Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 07:52:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gia Định Thành Thông Chí  (Đọc 41674 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:05:04 pm »

Nguồn: luongsonbac.com

Giới thiệu tác giả


Trịnh Hoài Đức (1765(<1><1>) -1825) có tên gọi khác là An, tên tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai; tổ tiên gốc người huyện Trường Lạc, Phúc Kiến (Trung Quốc). Đầu đời nhà Thanh, ông nội là Trịnh Hội (hiệu Sư Khổng) di cư qua Việt Nam, ngụ tại Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay).
 
Cha Trịnh Hoài Đức là Trịnh Khánh, đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) được bổ làm Cai thu, sau được thăng Cai đội. Khi cha mất, Trịnh Hoài Đức mới 10 tuổi, sau theo mẹ dời vào Phiên Trấn (Gia Định - TP. Hồ Chí Minh ngày nay). Tại đây, ông theo học Xử sĩ Võ Trường Toản.

Năm Mậu Thân (1788), khi Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, Trịnh Hoài Đức cùng nhóm Lê Quang Định ra ứng cử, được bổ làm Hàn lâm viện Chế cáo. Năm 1789, ông nhậm chức Điền Tuấn sứ huyện Tân Bình. Sau đó, ông đổi qua bộ Hình, kế nhiệm chức Thị giảng Đông cung. Năm 1794 ông được bổ làm Ký lục dinh Trấn Định (Mỹ Tho ngày nay). Năm 1801, Trịnh Hoài Đức làm Tham tri bộ Hộ.

Năm 1802, Trịnh Hoài Đức được thăng Thượng thư bộ Hộ, làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Năm 1804, ông hộ giá Gia Long về Phú Xuân, vẫn đảm nhiệm chức Thượng thư bộ Hộ.

Năm 1802, Trịnh Hoài Đức được cử làm Hiệp Lưu trấn Gia Định. Năm 1808, Gia Định trấn được đổi thành Gia Định thành, Trịnh Hoài Đức được bổ làm Hiệp Tổng trấn.

Năm 1812, ông được triệu về kinh, cải nhiệm Thượng thư bộ Lễ, kiêm quản Khâm Thiên giám. Năm sau (1813), ông được chuyển sang làm Thượng thư bộ Lại. Đến năm 1816, ông lại được nhiệm chức Hiệp Tổng trấn Gia Định thành.

Năm 1820, thời Minh Mạng, ông tạm lãnh chức Tổng trấn Gia Định thành, sau đó được triệu về kinh, lãnh chức Thượng thư bộ Lại.

Năm 1821, Minh Mạng thăng cho Trịnh Hoài Đức hàm Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Lại kiêm Thượng thư bộ Binh, trở thành nguyên lão của triều đình.

Tháng 3 năm 1822, ông được sung làm Chánh Chủ khảo trường thi Hội; tháng 11, ông kiêm lãnh Thượng thư bộ Lễ. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tháng 7 năm 1823, Trịnh Hoài Đức xin về Gia Định nghỉ vì sức khỏe. Đến tháng 9 cùng năm, ông trở lại kinh lãnh chức Thượng thư bộ Lại và bộ Lễ. Tháng 10 cùng năm, ông trở về Gia Định liệu việc nhà. Tháng 3 năm 1824 trở ra kinh, lãnh chức Thượng thư bộ Lại kiêm quản Lễ bộ sự vụ. Tháng 7 cùng năm, ông được sung chức Tổng tài và quyền lãnh công việc ở ty Thương Bạc. Chẳng bao lâu, do bệnh nặng, tuổi cao, ông từ trần tại Quỳ Viên (3 1825), thọ 61 tuổi.

Khi ông mất, triều đình cho bãi triều ba ngày, truy tặng ông làm Thái bảo, Cần Chánh điện Đại học sĩ (hàm Chánh nhất phẩm), đặt tên thụy là Văn Khác. Thi hài ông được đưa về chôn tại quê nhà: làng Bình Trước, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long (nay là phường Trung Dũng, TP. Biên Hòa).

Tác phẩm của Trịnh Hoài Đức gồm có:

- Cấn Trai thi tập gồm 3 tập: Thối thực truy biên tập, Quan quang tập, Khả dĩ tập.

- Gia Định Thành thông chí.

- Bắc sứ thi tập (có ý kiến cho rằng Bắc sứ thi tập chính là Quan quang tập trong Cấn Trai thi tập.

- Lịch đại kỷ nguyên.

- Khang tế lục.

- Gia Định tam gia thi tập: chung với Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh.

Đương thời, ông cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh được mọi người tôn làm Gia Định tam gia.
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Giêng, 2021, 03:02:18 pm gửi bởi ptlinh » Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #1 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:06:10 pm »

1.
Tĩnh Dã Chí (Về các ngôi sao)

Trời gắn sao ở trên, đất cắm núi ở dưới, loài người được nuôi dưỡng phát triển tốt đẹp ở giữa; tam tài lưu thông, nên mọi vật được thành tựu.

Nước Việt ta, cơ đồ dựng ở Viêm Thiên (<2><1>) như rồng uốn quanh Quế Hải (<3><2>)¬¬¬, thánh thần kế truyền, dân ấm no, vật thịnh vượng. Vàng tốt có ở phủ Thăng Hoa, phủ Điện Bàn, kỳ nam sinh ở Khánh Hòa, Yên Quảng sản xuất ngọc trai, Thanh Hoa (Thanh Hóa) sản xuất nhục quế. Của quý trong đất đai, vật tốt nơi núi biển, của cải phong phú như vậy là do sự ngưng tụ khí thiêng của trời đất, hòa hợp gom góp mà sinh ra vậy.

Nay xét sách Xuân thu, chương Nguyên mạng bao (<4><3>) nói: Sao Khiên Ngưu (<5><4>) đóng ở địa phận Dương Châu, phân làm nước Việt. Chu lễ sớ <1b> nói về vị trí của Ngô, Việt và Dương Châu rằng: Nam Đẩu (<6><5>) ở hạ lưu sông Ngân Hà, đóng vào khoản Hoài Hải (<7><6>) là phần của nước Ngô; sao Khiên Ngưu xa sông Thiên Hà (<8><7>), từ Dự Chương (<9><8>) đến Cối Kê (<10><9>), về phía nam vượt quá Ngũ Lãnh (Lĩnh) phần của nước Việt. Lại nói thêm: Các châu ở Nam thuộc phía đông thượng nguồn sông Ngân Hà, thuộc sao Thuần Hỏa (<11><10>) mà các sao Liễu, sao Tinh, sao Trương (<12><11>) đều đóng ở trung châu, không phụ liền với đất miền biển, cho nên Nam Việt thuộc sao Thuần Vĩ (<13><12>).
Chương Địa lý chí - Tiền Hán thư (<14><13>) chép rằng: Việt Nam ở vào phần sao Khiên Ngưu và sao Vụ Nữ (<15><14>). Theo sách Tinh kinh (<16><15>) sao Khiên Ngưu có 6 ngôi thì ngôi thứ 1 và thứ 2 là chủ về Nam Việt, 2 sao ấy sáng tỏ thì vương đạo vượng tốt. Hoài Nam tử trong Thiên Văn huấn Tinh bộ địa danh nói: Nước Ngô, nước Việt thuộc sao Ngưu, sao Tu Nữ (<17><16>). Thẩm Hoài Viễn (<18><17>) trong Nam Việt chí (<19><18>) nói: Đất Nam Việt thuộc phần sao Ngưu, sao Nữ, Đường thư - Thiên văn chí (<20><19>) chép: Sao Nam Đẩu là phần nước Ngô, <2a> sao Khiên Ngưu là phần nước Việt. Sách Sơn đường khảo sách (<21><20>) lại nói: sao Ngưu, sao Nữ, là phần nước Việt. Xét: Thuở đời Đường có người đi đến Quỳnh Hải (<22><21>) vừa lúc tháng 8, thấy dưới sao Lão Nhân ở Nam Cực có vô số sao lớn mà thời xưa chưa đặt tên. Sách Sử ký - Thiên quan thư (<23><22>) chép: Sao Hồ Thỉ (<24><23>) hướng thẳng vào sao Thiên Lang (<25><24>). Dưới sao Thiên Lang gần đất có sao lớn, gọi tên là Nam Cực Lão Nhân. Sao Lão Nhân (<26><25>) xuất hiện thì nước được yên, thường đến tiết thu phân thì trông thấy ở hướng Nam. Tinh kinh chép sao Hà Mậu có 6 ngôi giáp sao Đông Tỉnh (<27><26>) ở hai hà Nam Bắc, mỗi hà có ba sao. Ba sao ở Nam Hà gọi là sao Nam Thú, sao ấy gần sao Lão Nhân, chủ về cửa ngõ nước Việt. Muốn xem sao xứ Việt Nam thì xem sao Nam Thú, và muốn xem sao Nam Thú thì xem sao Nam Đẩu. Xét 6 sao Nam Đẩu, trong có sao thứ 3 phía tây cách cực 1190 là chủ xứ Nam Việt. Vậy thì đất Gia Định gần giới hạn sao Ngưu, là sao thứ nhất ở phía nam của chùm sao Nam Thú, là sao thứ hai đóng ở sao Nam Cực Lão Nhân, gần bên phần sao Tỉnh <2b> mà không thuộc phần của sao Tỉnh. Như vậy, đất Gia Định tuy ở phía nam mà lại có thế tiến tới hướng Đông vậy. Vả lại sao Lão Nhân thường đến tiết thu phân trời trong tạnh thì thấy xuất hiện ở vị trí Bính Đinh (phương Nam), gần nơi Nam Cực, cho nên gọi là sao Nam Cực Lão Nhân, không phải ở ngay nơi Nam Cực; cũng như sao Bắc Đẩu không phải ở ngay chỗ Bắc Cực. Qua khỏi khoảng đó, Nam Cực lên cao dần, Bắc Cực xuống thấp dần, những sao ngoài phạm vi cực ấy thì trong sách Tinh kinh phần nhiều không thấy chép. Ở đất Gia Định đến ngày Mang Hiện (Tua Rua Hiện) hàng năm người ta thường xem sao để gieo mạ. Ví như thấy sao Lê Vĩ (sao Chuôi Cày) xuất hiện thì mạ chết, thấy sao Trư Vĩ (Đuôi Heo) xuất hiện thì mạ vàng, 2 sao ấy đều ở dưới sao Lão Nhân mà từ xưa cũng chưa đặt tên là sao gì.

XEM KHÍ HẬU (Phụ)

Phương Nam thuộc quẻ Ly, Ly là tượng mặt trời, thuộc hỏa. Người Gia Định ở vùng gần biển, thường thấy trước mặt trời mới mọc, hình thể to lớn <3a> bởi vì biển Nam cách nơi mặt trời mọc không xa, cho nên trông thấy mặt trời lớn (<28><27>). Vả lại thấy trọn cả phần ngoài của mặt trời cho nên hình nó lớn. Vành ngoài có lớp ánh sáng, vành trong chiếu tia sáng, khi đầu mới mọc thấy phần ngoài trước mà chưa thấy phần chói sáng ở trong. Phần ngoài thuộc âm khí, chưa phải là dương khí, rồi lại bị khí núi rừng sông đầm bốc lên che lấp, nên thấy nó lớn mà lại mát mẻ.

Khí hậu Gia Định thường ấm, cứ vào quí xuân (tháng 3) mới bắt đầu mưa, mùa hạ là mùa mưa chính, mùa thu thì mưa rào, mỗi khi mưa to chẳng khác nghiêng vò mà đổ, nhưng chỉ trong 1, 2 giờ rồi tạnh nắng. Cũng có đôi khi mưa dầm dề 1, 2 ngày, nhưng không có khi nào khổ vì mưa cả tuần cả tháng. Tuy 4 mùa đều có mưa nhưng chỉ tiết đông chí mới hơi lạnh. Khí hậu không thường nên 4 mùa hoa đều đua nở tỏa ngát hương thơm, khi trời mát trăng trong tức là Trung thu, không cần phải lấy tháng ngày mà xét đoán. Tô Thức ký (<29><28>) có câu: Tứ thời câu thị hạ, Nhất vũ tiện thành thu (bốn mùa đều nóng như mùa hạ, một trận mưa trở thành mùa thu). Lại có câu: Lãnh (Lĩnh) Nam vạn vật giai xuân sắc <3b> (muôn vật ở Lãnh (Lĩnh) Nam đều có sắc xuân). Khí hậu Gia Định giống như thế.

Khí trời Nam Việt nóng mà đất lại ẩm thấp do âm hỏa hun đúc, khí biển tác động thành ra sấm, cho nên mỗi khi mưa thì đồng thời có sấm sét. Chất đất ở nơi bờ biển lại thưa mỏng, không đủ chứa hỏa khí cho bền chặt, nên lúc dương khí quá mạnh, gặp âm khí xông lên, chúng chạm nhau hóa ra đường lửa chớp, gặp những vật đứng cao như cột buồm hay cây cối ngăn trở, khí ác đó bèn bị ép mà nổ tung vào, vậy thì người hay vật bị sét đánh chết là bởi gặp rủi ro bất chợt thôi (<30><29>), còn mùa đông mà có sấm sét là sự thường.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #2 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:07:23 pm »

Gia Định ở về phương Ly (<31><30>), âm ít mà dương nhiều, thường có nhiều gió nam. Vì mặt trời ở phương Nam mà gió cũng từ phương Nam đến, nên có nhiều gió nam thổi mạnh, nhưng không lo có gió bão, bởi gió bão là gió tập hợp đủ cả 4 phương lại <4a>. Gió khởi đầu ở phía đông bắc, tức từ phía bắc thổi qua tây, khởi đầu ở phía tây bắc, tức từ phía bắc thổi qua đông, nhưng đều đến phía nam thì ngừng. Vả gió ở Gia Định lấy phía nam làm hướng chính, phàm gió bão ắt phải quay về phía nam rồi ngừng, cho nên Gia Định không có gió bão.

Gia Định núi chằm thông thoáng, lại nhiều gió thổi, không tụ được khí lam chướng, mà lại ở ngoài Ngũ Lãnh (Lĩnh) (<32><31>) nên không có băng tuyết. Vả móc là khí thuần kim, phương Nam thì hỏa thạnh (thịnh) kim suy, đến tiết cuối thu khí trời vẫn còn nóng, khí kim không đọng thành giọt được nên ít có móc, ít móc nên không kết tụ thành sương, cho đến mùa đông thấy lá úa vàng rụng mới biết có sương rơi chút ít mà thôi.

Khí núi chằm khi mới bốc lên thành khói mù, lên giữa trời làm ra mây, cuối cùng làm ra mưa, mưa ấy do mây mà ra, mây từ trong núi bay ra thì gây u ám, từ biển bay vào thì gây mưa. Ở Gia Định thường có nhiều mây đỏ, ấy là do Ly hỏa phát sanh, có mây <4b> từ trong đất liền bốc lên mù mịt đen tối tỏa rộng đến 1, 2 dặm, ẩn hiện như đầu rồng hoặc như đuôi rồng, đến khi gặp gió cuộn lại thì nước phun lên làm cho sông cạn đầm khô, nhà cửa cây cối bay tốc, khí mù đen xoáy tròn từ dưới đất xoáy lên rồi bỗng nhiên mưa lớn, tục gọi là rồng lấy nước nhưng hiện tượng ấy cũng ít thấy.

Nước là mạch máu của đất, tùy theo khí đưa đẩy mà làm ra ngọn triều, buổi sáng lên gọi là triều, buổi chiều xuống gọi là tịch, nhưng gọi chung là thủy triều. Triều cùng mặt trăng hưởng ứng với nhau, hoạt động của âm dương không sai với thời tiết, nên gọi triều tín. Ta thường thấy khi nước vừa lớn thì có gió; khi nước đứng thì gió lặng; sau ngày mùng một, ngày rằm 2 - 3 ngày nước bắt đầu lên, gió cũng thổi mạnh; sau các ngày thượng huyền (ngày 8 và ngày 9) và hạ huyền (ngày 22, 23) 2, 3 ngày nước rút dần xuống thì gió cũng dịu dần, bởi vì gió là mẹ của nước, nên mới nói nước sinh ra bởi gió là vậy. Thủy triều ở Gia Định có khác so với các nơi, mỗi tháng có 2, 3 ngày nước ươn (không có lớn, ròng) mùa đông thì tới 3, 4 ngày. Tháng 8 tháng 9 (<33><32>) <5a> thủy triều lớn khác thường, tiết hạ chí lớn vào ban ngày, tiết đông chí lớn vào ban đêm; ngày 25, 26 nước bắt đầu lên, đến mùng một đã mạnh, qua mùng 3 lại mạnh hơn nữa, rồi sau dần dần nhỏ lại. Đến ngày 11, 12 thì nước lại lên, đến ngày rằm đã mạnh, qua ngày 18 (<34><33>) mạnh hơn nữa, sau lại nhỏ dần. Ấy là do xem theo mặt trăng đầy vơi làm chừng. Tục thường lấy khi nước lớn làm thủy đầu, tục gọi đầu con nước cũng gọi nước rong, nước sát xuống làm thủy vĩ tục gọi cuối con nước, cũng gọi nước kém. Dân đánh cá thường xem buổi nước lớn nước ròng mà hành nghề đánh bắt, khi đầu con nước thì nhiều cá, khi cuối con nước thì ít cá. Khi giao thời giữa mùa hạ và mùa thu, con nước lớn buổi mai chưa xuống, mà con nước ròng buổi chiều đã nối tiếp, thêm có gió đông nam kế tiếp đẩy mạnh nên nước biển dâng lên, ấy gọi là đạp triều (tục gọi là nước ươn rong) (<35><34>). Ấy là do triều tịch biến chuyển mà nước không ứng kịp theo tiết nhịp vậy. Gia Định giáp bờ biển, dưới thềm biển có nhiều dòng nước chảy ngầm trong lòng biển, nên thủy triều dâng mạnh, mau tràn ngập bờ bến. Vả lại, địa thế phía tây bắc rất cao <5b>, phía đông nam lại rất thấp, cho nên khi nước rút lại chảy cuồn cuộn về phía đông, làm cho bãi sông khô cạn. Người ta đo được mực nước rút lui sâu xuống đến 13 thước ta (<36><35>).

Vùng các huyện, đạo (<37><36>) nằm dọc theo bờ biển Gia Định, đất đai thường ẩm thấp, khí dương thường tiết ra, khí âm thấp thường nung nấu; khí dương tiết ra, nên thân người đoạn trên úng trệ, sớ thịt thưa khô, nhiều mồ hôi ướt thấm lưng, mùa hạ ưa uống nước mát, đến mùa thu, mùa đông thường phát bệnh sốt rét, bởi vì hàn khí nhiễm vào tỳ, mà tỳ là thuộc thổ, chủ tín (đúng hẹn), cho nên cữ sốt rét thường phát vào khoảng thời gian nhất định trong ngày chẳng sai chạy. Gia Định là nơi chứa khí Khiên dương (<38><37>), tích tụ khí thấp nhiều, trong 1 năm gió mưa lạnh ấm, ít khi theo đúng thời tiết, cho nên có nhiều luồng gió nghịch mùa, mà con người thì sớ thịt thưa hở, dễ bị ngoại tà cảm mạo, bởi bệnh phát thường từ gió, rồi gió độc ấy nhiễm sâu vào trong, thành ra bệnh phong. Xem trong chữ phong có chữ Phong (gió) thì biết nguyên nhân của bệnh ấy (<39><38>).

------------------------------------------

Chú thích:

(<1><1>) Có tài liệu nói ông sinh năm 1764.

(<2><1>) Viêm Thiên (炎天): Sách Lã thị Xuân thu ghi: Phương Nam gọi là Viêm Thiên. Chú: "Nam phương
tháng năm kiến ngọ, là trung tâm của lửa. Lửa đứng đầu nóng bức, cho nên mới gọi là Viêm Thiên".

(<3><2>) Quế Hải (桂海): Biển Nam Hải có nhiều quế nên gọi là Quế Hải. Thơ "Viên Thái úy thúc tùng giá" của Giang Yêm: Văn Chẩn bạt Quế Hải, Thanh giáo chúc băng thiên.

(<4><3>) Nguyên mạng bao (元命苞): Cũng viết 元命包 là một loại sách sấm kí coi về âm dương của Xuân thu. Sách này đã thất lạc.

(<5><4>) Khiên Ngưu (牽牛): Tên ngôi sao. Thời xưa lấy Khiên Ngưu làm biệt danh của Ngưu Tú, nay đều
cho là tên riêng của Hà Cổ. Ngưu Tú là một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, là ngôi sao thứ hai của chùm sao Huyền Võ, có 6 sao, đều thuộc tòa Ma Yết.

(<6><5>) Nam Đẩu (南斗): Còn gọi là Đẩu Tú, là tên một ngôi sao. Sách Tinh kinh chép: "Năm ngôi Đẩu Tú ở về phía tây Nam của Hoạn tinh, chủ về cân đong, đo lường".

(<7><6>) Hoài Hải: (chưa tra cứu được).

(<8><7>) Thiên Hà (天河): Còn gọi là Ngân Hà, Tinh Hà, Minh Hà, Giáng Hà, Trường Hà, Thu Hà, Ngân Hoàng, Ngân Hán, Thiên Hán, Vân Hán, Hà Hán, Tinh Hán, Thiên Hàng, Thiên Tân, chỉ dãy ngôi sao tập hợp thành một chuỗi dài vô cùng, màu mây trắng rất dễ nhìn thấy.

(<9><8>) Dự Chương (豫章): Tên đất xưa, là vùng đất Hán Đông, Giang Bắc, tức tại Giang Bắc, Hoài Nam, Trung Quốc ngày nay.

(<10><9>) Cối Kê (會稽): Tên quận do nhà Tần thiết lập, nay ở phía đông Nam tỉnh Giang Tô và tỉnh Chiết Giang. Đời Tống đổi làm phủ Thiệu Hưng.

(<11><10>) Thuần Hỏa (鶉火): Tên sao, còn gọi là Tâm Tú, Liễu Tú, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ năm trong bảy ngôi sao Thương Long, thuộc Yết Tòa. Tâm Tú còn được gọi là Thương tinh.

(<12><11>) Liễu - Tinh - Trương (柳 - 星 - 張): Đây là ba ngôi sao thuộc phương Nam trong Nhị thập bát tú. Sao Liễu tức sao Thuần Hỏa (xem chú thích chữ Thuần Hỏa bên trên). Sao Tinh là một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ hai trong chòm sao bảy ngôi Chu Điểu. Sao Tinh có bảy ngôi, 6 ngôi thuộc Trường Xà tòa, chỉ riêng sao Tinh là một tòa chiếu sáng lẻ loi. Sao Trương là sao Thuần Vĩ ( xem chú thích sao Thuần Vĩ bên dưới).

(<13><12>) Thuần Vĩ (鶉尾): Tên sao còn gọi là Trương Tú, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ năm trong chòm sao Chu Điểu, có 6 ngôi tất cả, đều thuộc Trường Xà tòa.

(<14><13>) Tiền Hán thư - Địa lý chí (前漢書地理志): Tiền Hán tức thời kỳ đầu nhà Hán tính từ Hán Cao Tổ Lưu Bang sáng nghiệp cho đến Nhụ Tử Anh. Hậu Hán tính từ Hán Quang Vũ cho đến Hiến Đế. Tiền Hán thư - Địa lý chí có lẽ là sách địa lý trong Hán thư thời Tiền Hán.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #3 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:08:04 pm »

(<15><14>) Vụ Nữ (務女): Tên ngôi sao, tức là Nữ Tú, Tu Nữ, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi sao thứ ba trong chòm sao Huyền Vũ bảy ngôi. Sách Nhĩ nhã chép: "Vụ Nữ tức sao Tu Nữ". Sách Bát nhã cũng viết: "Tu Nữ là sao Vụ Nữ".

(<16><15>) Tinh kinh (星經): Tên sách thiên văn xưa. Tống sử Nghệ văn chí có "Cam Thạch vu hàm thị Tinh kinh" một quyển, "Lưu Biểu Tinh kinh" một quyển.

(<17><16>) Tu Nữ (須女): Tu Nữ tức sao Vụ Nữ bên trên.

(<18><17>) Thẩm Hoài Viễn (沈懷遠): (Tra chưa ra).

(<19><18>) Nam Việt chí (南越志): Có lẽ là sách viết về nước Nam Việt bên Trung Quốc. Xưa Hán Cao Tổ
phong Triệu Đà làm Nam Việt vương. Sau khi Triệu Đà mất, đến đời Ai vương, Thái hậu họ Cù vốn người Hán muốn dâng nước cho nhà Hán bị Tể tướng Lữ Gia giết, tôn lập Kiến Đức làm vua (tức Thuật Dương vương). Sau Hán cử Lộ Bác Đức sang đánh bắt được Lữ Gia, Nam Việt diệt vong.

(<20><19>) Đường thư, Thiên văn chí (唐書天文志): Sách thiên văn trong bộ Đường thư. Đường thư chia ra Tân Đường thư và Cựu Đường thư. Tân Đường thư do Âu Dương Tu và Tống Kì đời Tống soạn gồm 225 quyển. Cựu Đường thư gồm 200 quyển do Lưu Hú đời Hậu Tấn phụng sắc soạn.

(<21><20>) Sơn đường khảo sách (山堂考索): Tên sách do Chương Dư Ngu đời Tống soạn, tiền tập 60 quyển, hậu tập 65 quyển, tục tập 56 quyển, biệt tập 25 quyển. Tiền tập chia ra làm 30 loại, hậu tập chia ra làm 7 loại, tục tập 15 loại, biệt tập 11 loại, đề mục đều khác nhau, nhưng đại để phần nọ bổ sung cho phần kia nên thể thức rất phức tạp, tuy nhiên dẫn cứ sâu sắc, khảo biện tinh tường, là một quyển sách tốt thời Nam Tống.

(<22><21>) Quỳnh Hải (瓊海): Còn gọi là Quỳnh Châu, Quỳnh Châu đảo, tức đảo Hải Nam ngày nay, ở phía nam huyện Quỳnh Sơn, tỉnh Sơn Đông.

(<23><22>) Sử ký, Thiên quan thư (史記 - 天官書): là sách Thiên quan trong bộ Sử ký, tức sách thiên văn thời xưa. Thiên quan là từ chỉ tinh quan trong môn thiên văn, bởi tinh tòa có thứ bậc cao thấp cũng giống như tôn ti trong quan chức triều đình, cho nên mới gọi là Thiên quan.

(<24><23>) Hồ (弧): tức sao Hồ Thỉ (弧矢). Theo sách thiên văn Sử ký Thiên quan thư thì ở dưới sao Thiên Lang có bốn ngôi sao gọi là Hồ hướng thẳng vào sao Thiên Lang (Chính nghĩa): Chín ngôi sao Hồ ở đông nam sao Lang, là cây cung của trời. Hồ Thỉ hướng thẳng về sao Lang. Sách Tống sử Thiên văn chí cũng chép: "Chín ngôi sao Hồ Thỉ tại đông nam là sao Lang, là cây cung của bầu trời".

(<25><24>) Lang (狼): Tức sao Thiên Lang (天狼). Theo sách Sử ký, Thiên quan thư: "Phía đông có một ngôi sao lớn gọi là Thiên Lang". Sách Tấn thư, Thiên văn chí: "Sao Thiên Lang ở về phía đông nam của sao Đông Tỉnh". Lang là sao man dã, chủ xâm lược. Xét sao Thiên Lang thuộc tòa Đại Khuyển, sắc xanh trắng, sáng nhất trong nhóm các hành tinh.

(<26><25>) Lão Nhân (老人): Tức sao Nam Cực Lão Nhân (南極老人) Theo sách Sử ký, Thiên quan thư thì dưới sao Lang gần mặt đất có một ngôi sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân. Tấn Chước chú "Lang tỉ địa" là chỗ sao Lang gần đất nhất". (Chính nghĩa: "Ngôi sao Lão Nhân ở tại phía nam của sao Hồ gọi là Nam Cực). Sách Quan tượng ngoạn chiêm: "Ngôi sao Lão Nhân ở phía nam Hồ Thỉ còn gọi là sao Nam Cực Lão Nhân, chủ thọ khảo, cho nên còn gọi là Thọ tinh". Xét sao Lão Nhân thuộc tòa Long Cốt, tên Tây là Canopus, màu xanh trắng lợt, cách phía nam Thiên Lang ước 360, chỉ tháng hai mới xuất hiện chếch ở phụ cận Nam thiên địa bình, cho nên ít ai thấy được ngôi Thọ tinh này. 12.000 năm sau khi sao Chức Nữ ở cương vị Bắc Cực tinh thì sao Lão Nhân thành sao Nam Cực.

(<27><26>) Đông Tỉnh (東井): Tên sao, tức Tỉnh Tú, là một trong Nhị thập bát tú, cũng là ngôi sao đầu trong chòm sao Chu Điểu 7 ngôi gồm tám vì sao thuộc tòa Song Tử.

(<28><27>) Đây là quan niệm thiên văn thời 200 năm trước.

(<29><28>) Tô Thức người Mi Sơn đời Tống, con Tô Tuân, anh Tô Triệt, tự Tử Chiêm, đỗ Tiến sĩ năm Gia Hựu, sung sử quán. Vì dâng sớ lên Thần Tông can việc thi hành tân pháp của Vương An Thạch nên bị đày đi Hàng Châu, Hồ Châu, Hoàng Châu, Huệ Châu, Quỳnh Châu. Lúc ở Hoàng Châu, xây nhà triền núi phía đông (Đông Pha) nên xưng là "Đông Pha cư sĩ". Đến đời Triết Tông gọi về làm quan trải nhiều chức, đến Đoan Minh điện Thị độc học sĩ, khi mất được thụy là Văn Trung.

(<30><29>) Đây là cách lý giải gần với khoa học của Trịnh Hoài Đức. Thuở đó dân gian cho rằng người bị sét đánh là do ăn ở ác đức bị trời phạt.

(<31><30>) Ly phương (離方): Quẻ Ly thuộc phương Nam, vậy Ly phương là phương Nam. Quẻ này (Ly thượng, Ly hạ) thuộc tượng hỏa, nhựt điện, trung nữ.

(<32><31>) Ngũ Lãnh (Lĩnh) (五嶺): Chữ Lĩnh, Tiền Hán thư và Hậu Hán thư đều viết là 領. Hán thư, Trương Nhĩ truyện: Nam hữu Ngũ Lĩnh chi thú. Phục Kiền chú: "Sơn Lĩnh có năm ngọn, cho nên gọi là Ngũ Lĩnh. Địa giới xứ Giao Chỉ và Hợp Phố có các ngọn núi đó". Xét lời chú giải của Sư Cổ: "Lời giải thích của Phục Kiền là nhầm. Lĩnh là phía tây, là Nam Hoàng Sơn, Đông cùng ở biển, là giới hạn của một ngọn núi, nhưng gọi tiêu chí chung là Ngũ Lĩnh". Sách Quảng Châu ký của Bùi Thị thì Ngũ Lĩnh là "Đại Dữu, Thỉ An, Lâm Hạ, Quế Dương, Yết Dương (tức Đô Bàng)". Còn Nam Khang ký của Đặng Đức Minh thì cho Ngũ Lĩnh là: Đại Dữu Lĩnh, Quế Dương Kỵ Điền Lĩnh, Cửu Chân Đô Bàng Lĩnh, Lâm Hạ Mạnh Chữ Lĩnh, Thỉ An Thành Việt Lĩnh. Còn theo sách Độc sử Phương Dự kỷ yếu thì Ngũ Lĩnh là 5 con đường nhập lĩnh: Một là đường từ Phước Kiến vào Quảng Đông Tuần Mai, hai là đường từ Nam An Giang Tây vào Nam Hùng Quảng Đông, ba là đường từ Hồ Nam vào Liên huyện Quảng Đông, bốn là từ Đạo Châu Hồ Nam vào Quảng Tây, năm là từ Toàn Châu Hồ Nam vào Tịnh Giang Quảng Tây.

(<33><32>) Người làm nghề hạ bạc rất chú trọng tới con nước. Trong thực tế, tháng 10 âm lịch là cường
triều to nhất.

(<34><33>) Cũng theo thực tế, ngày 17 âm lịch nước rong cao nhất vì có câu tục ngữ Nước mười bảy nhảy bờ.

(<35><34>) Nước ươn rong là do nước lớn chưa dứt thì tới cữ nước ròng, nước ròng chưa kịp rút thì gió đạp nước biển vào nên nước ròng phải dừng lại, do đó nước cứ lình bình một thời gian không ròng rồi lớn lại.

(<36><35>) Theo Histoire du Viet Nam của Lê Thành Khôi, 1 thước ta bằng 0,425 m. Năm 1900, triều đình Huế định lại một thước ta bằng 0,4 m. Còn một thước Trung Quốc bằng 0,325 m.

(<37><36>) Huyện, đạo tức quận và hạt đạo. Nhiều huyện thành một đạo, nhiều đạo thành một trấn. Nếu hiểu đạo là "đạo binh" là nhầm, tỉ như "Long Xuyên đạo" là hạt đạo Long Xuyên (Cà Mau) thuộc trấn Hà Tiên, chớ không phải "Đạo binh tỉnh Long Xuyên".

(<38><37>) Khiên dương (愆陽): là ánh dương quang nhiều quá. Sách Tả truyện, Đông vô Khiên dương chú: Khiên (愆) nghĩa là "nhiều quá". Dương (陽) nghĩa là "ánh nắng mặt trời".

(<39><38>) Suy chữ phong (瘋) vừa có nghĩa là bịnh phong điên vừa bịnh phong hủi, nhưng trong ngữ cảnh này có lẽ nghĩa "phong hủi" thích hợp hơn, vì đoạn văn đang tả bịnh từ da. Nhưng cũng có thể hiểu là bịnh phong thấp, phong hàn cũng được vì không có chi tiết nào xác định tác giả muốn nói về bịnh phong nào!
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #4 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:08:43 pm »

2.
Sơn Xuyên Chí (Về núi sông)

Núi non là xương của đất, sông nước là máu của đất, núi sông ấp ủ sinh dưỡng lưu thông, mà tạo nên đất đai một phương vậy. Những bậc anh hùng hào kiệt, trung thần liệt nữ cũng nhân đó mà sản sinh ra. Cũng ở đó sinh ra nhiều vật quý phát triển và bao của cải sinh sôi không gì là không đầy đủ. Tuy sách vở trong ngoài (<1><1>) có chỗ chép chỗ không, tên gọi xưa nay cũng khác, ấy là tùy vào từng thời đại, tùy từng vùng đất mà cách gọi có chỗ không giống nhau.

Sách Quản tử (<2><2>) chép: Trong thiên hạ có 5.370 ngọn núi có tiếng. Hoài Nam tử nói: Núi ở Nam Cực gọi là Thử Môn (<3><3>). Sử ký (<4><4>) chép: Trong thiên hạ có 8 ngọn núi lớn, 3 ngọn ở ngoài, còn Trung Quốc có 5 ngọn. Sách Thập châu ký (<5><5>) chép: nhà Phật bảo trên đỉnh núi Tu Di có 4 ngọn núi đứng cao vút lên, mỗi ngọn đều cao 700 nhận (<6><6>), mỗi ngọn chủ một phương trong thiên hạ.
Nam thiên hạ gọi là châu Diêm Phù Đề (<7><7>). Địa lý thư chép: Núi Thái Tổ là ngọn núi cao nhất, là nơi phát tích xưa cũ của một phương <1b>, các long mạch đều xuất phát từ đó. Nguyên trung ký chép: Trong thiên hạ nước là vật nhiều hơn cả; nâng trời, đỡ đất, chỗ cao chỗ thấp không đâu là không đến, muôn vật đều được thấm nhuần. Vật luận chép: Cái thành lập ra trời đất là nước, nước là gốc của trời đất, việc nhả ra nguyên khí, phát ra nhật nguyệt, giăng bày tinh tú, tất cả đều do nước mà hình thành, ngoài 9 châu ra (<8><8>) đều là nước cả. Nay xem lại các sách thì trong khoảng trời đất, núi sông chiếm phần lớn; người xưa đều ước lược lấy lý mà bàn một cách tổng quát chưa thể khảo cứu đến cùng để định ra tên gọi của nước, chỉ biết mỗi phương có trưởng một phương, tùy theo núi cao sông lớn của phương đó mà phân làm thân chính tổ tông rồi chia ra ngành dòng con cháu dẫy đầy ra mà tiếp tục nhau, đại để là theo người ở tại địa phương đó xưng hô mà đặt ra tên tuổi mà thôi, không cần câu nệ rằng núi sông ấy từ đâu dẫn đến, mà đắm chìm vào những điều nghe biết cũ trong sách xưa chép ra mà làm gì!
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #5 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:10:27 pm »

2a.
Trấn Biên Hòa

LONG ẨN SƠN (NÚI LONG ẨN)

Ở về phía tây, cách trấn (<9><9>) 4 dặm rưỡi, đất đá cao chót vót, cây cối tốt tươi, nó làm bình phong sau cho Văn Miếu, thế núi quanh co đẹp đẽ, ở dưới có đá thủy tinh.

BỬU PHONG SƠN (NÚI LÒ GỐM) (<10><10>)

Ở phía tây trấn cách 4 dặm, phía tây nam trông xuống sông lớn, làm tấm che đằng sau của núi Long Ẩn. Suối bàu tẩm nhuận, dẫn tưới ruộng đồng. Trên núi có chùa Bửu Phong, phía trái có đá đầu rồng đứng sững, phía phải có nhiều đá phẳng mặt như thiền sàng (<11><11>), khói mây man mác, cây cối um tùm, văn nhân nghiêng chén vịnh mùa đẹp, mỹ nữ nối gót kẻ hành hương, thật là thắng cảnh hạng nhất của trấn thành.

QUY DỰ (HÒN RÙA)

Hòn nằm giữa dòng sông Phước Long (<12><12>), cách phía tây trấn đến 9 dặm (<13><13>). Hòn dài 3 dặm, ở đó có dân cư cày cấy, dưới có <2b> sông dài uốn khúc quấn quanh, thuyền buồm ra vào, sóng xao khói lượn, khi ẩn khi hiện như hình con rùa thần tắm sóng, đẹp nhất là cảnh mưa rơi.

BẠCH THẠCH SƠN (NÚI ĐÁ TRẮNG)

Ở về phía tây, cách trấn 10 dặm. Núi rừng quanh co, nước suối róc rách, các loài tê giác, voi, nai, hươu, ra
vào từng bầy. Chân núi gối lên sườn cỏ, phía nam trông xuống chợ Ngư Tân (chợ Bến Cá).

THẠCH HỎA SƠN (HÒN ĐÁ LỬA)

Ở địa phận thôn Bình Thạnh, tổng Phước Vinh. Gò đá từng khối lởm chởm, có nhiều khối đá lửa. Khi trời
nóng nắng gắt thì đá nẩy lửa bắn ra bốn phía, trông như sao sa.

ĐÀO CANG (HÒN GÒ ĐÀO)

Tục gọi là núi Lò Gốm, ở về phía đông, cách trấn 4 dặm. Đá dựng chập chồng, sóng nước lao xao, thuở xưa đây là chỗ nung sành ngói, cảnh trí rất u nhã.

CHIÊU THÁI SƠN (HỆ (<14><14>) NÚI CHIÊU THÁI) (NAY GỌI LÀ CHÂU THỚI)

Ở phía nam cách trấn 11 dặm rưỡi. Từng núi cao vót xanh lơ, cổ thụ rậm tốt, làm tấm bình phong chầu về trấn thành, hình núi cao thấp khuất khúc, uốn lượn qua hướng đông, giáp hạ lưu sông Phước Giang (<15><15>) rồi đến gò Khổng Tước (Gò Công) thì dứt. Ở đoạn giữa tại mặt bắc nơi thôn Long Thành, giữa đồng bằng trải ra một gò cao như vách dựng, sau lưng gò ấy là chỗ bà ni Lượng tu hành, có dựng am Vân Tĩnh (tục gọi là chùa Vãi Lượng) trông rất u nhã. Về sau quân Tây Sơn đập bỏ chùa Phật, nhưng nay nền cũ hoang phế vẫn còn.

Ở cuối hòn núi nầy về phía bắc tại ngã ba chẻ ra một nhánh chạy đến địa phận thôn Long Tuy thì dừng rồi
bỗng nổi thành gò cao bằng phẳng rộng rãi; ở bên núi có hang hố và khe suối, dân núi ở ven quanh, trên đó có chùa Hội Sơn là chỗ thiền sư Khánh Long dựng gậy tu hành (<16><16>), núi trông xuống sông lớn, hành khách leo lên thăm, có cảm tưởng như tiêu sái thoát tục.

THẦN QUY SƠN (HỆ)

Tục gọi là núi Ba Ba, có suối trong núi chảy ra, là mạch phát nguyên của sông Phước Long (tục gọi ngọn sông Đồng Nai). Suối ấy có hòn đá lớn dáng như con rùa <3b> cuộn chân, đầu thường ngó lên hướng tây, thì năm ấy mưa lụt bình thường, nếu quay mình theo dòng suối ngó về hướng đông, thì năm ấy ắt có lụt lớn. Ấy là vật thần tự nhiên, không phải là do sức người sắp xếp nổi. Người dân núi ở đây thường xem đó để biết mưa lụt lớn nhỏ trong năm, cho nên gọi là núi Thần Quy (Rùa thần), lại cũng gọi là Thọ Sơn. Núi làm giới hạn cuối cùng cho phía tây của trấn, cách trấn về phía tây bắc hơn 445 dặm (<17><17>), nguồn xa xưa phát từ hướng chính bắc, sườn núi nguy nga, hang động huyền ảo, làm hang ổ, sóc cho các bộ lạc
man, lào chia vùng mà ở rải rác khắp nơi.

Sóng chính của núi khí lực hùng vĩ, từ trong ấy chạy đến rồi nổi lên núi Quy Sơn cao ngất, vị trí ở về hướng tây bắc (<18><18>). Khởi thỉ (thủy) là ngọn núi Hỏa Tinh cao nhọn (<19><19>) làm núi tổ cho một phương. Lại còn có nhiều hòn núi chạy giăng, trùng trùng điệp điệp, mở ra như màn trướng theo hai bên tả hữu, vây quanh phía bắc đến phía đông, đồ sộ liên tiếp, đất đá lẫn lộn, tức là núi Bàu Chiêng, núi Chứa Chan, núi Lai (Lây), núi Nục, núi Liên, núi Tiều Nghiêu và các núi Mô Xoài (<20><20>), núi Bà Địa (<21><21>), núi Thùy Vân (<22><22>) giáp biển mới hết.

<4a> Phía bắc núi Liên Sơn là trấn Thuận Thành là địa giới người man, phía nam là trấn Biên Hòa cũng là địa giới man đã thuần thuộc. Nhánh bên phải quanh lên phía tây rồi qua phía nam là núi Cố, núi Bà Rá, núi Lấp Vò, gò đống trồi thụt, qua hẻm băng ruộng, có chỗ hình trảng bằng, có chỗ hình xâu chuỗi, có nhiều tên gọi và hình trạng khác nhau, lại có núi Bà Đinh (<23><23>), núi Lò Yêm đến sông lớn nước Cao Miên mới dứt.

THIẾT KHÂU SƠN

Tục gọi là núi Lò Thổi, ở phía bắc Phước Giang, phía đông cách trấn 19 dặm, do sông Đồng Chân đi quanh qua phía bắc 3 dặm rưỡi là chợ Lò Sắt (<24><24>), ở đây gò đống lồi lõm, rừng rú xanh rậm, người làm sắt tụ họp thành chợ, mở lò nung, cung nạp thuế sắt, quặng sắt rất thịnh vượng. Năm Tân Mùi (1811) niên hiệu Gia Long thứ 10, có người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Kinh Tú và Lâm Húc Tam xin trưng thuế, mở lò chế tạo rất tinh xảo, được nhiều sắt tốt, đúc làm nồi chảo, thu nhiều lợi, rồi sau đem hết của cải về quê ở đất Mân (thuộc tỉnh Phúc Kiến). Ấy là chỗ trời đất ân huệ giúp cho dân nghèo kiếm sống vậy.
<4b> KÝ SƠN (NÚI KÝ - CÒN GỌI NÚI HỎA PHÁT)

Tục gọi là núi Bà Ký, ấy là lấy theo tên người (sau đây cũng có nhiều chỗ phỏng theo như thế..)
Ở về phía đông cách trấn 91 dặm, có đất đá, suối nước ngọt, cây cối rậm rạp, chim muông tụ tập, người bốn phương kéo đến ở, họ chuyên nghề săn bắn và đẵn gỗ để sinh nhai.

NỮ TĂNG SƠN (<25><25>) (NÚI BÀ VÃI) (NAY GỌI LÀ NÚI THỊ VẢI)

Tục gọi là núi Bà Vãi, ở địa phận huyện Long Thành. Xưa có người con gái họ Lê, gia tư giàu có, nhưng do kén chọn lỡ thì, sau khi cha mẹ mất rồi mới có chồng nhưng không được bao lâu chồng cũng chết, bà thề không tái giá, nhưng bị kẻ cường hào cậy mai mối thường đến quấy nhiễu, bà bèn trốn đời xuống tóc, lập am ở đỉnh núi, tự làm bà thầy cả, kẻ ăn người ở làm đồ đệ, giữ lòng tu tập, sau thành chánh quả, do đó người đời lấy từ bà vãi mà đặt tên núi.

Núi nầy cách phía đông trấn 120 dặm, đất đá lởm chởm, cây cối to lớn um tùm. Nếu đứng ở thành Gia Định mà trông thì nó giống như viên ngọc màu xanh vàng bày ra nét đẹp. Dân núi ở đó lấy khai thác thổ sản ở núi để sinh sống, như cây gỗ, nhựa cây, than củi và muông thú.

<5a> LÀNG GIAO SƠN (NÚI LÀNG GIAO) (<26><26>)

Ở địa phận huyện Long Thành, về phía đông bắc cách trấn 132 dặm rưỡi. Có đất đá, khe suối, cây cối um
tùm, trại sách của các dân tộc man đã thuần thuộc nương theo chân núi cùng sống với hùm, beo, tê, voi.
TRẤN BIÊN SƠN (NÚI TRẤN BIÊN)

Tục gọi là núi Mô Xoài ở về phía đông cách trấn 145 dặm. Hình núi cao ngất, cổ kính, có nhiều hang nai, đồi thông, mây phủ, thác suối, cảnh trí tịch mịch, chầu về thành Gia Định từ xa, cảnh núi trải ra đẹp đẽ. Lưng chừng sườn núi có động đá sâu, quanh co chật hẹp chưa ai đi vào cho hết được. Có nhà sư tịch cốc tên là Ngộ Chân, dựng chùa Đức Vân nơi cửa động để tu hành, hằng ngày chỉ ăn rau quả để tụng niệm Phật hiệu, thuần phục được cả hùm beo, lại giỏi vẽ bùa chữa bệnh, thâu được lễ tạ của người thì đem cấp cho người nghèo khổ, khốn cùng. Ấy cũng là một vị cao tăng đắc đạo vậy.

BÀ ĐỊA SƠN (NÚI BÀ RỊA)

Ở về phía đông bắc cách trấn 176 dặm rưỡi. Núi đá lởm chởm, cây cối xanh tốt, núi trông xuống chợ Long Thạnh, chắn ngang giữa đại lộ; dân ở đó đào mở đường giữa sườn núi để xe ngựa đi qua, hai bên đường tường đứng cao như vách, tợ như dũng đạo vậy (<27><27>).

SA TRÚC SƠN (NÚI SA TRÚC)

Tục gọi là núi Nứa, cách phía đông trấn 185 dặm (<28><28>), trên núi có nứa, dưới núi có chằm
(<29><29>) lớn, người tụ tập làm nghề đánh cá.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #6 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:11:23 pm »

THÙY VÂN SƠN (NÚI THÙY VÂN)
Ở về phía đông cách thành 194 dặm. Thế núi đứng dựa nơi bờ biển, cao lớn đẹp lạ thường, đỉnh chọc thẳng lên trời, nhìn thấy có mây từ trên núi tỏa xuống, cho nên mới có tên ấy. Trên núi có chùa Hải Nhật, là chỗ trông ra biển để đo bóng mặt trời. Phía bắc chân núi, cây cối xanh tươi, đó là hang lợn rừng về nghỉ ngơi, ở chân núi còn có đầm to từ biển thông vào, gọi là Sơn Trư Úc (tục gọi là bãi Heo), khi gió nam thổi mạnh, tàu thuyền thường vào đậu đấy để tránh.

THÁT KY SƠN

Tục gọi là núi Gành Rái, cách phía đông trấn 243 dặm rưỡi. Phía bắc từ trong chằm lớn băng qua khe <6a> rạch, tụ họp cát đá, chạy về hướng đông mà mọc ra, quanh vòng qua hướng tây, uốn lượn dáng như con rồng xanh tắm biển, rồi nổi lên 3 ngọn núi đá đứng sững như chân đỉnh ở giữa biển; dựng làm bãi neo cột nêu giữa biển, để chỉ rõ bờ bến cho thuyền nam bắc qua lại và ngăn sóng lớn dậy cuộn suốt ngày. Đầu núi làm cửa phải cho Tắc Ký (<30><30>), đuôi núi làm bình phong che ngoài cho Cần Giờ, phía trong có vũng lớn làm chỗ cho ghe thuyền neo đậu nghỉ ngơi. Trên núi có suối nước ngọt phun ra, dưới có dân chài sinh sống, thật là một cửa bể có phong cảnh đẹp nhất. Ở đầu gành thường có rái cá xuất hiện, nên mới có tên là núi Gành Rái.

THẦN MẪU SƠN

Tục gọi là mũi Bà Kéc (<31><31>), làm ranh giới phía bắc của trấn, cách trấn 249 dặm; có những đá đứng dọc theo bờ biển, dưới có nhiều rạn đá, trên có nhiều động cát, hay nổi gió to sóng dữ bất thường, người đi thuyền đến đây luôn cẩn thận. Trong động có miếu linh thờ Thần Nữ ở núi, mặt tiền miếu trông ra đường cái quan, hành khách chiêm lễ thường phải thành kính cúng bái và thả gà sống, <6b> treo giấy tiền để cầu thần phù hộ.

PHƯỚC LONG GIANG

Tục gọi là sông Đồng Nai, là một sông lớn ở phủ Phước Long, nên lấy tên phủ đặt tên sông (sau phần đông phỏng theo như thế).

Phát nguyên của sông này rất sâu xa, suối vực sâu rộng, xuất phát từ núi Thần Quy chảy ra, do nước đọng trong các núi, muôn hốc thông thương họp lại nên dòng nước mênh mông, chảy xuống hướng đông cho đến Tiểu Giang (sông Bé), xóm Sa Tân (Bến Cát), một hướng chảy về thác đá lởm chởm, nước chảy hung hãn hiểm ác, nên ghe thuyền không lưu thông được; nước thủy triều chỉ lên đến đây là dừng, thuyền buôn cũng đậu tại đây rồi lên trạm thuế giao dịch với người Thượng.

Từ đây trở xuống, sông rộng nước sâu, nước ngọt trong veo là thứ nước có tiếng tốt nhất thành Gia Định để dùng gội đầu hay pha trà, dù nước suối Trung Linh ở Kim Sơn (<32><32>) hay Bạch Hạc ở Ba Lăng (<33><33>) (Trung Quốc) cũng không hơn được. Chảy xuống một quãng nữa thì cùng sông Tân Bình hợp lưu thành ra sông Phước Bình, rồi chảy xuống hướng đông ra cửa biển lớn Cần Giờ. Thường đến tháng 8 hàng năm nước lụt đổ xuống, rửa sạch bao xú uế, <7a> lan tỏa khắp ruộng nương, tuy lụt có lớn nhỏ nhưng không sợ nạn tràn ngập mênh mông, người chết, nhà trôi, bởi vì sông này có nhiều nhánh rút chảy ra biển rất nhanh.

ĐẠI PHỐ CHÂU

Tục gọi là Cù Lao Phố, một tên gọi khác là Đông Phố (Giản Phố) (<34><34>) cũng còn gọi là Cù Châu, bởi địa thế cù lao uốn mình khoanh duỗi hình như con cù bông giỡn nước, nên có tên như vậy. Cù lao nầy cách phía đông trấn độ 3 dặm, dài hơn 7 dặm, rộng bằng 2 phần 3 bề dài, như con kim ngư trấn nơi thủy khẩu, cây trụ đá ngăn sóng lớn cho trấn thành.

Phước Giang (sông Đồng Nai) quanh phía nam, sông Sa Hà (Rạch Cát) vòng phía bắc, thuở trước có chiếc cầu ván bắc qua sông rộng rãi bằng phẳng, thông đến trấn lỵ.

Hồi tháng giêng năm Đinh Mão (1747) đời vua Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế thứ 10 Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8; Đại Thanh Càn Long thứ 12) (<35><35>) có khách buôn xứ xa người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Văn Quang đến khách ngụ ở Đại Phố, thấy cảnh thái bình, võ bị lơ là, lòng mừng thầm, bèn lén lút kết bè đảng <7b> hơn 300 người tự xưng là Đông Phố (Giản Phố) đại vương, dùng Hà Huy làm ngụy Quân sư, Tạ Tam làm ngụy Tả đô đốc, Tạ Tứ làm ngụy Hữu đô đốc, âm thầm tính chuyện xằng bậy, định đánh úp dinh Trấn Biên, nhưng chỉ sợ Khâm sai Cai đội Cẩn Thận hầu Nguyễn Cư Cẩn là người có võ nghệ cao cường, nên chúng bàn mưu trước tiên phải giết ông Cẩn thì việc sẽ dễ thành như trở bàn tay. Nhân ngày tết Nguyên đán, chúng bèn phục binh ở trong phố, rồi đem hơn 50 tên dũng cảm bày y phục theo kiểu đi mừng lễ ngày xuân, đến mừng tuổi tại dinh Cẩn Thận hầu, thừa lúc ngài vô ý cử sự, cùng rút đoản đao trong tay áo chém Cẩn Thận hầu bị thương. Cẩn Thận hầu lăn xuống vọt chạy chụp lấy ngọn phốc đao trên giá binh khí ở vách, giết được 5, 6 tên giặc, chúng bèn rút lui, chạy ùa vào trại quân đoạt được một số thương dài, rồi từ hai phía đông tây đánh ép. Lúc ấy Cẩn Thận hầu đã bị trọng thương đuối sức, kéo đao đánh bước giật lùi, không ngờ cán đao bị vướng hàng rào cây khiến ông vấp ngã, <8a> liền bị giặc đâm chết. Thế rồi thuộc binh của ông liền đến tiếp ứng, quân giặc chạy về tụ tập chận cầu để chống cự. Quan Lưu thủ Cường Oai hầu họ Nguyễn điều lính thủy bộ của dinh dàn trận ở bờ bắc, đốt phá cầu ván để cứ thủ, không dám tiến qua đánh dẹp, rồi đưa hịch báo cáo cho Cai cơ Đại Thắng hầu Tống Phước (<36><36>) Đại ở đạo Mô Xoài để cùng hiệp binh đánh dẹp. Quan quân bắt được bọn Lý Văn Quang cùng bọn đầu sỏ hung ác 57 tên. Nhưng nghĩ chúng nó là người của Thiên triều (Thanh triều) không nên giết vội, bèn giam chúng vào ngục rồi đem việc ấy tâu lên.

Mùa đông năm Ất Hợi (1755), nhân có bộ hạ của Tổng đốc Mân Chiết (Trung Quốc) là Thiên tổng Lê Huy Đức, Bá tổng (<37><37>) Thẫm Thần Lang, Hồ Đình Phụng đi tuần thú Đài Loan, thuyền bị gió bão bạt đến nước ta, nhân đó phối hợp cùng tàu buôn để đưa họ về nước, tiện thể tháng 7 mùa thu năm Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long thứ 21) soạn công văn và bản án kể rõ tội trạng của tặc đảng. Bọn tù phạm trừ những kẻ đã thọ thương bị bệnh chết, hiện còn đám Lý Văn Quang, <8b> Hà Huy, Tạ Tứ cộng 16 người, giao cả cho đoàn Lê Huy Đức lãnh giải về tỉnh Mân, trình lên quan Tổng đốc xét xử trị tội.

Từ đó cầu bị phá bỏ rồi dần dà cho đến khi Tây Sơn nổi loạn vẫn không sửa lại được, nay phải dùng đò đưa người qua lại. Đầu phía nam cũng có bến đò đưa ngang qua chợ Bình Tiên (tục gọi là chợ Lò Giấy, khi quân Tây Sơn vào cướp phá đóng ở đấy lại gọi chợ Đồn, thuộc đất thôn Bình Tiên), từ đó do đường bộ đến thành Gia Định.

THẠCH NGHÊ (CỒN CON NGHÊ)

Ở về phía đông cách trấn 3 dặm rưỡi, nằm dưới dòng phía nam sông Phước Giang, hình dạng hòn đá giống con nghê, đầu sừng lộ ra rất rõ, dài chừng 10 trượng (<38><38>), bề ngang bằng quá nửa bề dài (<39><39>), đứng ngược dòng nước, mặt chầu về cửa thành, khi nước ròng sát trông thấy rất rõ.

CỰ TÍCH THẠCH

Còn gọi là Thạch Than (Thác đá) ở giữa Phước Giang, về phía nam cù lao Phố, cách trấn chừng 4 dặm <9a> nằm thiên về phía bắc; mô đá gồ ghề, lớn nhỏ chồng chất, làm cho thế nước chảy xiết, sóng gió vỗ ầm ầm, người đi thuyền phải hết sức cẩn thận. Dưới có con cá chép đen, mình lớn 6, 7 thước ta, mắt sáng như điện, vảy óng ánh như sao, mỗi khi đêm vắng canh khuya, nó thường đến trước miếu Chưởng cơ Lễ Thành hầu, nhảy qua thác, vượt qua sóng, bơi lội lên xuống, hình như thể vái lạy vậy.

Phía bắc thác đá có vực rất sâu, là nơi tàu bể các nước đến núp đậu. Từ trước thuyền buôn đến đây thả neo xong thì lên bờ thuê phố ở, đến nhà chủ mua hàng kê khai toàn bộ hàng hóa có trong thuyền trình sở thuế; chủ mua hàng định giá mua tất cả hàng hóa xấu tốt không sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về, gọi là hồi Đường (<40><40>), nếu chủ thuyền muốn mua thứ gì thì cứ kê khai trước, người chủ vựa theo đơn đặt hàng mua dùm, hai bên chủ khách đều tiện, thanh toán hóa đơn rõ ràng rồi, khách cứ đàn hát vui chơi, đã được nước ngọt sạch sẽ, lại không có lo trùng hà ăn thủng ván thuyền, chỉ đợi tới ngày lui thuyền, chở hàng đầy khoang mà về xứ.

Từ khi Tây Sơn dấy loạn (<41><41>), quan quân về cả ở trấn Phiên An, thuyền buôn cũng dời theo đậu ở sông Tân Bình, nên đến nay tình thế đã thay đổi, thuyền cập bến không có chủ lớn mua mão bao trữ, nên phải gánh đến các chợ bán lẻ linh tinh, khi muốn mua thổ sản đem về, thì phải đi tìm đông, hỏi tây, rất nhọc nhằn. Lại có bọn côn đồ địa phương khéo giả dạng làm người ân cần thành thật, dối gạt mua xong lấy hàng rồi tìm nơi buồm (<42><42>) mất, nếu chủ thuyền mất một ít số vốn thì còn gắng chịu mà về, nhưng nếu mất vốn quá nhiều thì phải đậu thuyền qua mùa đông (phàm thuyền buôn người Tàu đến mùa xuân, thuận theo gió đông bắc mà đến, qua mùa hạ lại thuận theo gió nam mà về, nếu cuốn buồm đậu lâu quá, thu sang đông gọi là lưu đông, hay áp đông) để truy tầm bọn ấy khắp nơi, việc ấy làm cho người buôn đường xa ngày càng cực khổ.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #7 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:12:09 pm »

NGÔ CHÂU (CÙ LAO NGÔ)

Ở về phía bắc lưu của Phước Giang, dài hơn 1 dặm, rộng bằng 1 phần 4 bề dài, cách phía tây trấn 19 dặm rưỡi. Nguyên trước liền với cù lao Tân Triều, năm Giáp Tý (1744), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 vì có lũ lớn, bị xói lở chia làm 2, phía đông thành cù lao Ngô <9b> phía tây thành cù lao Tân Triều, ở giữa có một sông nhỏ vừa cạn vừa hẹp chia ranh giới, nhiều cát sỏi nên chỉ ghe nhỏ đi chầm chậm thì mới qua lại được.

TÂN TRIỀU CHÂU (CÙ LAO TÂN TRIỀU) (<43><43>)

Nằm ở trung lưu Phước Giang, cách phía tây trấn 21 dặm, dài 10 dặm, rộng 2 dặm rưỡi, dân ở đây chuyên việc làm vườn, nhưng chủ yếu trồng trầu vì trầu ở đây nhiều lá mà tốt, mùi vị lại thơm ngon, cho nên chỉ có trầu ở Tân Triều là nổi tiếng hơn hết.

TÂN CHÁNH CHÂU (CÙ LAO TÂN CHÁNH) (<44><44>)

Nằm về phía nam lưu (<45><45>) Phước Giang, cùng nằm tiếp liền với cù lao Tân Triều và cù lao Ngô bày thành 3 cù lao giăng hàng mà cù lao nầy thì lớn hơn hết, bề dài 20 dặm, rộng 5 dặm rưỡi, cách trấn về phía tây 20 dặm, đất ở đây tốt, thích hợp với cây dâu và mía, nên ở đây sản xuất nhiều đường cát.

BỒNG GIANG (SÔNG LÁ BUÔNG)

Ở về phía tây cách trấn 11 dặm rưỡi, phía trên tiếp với 3 cù lao Tân Chánh, Tân Triều và Ngô, hợp lưu chảy xuống tới giữa rồi tạo ra Kính Hồ sâu rộng trong xanh, trấn áp vùng thượng du của hòn Rùa, khói sóng chờn vờn, núi sông tươi đẹp, huyền ảo như bồng lai tiên cảnh. Ở đây gồm thâu nhiều cảnh đẹp như viễn phố quy phàm (buồm về bến xa), bình sa lạc nhạn (nhạn đáp bãi cát bằng), và tình nham dạ vũ (núi tạnh, đêm mưa) <10b> khiến cho người có cảm hứng phong cảnh Tiêu Tương, vẽ thành tranh vậy.

KIÊN GIANG (<46><46>) (RẠCH VẮP)

Ở phía nam thượng lưu Phước Giang, cách trấn về phía tây nam 21 dặm rưỡi, sông từ phía bắc chảy qua nam, có rừng sâu khe đứt, giáp giới một chằm cạn, khi mưa lụt có thể thông đến dòng Cái Cát Hạ, chảy xuống ngã ba Bàng Giang (gọi là ngã ba Cái Con) rồi chảy vào sông lớn Băng Bột. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

ĐÔNG GIANG (RẠCH ĐÔNG)

Ở phía bắc thượng lưu Phước Giang, cách tây bắc trấn 52 dặm rưỡi. Ngược dòng lên đầu nguồn về phía bắc 32 dặm rưỡi đến Thâm Tuyền, rừng rú hoang vu, thác đá nguy hiểm, ghe thuyền khó đi lại được. Từ đấy trở lên đều thuộc đất của người Thượng hung dữ.

TIỂU GIANG (<47><47>)

Tục gọi là Sông Bé ở tổng Phước Vinh, phía nam Phước Giang, cách trấn về phía tây 109 dặm rưỡi, phát
nguyên <10b> từ 2 sách (<48><48>) sơn man Võ Tam và Võ Viên (<49><49>) quanh co chảy xuống hướng Đông 53 dặm đến thủ sở Tham Linh, bị thác gành ngăn cản, rồi chuyển quặt ra phía bắc 242 dặm tạo thành cửa Tiểu Giang hợp lưu với Phước Giang.

LA NHA GIANG (SÔNG LA NGÀ)

Ở phía bắc thượng lưu Phước Giang, sông này phát nguyên từ núi Phố Chiêm thuộc trấn Thuận Thành chảy về nam. Lại từ núi Phố Chiêm chảy ra phía bắc gọi là sông Dã Dương rồi vòng quanh núi Cộp Cộp (<50><50>) (nước sông chảy xiết cọ vào đá, tiếng kêu cộp cộp nên còn gọi là núi Sông Bập (<51><51>)) chảy xuống đông rồi hợp lưu với nguồn Bàn Thạch ở trấn Phú Yên.

SA HÀ (RẠCH CÁT)

Tục gọi là Rạch Cát, ấy là bắc lưu của Phước Giang, cách phía đông trấn 3 dặm rưỡi. Sông này chảy quanh cù lao Đại Phố. Lại có tên là Hậu Giang (<52><52>), đầu phía tây nhiều khúc cạn, khi nước ròng thì lội bộ qua được.

AN HÒA GIANG (SÔNG AN HÒA)

Ở về phía bắc Phước Giang, cách trấn về phía đông 19 dặm. Ngoài cửa sông là sông Đồng Chân, chảy ra bắc nửa dặm <11a> đến chợ thôn An Hòa, trước kia đây là bến để gỗ, cho nên còn gọi là Bến Gỗ, qua hướng đông bắc nửa dặm đến cửa sông Thiết Tràng (<53><53>) (tục gọi là rạch Lò Thổi (<54><54>), về hướng tây bắc 3 dặm rưỡi nữa đến chợ Lò Thổi là cùng nguồn) rồi chảy 4 dặm nữa hợp lưu cùng sông Bối Diệp (sông Lá Buông).

KÍNH CHÂU

Tục gọi là cù lao Cái Tắt (<55><55>), ở hạ lưu Phước Giang, cách phía đông nam trấn 21 dặm rưỡi. Cù lao dài 13 dặm, rộng 7 dặm, có ruộng nương nhà cửa của dân ở đó. Phía trái cù lao là Đông Giang, rộng lớn mênh mông, sóng gió chập chùng; phía bên đông Đông Giang thông với 3 đường sông Bối Diệp (sông Lá Buông), Thanh Thủy và Đồng Môn. Phía hữu là Tây Giang, tuy có hẹp nhỏ phần nào nhưng lại đường tắt gió lặng, ghe thuyền lớn nhỏ qua lại đều đi đường đó. Chỗ đuôi cù lao, hai sông Đông Giang và Tây Giang hợp lưu, gọi là sông Lan Ô (<56><56>) (sông Chàng Hảng), sông rộng nước sâu, nước bùn đục của các sông chảy đến đây đều được lắng lọc trở nên trong sạch. Khúc sông này lại có cù lao lớn chặn hai đầu trên xuống dưới, nên chỗ ấy có nhiều gió cuộn, lại do nhiều dòng nước chảy xiết va chạm nhau <11b> thành sóng lớn, dao động bất thường. Phía đông hạ lưu sông Lan Ô có cù lao Văn Manh (cù lao Muỗi Mòng), cù lao này dài 4 dặm rưỡi, rộng 4 dặm, che lấp cửa sông Mao Đằng (tục danh Rạch Choại (<57><57>) - thổ sản có dây chại); cỏ cây ở đây rậm rạp, sinh nhiều giống muỗi mòng nên có tên ấy. Đoạn sông này chảy tán loạn ra nhiều ngả, sau mới chảy gộp về chỗ cuối cùng, đó cũng là cửa sông Tam Giang - Nhà Bè (<58><58>).

BỐI DIỆP GIANG (SÔNG LÁ BUÔNG)

Tục gọi là rạch Lá Buông, ở đấy có nhiều cư dân sinh sống bằng cách lấy lá buông dệt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu đem bán sinh nhai, nên mới gọi tên như thế. Sông nầy ở hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách trấn 30 dặm, sông nhỏ mà dài, ngược về nguồn 10 dặm đến thượng khẩu Nguyệt Giang, lại thêm 10 dặm rưỡi nữa đến thượng khẩu sông Đồng Chân (<59><59>), 23 dặm nữa đến cầu ngang đường cái quan, 10 dặm đến phân thủ Bối Diệp (<60><60>), 27 dặm đến phần sông Ngã Ba; nơi đây nước chia 2 nhánh đông tây; nhánh phía đông chảy quanh qua bắc 50 dặm đến Thâm Tuyền (Suối Sâu), là cùng nguồn rồi chảy vào chân núi Làng Giao. Nhánh phía tây chảy quanh qua bắc hơn 24 dặm đến thác Xung tục gọi Hàn Kiết (<61><61>), đá thác chẹn cứng, trên đấy là nơi chợ trao đổi hàng hóa của các dân thuộc man (<62><62>). <12a> Ghe thuyền đi đến đây là tận cùng, còn như gốc nguồn của nó thì ở trong núi sâu xứ Cao Miên, nước thường chảy róc rách từ đó ra.

ĐỒNG MÔN GIANG (SÔNG ĐỒNG MÔN) (ĐỒNG MUN) (<63><63>)

Ở hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách trấn hơn 35 dặm; cửa sông rộng 8 trượng, sâu 1 trượng, chảy về hướng đông bắc 21 dặm đến miệng suối Tông (tục gọi là suối Uổng) (<64><64>), ở bờ tây chảy về hướng tây 5 dặm rưỡi đến cầu Thanh Thủy ở đường cái quan rồi hợp với thượng lưu sông Thanh Thủy, 3 dặm nữa đến miệng suối Quán Thủ (suối ở bờ bắc), đi ngược theo hướng tây bắc 6 dặm rưỡi đến cầu ngang Quán Thủ, 20 dặm nữa đến nơi cùng nguồn. Bờ nam có đóng năm đồn đất, nửa dặm đến cầu ngang, đầu cầu phía bắc đi 1 dặm rưỡi đến thủ sở Đồng Môn (Mun) ra đường cái quan. Đầu cầu phía nam đi 13 dặm rưỡi đến chợ sông Mao Đằng (sông Choại), từ đây chảy thêm một dặm rưỡi nữa là đến cùng suối. Đến cách chợ Đồng Môn (Mun) một dặm, đi về phía đông nửa dặm đến sông Trảo Trảo, chảy hẹp lại phía đông bắc 2 dặm đến cửa suối Đồng Hươu, từ cửa suối ngược lên phía tây 3 dặm đến cầu ngang Đồng Hươu, hiệp với đường cái quan, lại chảy 31 dặm đến Án Tuyền (suối Án) là nơi cùng nguồn vậy. Từ miệng suối Đồng Hươu chảy về hướng đông 13 dặm rưỡi rồi hiệp lưu với sông Ký.

<13a> KÍ GIANG (SÔNG BÀ KÍ)

Ở về phía đông cách trấn 91 dặm; sông này chảy từ Nam lên Bắc, dài 12 dặm rưỡi, đến Đại Tuyền (suối Lớn) là nơi cùng nguồn thì dừng lại. Giữa có đường cái quan, có cầu ngang để thông qua lại, cửa sông chảy về đông hợp với sông Đảo Thủy (<65><65>) (tục gọi là Nước Lộn), rồi chảy ra cửa sông lớn Mô Xoài. Sông chảy về tây hợp với sông Đồng Hươu, qua sông Đồng Môn (Mun) rồi chảy ra sông lớn Phước Long.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #8 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:12:58 pm »

PHÙ GIA TAM GIANG KHẨU (CỬA TAM GIANG NHÀ BÈ - NGÃ BA NHÀ BÈ)

Nước ngọt sông Phước Long từ bắc chảy đến, nước lợ sông Tân Bình từ nam chảy lại, hợp lưu chảy xuống đông tạo thành sông Phước Bình, ấy là cửa Tam Giang, nước toàn mặn cả. Cách phía đông nam trấn 73 dặm rưỡi, từ đấy trở xuống hướng nam bắc có nhiều sông nhánh, duy một dải sông lớn chảy xuống đông, đổ ra cửa biển Cần Giờ. Xưa khi mới đặt 2 dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, mà đường bộ Bình Đồng chưa mở, hành khách đi lại phải đáp đò dọc. Đầu bến đò phía bắc ở bến Sa Hà (Rạch Cát) thuộc dinh Trấn Biên, <13b> đầu bến đò phía nam ở đầu cầu đò tổng Tân Long (tục danh Cầu Đò, ở địa phận thôn Tân Hương, nay vẫn còn). Phàm người đi thuyền khởi hành từ Trấn Biên, phải đợi khi nước ròng thuận dòng mới cho thuyền đến cửa Tam Giang, đến sông Tân Bình, đến đây lại gặp nước ngược phải cắm thuyền đợi khi nước lên thì mới thuận dòng đi tiếp. Còn kẻ khởi hành ở bến đò phía nam cũng phải lựa thế đi như vậy. Thuở ấy, dân cư còn thưa thớt, ghe đò hẹp nhỏ, hành khách thổi cơm, đun trà rất khổ, vì vậy có người phú hộ ở tổng Tân Chánh là Võ Thủ Hoằng (<66><66>) kết tre lại làm bè, trên che lợp phòng ốc, sắm đủ bếp núc, gạo, củi, và đồ ăn để dưới bè cho hành khách tùy ý dùng mà không bắt phải trả tiền. Sau đó khách buôn cũng kết bè nổi bán đồ ăn nhiều đến 20, 30 chiếc, nhóm thành chợ trên sông, nên mới gọi xứ ấy là Nhà Bè. Sau này đường thủy, đường bộ lưu thông, dân cư đông đúc, người qua lại đều dùng ghe nhà nên đò dọc phải dẹp bỏ. Trải qua cuộc loạn Tây Sơn, Nhà Bè tan rã, đến nay cũng không làm lại.

<14a> BĂNG BỘT GIANG (SÔNG BĂNG BỘT) (<67><67>)

Ở nơi cuối cùng ranh giới phía tây bắc trấn. Phát nguyên từ chằm Đồng Nhai (chằm tròn rộng sâu trong, cây cối rậm rạp là chỗ ở của bộ lạc man dã Đồng Nhai) chảy quanh qua hướng đông, nước ngọt đầy tràn qua đến địa đầu trấn Phiên An làm thành sông Tân Bình, thì nước lại lợ.

NGŨ CÔNG THAN (THÁC NĂM ÔNG)

Ở tại nguồn Trọc Thủy (Nước Đục) trên phía tây sông Băng Bột là ranh giới cuối cùng phía tây nam của
trấn. Từ nguồn của nó là cửa sông Tân ở trước miếu Ngũ Công đi về hướng nam có thác đá chênh vênh gồ ghề lồi lõm, nước tung sóng vỗ, chảy mạnh qua gồ đá cao, chỉ dân chuyên nghiệp dùng thuyền độc mộc nhỏ mới dám liều đi qua. Những tay sào (<68><68>) chống đỡ trước sau, giữ gìn hết sức lực, nếu chỉ một chút sai sót liền bị lật chìm, bể nát.

Ngược dòng lên hơn 215 dặm đến thác Tà Môn (<69><69>), 30 dặm nữa đến thác Hóp (Hớp, Ngáp) (<70><70>), nửa dặm đến thác Lớn, 1 dặm đến thác Tà Má, 17 dặm đến <14b> thác Chế Yêm, 2 dặm rưỡi đến thác đá Tà Nông, 54 dặm (<71><71>) đến ngã ba sông Tràm, ở đây nước chia ra 2 nhánh, nhánh chảy hướng tây nam tục gọi là sông Tràm. Ngược dòng lên 18 dặm đến thác đá Tà Vẹt, nơi đây nước chảy cạn có đá nhô ra, rặt thú dữ và dân man núi ở, đầu nguồn còn xa gần thế nào thì không thể rõ được. Nhánh tây bắc gọi là sông Dụ, đi thêm 13 dặm đến thác đá Tà Khuông, cửa đá lấp đóng, thâm lâm cùng cốc, nơi dân mọi dữ (<72><72>) chiếm cứ, nếu muốn đi đến cùng đầu nguồn cũng không được.

LÃO TỐ CƯƠNG (GIỒNG ÔNG TỐ) (<73><73>)

Ở tổng An Thủy, huyện Bình An, làm giới hạn phía nam của trấn; có gò nổi cao, bằng phẳng quanh co, nơi địa khí hội tụ, cây cối tốt tươi, gò dài 7 dặm rưỡi, rộng 3, 4 dặm, có sông nhỏ từ phía bắc chảy vào nam, bao quanh phía trước. Đây là gò đất bằng phẳng của hệ núi Chiêu Thái (Châu Thới).

CẨM ĐÀM

Tục gọi là vũng Gấm, ở tổng An Phú, huyện Phước An. Vũng này sâu rộng do các dòng chảy đến họp lại, có khi mặt trời chiếu từ xa <15a> ráng chiều phản chiếu xuống, sắc cây xanh tốt, sóng nước long lanh, xa trông rất rực rỡ, nên mới đặt tên Gấm là như vậy. Trong vùng có nhiều cá sấu thường bắt người ăn thịt, người qua lại phải hết sức cẩn thận, nên mới có ngạn ngữ: Hung ác như cá sấu vũng Gấm.

TOÁI ĐÀM

Tục gọi là Đầm Nát, ở địa phận huyện Phước An. Đầm do các sông hợp lại, thông khắp các nẻo; cồn bãi trùng điệp, ngành nhánh quanh co, ngang dọc chằng chịt họp rồi tan, rừng chằm rậm rạp, trước sau trông không thấy nhau. Thuyền đi khi thuận khi nghịch, đang đi phía trái bỗng chuyển phía phải. Nếu chỉ quên một chút, ắt phải lạc đường, cho nên người ta phải hết sức cẩn thận. Nơi đây không có dân cư làng mạc, cho nên tuy người đã quen đường mà đi một mình đến đây cũng phải ngờ ngợ mà tạm dừng lại, đợi khi họp được nhiều thuyền cùng nhau hỏi han, sau đó mới kết đoàn mà đi. Lại còn có bọn trộm cướp ẩn núp ở đây, người buôn bán thường hay bị chúng hại. Năm Gia Long thứ 12 (1813) có chia đặt trạm sông, mỗi trạm đều có lính trạm trú đóng, không những việc chuyển công văn được mau lẹ mà nạn trộm cướp do đó cũng được dẹp tan, nhân dân nơi đó được nhờ.

<15b> THẤT KỲ GIANG

Tục gọi là Ngã Bảy, ở về phía đông sông Phước Bình, phía nam có ngã ba, phía bắc có ngã tư hình chữ thập, nên gộp lại mới có tên là Ngã Bảy. Nhưng ở đây có nhiều ngã ba và nhiều ngã tư hình chữ thập mà tên ấy không thể chỉ định ở một chỗ nào. Bởi vì hệ thống sông này chằng chịt xiên xỏ rất phức tạp, xuyên qua nhau mà chảy, đáng đặt tên là sông Hỗn Đồng (trộn lộn) chứ chẳng nên câu nệ bởi cái tên Thất Kỳ.

DƯƠNG ÚC (VŨNG DƯƠNG) (CÒN GỌI VŨNG DANG)

Nơi đây gần bãi biển ở phía đông của trấn, dân cư tụ tập, đồng mặn ngàn khoảnh, đều là ruộng muối. Dân
ở đây lấy việc phơi muối làm nghề chính.

HƯƠNG PHƯỚC GIANG

(Tức là sông Mô Xoài, là nơi 2 thôn Long Hương và Phước Lễ cùng đài thọ lính trạm). Ngược dòng lên phía bắc chuyển qua phía tây đến suối Châu Phê (<74><74>) gặp suối Giao Kèo, qua Thâm Tuyền (suối Sâu) đến đầu nguồn sông Mông Giang, tục gọi là sông Xoài, dài 15 dặm, chảy qua nam độ 4 dặm là cửa sông lớn
Hương Phước rồi hợp lưu cùng các sông khác.

<16a> TẮC KÝ (CỬA LẤP HAY GIẾNG BỌNG) (<75><75>)

Cách trấn về phía đông 210 dặm. Lòng cảng có cồn cát dời đổi bất thường. Cửa cảng bề ngang rộng 90 tầm (<76><76>), khi nước lên cảng sâu từ 13 thước ta trở lên, 17 thước ta trở xuống. Dân miền biển nhóm đến đây làm nghề chài lưới câu cá, là nơi sản xuất cá muối của trấn này.

THUYỀN ÚC

Tục gọi là Vũng Tàu (<77><77>), ở về phía đông cách trấn 234 dặm rưỡi. Lưỡi đất phòi ra ngoài biển, càng ra xa càng lớn. Phía bắc bao lấy cửa Tắc Ký, phía nam dựa vào Thát Sơn (núi Gành Rái), che khuất cửa biển Cần Giờ. Thế đất trông rất sung mãn, mặt vũng hướng về tây, lòng vũng to rộng là nơi thu kết các dòng nước nhỏ của các sông đầm và các ngòi rạch chảy về biển, làm nơi ghe thuyền đến đậu rất yên ổn.

XÍCH THỔ (ĐẤT ĐỎ)

Là đất gồm 7 xã thôn phường: Phước Hòa, Phước An Trung, Phước Lộc Thượng, Phú Thạnh, Long Thới, Long Hòa và Thới Thạnh thuộc tổng Phước Hưng, huyện Phước An. Vùng nầy trồng dâu, mè, bắp, khoai, đậu, xanh tốt sai đẹp. Cách Nục Giang nửa ngày đường <16b> có dân trấn Thuận Thành sống chung ở đó. Đất nơi đây sắc đỏ vàng nên người ở đây có nước da vàng ủng, áo quần vật dụng tuy cất kín trong rương tủ, nhưng sắc cũng biến thành màu vàng, vì khí đất nhiễm vào.

XÍCH RAM GIANG (SÔNG XÍCH RAM)

Ở về phía đông bắc cách trấn 209 dặm, có cầu ván bắc ngang. Sông dài 173 tầm, là nơi đường bộ đi ngang qua, nước sâu 5 thước ta. Phía hạ lưu của cầu chuyển quanh vào nam 3 dặm là cảng biển Xích Ram (<78><78>), khi thủy triều lên sâu 10 thước ta, rộng 33 trượng (<79><79>) rưỡi, cảng dời đổi, thông kẹt bất thường. Từ cầu ngược lên phía tây 28 dặm rưỡi đến cầu Thạch Than, ở đây thác đá trùng điệp, ghe thuyền khó đi, lại ngược dòng quanh co 30 dặm đến Lai Giang rồi quanh qua tây nam đi 92 dặm rưỡi đến suối Dạ Lao Hạ. Lại quay về nam 46 dặm đến suối Dạ Lao Thượng rồi đến địa hạt đồn Đồng Môn, một đường mà núi rừng sầm uất, buôn sóc của các dân man đã thuần chia nhau sinh sống, họ đều nạp thuế và đi phu dịch.

<17a> HẢI ĐỘNG HỒ

Tục gọi là Hồ Tràm, cách trấn về phía đông bắc 227 dặm rưỡi. Nơi đây, động cát nối liền, cỏ cây xanh tốt, trong có hồ lớn xanh trong, nước đều ngọt cả, không khi nào khô, mọi người đều nhờ nước ấy.
Logged
KGBFSBCIA
Thành viên
*
Bài viết: 231


« Trả lời #9 vào lúc: 08 Tháng Bảy, 2011, 07:14:08 pm »

RỪNG SÁC

(Sách Phong tục thông chú giải nghĩa: Chữ tẩu (chằm lớn) nghĩa là hậu, vì có cỏ, cây, cá mắm để nuôi nấng con người).

Từ Tam Giang Nhà Bè, xuống phía đông đến cửa Cần Giờ, phía bắc đến cửa Tắc Ký, phía tây đến Ký Giang, trong khoảng ấy có đến trăm ngàn cồn bãi, các bãi ấy đều có rừng chằm cả. Cây ở đó gọi là cây dà, đước, sú, vẹt (<80><80>) và những cây tạp khác, rừng xanh cây rậm, tán nhánh giao nhau, che kín mặt trời. Người ta dùng những cây ấy để làm nhà cửa, rào giậu, cột cọc, than củi, không ngày nào ngớt. Còn hải sản như cá, tôm, cua, sam và ốc len (<81><81>) thì bắt dùng không hết mà cũng không ai ngăn cấm. Ấy là chỗ chí công vô cùng của trời đất ban cho để nuôi dưỡng người dân Gia Định vậy.

<17b> PHỤ CHÉP LỜI KHẨU THUYẾT

Đồng Nai (仝狔) là tên duy nhất của trấn Biên Hòa, mà chợ Đồng Nai lại ở phía nam hạ lưu sông Phước Giang cách trấn độ 8 dặm ngoài. Do ban đầu là cánh đồng cho nai hươu ở, cho nên mới gọi là Đồng Nai, tên chữ là Lộc Dã, còn gọi là Lộc Động.

Đất Gia Định có 5 trấn riêng biệt: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Trong đó tên đất cũng nhiều, nhưng theo cư dân ở đây thường nói thì chỉ gọi đất Biên Hòa là Đồng Nai, Bà Rịa; đất Phiên An là Bến Nghé, Sài Gòn; đất Định Tường là Vũng Gù, Mỹ Tho; đất Vĩnh Thanh là Long Hồ, Sa Đéc; đất Hà Tiên là Cà Mau (<82><82>), Rạch Giá. Ấy là tên chỗ lỵ sở hoặc chỗ địa đầu, hoặc chỗ quần tụ cư dân đông đúc, ấy là nói tổng quát mà không phải kê cứu mô tả kỹ lưỡng vụn vặt một cách phiền phức.

<18a> Còn như Gia Định mà gọi là Đồng Nai tất nhiên cũng có cơ sở. Nguyên Gia Định khi bắt đầu khai thác thì từ chỗ Đồng Nai trước cho nên người đời trước có ý như dùng cái gốc để tóm cái ngọn, lấy chỗ đầu để kéo được cả đuôi, bèn gọi chung là Đồng Nai. Ngày nay, cứ noi theo mà không xét cho rõ. Người bản xứ đã gọi bừa là Đồng Nai, thì người nơi hạt khác cũng cứ nghe theo là Đồng Nai, chẳng tìm hiểu cho rõ. Khi gặp việc phải làm, hoặc khi bàn luận, hay tìm thăm bà con thì ngờ nghệch chẳng biết tông tích của xứ sở nằm ở đâu, phần nhiều là như vậy.

Trải từ lúc Tây Sơn dấy loạn, Thế Tổ Cao Hoàng đế ta đem quân Đồng Nai lấy lại kinh thành Phú Xuân, bình định Bắc Hà, quét sạch giặc biển, dẹp 3 kẻ thù lớn, lúc đó danh tiếng Đồng Nai mới lan tận Trung Quốc. Vì mùa thu năm Nhâm Tuất (1802) niên hiệu Gia Long năm đầu, nước ta qua nạp cống nhà Đại Thanh thì đã thấy sử sách Trung Quốc chép người Đồng Nai là người Nông Nại, tức cái tên ấy đã được cả thiên hạ biết tới. Tuy tên gọi ấy xưa nay có khác, nhưng nguyên ủy sự sửa đổi (<83><83>) dị đồng thì không thể không biết cho rõ được.

BÀ RỊA

Bà Rịa (Bà Địa) là vùng đất có tiếng đầu biên giới của trấn Biên Hòa, cho nên các phủ ở phía bắc (<84><84>) có câu ngạn ngữ: Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang (<85><85>). Ấy là lấy xứ Đồng Nai và Bà Rịa (Bà Địa) làm tên đầu để gọi cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ vào trong đó.

Đất này dựa lưng vào núi, mặt trông ra biển, rừng rậm, tre dầy, trên có sở tuần để vẫy gọi dân man mọi đến đổi chác, vùng dưới có trạm cửa bể để xem xét thuyền bè lúc đi ra biển, đường trạm thủy bộ giao tiếp. Việc cung nộp sơn, lâm, thổ sản, chế ngự Đê, man, bắt giữ phòng ngừa đạo tặc, đã có đặt huyện, nha, đạo, thủ, chia giữ nhiệm vụ, chính là nơi xung yếu, bận rộn, khó nhọc bậc nhất. Có nhiều cửa quan hiểm yếu, di chỉ của các thành trì xưa đến nay hãy còn để lại, khác gì quốc đô của các vương giả.
<19a> Bà Rịa (Bà Địa) là đất Lục Chân Lạp xưa, xét Tân Đường thư chép: "Nước Bà Lịa (婆利) ở ngay phía đông nam Chiêm Thành, từ Giao Châu đi thuyền theo ven biển qua các nước Xích Thổ, Đan Đan là đến. Xứ ấy đất rộng, đảo nhiều, còn gọi là Mã Lễ, đây có tục xâu tai đeo hoa, dùng một khúc vải cát bối quấn ngang lưng. Phía Nam miền ấy có nước Thù Nại, sau niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường (651-655) thì bị Chân Lạp thôn tính." Cứ theo như lời nói ấy mà suy thì các tục ấy giống như phong tục của Cao Miên và Đê, man ngày nay, mà địa điểm đất đai cũng thế. Tra theo Chính vận thư thì chữ "lợi" (利) được phiên âm là "lực địa thiết" tức "lịa", vậy nghi chữ "Bà Rịa" (Bà Rịa) tức là nước "Bà Lịa" xưa. (<86><86>)

Còn chữ Thù Nại so với Đồng Nai và Nông Nại thanh âm không sai lắm, có thể cũng là đất Sài Gòn ngày nay, tạm chép phụ như vậy, chờ sự khảo biện sau nầy.

-------------------------------------------------------------------------------

Chú thích:

(<1><1>) Nguyên văn viết trung ngoại (中外). Trung (中) chỉ ở trong nước, tức Trung Quốc. Ngoại (外) chỉ ở ngoài nước Trung Quốc, tức tứ di.

(<2><2>) Quản tử (管子): Tên sách gồm 24 quyển. Bản cũ đề "Quản Trọng đời Chu soạn", nhưng nội dung sách phần nhiều chép những việc sau khi Quản Trọng đã qua đời, điều đó chứng tỏ sách đã được người sau thêm vô nhiều điều. Nguyên bổn (bản) gồm 86 thiên, nay thất lạc 10 thiên. Chú của sách nầy xưa ghi do Phòng Huyền Linh soạn. Theo Triều thị độc thư chí thì sách nầy chính do Duẫn Tri Chương chú. Chữ tử chỉ là chữ đệm, Quản tử tức Quản Trọng, Tướng quốc của Tề Hoàn công.

(<3><3>) Thử Môn: (暑門): Sách Trụy hình của Hoài Nam Tử chép: "Nam Phương là núi của Nam Cực, là Thử Môn (Cửa Nóng)". Phương Nam thạnh dương, chứa ẩm nơi đó, cho nên mới gọi là Cửa Nóng.

(<4><4>) Sử ký (史記): Sách gồm 130 quyển do Tư Mã Thiên đời Hán tiếp tục công trình của cha là Đàm mà soạn thành, chép sự việc từ đời Hoàng Đế cho đến Hán Quang Vũ gồm 12 thiên Bản kỷ để tự thuật các đế vương, 10 thiên Biểu để quán nhật nguyệt, 30 thiên Thế gia để tập thuật công hầu, 70 thiên Liệt truyện để chép chuyện sĩ thứ, 8 thiên Thư. Tổng cộng 130 thiên.

(<5><5>) Thập châu ký (十洲記): Chỉ một quyển, gọi đủ là Hải nội Thập châu ký. Bản xưa đề là "Đông Phương Sóc đời Hán soạn". Thập châu là: Tổ, Doanh, Huyện, Viêm, Trường, Nguyên, Lưu, Sanh, Phụng Lân, Tựu Quật các châu. Về sau thêm vô mấy châu nữa là: Thương Hải Đảo, Phương Trượng Châu, Phù Tang, Bồng Khâu, Côn Luân.

(<6><6>) Nhận: (仞): Theo Từ Hải (bộ từ điển do Thư Tân Thành chủ biên - chú của Bt), một nhận bằng tám thước đời Chu, tức bằng 6,48 m. Nhưng cũng có sách nói một nhận bằng một tầm. Thường nhận là một đơn vị chung chung dùng để đo phỏng chiều cao một cách đại khái như Sơn cao thiên nhận, ý nói núi cao lắm.

(<7><7>) Nam thiên hạ diêm phù đề: (南天下閻扶提): Kinh Phật cho rằng trong bốn bể quanh Tu Di Sơn có bốn châu lớn gọi là Tứ đại Bộ châu. Đó là: Đông Thắng Thần châu, do thân hình châu nầy rất thù thắng địa hình như bán nguyệt, mặt người cũng thế. Nam Thiệm Bộ châu tức Nam Diêm Phù Đề; Thiệm là tên một thứ cây, châu nầy do tên cây mà thành, địa hình như thùng xe, mặt người cũng thế. Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu Lư châu. Cõi Nam thiên hạ diêm phù đề hiểu theo nghĩa hẹp là đất Ấn Độ theo vũ trụ quan thời cổ đại.

(<8><8>) Cửu châu (九洲): Thời xưa Trung Quốc phân thiên hạ ra làm chín châu. Có ba cách phân cửu châu khác nhau là: Vũ Cống cửu châu, Nhĩ Nhã cửu châu và Chu Lễ cửu châu. Vũ Cống cửu châu đời Hạ: Duyện, Ký, Từ, Thanh, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương. Nhĩ Nhã cửu châu đời Thương: Ký, Dự, Từ, Ung, Kinh, Dương, Duyên, U, Dinh. Chu Lễ cửu châu đời Chu: Dương, Dinh, Dự, Thanh, Duyên, Ung, U, Ký, Tính.

(<9><9>) Trấn: Nên hiểu đây là trấn lỵ (Bt).

(<10><10>) Theo cuốn Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine (PCGBC) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875 thì Bửu Phong sơn là núi Lò Gốm, bởi khi xưa đây là nơi làm gạch làm gốm, còn gọi là Đào Lư, Đào Cang (Gò Đào). Tiếng Khơ me là Phnom Dan Dàv.

(<11><11>) Thiền sàng: Đá bằng phẳng, các thiền sư dùng nơi đây làm giường, làm sập nằm nghỉ, như thiền sàng trong chùa.

(<12><12>) Sông Phước Long tức là sông Đồng Nai. Sông nầy cũng còn gọi là Phước Giang, bắt nguồn rất xa từ núi Thần Qui vùng cao nguyên Tây Bắc của Trấn Biên nơi vùng dân tộc ít người (Cao nguyên Langbiang - Lâm Đồng). Khi chảy xuống gần biển lại thành sông Tân Bình, Phước Bình.

(<13><13>) Dặm là dịch chữ Lý (里) ở nguyên văn. Một lý, tức dặm bằng 576 m (mètres) (xem thêm chữ Xích ở phần từ vựng). Theo Histoire du Việt Nam của Lê Thành Khôi, 1 dặm ta = 720 m. Đơn vị đo chiều dài của ta xưa qui ra mét (mètre) theo Tây phương không thống nhất.

(<14><14>) Chúng tôi dịch hệ vì trong thực tế, núi Châu Thới nằm trơ trọi một mình không có dính liền với các núi tả trong đoạn vốn nằm rất xa núi cái Châu Thới. Núi Thần Qui cũng vậy, vì tác giả miêu tả cả một hệ núi theo đường chéo nam bắc, tây đông, lấy núi Thần Qui làm giao điểm. Các núi liên hệ này nằm rất xa núi Thần Qui, như núi Bà Đen ở tận Tây Ninh, núi Thùy Vân ở tận bãi biển Vũng Tàu, trong khi núi Thần Qui ở cực tây giáp với trấn Bình Thuận.

(<15><15>) Phước giang: Tên gọi tắt của sông Phước Long giang tức sông Đồng Nai hiện nay.

(<16><16>) Nguyên văn viết Phần tu chi địa (焚須之地) Phần tu có nghĩa đốt hương (phần hương) để tu hành. Chữ "Phần tu" này thoát ý từ chữ "Huân tu" (薰須) là tiếng nhà Phật. Huân có nghĩa là xông hơi cho đượm thấm, tu là tu hành, tức lấy đức tu thân, như lấy hương thơm xông ủ áo quần, cho nên gọi là huân tu. Phần tu chi địa có nghĩa là "chỗ tu hành".

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM