến công hiển hách, tiêu biểu cho lòng yêu nước, ý chí quật cường vì độc lập, tự do và trí tuệ tài ba đánh giặc, cứu nước".

Mùa xuân năm 40, dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, nhân dân Âu Lạc đã đồng loạt tiến công vào 65 huyện, thành trong cả nước. Truyền thống và nghệ thuật quân sự đó được kế thừa và phát huy trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Lần đầu tiên trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vượt qua những tính toán đơn thuần của các nhà quân sự, với một lực lượng còn rất chênh lệch, quân và dân Việt Nam đã thực hành một cuộc tiến công lớn, đánh một đòn bất ngờ và mạnh mẽ vào dã tâm của các thế lực ngoại xâm. Đó là lối đánh chưa từng diễn ra trong kháng chiến và cũng hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng.

Bằng quyết tâm và thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dân tộc Việt Nam một lần nữa khẳng định sức sống mãnh liệt, ý chí độc lập, thống nhất và khát vọng hòa bình đã đưa nhân dân ta vượt lên hết thảy, để gìn giữ, đắp bồi và khẳng định bản lĩnh cùng cá tính dân tộc. Đó là tinh thần yêu nước, ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa bình tha thiết của các thế hệ người Việt từ buổi đầu dựng nước chưa bao giờ ngưng nghỉ, không ngừng lắng bồi, kết tinh để rồi bùng phát trong những thời điểm ngặt nghèo của dân tộc. Lấy cả nước làm chiến trường, chọn khối đoàn kết toàn dân tộc làm thành lũy, coi sự đồng tâm nhất trí và tinh thần quật khởi của nhân dân là vũ khí mạnh nhất, cả dân tộc Việt Nam đã cùng nhau cất lên bản hùng ca trong mùa Xuân Mậu Thân 1968 để thêm một lần khẳng định sự kế thừa và bồi tụ, tỏa sáng; minh chứng cho ý chí, phẩm chất, sức sống kỳ diệu, truyền thống đồng lòng, chung sức và quật khởi cũng như khát vọng về một nền hòa bình trong cuộc chiến đấu bảo tồn dân tộc, bảo vệ quyền độc lập, tự chủ của các thế hệ người Việt Nam.
   
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #107 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 02:01:56 pm »

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một kỳ tích của quân và dân ta ở miền Nam, tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã huy động các lực lượng và sử dụng các phương thức đấu tranh của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam chống xâm lược. Cùng với tiến công về quân sự, đấu tranh chính trị đã tạo nên diện mạo một trong những cuộc động binh quy mô và có tác động rất lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.

1. Quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng và của Trung ương Cục miền Nam về đấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968

Từ kinh nghiệm thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, của 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã hình thành đường lối, phương châm chiến lược "hai chân, ba mũi", trong đó, "chân" lực lượng chính trị, "mũi" tấn công chính trị luôn giữ vai trò quan trọng. Đặc biệt, trong điều kiện Mỹ đổ quân trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, Đảng chủ trương chỉ đạo quân và dân trên khắp các chiến trường đẩy mạnh tiến công địch về quân sự, chính trị, binh vận; ra sức tăng cường lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược...

Đến tháng 12-1967, trên cơ sở đánh giá tình hình chiến trường, tương quan lực lượng giữa ta và địch, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về "Tình hình miền Nam", quyết định: chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, "thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Nghị quyết nêu rõ: "đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) xác định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Nghị quyết nêu rõ: Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa sắp đến sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất ác liệt và phức tạp bằng cả tiến công quân sự, tiến công chính trị với ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược... Nguyên tắc cơ bản là tập trung lực lượng quân sự và lực lượng chính trị đến mức cao nhất, một cách hợp lý nhất, tiến công mãnh liệt vào những hướng chiến lược chính.

Tại miền Nam, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ năm (5-1967) bàn và đề ra các công tác lớn trong thời gian trước mắt về quân sự, về chính trị, về công tác ở đô thị, trong đó quán triệt tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 10-1966, xác định: lấy đô thị và vùng yếu nông thôn làm trọng điểm; nhiệm vụ cụ thể là chuẩn bị lực lượng "tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa", do vậy phải có một phong trào quần chúng nổi dậy tại chỗ tức là phải xây dựng thực lực chính trị và vũ trang ở đô thị, phát động quần chúng nổi dậy khi thời cơ đến. Cuối tháng 5-1967, Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về đẩy mạnh hoạt động toàn diện mùa mưa năm 1967, trong đó, tiếp tục nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo triển khai thế chủ động và thế tấn công với quy mô chiến lược và chiến dịch trên những hướng chiến trường chủ yếu 1 bằng cả tiến công quân sự và chính trị. Về đấu tranh chính trị và phong trào đô thị, chủ trương đẩy mạnh phong trào đô thị, trong đó: "vấn đề xây dựng và phát triển thực lực chính trị có tác dụng quyết định của mọi phong trào".

Tiếp đó, trên cơ sở lĩnh hội những quan điểm chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về xây dựng kế hoạch tác chiến, mở các đợt hoạt động Thu - Đông 1967, ngày 2-10-1967, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị "Đẩy mạnh đợt Đông - Xuân 1967-1968", yêu cầu quân và dân miền Nam đẩy mạnh hoạt động trên các mặt: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, binh vận, trong đó, đấu tranh chính trị tiến hành ở cả vùng tạm chiếm, vùng tranh chấp; vùng giải phóng, các thành phố, thị xã. Ngày 12-12-1967, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền ra chỉ thị gửi các quân khu, hướng dẫn việc chuẩn bị tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa ở các thành phố, thị xã. Phương châm chỉ đạo được xác định: Tấn công toàn diện cả quân sự, chính trị, binh vận; bố trí một cách linh hoạt lực lượng, hoặc lấy lực lượng chính trị, binh vận làm chính, hoặc lấy lực lượng vũ trang làm chính.
 
Trước giờ hành động, ngày 24-1-1968, để thống nhất cao độ về nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, Trung ương Cục ra chỉ thị chỉ rõ nhiệm vụ của đấu tranh chính trị là: "Phát động toàn dân nổi dậy bằng hình thức bạo lực, cùng với đấu tranh vũ trang hình thành thế tổng hợp tấn công đánh bại quân thù, giành chính quyền về tay nhân dân, đập tan mọi cuộc phản kích của địch, bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được".

Có thể thấy, trong quá trình chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam đều nhất quán coi trọng và nhấn mạnh vai trò của lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị, là mũi tấn công song song, đồng thời và phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với tấn công quân sự; tích cực chuẩn bị để phát huy tối đa sức mạnh của đấu tranh chính trị trong cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa được coi là mang tính quyết định của cuộc chiến tranh.

2. Đấu tranh chính trị - vừa là mũi giáp công vừa là trợ lực trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968

 Thực hiện chủ trương và quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục, của Quân ủy Miền, của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, quân và dân miền Nam đã gấp rút chuẩn bị cho trận đánh "quyết định". Lực lượng chính trị, các cơ sở kháng chiến trong nội thị, nội thành đã xây dựng các kế hoạch đấu tranh, nổi dậy giành chính quyền; tham gia bí mật vận chuyển, cất giấu một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược tại các vùng giáp ranh và ngay trong các thành phố, thị xã, giúp lực lượng vũ trang thâm nhập các thành phố trước ngày nổ súng...

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (đợt 1) bắt đầu. Thực hiện mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy của Trung ương Đảng, của Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, hòa cùng tiếng súng tấn công quân sự, quần chúng miền Nam đã nổi dậy phối hợp cùng lực lượng vũ trang đấu tranh tấn công địch.

Tại Sài Gòn, trong khi Quân giải phóng và lực lượng vũ trang tiến công và áp chế tất cả các cơ quan đầu não, các vị trí quan trọng của địch, các tổ chức như Thành đoàn, Ban Công vận, Ban Phụ vận, lực lượng Tuyên huấn đã kịp thời hành động, phát động quần chúng nổi dậy, diệt ác trừ gian. Các cán bộ cốt cán của Thành đoàn phát động quần chúng một số cơ sở, đường phố nổi dậy. Lực lượng chính trị của Ban Phụ vận vừa kêu gọi quần chúng nổi dậy, vừa làm nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, tiếp tế lương thực, cứu chữa thương binh, tổ chức che giấu cho các chiến sĩ bị lạc rồi tìm cách đưa ra ngoài. Lực lượng Tuyên huấn tiến hành rải truyền đơn, dán áp phích, vận động cơ sở quần chúng giúp đỡ bộ đội từ ngoài vào...

Tại thành phố Huế, vào 2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, tiếng súng tiến công bắt đầu vang lên khắp thành phố. Sau 4 ngày tiến công liên tục, Quân giải phóng và lực lượng vũ trang cách mạng đã chiếm được hầu hết các mục tiêu và làm chủ thành phố Huế. Được các đòn tiến công quân sự hỗ trợ, quần chúng trong thành phố đã nổi dậy đào hầm, xây chiến lũy, dẫn đường cho bộ đội, tiếp tế vũ khí, cứu chữa thương binh. Nhiều tổ chức quần chúng như Mặt trận Thanh niên Huế, Hội Binh sĩ yêu nước ly khai ra đời, chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều khu vực trong thành phố, hàng nghìn thanh niên đã tình nguyện tham gia các đội du kích tự vệ, các đội công tác. Cùng với lực lượng vũ trang và tiến công quân sự, lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị đã góp phần làm chủ thành phố từ ngày 31-1 đến ngày 24-2-1968, đưa Huế trở thành một trong hai thành phố lớn ở miền Nam (cùng với Sài Gòn) lập được chiến công oanh liệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Đà Nẵng được chọn làm trọng điểm của Đặc khu Quảng Đà. Sau khi Quân giải phóng pháo kích sân bay Nước Mặn, mở màn cuộc tổng tiến công, lực lượng chính trị trong nội đô Đà Nẵng đã xuống đường tiến hành cuộc biểu tình, phát loa kêu gọi quần chúng nổi dậy tham gia làm chủ thành phố.

Trên địa bàn Tây Nam Bộ, đêm 30 rạng sáng 31-1, kết hợp với lực lượng vũ trang, quần chúng nhân dân nhiều nơi nổi dậy uy hiếp các đồn bốt, trụ sở tề, diệt ác phá kìm, làm chủ ấp, xã.

Trên địa bàn Tây Nguyên, phối hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng trong nội đô thị xã Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk), thị xã Pleiku (tỉnh Gia Lai), thị xã Kon Tum (tỉnh Kon Tum), Đà Lạt, thị trấn Di Linh, thị xã Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng)... đã phối hợp với lực lượng quần chúng vùng ven đô và đồng bào đến từ các vùng nông thôn tiến hành đấu tranh chính trị với nhiều nội dung và hình thức rất phong phú. Quần chúng đã tổ chức biểu dương lực lượng để hỗ trợ cho tấn công vũ trang, tổ chức tuần hành, kêu gọi binh lính Việt Nam Cộng hòa bỏ vũ khí trở về với cách mạng, cung cấp, tiếp tế lương thực, thực phẩm, tải thương, chăm sóc thương binh, hỗ trợ bộ đội truy kích kẻ thù, khống chế tề điệp, nổi dậy phá kìm kẹp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số xã, ấp vùng ven...

Ở nhiều thành phố, thị xã khác như Quảng Trị, Biên Hòa, Bến Tre, Mỹ Tho... và các vùng nông thôn, quân và dân ta đã tiến công mãnh liệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

Trong đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, hàng triệu phụ nữ ở khắp các địa phương trên toàn miền Nam đã nổi dậy, tiến công địch bằng chính trị, binh vận, bao vây bức rút, bức hàng, giải tán tề xã, đánh đuổi lực lượng bình định. Trong phong trào đấu tranh chính trị, nhiều trí thức đã hoạt động trong các đội võ trang tuyên truyền, diệt ác, phá kìm trong các vùng chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát...

Trong đợt 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, phong trào đấu tranh chính trị ở Nam Bộ tiếp tục được phát động với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động đấu tranh khác nhau. Tại "trọng điểm" Sài Gòn, đúng giờ quy định, các lực lượng tại chỗ đã nổ súng và phát động quần chúng nổi dậy đồng loạt, không chờ lực lượng bên ngoài vào. Dưới sự tổ chức, vận động của các lực lượng Thành đoàn, Hoa vận, Phụ vận, An ninh vũ trang, Tuyên huấn, quần chúng các giới, nhất là công nhân, lao động, học sinh, sinh viên, phụ nữ... đã tích cực tham gia tiếp tế, tải thương, dẫn đường cho các lực lượng vũ trang truy tìm, trừng trị bọn ác ôn... Ở các vùng ven, có trên 8.000 quần chúng tham gia bao vây đồn bốt; gần 12.000 lượt người đấu tranh chính trị và trên 4.000 gia đình bỏ "ấp chiến lược" trở về ruộng vườn cũ làm ăn...

Phối hợp với Sài Gòn, lực lượng quần chúng tại các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ đã hỗ trợ lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công địch tại các tuyến phòng thủ xung quanh Sài Gòn và nhiều thị xã thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Bến Tre, Châu Đốc...; chặn đánh các cuộc hành quân của địch vào Long An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Đà Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Đà Lạt, Phan Rang,...

Tại Tây Nguyên, đồng bào các dân tộc dọc các tuyến giao thông đã đào hào, chặt cây, đắp ụ, dựng chiến lũy ngăn chặn xe giặc..., hỗ trợ lực lượng vũ trang đánh cắt giao thông trên các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk.

Nhìn chung, phong trào đấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã được phát động, diễn ra trên phạm vi toàn miền Nam, động viên được quần chúng tham gia, nội dung, hình thức đấu tranh rất quyết liệt. Đấu tranh chính trị vừa là một mũi giáp công, vừa đóng vai trò hỗ trợ tấn công quân sự, thể hiện sinh động đường lối đấu tranh "chính trị kết hợp vũ trang" và phương châm "ba mũi giáp công" ngay trong lòng địch, góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.
 
 3. Hạn chế và khuyết điểm

Bên cạnh những thành công và ưu điểm rõ rệt, đấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 cũng bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

Khuyết điểm rõ nhất trong tư tưởng chỉ đạo là đánh giá tình hình không thật sát, xác định phương thức hoạt động và mục tiêu quá cao đối với đấu tranh chính trị. Việc đề ra phương thức "tổng khởi nghĩa", xác định mục tiêu "đánh sập" chính quyền địch, "giành chính quyền về tay nhân dân", thậm chí "giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân" là dựa trên tư duy chủ quan, đánh giá không sát thực lực, dự kiến không sát về trình độ chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của quần chúng nhân dân, nhất là tại các đô thị 2. Do đó, mặc dù tại một số nơi, quần chúng tiến hành tấn công chính quyền cơ sở của địch, song, đã không có "tổng khởi nghĩa" như chủ trương đã đề ra.

Tiến hành tổng công kích và tổng khởi nghĩa trong điều kiện địch có hơn một triệu quân và tiềm lực chiến tranh của chúng còn lớn, Bộ Chính trị dự kiến tình hình có thể diễn ra theo một trong ba khả năng: 1- Ta thắng lớn, buộc Mỹ phải chịu thua và nhận thương lượng với ta để kết thúc chiến tranh. 2- Ta giành được thắng lợi lớn nhiều nơi nhưng địch vẫn giữ được nhiều vị trí quan trọng để tiếp tục chiến tranh. 3- Mỹ tăng quân và dùng lục quân đánh ra miền Bắc, mở rộng chiến tranh ra cả Đông Dương. Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương xác định: "quyết chiến đấu giành cho kỳ được thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất". Hội nghị lần thứ sáu Trung ương Cục (mở rộng) tháng 3-1968, ra Nghị quyết động viên quân dân miền Nam "liên tục tấn công và liên tục nổi dậy", tiến lên "giành thắng lợi hoàn toàn", "đánh đổ hoàn toàn ngụy quyền tay sai, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân".

Do tư tưởng chỉ đạo nặng về "khả năng thứ nhất", nặng về mục tiêu "giành thắng lợi hoàn toàn", chưa tiên lượng hết những khó khăn, thách thức, do đó dẫn đến việc bộc lộ hầu hết lực lượng, nhất là trong các đô thị. Bên cạnh đó, việc chủ trương tiếp tục tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa các đợt 2, 3, khi yếu tố bất ngờ không còn, địch phản kích mạnh, đã làm tổn thất lực lượng chính trị. Sau hai đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục miền Nam đã nhận thấy những hạn chế không dễ khắc phục, như: "khởi nghĩa của quần chúng còn ì ạch; binh địch vận quá yếu; phát triển lực lượng chính trị, vũ trang, củng cố hậu phương còn kém" 3. Tuy nhiên, nguyên nhân lại được nhìn nhận do khâu tổ chức thực hiện, do vấn đề điều hành. Đặc biệt, trong đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy 4, mặc dù chủ trương của Đảng là "ra sức tăng cường lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang", "đẩy mạnh thế tiến công toàn diện bằng quân sự và chính trị" để giành thắng lợi quyết định, song, do các mũi tấn công quân sự của ta không đạt mục tiêu, các đợt tấn công quân sự của ta yếu và rời rạc, chủ yếu ở khu vực rừng núi, vùng giáp ranh biên giới Campuchia, địch phản kích, đẩy chủ lực ra xa các đô thị và trung tâm dân cư, nên phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng không diễn ra như mong đợi, phong trào quần chúng nổi dậy ngày càng suy yếu. Chính vì những khuyết điểm trên đây, nên sau Mậu Thân, cơ sở chính trị ở các đô thị hầu như không còn.

Một khuyết điểm nữa trong đấu tranh chính trị, trong xây dựng lực lượng chính trị là do dồn sức tấn công đô thị, tập trung vào phong trào đô thị mà trong một thời gian dài, ta "bỏ hở" vùng nông thôn đồng bằng và vùng rừng núi. Trước khi diễn ra tổng tấn công và nổi dậy, trong thư gửi cho Trung ương Cục và Quân ủy Miền, ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn nhắc nhở: "Hướng công kích và khởi nghĩa nhằm vào thành thị, nhưng phải nhớ rằng kết quả lớn nhất, quan trọng nhất phải đạt được là ở việc giành và giữ nông thôn". Tám tháng sau ngày tổng tiến công và nổi dậy khởi phát, trong Chỉ thị để bổ sung một số điểm cho Nghị quyết tháng 8-1968 về "Đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định", ngày 9-11-1968, Bộ Chính trị đã chỉ ra hạn chế: "chưa đánh giá hết âm mưu thâm độc và hành động phản kích điên cuồng của địch vào vùng nông thôn từ sau cuộc Tổng tiến công đồng loạt đầu Xuân Mậu Thân, vì vậy, ta đã không kịp thời khắc phục được những khó khăn và chuyển hướng chiến lược khi tình hình đã thay đổi". Tuy nhiên, tư tưởng chỉ đạo vẫn tập trung vào đô thị. Địch lợi dụng tình hình tiến hành "bình định cấp tốc" càn quét các vùng nông thôn vừa mất, nhất là ven Sài Gòn.

Ngoài những khuyết điểm trên phương diện chỉ đạo, trong thực hành tổng tiến công và nổi dậy cũng có những hạn chế trong thống nhất thời gian khởi sự giữa các địa phương, các lực lượng; hạn chế trong phối hợp giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, hạn chế trong phối hợp giữa lực lượng chính trị từ bên ngoài vào và lực lượng chính trị nổi dậy trong nội đô, giữa chỉ huy ở trên và chấp hành bên dưới...

Những khuyết điểm, hạn chế trên trong lãnh đạo, chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân nói chung và trong đấu tranh chính trị nói riêng chậm được tổng kết trong và ngay khi hoạt động này diễn ra có những ảnh hưởng đến chỉ đạo phong trào cách mạng sau Mậu Thân 1968. Đến giữa năm 1969, ta mới chuyển trọng tâm về nông thôn, đã chậm nên gặp rất nhiều khó khăn. Phải đến Hội nghị lần thứ 10 (tháng 11-1970), Trung ương Cục miền Nam mới dành nhiều thời gian để kiểm điểm một cách nghiêm túc, toàn diện công tác chỉ đạo trong và sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968; chỉ ra khuyết điểm chính về chỉ đạo là chưa đánh giá thật đầy đủ âm mưu, hành động cụ thể của địch, nhất là âm mưu "bình định" trong "Việt Nam hóa chiến tranh", do đó, sự chuyển hướng tiến công về nông thôn chậm trễ. Trung ương Cục cho rằng: lẽ ra sau đợt 2 phải xem xét tình hình địch - ta, xác định ta ở khả năng nào, xác định rõ sự chuyển hướng của địch, để chuyển trọng tâm về chỉ đạo nông thôn và không đề ra các đợt tiến công tiếp với yêu cầu quá cao, làm cho các cấp dưới không kịp bổ sung lực lượng và không nắm vững hướng chủ yếu để tập trung chỉ đạo. Chậm trễ này đã hạn chế thắng lợi của ta; ảnh hưởng tới sự chỉ đạo phương châm, phương thức cụ thể, ảnh hưởng tới xây dựng lực lượng chính trị, quân sự của ta ở các địa bàn trọng điểm. Trung ương Cục cũng nhận thấy khuyết điểm là có phần trông chờ, ỷ lại "không quán triệt đầy đủ việc xây dựng chỉ đạo ba vùng chiến lược. Nhiều nơi để lộ lực lượng, hao tổn, ảnh hưởng đến thế và lực".

Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (10-1973) cũng nhìn nhận: "chúng ta cũng đã mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời: ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Níchxơn; cho nên ta đã gặp khó khăn trong một thời gian".

Mặc dù có những khuyết điểm, hạn chế cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hành, đấu tranh chính trị vừa là một mũi giáp công, vừa đóng vai trò hỗ trợ tấn công quân sự, thể hiện sinh động đường lối đấu tranh "chính trị kết hợp vũ trang" và phương châm "ba mũi giáp công" ngay trong lòng địch, góp phần to lớn trong thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.




--------------------------------------------------------------
1. Gồm Sài Gòn - Chợ Lớn và miền Đông Nam Bộ; từ Đường 9 qua Quảng Trị đến Quảng Đà, Quảng Nam; đồng bằng và giáp ranh Khu 5, Tây Nguyên.

2. Ngày 12-12-1967, Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền ra Chỉ thị "Hướng dẫn về việc chuẩn bị và tiến hành công kích và khởi nghĩa ở các thành phố, thị xã", nhận định: "... các thành phố, thị xã ở miền Nam hiện nay là nơi hiểm yếu nhất, đồng thời có nhiều sơ hở, là nơi mà quần chúng tỏ ra có nhiều khả năng cách mạng rất to lớn, lực lượng cách mạng mỗi ngày một mạnh mẽ và vững chắc, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng ngày càng trưởng thành. Nó có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện bước đột biến theo phương hướng chiến lược của Đảng". Tài liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, hồ sơ P42 (65a-63).

Gần 10 ngày sau cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa nổ ra, ngày 7-2-1968, trong điện gửi Trung ương Cục, Khu ủy Khu 5, Khu ủy Trị Thiên và B3 về "Phương hướng khắc phục hậu quả đánh phá của địch và tích cực chuyển hướng phong trào", Bộ Chính trị dự kiến: "Sau những đợt chiến đấu lớn, nhất định phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị sẽ phát triển mạnh mẽ và quyết liệt hơn nữa". Tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng, hồ sơ P11-ĐVBQ 1314.

3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Trung ương Cục miền Nam về nhận định tình hình đợt 2 và chủ trương, nhiệm vụ sắp tới, ngày 10-6-1968. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, ký hiệu: TWC 848.

4. Đợt 1 bắt đầu từ đêm 30 rạng ngày 31-1, kết thúc ngày 25-2-1968; đợt 2 bắt đầu từ ngày 5-5-1968, rộ lên một thời gian ngắn rồi kết thúc; đợt 3 diễn ra từ ngày 17-8-1968 đến ngày 30-9-1968.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #108 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 02:13:38 pm »

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968
TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI



PGS.TS. ĐINH QUANG HẢI
Viện trưởng Viện Sử học,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam


Cách đây vừa tròn nửa thế kỷ, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hưởng ứng lời hiệu triệu của Bộ Thống soái tối cao, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, toàn quân và toàn dân ta ở miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (lúc đó gọi là Tổng công kích - tổng khởi nghĩa) đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố, đặc biệt là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các thị xã, thị trấn, các chi khu, quận lỵ, các sân bay và căn cứ hậu cần của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trên toàn chiến trường miền Nam Việt Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã gây ra cho đế quốc Mỹ một đòn "choáng váng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của chúng; làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc cũng như toàn nước Mỹ. Với ý nghĩa to lớn đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử quan trọng và để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại.

Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2-9-1945) cho đến trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược với tinh thần anh dũng, kiên cường, lập nhiều chiến công xuất sắc, từng bước đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Đặc biệt, trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1964), bằng đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, nhân dân Việt Nam từng bước đẩy đế quốc Mỹ vào thế bị động, không còn giữ được ưu thế trên chiến trường miền Nam.

Đầu năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân Mỹ vào tham chiến ở quy mô lớn ở miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Tham vọng của đế quốc Mỹ trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" là đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng từ 25 đến 30 tháng, với kế hoạch ba giai đoạn, hai cuộc phản công chiến lược, mà giai đoạn ba dự tính là hoàn thành việc tiêu diệt khối chủ lực của ta, tiếp tục bình định miền Nam, rút quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ về nước vào cuối năm 1967. Đứng trước tình thế đó, Đảng ta khẳng định: "Với việc thay đổi chiến lược chiến tranh như trên của đế quốc Mỹ, cách mạng và cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước một tình thế hiểm nghèo. Đảng ta, nhân dân ta sẽ đối phó với thách thức ấy như thế nào? Trên chiến trường, cách đánh với quân Mỹ sẽ ra sao? Có tiếp tục đấu tranh chính trị được nữa hay không? Vận mệnh của dân tộc, chiều hướng phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta và trên một mức độ nào đó của cả phong trào cách mạng thế giới, phụ thuộc vào câu trả lời về cách thức chúng ta xử trí tình huống chiến lược hệ trọng này".

Trước sự thay đổi nhanh chóng của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược, Đảng Lao động Việt Nam đã đánh giá tình hình chiến lược mới một cách bình tĩnh và sáng suốt, tạo nên sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, cả nước một lòng thực hiện Lời kêu gọi vang dậy núi sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Theo đó, với khí thế quyết chiến, quyết thắng, quân dân ta đã đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch ở miền Nam, đánh bại một bước chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, tạo đà cho cách mạng Việt Nam tiến lên.

Tháng 4-1967, đồng chí Nguyễn Chí Thanh ra miền Bắc báo cáo về tình hình miền Nam và đề xuất phải tổ chức những cuộc tiến công đánh thẳng vào hang ổ của địch trong các thành phố, thị xã để tạo chuyển biến lớn. Đồng chí Lê Duẩn tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Đây cũng là vấn đề mà đồng chí Lê Duẩn đang trăn trở, ý đồ chiến lược theo đó ngày càng sáng tỏ thêm.

Xuất phát từ những suy nghĩ trên, khi trao đổi với đồng chí Văn Tiến Dũng về kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Lê Duẩn nảy ra ý định phải có cách đánh mới, phải khởi nghĩa và tiến công địch ở đô thị, nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Tuy nhiên cách đánh mới như thế nào thì chưa hình dung được cụ thể. Song theo các đồng chí thì phải khởi nghĩa và đánh vào đầu não địch ở các trung tâm thành phố - nơi địch cho là an toàn và ổn định nhất. Có làm được như vậy mới đánh bại địch về chiến lược. Vì đánh được vào các thành phố, nhất là Sài Gòn, mới làm "thôi động" hậu phương địch, làm rung động nước Mỹ, tạo nên làn sóng đấu tranh chính trị của nhân dân các đô thị miền Nam, nhân dân Mỹ, đồng thời cũng để tỏ rõ thế và lực của ta mạnh chứ không tàn lụi như đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tuyên truyền.

Tháng 5-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ kết thúc, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá tình hình, xem xét dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967 -1968. Tiếp đó, tháng 6-1967, Hội nghị Bộ Chính trị được triệu tập và bàn bạc rất kỹ dự thảo kế hoạch chiến lược này. Hội nghị nhận định, thắng lợi của quân và dân ta giành được trên cả hai miền Nam, Bắc là to lớn, toàn diện. Thắng lợi đó đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đẩy chúng vào thế lúng túng, bị động về chiến lược.

Hội nghị còn nhận định, về phía ta, cả thế và lực đang có những tiến bộ, cho phép ta "trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn". Nhưng tương đối ngắn là bao lâu? Tuy bàn bạc rất tỉ mỉ về tương quan lực lượng lúc đó nhưng Hội nghị cũng chỉ có thể dự kiến sẽ giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn. Muốn vậy, nhiệm vụ quân sự của ta là phải tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân Mỹ, làm mất khả năng tiến công của chúng, đồng thời phải tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, khiến cho chúng không còn là lực lượng chiến lược trong tiến công và phòng ngự mà Mỹ dựa vào đó để tiến hành chiến tranh.

Từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể hơn về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968 - kế hoạch tiến công táo bạo "Tết Mậu Thân" lịch sử. Tại Hội nghị này, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968 làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc và thảo luận. Bên cạnh đó, Hội nghị còn dành thời gian nghe báo cáo về tình hình địch của Cục 2, về tình hình ta của Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu, về các kế hoạch tác chiến của Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ. Trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ và thảo luận kỹ các báo cáo, đặc biệt là Kế hoạch Đông - Xuân - Hè 1967-1968 do Quân ủy Trung ương dự thảo, Bộ Chính trị chủ trương tạo một bất ngờ lớn về chiến lược đánh địch. Để tạo được bất ngờ về chiến lược, Bộ Chính trị quyết định thời gian bắt đầu mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân. Tiếp đó, tháng 11-1967, Bộ Chính trị họp tiếp để bàn cụ thể về Kế hoạch tổng khởi nghĩa ở các đô thị miền Nam.

Quán triệt chủ trương của Bộ Chính trị, các chiến trường, các địa phương nhanh chóng bắt tay chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, cụ thể: xây dựng và hoàn chỉnh phương án, kế hoạch công kích; khởi nghĩa; tổ chức, điều động, bố trí lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị; phân chia chiến trường; tổ chức hệ thống bảo đảm hậu cần; triển khai mạng lưới giao liên từ căn cứ xuống vùng ven, vào nội thành; chuẩn bị khu vực, địa điểm cất giấu lực lượng và địa bàn xuất phát tiến công; điều tra các mục tiêu và nắm tình hình cũng như quy luật hoạt động của địch ở nội đô. Đồng thời, huy động lực lượng bí mật bằng nhiều đường, nhiều loại phương tiện vận chuyển vũ khí vào nội thành cất giấu... Để khắc phục mọi khó khăn, các địa phương, các chiến trường đã phân cấp, phân hướng, trên dưới đồng thời chuẩn bị. Trong điều kiện thời gian gấp, chiến trường chia cắt, hơn một triệu quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, quân một số nước đồng minh của đế quốc Mỹ với bộ máy kìm kẹp cùng mạng lưới tình báo, gián điệp, chỉ điểm giăng rộng và trà trộn khắp mọi nơi nhưng quá trình chuẩn bị của ta vẫn giữ bí mật tuyệt đối và cơ bản hoàn tất trước khi ngày giờ nổ súng bắt đầu.
 
Cùng với quá trình chuẩn bị, các chiến trường mở đợt hoạt động Thu - Đông 1967. Đợt hoạt động này nằm trong khuôn khổ giai đoạn 1 của kế hoạch tác chiến chiến lược. Mục đích của đợt hoạt động là trực tiếp tạo thế, tạo lực cho Tết Mậu Thân, buộc địch phải phân tán binh lực, nghi binh làm lạc hướng chú ý của chúng, tạo thêm điều kiện cho quá trình chuẩn bị của ta. Vì thế, ở vùng ven đô thị và vùng nông thôn đồng bằng, lực lượng vũ trang ta được lệnh duy trì các hoạt động. Trong khi đó, chủ lực Quân giải phóng liên tiếp mở các chiến dịch có quy mô tương đối lớn ở khu vực rừng núi nhằm đánh bồi vào quân Mỹ, phá kế hoạch chuẩn bị phản công lần thứ ba của chúng và lôi kéo, ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ tại vòng ngoài 1.

Cùng với hoạt động trên chiến trường miền Nam trong Thu - Đông 1967, cơ quan chỉ đạo chiến lược đã đề ra các biện pháp nghi binh nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của bộ chỉ huy đối phương 2.

Toàn bộ những hoạt động trên đây của ta không lọt qua sự chú ý của giới lãnh đạo nước Mỹ và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn. Cuối năm 1967, chúng nhận định: Trong năm 1968, trọng tâm hoạt động của ta chỉ là chống phá bình định, mở một số trận đánh dọc miền biên giới, tiến công các mục tiêu ở hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên, tìm cách bảo tồn lực lượng, cố gắng duy trì mức độ giao tranh như năm 1967.

Từ nhận định này, chúng chủ trương tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, mùa khô 1967-1978 mà hướng chủ yếu vẫn là miền Đông Nam Bộ và hướng quan trọng là Trị - Thiên nhằm duy trì thế giằng co, tránh mọi sự đảo lộn bất ngờ, chờ cho kỳ bầu cử tổng thống mới ở Mỹ kết thúc sẽ tính toán bước đi tiếp theo.

Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và chủ trương: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Bộ Chính trị quyết định: "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" 3.

Bộ Chính trị dự kiến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có thể phát triển theo ba khả năng:

Một là, ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, ý chí xâm lược của địch bị đè bẹp, địch phải chịu thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của ta.

Hai là, tuy ta giành thắng lợi quan trọng nhiều nơi nhưng địch vẫn còn lực lượng dựa vào những căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn - nhất là Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu với ta.

Ba là, Mỹ tăng cường nhiều lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh, gỡ thế đang thua của chúng. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: ta phải nỗ lực phi thường giành thắng lợi cao nhất theo khả năng một, nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng chủ động đối phó với khả năng hai, khả năng ba, tuy ít.

Tháng 1-1968, để giữ bí mật ý đồ chiến lược, Ban Chấp hành Trung ương lên họp ở Kim Bôi, Hòa Bình để thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Hội nghị Trung ương phân tích sâu sắc, toàn diện các vấn đề Bộ Chính trị nêu ra, tính kỹ các phương án, cuối cùng Trung ương nhất trí với Bộ Chính trị và lấy đó làm Nghị quyết Trung ương lần thứ 14. Phát biểu trong Hội nghị, đồng chí Trường Chinh cho đây là một sáng tạo lớn của Đảng.

Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh gấp rút hoàn chỉnh lần cuối phương án tổng công kích - tổng khởi nghĩa và xác định cụ thể: "Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Gia Định, Đà Nẵng, Huế; trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế - Đà Nẵng và các thành phố lớn".

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân dân miền Nam từ Trị - Thiên đến Khu 5 và Nam Bộ đã tiến công và nổi dậy đồng loạt hướng trọng điểm nhằm vào các thành phố, thị xã, nhất là các hang ổ của địch ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền, gây cho chúng tổn thất lớn và choáng váng nhiều ngày, đối phó bị động, lúng túng ở tất cả các vùng chiến lược, nhiều nơi ta đánh chiếm và làm chủ được nhiều ngày.

Ở Huế, quân và dân ta hoàn toàn làm chủ thành phố, đánh lui hàng trăm đợt phản kích của địch. Ở Sài Gòn - Gia Định, sào huyệt đầu não của địch, quân và dân ta tập kích nhiều mục tiêu quan trọng như Tòa Đại sứ Mỹ, dinh "Gia Long", Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn... là những nơi đề xướng và điều hành mọi tội ác chiến tranh chống nhân dân, chống cách mạng. Đánh phá làm tê liệt nhiều hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, làm ngưng trệ việc vận chuyển và thông tin liên lạc của địch trong nhiều ngày, nhiều giờ. Phối hợp chặt chẽ với tiến công, đội quân chính trị hùng hậu của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị nổi dậy mạnh mẽ, lật đổ bộ máy chính quyền cơ sở, phá ách kìm kẹp của địch ở nhiều nơi, san bằng hàng loạt "ấp chiến lược", giành quyền làm chủ nhiều vùng rộng lớn, xây dựng và củng cố hậu phương trực tiếp, mở rộng địa bàn của ta.

Thắng lợi lớn nhất và quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là ta đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ - một siêu cường quân sự, kinh tế, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của chúng. Trong chiến tranh, thắng lợi ở quy mô chiến dịch là rất quan trọng, song chỉ khi làm đảo lộn kế hoạch chiến lược chiến tranh của đối phương mới tạo được chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường. Đó là vấn đề có tính quy luật thuộc về nghệ thuật chỉ đạo và điều hành chiến tranh, có tác động lớn đến tiến trình và kết cục cuộc chiến tranh. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là lần đầu tiên trong lịch sử Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, quân Mỹ bị đánh bại bởi một dân tộc nhỏ ở cách xa nước Mỹ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đồng thời đã tác động trực tiếp đến đời sống chính trị - tinh thần nước Mỹ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh xâm lược trong nhân dân Mỹ lên cao chưa từng thấy - một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ. Không còn sự lựa chọn nào khác, ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn buộc phải tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari và không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai.

"Kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chứng tỏ Đảng ta không máy móc, mà luôn luôn có những phát kiến chiến lược lớn, luôn luôn sáng tạo trong chủ trương cũng như trong chỉ đạo toàn dân, toàn quân hành động". Đánh giá về sự kiện Tết Mậu Thân 1968, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng sau ngày toàn thắng đã nêu rõ: "... Thắng lợi rất oanh liệt của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ đó đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari".

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã mang lại cho quân và dân ta một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt nhất. Nếu so với kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta phải tập trung hầu như toàn bộ các đơn vị chủ lực tinh nhuệ của quân đội vào một trận quyết chiến chiến lược ở một địa bàn xa trung tâm đất nước tại Điện Biên Phủ, thì trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ta đã có đủ lực lượng cùng lúc đánh đồng loạt vào gần 40 thành phố, thị xã toàn miền Nam, trong đó tập trung vào các sào huyệt quan trọng, hiểm yếu nhất của đế quốc Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa như Sài Gòn, Huế... Mặc dù còn có những khuyết điểm, hạn chế, song thắng lợi to lớn mà Tết Mậu Thân 1968 tạo ra là không thể phủ nhận được. Từ đó có thể khẳng định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử tiêu biểu trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại.

Thời gian không ngừng trôi, những trang vàng lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục trải dài, nhưng sự kiện Tết Mậu Thân 1968 vẫn mãi là dấu ấn không thể phai mờ. Kỷ niệm 50 năm sự kiện Tết Mậu Thân là dịp để chúng ta cùng nhìn lại sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân ta kháng chiến; thấy được sự anh dũng, quả cảm của các lực lượng tham gia sự kiện này; đồng thời, đây cũng là dịp để chúng ta nhìn lại những điểm còn tồn tại, từ đó đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báu, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định; đưa dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời.




---------------------------------------------------------------
1. Chiến dịch Lộc Ninh - Đường 13 của chủ lực miền Nam (27-10 đến 10-12-1967) ở khu vực rừng núi miền Đông Nam Bộ; Chiến dịch Đắk Tô của lực lượng vũ trang Tây Nguyên (đầu tháng 11-1967).

2. Tung bản tác chiến giả vào chiến trường, phóng thích hai tù binh "giặc lái" Mỹ về đoàn tụ với gia đình nhân dịp Nôen năm 1967, nhắc lại tuyên bố ngày 28-1-1967 của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, rằng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Chính phủ Hoa Kỳ sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện,...

3. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 được Ban Chấp hành Trung ương thông qua tháng 1-1968 thành Nghị quyết Trung ương 14.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #109 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 02:23:19 pm »

BÀI HỌC VỀ NẮM BẮT, ĐÁNH GIÁ,LƯỜNG ĐỊNH TÌNH HÌNH KHẢ NĂNG
SÁT THỰC TẾ TỪ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
       


Đại tá, PGS.TS. TRẦN VĂN THÀNH
Phó Giám đốc Học viện Lục quân


Chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", góp phần buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta ở Hội nghị Pari về lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là sự tổng hòa của nhiều nhân tố, trong đó có nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý. Để làm rõ vấn đề này, bài viết đi sâu trình bày nội dung về "Nắm bắt, đánh giá, lường định tình hình khả năng sát thực tế" trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968. Đây là một trong những bài học có ý nghĩa rất to lớn, như trong bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tháng 1-1968: "Chúng ta nhận rằng: trong một cuộc chiến tranh cách mạng hay bất cứ một cuộc cách mạng nào, vấn đề quan trọng là đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, đề ra cho được nhiệm vụ, yêu cầu về chiến lược, sách lược cho đúng. Việc này phải làm đúng thì ta mới thắng được. Kỳ này ta muốn chuyển hướng một nhiệm vụ chiến lược mới, không có cách nào khác, chúng ta cũng phải nghiên cứu tương quan lực lượng để đề ra nhiệm vụ".

1. Đánh giá, lường định đúng ý định chiến lược, sức mạnh và khả năng của đế quốc Mỹ

Đến giữa năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đứng trước nguy cơ phá sản. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ buộc phải đưa quân vào miền Nam chiến đấu, tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ". Đây là hình thức chiến tranh cao nhất, tốn kém nhất trong hai loại hình chiến tranh thông thường thuộc chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của đế quốc Mỹ. Do đó, nó được chính quyền Mỹ nghiên cứu, chuẩn bị khá kỹ, kể cả việc thăm dò dư luận thế giới và khả năng phản ứng của các nước xã hội chủ nghĩa. Ngay từ năm 1961, Phó Tổng thống Mỹ Giônxơn, sau khi đến Sài Gòn nắm tình hình, đã có tường trình, kiến nghị với Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ là "phải đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam để giải quyết nhanh khi chiến tranh cách mạng mới hình thành". Nhưng lúc đó chính phủ Mỹ chưa có sự chuẩn bị, chính quyền Ngô Đình Diệm không đồng tình. Đến năm 1965, tình hình chính trị nước Mỹ có thay đổi, Giônxơn được bầu làm Tổng thống; kinh tế, chính trị nước Mỹ ổn định; trên thế giới, một số nước đồng minh của Mỹ đồng tình, ủng hộ chiến lược chiến tranh mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam; trong khi đó, hệ thống xã hội chủ nghĩa có những nảy sinh bất đồng về quan điểm; trên chiến trường, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đang đứng trước nguy cơ bị đánh bại hoàn toàn. Đây vừa là điều kiện, vừa là tình hình cụ thể buộc đế quốc Mỹ phải tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", để cố giữ chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam. Biện pháp tiến hành chiến tranh mới của đế quốc Mỹ là đưa nhanh lực lượng, phương tiện chiến tranh của đế quốc Mỹ và các nước chư hầu vào miền Nam Việt Nam, tạo ra ưu thế lực lượng trên chiến trường. Để tạo thế mạnh cho các hoạt động quân sự ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân; quy mô, cường độ chiến tranh ngày càng ác liệt. Đồng thời, đế quốc Mỹ cũng mở rộng "chiến tranh đặc biệt" đánh phá vùng giải phóng Lào nhằm làm phân tán, suy yếu lực lượng ta; đế quốc Mỹ còn dùng nhiều thủ đoạn ngoại giao để ngăn chặn khả năng can thiệp quân sự, hạn chế sự chi viện, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam.

Ngay từ khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân, mở rộng chiến tranh xâm lược, Đảng ta đã đánh giá đúng tương quan lực lượng so sánh giữa ta và địch, thấy rõ mạnh, yếu và khả năng chiến đấu của quân Mỹ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành nước có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trong các nước tư bản chủ nghĩa, là nước đầu tiên có bom nguyên tử, tàu chiến chạy bằng năng lượng hạt nhân, tên lửa tầm xa, bộ binh được cơ giới hóa. Tất cả những yếu tố đó đã làm xuất hiện tâm lý sợ Mỹ. Khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, một nước nhỏ, trong khi nước Mỹ có diện tích gấp 60 lần, dân số gấp 10 lần, tổng sản phẩm kinh tế quốc dân gấp 325 lần, Mỹ tin là sức mạnh quân sự sẽ đè bẹp sự kháng cự của Việt Nam trong một thời gian ngắn, buộc Việt Nam phải khuất phục Mỹ. Với quan điểm xem xét chiến tranh một cách toàn diện, đánh giá tương quan lực lượng hai bên khách quan, biện chứng, Đảng ta đã rút ra kết luận: Nước Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất thế giới; chúng có quân đông, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, chiếm giữ nhiều địa bàn chiến lược quan trọng của ta ở miền Nam. Nhưng chỗ yếu cơ bản của Mỹ là chính trị; tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, không cho phép Mỹ sử dụng hết sức mạnh kinh tế, quân sự trong cuộc chiến tranh này, tinh thần chiến đấu của quân Mỹ sẽ thấp kém; Mỹ đưa quân vào chiến trường miền Nam Việt Nam trong thế bị động, trước sự thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt"; dù đông quân, nhưng Mỹ - ngụy phải bố trí lực lượng trong thế giằng co giữa phòng ngự giữ đất và cơ động tiến công, trong thế chiến tranh nhân dân rộng khắp của ta. Hậu phương của quân Mỹ ở xa; biên chế, trang bị, huấn luyện cách đánh của quân Mỹ có nhiều điểm chưa phù hợp với chiến trường Việt Nam.

Từ nắm bắt tình hình quân Mỹ và những đánh giá trên, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng (tháng 1-1968) đã khẳng định: Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục tiêu chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam, cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng trong hai lần phản công chiến lược mùa khô 1965-1966; 1966-1967 và thất bại trong đẩy mạnh chiến tranh phá hoại ác liệt ở miền Bắc, thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã tới đỉnh cao... Do những thất bại có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam và do những thắng lợi to lớn của ta đã giành được, nên trong Đông - Xuân này (1967-1968), địch khó có khả năng mở cuộc phản công lần thứ ba. Xu thế tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước.

2. Đánh giá, lường định đúng tình hình và khả năng của ta

Vào cuối giai đoạn chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ, trên cơ sở những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm mà quân và dân ta đã giành được, Quân ủy Trung ương ta chủ trương: Đẩy mạnh tốc độ xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển khối chủ lực cơ động trên chiến trường, đánh tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực địch. Tranh thủ thời cơ, cố gắng đánh bại hoàn toàn quân ngụy trước khi quân Mỹ nhảy vào. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cùng nhiều cán bộ có kinh nghiệm xây dựng khối chủ lực, chỉ huy tác chiến tập trung và một số trung đoàn chủ lực đã vào chiến trường. Trên chiến trường, ta đã hình thành ba khối chủ lực cơ động ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Khu 5. Lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị phát triển nhanh chóng, thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố và phát triển rộng khắp cả ba vùng chiến lược. Trên đà thắng lợi, đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ, dựa trên thế chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân có bước phát triển mới về số lượng, tổ chức, trang bị và trình độ chiến đấu, quân và dân ta đã giành và giữ vững thế chủ động, tiếp tục tiến công địch khi quân viễn chinh Mỹ và đồng minh của chúng ồ ạt vào chiến trường. Khi quân Mỹ mở các cuộc phản công chiến lược (mùa khô 1965-1966 và 1966-1967), thực hiện biện pháp chiến lược "tìm diệt", quân và dân ta trên các chiến trường tiếp tục giữ vững quyền chủ động, tích cực phản công và tiến công địch, làm thất bại các mục tiêu chiến lược của chúng; đồng thời ta chủ động mở mặt trận Trị - Thiên, kéo một bộ phận quân Mỹ ra, tạo thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp và phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường.

Từ những thắng lợi to lớn của ta trong đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và sự phát triển mạnh mẽ của quân và dân ta về lực lượng, biên chế, trang bị, nghệ thuật tác chiến, vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo trên chiến trường miền Nam; đồng thời trên chiến trường miền Bắc, quân và dân ta chủ động và nhanh chóng chuyển sang thời chiến, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa tăng cường chi viện cho tiền tuyến, đánh bại các mục tiêu trong cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa bằng không quân, hải quân. Điều đó đã chứng tỏ sự lớn mạnh và trưởng thành của quân và dân ta trên khắp các chiến trường. Đây là cơ sở để Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 1-1968) ban hành Nghị quyết "Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước". Đảng ta nhận định: "Chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược lẫn chiến thuật và thế lực của ta phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử chiến tranh giải phóng của ta. Chúng ta đang nắm quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường, đã thực hiện được phương châm mở rộng quyền làm chủ trên từng vùng để tiêu diệt địch và tiêu diệt nhiều sinh lực địch để mở rộng hơn nữa quyền làm chủ trên những vùng nông thôn đồng bằng và rừng núi rộng lớn. Ở chung quanh các thành thị và ngay cả ở từng bộ phận của một số thành thị, ta cũng đang mở rộng quyền làm chủ với những mức độ khác nhau. Các lực lượng vũ trang của ta đã tiến bộ vượt bậc, đã vận dụng những phương thức tác chiến chiến lược một cách độc đáo và linh hoạt, đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, nhất là đã từng đánh một cách thắng lợi vào hàng loạt thành thị lớn nhỏ, hàng loạt căn cứ, sân bay, kho tàng và đường giao thông chiến lược của địch. Quần chúng nhân dân ở các thành thị và những vùng còn tạm bị địch chiếm ở miền Nam đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa với những hình thức khác nhau. Hàng triệu quần chúng đang sục sôi cách mạng và sẵn sàng vùng lên, sẵn sàng hy sinh tất cả để giành cho được độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất. Nhân dân lao động miền Nam, nhất là công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn đang vùng dậy mạnh mẽ, mở ra một khí thế mới đấu tranh quyết liệt chống Mỹ và tay sai trong các thành thị".

Tuy nhiên, Đảng ta cũng đánh giá khách quan "chúng ta còn có một số nhược điểm trong các vấn đề bổ sung tại chỗ lực lượng vũ trang, đánh tiêu diệt những đơn vị lớn của Mỹ, xây dựng thực lực chính trị và chỉ đạo phong trào ở thành thị. Chúng ta cũng còn có những khó khăn nhất định về hậu cần, về giao thông vận tải, về công tác ngụy vận, địch vận. Đó là những nhược điểm và khó khăn mà ta cần phải ra sức khắc phục trong quá trình tiến lên của cách mạng. Nhưng nhược điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định".

3. Chủ trương chiến lược và nhiệm vụ của ta

 Trên cơ sở đánh giá cụ thể tương quan lực lượng giữa ta và địch, tháng 5-1967, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra chủ trương chiến lược chuyển cuộc kháng chiến lên một bước mới; theo đó, "Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phát huy mạnh mẽ chiến thắng to lớn trong mùa khô vừa qua, ra sức đẩy mạnh những cố gắng của ta đến mức cao nhất nhằm giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn". Đến tháng 7-1967, phương án tác chiến chiến lược tiếp tục được bổ sung và đã hoàn thiện. Trong 5 ngày, từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị tiếp tục họp bàn cụ thể về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Đây là hội nghị quan trọng để vạch ra kế hoạch tấn công táo bạo "Tết Mậu Thân" lịch sử. Tại Hội nghị này, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng đã trình bày Dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968, làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc, thảo luận, đánh giá, lường định tình hình. Bộ Chính trị nhận định: "Mỹ đang thất bại lớn, và có tăng quân cũng không giải quyết được gì mà tình hình càng bế tắc, càng bị cô lập thêm, mâu thuẫn càng sâu sắc". Chớp thời cơ này, Bộ Chính trị quyết định thực hiện một phương thức tiến công, một cách đánh mới nhằm làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện; làm chuyển biến căn bản chiến lược trên chiến trường miền Nam cũng như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự và chỉ đạo Hội nghị. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng "báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận". Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 họp tại Hà Nội đã thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện "Tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước". Thời gian bắt đầu vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968.

Để thực hiện Nghị quyết chiến lược đó, Đảng ta xác định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, đạt tới mục tiêu chiến lược mà Đảng ta đã đề ra là: tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam; trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà".

Bên cạnh việc xác định những chủ trương, nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta cũng đã dự đoán những khả năng phát triển của tình hình thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có thể diễn ra theo ba khả năng:

Khả năng thứ nhất, ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và khởi nghĩa của ta cuối cùng thành công ở các đô thị lớn và ta lần lượt đập tan được những cuộc phản kích của địch, làm cho địch thất bại đến mức không thể gượng lại được nữa, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, bắt chúng phải chịu thua, phải thương lượng, đi đến kết thúc chiến tranh theo những mục tiêu và yêu cầu của ta.

Khả năng thứ hai, tuy ta giành được những thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng địch cố gắng tập trung và tăng viện thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại và giữ vững được những vị trí quan trọng, ổn định được các thành thị lớn, nhất là ở "đô thành" và dựa vào các căn cứ lớn để tiếp tục chiến đấu với ta.

Khả năng thứ ba, Mỹ động viên và tăng viện thêm lực lượng, mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc Việt Nam, sang Campuchia và Lào, hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua của chúng.

Nhằm thực hiện thành công các khả năng nêu trên, Trung ương Đảng nhấn mạnh: chúng ta phải nỗ lực phi thường, đem hết tinh thần và lực lượng, quyết chiến đấu giành cho kỳ được khả năng thứ nhất, vì hơn lúc nào hết, chúng ta đang đứng trước thời cơ thuận lợi để giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại. Nếu tình hình diễn biến theo khả năng thứ hai, thì do những thắng lợi quan trọng đã giành được, lực lượng của ta không những không hề bị giảm sút, mà trái lại còn mạnh lên gấp bội về quân sự và chính trị, vùng giải phóng ở nông thôn đồng bằng và rừng núi sẽ được mở rộng và củng cố hơn. Trước mắt khả năng thứ ba ít có khả năng hơn, nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng để chủ động đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra.
 
4. Diễn biến chính và kết quả đạt được

Căn cứ Kế hoạch tác chiến chiến lược đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua, quân và dân ta trên cả hai miền đã gấp rút bắt tay chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 theo phương châm đánh lớn. Các lớp tập huấn, các cuộc vận động lớn được tổ chức, các lực lượng vũ trang nhân dân bắt tay vào chấn chỉnh tổ chức, tăng cường số lượng, hoàn thiện thế trận. Đầu năm 1967, trước yêu cầu của tình hình mới, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập binh chủng Đặc công. Sau khi được thành lập, binh chủng đã tổ chức huấn luyện được 3.835 chiến sĩ; các học viện, nhà trường và trung tâm đào tạo đã đào tạo và bổ túc gần 1.000 cán bộ trung đội, đại đội và tiểu đoàn; trong năm 1967 tăng cường cho chiến trường miền Nam 25.635 cán bộ, chiến sĩ. Để bảo đảm lực lượng chiến đấu trên chiến trường miền Nam và ở hậu phương miền Bắc, công tác tuyển quân được xúc tiến mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng vạn nam nữ thanh niên có trình độ văn hóa, giác ngộ chính trị, có sức khỏe được động viên vào lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong. Trên tuyến đường vận tải Trường Sơn, Đoàn 559 nhanh chóng mở rộng mạng đường, tăng thêm lực lượng và phương tiện, cải tiến phương pháp, bảo vệ vận chuyển. Trong 6 tháng cuối năm 1967, tuyến vận tải chiến lược đã tiếp nhận một khối lượng vật chất lớn gấp 6 lần năm 1965 từ miền Bắc vào miền Nam; bảo đảm hành quân cho hàng chục vạn lượt cán bộ, chiến sĩ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 càng cho thấy sự đánh giá, lường định tình hình là rất sát thực tế của Đảng ta.

Sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị, đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968 (Tết Mậu Thân 1968), quân và dân miền Nam đồng loạt nổi dậy tiến công vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, Bộ Tư lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ Tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của địch. Trong đó, có những trận gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ và có tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới như trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn; giải phóng và làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm. Ba đợt tấn công đã đánh một đòn nặng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho chúng những tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm thất bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải cử đại diện tới bàn đàm phán Pari trong tư thế yếu hơn trước. Về phía ta, do tiến công và nổi dậy liên tục kéo dài, trên quy mô rộng lớn, lực lượng vũ trang đã bị tổn thất nặng nề, mặt khác ta đã kéo dài cuộc Tổng tiến công vào các đô thị trong khi yếu tố bất ngờ không còn, địch đã củng cố, ta đã chậm chuyển hướng về nông thôn, nơi mà các cuộc nổi dậy của nhân dân ta đã giải phóng được nhiều vùng rộng lớn. Điều này đã gây cho cách mạng miền Nam những tổn thất và khó khăn về sau.

Diễn biến cuộc Tổng tiến công cho thấy: trong chiến tranh, thực tiễn tình hình địch - ta chuyển biến mau lẹ; biết địch, biết ta không những lúc đầu mà phải bám sát tình hình trong cả quá trình chuyển biến. Xuất phát từ thực tiễn luôn luôn vận động, với tinh thần tích cực, chủ động và cơ động, linh hoạt, tìm ra quy luật, kịp thời điều chỉnh chủ trương cho sát đúng, luôn hành động đúng quy luật thì nhất định tránh được khuyết điểm, giành được thắng lợi to lớn, trọn vẹn hơn. Đây là bài học về nhận thức và đánh giá sát đúng tình hình cho cách mạng miền Nam tiến tới Mùa Xuân toàn thắng năm 1975 và cho những bước đi, những quyết sách của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Với "Tết Mậu Thân năm 1968", mặc dù chưa đạt được khả năng thứ nhất (một trong ba khả năng mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 đã dự kiến) và dù phải hy sinh, tổn thất to lớn, nhưng ta đã xoay chuyển được cục diện tình hình mà trước đó chưa bao giờ tạo được. Cục diện đó cho phép quân và dân ta tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên thực hiện lời dạy của Bác "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 và những bài học về chỉ đạo chiến lược vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục nghiên cứu, kế thừa, phát triển cho phù hợp với điều kiện mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Những phân tích, lập luận về giá trị của việc nắm bắt, đánh giá, lường định tình hình sát thực tế nêu trên mới chỉ là những vấn đề cơ bản nhất, thể hiện nội dung cốt lõi nhất của nghệ thuật đánh giá tình hình trong tác chiến. Tuy còn nhiều nhìn nhận, tranh luận xoay quanh sự kiện "Tết Mậu Thân năm 1968" nhưng không vì thế mà làm giảm đi tầm giá trị đã đi vào lịch sử như một cột mốc lớn, ghi dấu bước ngoặt và những bài học lịch sử của sự kiện này.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM