@ Quangcan :
Về ý kiến của Quang , hai đợt tấn công trong trận 1015 có gì khác nhau không ? thì ý mình thấy thế này :
1 , Ngày đầu tiên 12/4/72 : Pháo binh ta bắn từ 6giờ sáng . Chỉ sau 20 phút bộ binh ta đã xung phong . Điều này thấy rằng
Bộ đội rất quyết tâm , nôn nóng tiêu diệt địch . Sau khi choáng váng vì pháo địch phản kích dữ dội và bộ đội chỉ chiếm được một số vị trí rồi bị chặn lại và chịu bom phá của địch . CHứng tỏ pháo của ta chưa đủ phá huỷ công sự và các hoả điểm quan trọng của địch .
2 . Suốt đêm 12/4 Bộ đội ta cả hai mũi đều thương vong nhưng nằm cách địch 100- 150 m làm công sư hầm hào và chịu trận trong suốt ngày 13/4 . Đặc biệt mũi D8 nằm ở vị trí dốc đứng địch dồn hoả lực đánh xuống rất thuận tiện . Nếu theo lệnh sư đoàn cho giãn đội hình trong ngày 13/4 thì hi sinh còn lớn hơn ,vì thế quyết đinh cho bộ đội nằm lại và tổ chức độtt phá bằng hoả lực bản thân trong ngày là tiết kiệm được sương máu .
Sáng 14/4 pháo binh cấp trên bắn phá dữ dội 30 phút rồi bộ đội ta tiếp tục mở cửa thuận lợi nhưng trận đánh kéo dài suốt ngày hết đêm 14 /4 chững tỏ địch vẫn còn mạnh như thế nào .
Tóm lại : Tuy đã biết là khó khăn nhưng ta không lường hết sự khó khăn trong đọt phá công sự vững chắc đến thế . Chỉ nghĩ rằng hầm hào công sự cũ của Mỹ mà địch mới đổ quân xuống 1 tuần không thể củng cố hoàn thiện đến vậy .
Việc tổ chức cho D2 E 48 đón lõng là ý kiến đề nghị của E trưởng 64 chập tối 14/4 nên trong đêm Sư trưởng KIM TUẤN lệnh cho D2 48 hành quân . Đi đêm , đường xa nhưng may mắn là đến kịp vị trí nên hững trọn số quân chạy về Ngọc DI ốc nhưng lại sơ xuất để sổng mất ba chục tên chạy thoát . Đáng tiếc trong số chạy thoát có tên Mễ tiểu đoàn phó lên thay Nguyễn Đình Bảo vào tối 12/4 khi Trung tá Bảo tử trận . THáng 6/72 Mễ lại là tiểu đoàn trưởng dẫn Song Kiếm trấn ải ra đánh Mỹ Chánh với E 66 304 trên đất Quảng trị
Toàn bộ hơn ba trăm quân tử trận trên 1015 địch không lấy xác mà huỷ trận địa bằng bom cháy và bom phá .
Ồ, thế chứng tỏ ta chỉ "vây" mà không thực hành "lấn" rồi; trong việc điều nghiên đánh địch trên cao điểm với công sự vững chắc, được yểm hộ tối đa bởi phi pháo +B52 thì bài học của F304 ở Khe Sanh còn sờ sờ ra đó đấy thôi. Địch phát hiện ta từ xa, ta lại vội vàng lao lên đánh dứt điểm là không ổn. Địch thiện chiến có công sự vững chắc, thế thì chắc chắn toàn bộ lực lượng pháo sư đoàn, hỏa lực trung đoàn ngay từ đầu phải bộc lộ hết rồi. Thế thì ăn bom và pháo tọa độ là đúng. Không có hỏa lực bắn phá, hỗ trợ, bộ binh xung phong dứt điểm sao nổi đây? Đánh ngược lên đỉnh, góc bắn không có, lại bị địch từ các điểm cao xung quanh lướt sườn, không tổ chức cho bộ đội đào công sự ngay từ đầu và xây dựng kế hoạch trận địa dũi, lấn để tấn, triệt thì hỏng thật,
.
Điều đáng buồn hơn nữa là hệ quả này kéo theo một loạt diễn biến xấu khác. Ta không còn lực lượng dự bị chiến dịch nữa các bác ạ. Trước khi vào trận, bản thân F320A dù mới vào và đang làm quen chiến trường mà cũng phải đi tải đạn, tải gạo cho chiến dịch (B3 huy động toàn bộ quân số các trường/ lớp huấn luyện đi phục vụ chiến dịch). Ta đều thấy, dự tính của BCH chiến dịch và F là để E52 đánh 1049, E 64 đánh 1015 và E48 vừa tiếp tục tải đạn, gạo vừa làm nhiệm vụ dự bị chiến thuật. Khi 2 trung đoàn trên đột phá được dãy phòng thủ phía tây này thì sẽ tung E48 lao xuống, vượt sông áp sát và phối hợp với trung đoàn 24/ E24 đang cắt đường 14. Như vậy , nếu từ đầu BCH chiến dịch coi F320A là đơn vị khêu ngòi, điểm hỏa kéo lực lượng địch ra bớt tây Kon Tum; rồi E24 và E95 cắt đường; E66 đánh các cứ điểm ngoại vi để tạo điều kiện cho F2 thực hiện nhiệm vụ chính đập nát toàn bộ cứ điểm Đăk Tô 1, 2 - Tân Cảnh thì
em đoán các cụ còn có kế hoạch 2: tùy thời cơ đưa E48 đột phá lao xuống giải phóng Plei Cu theo hướng bắc nam. Lúc đấy thì chả biết hướng nào chính, hướng nào chủ công nữa. Tiếc là ta phải tung lực lượng dự bị vào quá sớm, D1 E48 vào giúp E52, D3 giúp E64 còn D2 thì đưa đi đón lõng.
Thực sự ra, không lường hết được chiến cuộc thay đổi từng ngày và những khó khăn ta gặp phải tại chiến trường nên khi đánh Kon Tum 1972 ta tiêu hao nhiều quá: cả về quân số lẫn vũ khí hỏa lực, điều đặc biệt là phải tung lực lượng dự bị vào sớm hơn dự định để đảm bảo thế chiến trường. Vậy, khi F2 thiếu (E1, E141) được tăng cường E66 giải quyết xong Đăk Tô - Tân Cảnh thì BCH chiến dịch đứng trước ngã ba đường:
- nếu thọc sâu quyết đánh thị xã Kom Tum thì
không có lực lượng đủ trên tất cả các binh chủng
VD: khi E66 đánh Tân Cảnh có 9 xe tăng + 3 pháo tự hành dẫn bộ binh đột phá; có đại đội B72 giúp mở cửa mở; có pháo E40 và E675 bắn phá căn cứ diệt hỏa lực, diệt tăng địch ra bịt cửa mở. Sau đó, thì ngay lập tức điều 4 tăng vận động từ Tân Cảnh lên tăng cường giúp E1 đánh Đăk Tô. Diệt xong được Đăk Tô thì hết tăng. E1 đánh Đăk Tô cũng phải tung lực lượng dự bị là D40 vào để dứt điểm trận đánh.
- ta không có đủ về hậu cần chiến dịch:
VD: bác nguyentrongluan và bác bob đã nêu ở trên, còn ngay cả ở F2 khi đánh xong Đăk Tô, cũng chỉ còn 2 ngày gạo. Chưa tính và kể các loại đạn hỏa lực ra sao,
- phối hợp binh chủng không tốt nên để lại nhiều hệ quả không đáng có:
F320A, rồi cả D297 tăng + pháo tự hành, trung đoàn 675 pháo binh đều mới vào chiến trường từ đầu năm 1972; không có thời gian làm quen và hiểu cách đánh của B3 lắm. Bản thân F2 thiếu khi tham gia Lam Sơn 719 có một trận đánh hiệp đồng với thiết giáp mà thôi (trận Itu - Bản Nhíc). Ngay từ đầu, đánh tại đồng bằng, bứt các cứ điểm lớn trên lộ chính, ta buộc phải bộc lộ toàn bộ hỏa lực chiến dịch: pháo, cối, lưới lửa phòng không. Vì vậy, khi địch tung tăng ra phản kích, phát huy được sức mạnh của B52 hủy diệt và pháo tọa độ thì hỏa lực ta giảm sút ghê gớm.
- phải giải quyết vấn đề dân:
Khi ta đánh lớn, dân xuôi nam chạy hết về thị xã Kon Tum; nếu ta đánh Kom Tum ngay thì phải giải quyết dân sao đây?
- một yếu tố xác đáng nữa khi đánh Kon Tum ngay:
giả sử, từ giữa tháng 4, BCH chiến dịch đồng ý để E66 giữ Đăk Tô - Tân Cảnh và cùng E28 kiềm chế các cứ điểm ngoại vi khác xung quanh như Plei Cần; cho F2 thiếu tổ chức thọc sâu ngay theo đường 14 đánh Kon Tum, phối hợp với E24 đánh thốc từ dưới lên trong điều kiện cơ hội địch đang hoang mang, dao động, có ý định bỏ thị xã; phối hợp là E48 thọc xuống từ hướng tây. Bộ đội đã trải qua tổn thất tại giai đoạn 1 (em gọi thế) thì không đủ lực lượng tiến xuống phía nam và giải quyết các vị trí ngoại vi VNCH đặt trên đường 14 và bên ngoài thị xã. Hơn thế nữa, ta phải đối mặt với lực lượng phản kích và tái chiếm khi chả đời nào VNCH để mất thị xã.
Một số thông tin cho thấy ở giữa tháng 5, khi ta tổ chức xong lực lượng và hậu cần để đánh Kon Tum, một số tài liệu viết
xe tăng ta ầm ầm chạy trên đường 14 tiến về thị xã. Nghe rất hoành tráng nhưng để đánh thì chỉ còn
một đại đội xe tăng. Thực tế chiến trường cho thấy VNCH phản kích dữ dội và làm tiêu hao lực lượng ta nhiều, nếu đánh ngay, có thể chiếm được thị xã, nhưng liệu có giữ và chống tái chiếm được; Hoàn toàn vét hết lực lượng dự bị và không thể còn hỏa lực đột phá.
Đấy, đánh ở đồng bằng nó khác với đánh ở rừng núi nó thế đấy. Nhất là khi lúc này mùa mưa Tây Nguyên sắp đến, đồng thời mũi tấn công chiến lược tại Quảng trị đã vào tháng 6 cao trào,
hậu cần dồn vào đó chứ đi đâu được bây giờ.Bài học Kon Tum 1972 có nhiều điều cần rút kinh nghiệm lắm đấy các bác ạ. Các phản ứng của cụ Chơn, cụ Kim Tuấn vẫn còn "nóng hổi" cho đến ngày hôm nay,
. Cụ Chơn có tiếng hồi đó là có nhiều quyết định "cực táo bạo" cơ mà, tiếc là đề xuất của Cụ thời điểm đó bị gạt đi, nếu không ta sẽ được hiểu, phân tích và đánh giá đề xuất đó có bao nhiêu cơ hội thành công.