Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 10:42:27 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5  (Đọc 70895 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 17 Tháng Tư, 2010, 07:53:35 pm »

Tên sách: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 2001
Số hoá: ptlinh, chuongxedap




CHỈ ĐẠO NỘI DUNG:
         Đại tá PGS, TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG

CHỦ BIÊN:
         Đại tá NGUYỄN VĂN MINH

TÁC GIẢ:
         Đại tá    NGUYỄN VĂN MINH
         Trung tá    NGUYỄN XUÂN NĂNG
         Thượng tá    TRẦN TIẾN HOẠT
         Trung tá    NGUYỄN HUY THỤC
         Đại tá    ĐỖ XUÂN HUY

SƯU TẦM ẢNH TƯ LIỆU VÀ SƠ ĐỒ
         Thượng tá    NGUYỄN DUY BANG
         Thiếu uý    LÊ QUANG LẠNG





LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Năm 1965, với việc đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt bằng không quân và hải quân chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đế quốc Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên quy mô và cường độ chưa từng có. Với chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt” và bình định ngông cuồng, ảo tưởng, chúng hy vọng sẽ nhanh chóng tiêu diệt cách mạng miền Nam trong vòng 18 tháng và răn đe các cuộc cách mạng trên thế giới: “cuộc khởi nghĩa nào cũng sẽ bị tiêu diệt”. Nhưng với hàng ngàn cuộc hành quân lớn nhỏ trên khắp chiến trường miền Nam, mà đỉnh cao là hai cuộc phản công chiến lược quy mô lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 quân xâm lược Mỹ vẫn bị thất bại thảm hại.

Nước Mỹ sen đầm ngày càng sa lầy vào cuộc chiến tranh không có đường ra, chưa biết bao giờ kết thúc. Chúng tiếp tục tăng quân, tăng chi phí quân sự và ném vào chiến trường Việt Nam một khối lượng phương tiện chiến tranh khổng lồ và hiện đại nhất. Lúc này, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên tới 480.000 tên và 68.800 quân của các nước phụ thuộc Mỹ. Nếu kể cả khoảng hơn 20 vạn quân đóng ở các căn cứ quân sự trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Philíppin, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6, đã có tới 80 vạn quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, quân ngụy Sài Gòn có 552.000 tên, đến cuối năm 1968, tăng lên 555.000 tên.

Đương đầu trực tiếp với quân viễn chinh Mỹ và quân các nước phụ thuộc, đặc biệt qua hai cuộc đọ sức thắng lợi trong mùa khô 1965-1966 và mùa khô 1966-1967, đã khẳng định chúng ta hoàn toàn có thể đánh thắng chúng trong cuộc chiến tranh này với một ý chí gang thép không gì lay chuyển nổi: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”. Thực tiễn chiến trường cho thấy quân và dân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng và luôn nắm quyền chủ động tiến công chiến lược, đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động, lúng túng đôi phó trên khắp các chiến trường. Tuy vậy, với những chiến dịch quân sự thông thường, với cách đánh tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch quy mô nhỏ, cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta sẽ phải diễn ra rất lâu dài và gian khổ. Vì vậy phải tìm cách đánh khác nhằm đập tan ý chí xâm lược, dã tâm xâm lược của tên đế quốc đầu sỏ. Qua thực tế chiến trường, những ý đồ chiến lược đã dần dần hình thành, từng bước trở thành những quyết sách của Đảng: tổng tiến công và nổi dậy, đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố và thị xã. Từ Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị, hai cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10 và tháng 12-1967 đã ra nghị quyết và trở thành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện quyết sách chiến lược lịch sử này, vào đúng giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đồng loạt nổ súng tổng công kích, tổng khởi nghĩa táo bạo vào hầu hết các thành phố, thị xã thị trấn và các căn cứ quân sự của địch trên khắp miền Nam, mà trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng, làm nước Mỹ bàng hoàng và thế giới chấn động. Với đòn tiến công Tết Mậu Thân, quân và dân ta ở miền Nam buộc Nhà Trắng và Lầu Năm Góc phải huỷ bỏ chiến lược “tìm diệt” thay bằng chiến lược “quét và giữ”, thế bố trí chiến lược của chúng một lần nữa bị đảo lộn, ta đã thu được những thắng lợi rất to lớn và toàn diện.

Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, nhiều người hiểu tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta chỉ có ở Tết Mậu Thân, nhưng trên thực tế đây được xem như đợt 1 còn đợt 2 và đợt 3 diễn ra mùa hè và mùa thu năm 1968, tạo thành tổng thể cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, mà kết quả của nó, theo thông báo của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, thì quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp, 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu, 700 kho đạn, diệt, bức hàng, bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu. Thắng lợi này tạo ra một bước ngoặt quyết định của chiến tranh, đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm cho chúng hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam trong chiến tranh, buộc phải đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, bàn về việc rút quân Mỹ khỏi miền Nam, kết thúc chiến tranh.

Thắng lợi thực tế trên chiến trường đã nâng tầm vóc và quyết định vị thế của dân tộc ta trên bàn đàm phán. Đảng ta đã cử đến Pari những nhà ngoại giao đặc biệt xuất sắc, mưu lược, dày dạn kinh nghiệm, kiên định và có bản lĩnh do đồng chí Lê Đức Thọ dẫn đầu trực diện đấu tranh với những nhà ngoại giao rất xảo quyệt của nước Mỹ do Kítxinhgiơ đại diện. Chúng ta đến Pari với tư cách người nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường, đại diện cho công lý chống lại cường quyền, tự mình đàm phán về lợi ích dân tộc mình, do chính mình quyết định.

Để có một thắng lợi mang tầm vóc chiến lược như vậy chúng ta phải trả giá bằng sự hy sinh xương máu của hàng vạn những người con ưu tú, tổn thất ấy là cực kỳ to lớn, sự hy sinh đó là cực kỳ cao cả để dân tộc có được hoà bình trong độc lập tự do vào mùa xuân toàn thắng năm 1975 lịch sử. Cả dân tộc và đời đời các thế hệ người Việt Nam ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ, những người ngã xuống vì lý tưởng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn.

Những nội dung chính yếu và quan trọng nhất của quá trình tổng tiến công và nổi dậy 1968 đã được các tác giả của bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 trình bày một cách sinh động, thuyết phục và chân thực trong tập V mang tiêu đề Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968.

Nhân 26 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng và cũng là dịp kỷ niệm 20 năm Viện và ngành Lịch sử quân sự Việt Nam được thành lập (28-5-1981 - 28-5-2001), chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc tập sách và xin được chia vui cùng quý Viện.
 
                                                                                  Tháng 4 năm 2001
                                                                          NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2010, 10:03:41 pm »


CHƯƠNG 19
CUỘC CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG MIỀN NAM
CHUYỂN SANG THỜI KỲ GIÀNH THẮNG LỢI QUYẾT ĐỊNH


I- GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG TIẾN CÔNG,
ĐẨY ĐỊCH VÀO THẾ PHÒNG NGỰ CHIẾN LƯỢC

Bị thất bại trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất (mùa khô 1965-1966), nhưng do đánh giá thấp tiềm lực, ý chí quyết tâm của nhân dân Việt Nam, Chính phủ và những người cầm quyền hiếu chiến ở Mỹ vẫn ngoan cố lao sâu vào cuộc chiến tranh. Họ hối hả tăng quân, tăng phương tiện chiến tranh, thực hiện chiến lược “hai gọng kìm” với ý đồ thâm độc là tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng và bình định nông thôn miền Nam, thủ tiêu các căn cứ cách mạng và lực lượng du kích. Mặc dù chính quyền Mỹ do L. Giônxơn cầm đầu đã rất nỗ lực, sử dụng sức mạnh tối đa của nền công nghiệp quân sự hiện đại nhất và rất tốn kém trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai (mùa khô 1966-1967) ở miền Nam và dùng không quân, hải quân đánh phá, phong toả rất ác liệt miền Bắc Việt Nam, hòng ngăn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, nhưng chúng đã bị quân và dân ta đánh cho thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị, ngoại giao. Cùng với những thất bại về quân sự, chương trình “bình định” cũng bị sụp đổ, mọi cố gắng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều không mang lại kết quả. Đây là thất bại có tính chất chiến lược của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam, khiến cho quân viễn chinh Mỹ dao động ý chí, mất lòng tin đối với những người cầm quyền nước họ. Nhiều lính Mỹ bắt đầu cảm nhận được Chính phủ Mỹ đã lừa dối họ để gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam. Quân đội, chính quyền Sài Gòn vốn đã yếu kém, nay quân Mỹ bị thua càng làm cho ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, lo sợ, suy yếu hơn. Thất bại này “làm tăng cái giá phải trả về thời gian, của cải và máu và làm tăng khả năng thất bại cuối cùng trong việc thực hiện những mục tiêu ban đầu của Mỹ”1, khiến cho sự bất đồng trong nội bộ nước Mỹ thêm gay gắt, dẫn đến những mâu thuẫn trầm trọng trong giới cầm quyền về cách thức tiến hành cuộc chiến tranh Việt Nam...

Cũng từ những thất bại về quân sự trên chiến trường, sự nghi ngờ về kết quả các cuộc ném bom miền Bắc và tăng quân Mỹ vào miền Nam trong nhân dân và Quốc hội Mỹ cũng tăng lên. Nhiều nghị sĩ ở Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Mỹ đã nhận thấy “tương lai không thể lường được của một cuộc chiến tranh hiện đang có tác động làm rã rời ý chí dân tộc Mỹ”2.

Các chuyên gia quân sự Mỹ ước tính nếu tình hình cuộc chiến tranh Việt Nam cứ xấu đi như sau cuộc phản công chiến lược lần thứ hai thì Mỹ phải đưa vào Việt Nam hơn một triệu quân viễn chinh, nhưng cũng chưa chắc đã giành được thắng lợi theo ý muốn. Lần đầu tiên nhân dân và nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ bắt đầu lo ngại về số thương vong cao và chi tiêu tốn kém cho cuộc chiến tranh mà tương lai thì mờ mịt như đang “chui vào đường hầm không có lối ra”. Nếu chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1965-1966 là 4,7 tỉ đôla, thì năm 1967 đã tăng lên 30 tỉ, gấp 1,5 lần Mỹ đã chi cho cuộc chiến tranh Triều Tiên trong ba năm. Do chi phí lớn cho cuộc chiến tranh, nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, thâm hụt ngân sách 4 tỉ đôla, giá cả tăng vọt, lạm phát không kiểm soát được. Giấc mộng của L. Giônxơn khi lên cầm quyền là sẽ xây dựng “một xã hội Mỹ vĩ đại” đã tan biến, vì không thể vừa xây dựng “xã hội vĩ đại”, lại vừa leo thang chiến tranh được. L. Giônxơn phải đệ trình Quốc hội Mỹ xin tăng 10% thuế để bù đắp vào chỗ chi tăng cho cuộc chiến tranh. Sự tăng thuế này trước tiên đánh vào nhân dân lao động Mỹ, nhất là người Mỹ da đen. Phong trào người Mỹ da đen chống chiến tranh Việt Nam bắt đầu dấy lên, hoà cùng phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên và nhân dân tiến bộ Mỹ đòi Chính phủ chấm dứt chiến tranh Việt Nam, rút quân về nước. Ngày 15-4-1967, tại Oasinhtơn, khoảng 40.000 người, có cả những cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam, tham gia biểu tình phản đối cuộc chiến tranh của Chính phủ Mỹ. Tháng 10-1967, nhiều cuộc biểu tình của nhân dân Mỹ chống chiến tranh lan rộng toàn nước Mỹ nhằm mục tiêu: đòi chăm lo tình cảnh cho người nghèo và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Những người biểu tình đã ngăn cản các đoàn tàu quân sự chở hàng sang Việt Nam. Thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch, từ chối vào lính, thà chịu phạt tù, chứ không sang Việt Nam, v.v...

Do tác động của cuộc chiến tranh Việt Nam mà “lần đầu tiên sau nhiều năm một sự đối lập chính trị có tính chất quần chúng đối với hệ thống chính quyền hiện hành đã bắt đầu phát triển ở Mỹ”3.

Trên chiến trường Việt Nam, sau khi đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti của quân Mỹ, lực lượng vũ trang miền Nam tiếp tục tiến công địch với quy mô vừa và nhỏ trên khắp ba vùng chiến lược, dồn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn vào thế bị động, lúng túng hơn. Đứng trước tình hình này, tháng 3-1967 tướng Oétmolen (Westmoreland) yêu cầu Tổng thống L. Giônxơn tăng thêm 4 sư đoàn, cộng với 2/3 sư đoàn hoặc tương đương, 10 phi đoàn máy bay chiến đấu chiến thuật và toàn bộ lực lượng cơ động đường sông của Mỹ với số lượng dự tính là 201.250 người để đưa tổng số quân Mỹ có mặt ở Việt Nam cao nhất vào cuối năm 1968 là 671.616 người, mới có thể giành lại được quyền chủ động và chiến thắng. Số quân xin thêm (201.250) này, Oétmolen yêu cầu một nửa trong số đó (100.000) phải có mặt ở Việt Nam trước ngày 1-5-1967.
______________________________________
1. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh của Bộ Quốc phòng Mỹ, bản đánh máy. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, t.1, tr.15.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh Việt Nam, Việt Nam thông tấn xã phát hành, Hà Nội, 1971, t.2, tr.126.
3. A.V. Nikin: Nước Mỹ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.2, tr.185.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2010, 10:09:27 pm »


Tháng 4-1967, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ đã chuyển đề nghị của tướng Oétmolen lên Tổng thống L. Giônxơn, đồng thời kiến nghị Tổng thống động viên lực lượng dự bị và mở rộng chiến tranh trên bộ sang Lào, Campuchia, Bắc Việt Nam. Kiến nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ bị Mắc Namara và Uyliam Bânđi phản đối. Sau các chuyến đi thị sát ở Nam Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc Namara thấy chính sách chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đang thất bại: ném bom miền Bắc và các hoạt động mặt đất ở miền Nam cũng như những “sáng kiến hoà bình” bằng những đợt ngừng ném bom hạn chế của Tổng thống Mỹ không có tác dụng. Ngày 19-5-1967, Mắc Namara gửi lên Tổng thống L. Giônxơn một bản phúc trình nói rõ quan điểm của ông ta là “bây giờ đã là lúc chúng ta cần thay đổi mục tiêu của mình ở Việt Nam và phương cách mà chúng ta (Mỹ) sử dụng để đạt được những mục tiêu đó”1. Tiếp sau, Mắc Namara và Mắc Nâutơn yêu cầu Tổng thống Mỹ giảm bớt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, chỉ tăng 30.000 quân và đưa ra kiến nghị “Mỹ nên chấp nhận một giải pháp thoả hiệp”. Nội bộ chính quyền L. Giônxơn lúc này nổ ra những cuộc tranh cãi gay gắt xung quanh những chính sách, những giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam sao cho có lợi cho Mỹ và Sài Gòn. Nhưng những cuộc tranh cãi ở Nhà Trắng, Lầu Năm Góc không có hồi kết thúc càng làm cho nội bộ chính quyền, Quốc hội Mỹ chia rẽ thành ba phái: phái hiếu chiến đòi tăng quân theo yêu cầu của Oétmolen để mở rộng chiến tranh; phái chủ trương hạn chế leo thang chiến tranh, thu hẹp phạm vi ném bom miền Bắc và tìm giải pháp thương lượng với Hà Nội, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sao cho Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam trong danh dự; phái dung hoà chủ trương cố giữ cho tình hình miền Nam không xấu thêm, tìm cách giành thắng lợi về quân sự để đi vào thương lượng trên thế mạnh... Nhưng làm thế nào để giữ cho tình hình miền Nam không xấu thêm? Đó là bài toán không dễ tìm ra lời giải. Cuối cùng, trước sức ép mạnh của phe hiếu chiến, L. Giônxơn liều lĩnh quyết định đưa thêm vào Việt Nam 10 vạn quân chiến đấu Mỹ nâng tổng số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên 480.000 vào tháng 12-1967. Trong số 10 vạn quân tăng thêm này, những tháng cuối cùng của năm 1966 và sáu tháng đầu năm 1967, Mỹ đã đưa vào Nam Việt Nam hơn 50.000 người, trong đó có Sư đoàn bộ binh số 9, Trung đoàn bộ binh 25 thuộc Sư đoàn bộ binh số 5, Phi đoàn máy bay chiến đấu chiến thuật A37... Số quân còn lại tiếp tục vào miền Nam Việt Nam sáu tháng cuối năm 1967, trong đó có lữ đoàn dù 2 và 3 thuộc Sư đoàn dù 101 (Thiên thần mũ đỏ)2, lữ đoàn bộ binh nhẹ 11 và 198. Cùng thời gian này, Sư đoàn bộ binh 9 “Bạnh Mã” Nam Triều Tiên (vào tháng 9-1966), Tiểu đoàn bộ binh 7 Hoàng gia Ôxtrâylia, Sư đoàn “Rắn hổ mang nữ hoàng” Thái Lan (9-1967), Đại đội bộ binh Niu Dilân (12-1967)... cũng được đưa vào Nam Việt Nam để tăng cường đánh phá các tỉnh miền duyên hải Khu V và tỉnh Bà Rịa, v.v... Đầu năm 1968, số quân chiến đấu Mỹ ở Việt Nam đã vượt quá nửa triệu tên. Trên diện tích khoảng 17 vạn km2, Mỹ đã tập trung một lực lượng quân chủ lực Mỹ, Sài Gòn và quân các nước phụ thuộc Mỹ đông xấp xỉ bằng tổng số lục quân của năm nước Bỉ, Anh, Áo, Canađa, Tây Ban Nha cộng lại. Mật độ lính địch trên diện tích 1 km2 trong cuộc chiến tranh Việt Nam là mật độ cao nhất chưa có cuộc chiến tranh nào trước đó đạt tới3.

Được tăng cường lực lượng mạnh, tháng 9-1967, Bộ chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam thành lập Sư đoàn bộ binh 23 tại Chu Lai (Sư đoàn Amêricơn) gồm ba lữ đoàn bộ binh nhẹ 11, 196 và 198 tăng cường cho Vùng I chiến thuật (Quân đoàn I) để giải toả sức ép của ta ở vùng này và ngăn chặn Quân giải phóng đánh chiếm hai tỉnh phía bắc Nam Việt Nam.

Để thực hiện âm mưu ngăn chặn các cuộc tiến công của ta ở hai tỉnh phía bắc và củng cố tuyến phòng thủ mạnh bảo vệ Sài Gòn - Gia Định, tướng Oétmolen xúc tiến bố trí lại lực lượng trên toàn chiến trường miền Nam, chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba dự định từ tháng 12-1967 đến tháng 4-1968. Oétmolen cấp tốc điều Sư đoàn dù 101, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Lữ đoàn dù 173 về miền Đông Nam Bộ để cùng với Sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ) Sư đoàn bộ binh 25, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11 chuẩn bị tiến công vào Chiến khu C, D. Địch gọi đó là cuộc tiến công ngăn ngừa ở tỉnh Phước Long. Đồng thời với cuộc phản công chiến lược ở hướng chính miền Đông Nam Bộ, địch dự kiến sẽ sử dụng hai sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 1 và 3, một trung đoàn của Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 5 và Sư đoàn bộ binh (Amêricơn) Mỹ cùng với sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn và lực lượng chủ lực Quân đoàn I ngụy mở bốn cuộc hành quân mang tên mật mã chung Oóc càn quét vùng biên giới Việt - Lào ở bốn tỉnh phía bắc Nam Việt Nam, nhằm lập lại quyền kiểm soát ở thung lũng A Sầu và miền tây Trị - Thiên, chuẩn bị bàn đạp tiến công sang Lào vào năm sau để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh.

Nếu cuộc phản công chiến lược lần thứ ba diễn ra và kết quả như dự định, L. Giônxơn và phe hiếu chiến Mỹ hy vọng sẽ giữ được thế giằng co với ta trên chiến trường, ổn định được phần nào tình hình quân sự, chính trị ở miền Nam có lợi cho Mỹ và Sài Gòn. Qua đó, chính quyền Mỹ có thể gieo rắc ảo tưởng thắng lợi trong dân chúng Mỹ và phe đối lập, ngăn chặn mọi đảo lộn bất ngờ về quân sự, chính trị ở miền Nam Việt Nam cho đến khi bầu cử xong Tổng thống Mỹ (tháng 11-1968), rồi sẽ tìm những giải pháp quân sự hoặc chính trị tiếp sau để chấm dứt chiến tranh theo âm mưu của Mỹ và Sài Gòn.
______________________________________
1. Rôbớt S. Mắcnamara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.234.
2. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.IV, tr.26, 27, in sai “Sư đoàn kỵ binh không vận số 101” xin đọc đúng là “Sư đoàn dù 101”.
3. Mật độ lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên: 327.000 tên/240.000 km2. Mật độ lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam năm 1968: 535.000 tên/170.000 km2.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2010, 10:10:25 pm »


Về phía ta, sau cuộc đọ sức quyết liệt giữa lực lượng cách mạng ở miền Nam với quân viễn chinh Mỹ trong mùa khô 1966-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị lần thứ 14 khoá III (1-1968) nhận định: địch đã thất bại một bước rất cơ bản trong chiến lược chiến tranh cục bộ. Chúng đang lúng túng, bị động về chiến lược, chiến thuật; một thất bại về quân sự đối với Mỹ lúc này sẽ có tác động mạnh đến tình hình chính trị nước Mỹ, vì đây là năm bầu cử Tổng thống Mỹ (11-1968). Các phe phái ở Mỹ đang bận rộn dồn sức vận động cho ứng cử viên tổng thống của đảng mình. Ra tranh cử chức Tổng thống Mỹ lần này, các ứng cử viên đều lấy việc “chấm dứt chiến tranh Việt Nam” làm một trong những vấn đề chính để vận động tranh cử.

Trước tình hình trên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chủ trương động viên nỗ lực của quân, dân ta khắc phục mọi khó khăn, chớp lấy thời cơ Mỹ đang lúng túng, mở đợt hoạt động quân sự Thu - Đông đánh bồi vào quân Mỹ, quân đồng minh của Mỹ, phá sự chuẩn bị cho mùa khô của địch, đẩy chúng vào thế bị động hơn nữa, tạo thế, tạo lực và tạo thời cơ để tiến lên mở cuộc tiến công và nổi dậy quy mô lớn, nhằm giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam mở các cuộc tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng cách mạng chống phá “bình định” của địch trên khắp ba vùng chiến lược...

Chiến sự sôi động và quyết liệt nhất mùa đông 1967 là chiến dịch tiến công Bình Long - Phước Long từ ngày 27-10 đến ngày 5-12 và chiến dịch Đắc Tô 1 ở bắc Tây Nguyên từ ngày 3-11 đến ngày 22-11.

Ở miền Đông Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch tiến công địch trên địa bàn hai tỉnh Bình Long và Phước Long nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn, thu hút, giam chân Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ” Mỹ, tạo điều kiện cho lực lượng ta triển khai áp sát phía tây bắc Sài Gòn, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh giành quyền làm chủ, mở rộng vùng căn cứ của ta... Bình Long, Phước Long là hai tỉnh miền núi liền kề, đồi núi mấp mô, rừng cây thưa. Đây là khu vực khá hiểm trở, thuận lợi cho việc giấu quân, tập kết lực lượng. Quốc lộ 14 chạy hướng bắc - nam nối Tây Nguyên ở phía bắc với miền Đông Nam Bộ ở phía nam. Quốc lộ 13 và các tỉnh lộ, huyện lộ hợp với đường 14 thành hệ thống giao thông nối các thị xã, thị trấn đến các vùng trong tỉnh tương đối thuận tiện cho việc cơ động lực lượng.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn bộ binh 9 (trung đoàn 1, 2, 3); Sư đoàn bộ binh 7 (có hai trung đoàn 141, 165); Sư đoàn bộ binh 5 (có hai trung đoàn 5 và 88) và hai trung đoàn pháo hoả tiễn ĐKB 96 và 208 cùng lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn chiến dịch.

1 giờ ngày 27-10-1967, một tiểu đoàn của Trung đoàn 88 tiến công đồn Phước Quả mở màn chiến dịch. Sau ba giờ chiến đấu, bộ đội ta tiêu hao nặng lực lượng địch đóng ở Phước Quả. Cùng thời gian, Trung đoàn 88 bắn pháo vào thị xã Phước Long, kiềm chế Chi khu Phước Bình, phá hỏng 6 khẩu đại bác, diệt hơn 100 tên địch. Địch điều Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16, Sư đoàn 1) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 9, Sư đoàn 5) quân cộng hoà lên Phước Long đối phó với ta.

Đêm 28-10, Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) Quân giải phóng tiến công Chi khu Lộc Ninh, bộ đội đặc công của Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 tập kích Toà thị chính Lộc Ninh, thị xã Bình Long, đánh sập 2 nhà tầng, phá hỏng 4 khẩu đại bác, diệt 3 trung đội bảo an, cảnh sát. Trong hai ngày 29 và 30-10-1967, địch dùng máy bay trực thăng đổ một tiểu đoàn cơ giới Mỹ và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 9 ngụy) xuống khu vực Lộc Ninh, đóng thành ba cụm ở phía đông sân bay Lộc Ninh, Mang Cải và Trường huấn luyện biệt kích. 20 giờ 30 phút ngày 30-10, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) Quân giải phóng được pháo binh yểm trợ, bất ngờ tiến công cụm quân địch ở phía đông sân bay Lộc Ninh, đánh thiệt hại 1 tiểu đoàn Mỹ, 1 đại đội biệt kích ngụy, phá hỏng 12 khẩu pháo và 40 xe cơ giới. Địch điều một tiểu đoàn Mỹ và Tiểu đoàn 36 biệt động Sài Gòn lên Lộc Ninh đối phó với ta, đồng thời đưa hai tiểu đoàn Mỹ khác và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 8, Sư đoàn 5) quân cộng hoà lên Hớn Quản làm dự bị sẵn sàng chi viện cho Lộc Ninh. Đêm 1-11, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn pháo hoả tiễn ĐKB 96 và pháo cối của Sư đoàn bộ binh 9 pháo kích vào sân bay và Trường huấn luyện biệt kích Lộc Ninh, phối hợp với Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 3, Sư đoàn 9) tập kích tiêu diệt cụm địch ở Mang Cải.

Ngày 2-11-1967, một tiểu đoàn Mỹ đổ bộ bằng trực thăng xuống điểm cao 124 ở phía đông ngã ba đường 13, 14. Đêm đến, Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) bất ngờ tập kích quân Mỹ tại điểm cao này, diệt hai đại đội.

Trên hướng Phước Long, trong hai ngày 4 và 5-11, Trung đoàn 88 chủ lực miền Đông liên tục tiến công địch hành quân từ Phước Bình đi Phước Quả và đánh quân cứu viện, diệt Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 9) lính cộng hoà, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn biệt động quân 36 ở ngã ba Tư Hiền, bắt sống 37 tên. Bị đánh mạnh, địch dùng một tiểu đoàn Mỹ, một tiểu đoàn ngụy và tàn quân Tiểu đoàn biệt động 36 tăng cường cho phía Phước Long, để sơ hở ở hướng Lộc Ninh. Nhân thời cơ địch phải phân tán lực lượng đối phó trên các hướng, quân ta pháo kích cụm quân địch đóng ở ngã ba Lộc Ninh (6-11), chặn đánh một đại đội Mỹ ở đông nam Sở cao su Brê Ling (7-11), bắn pháo vào sân bay Lộc Ninh và thị xã Bình Long, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Ngày 7-11, đợt 1 chiến dịch kết thúc; các đơn vị khẩn trương củng cố, chuẩn bị bước vào đợt 2.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2010, 10:13:27 pm »

Giữa hai đợt chiến dịch, mặc dù thời gian tạm ngưng chiến ngắn ngủi, bộ đội ta vừa củng cố, chuẩn bị vật chất và trận địa, vừa sử dụng pháo, cối đánh bồi vào quân địch, gây hoang mang cho chúng, tạo điều kiện cho ta chuẩn bị. Sư đoàn bộ binh 7 dùng pháo, cối pháo kích các cụm địch ở khu vực Bình Long, Chi khu An Lộc và đường 13 (đoạn nam Hớn Quản). Đêm 23-11-1967, Trung đoàn 141 tiến công địch ở Tân Khai diệt 1 đại đội Mỹ và 18 xe quân sự. Ngày 24-11, một đơn vị Mỹ và một đại đội biệt kích ngụy có xe bọc thép yểm trợ phản kích, nhưng bị Trung đoàn 141 đánh diệt một số.

Đêm 26-11-1967, Trung đoàn 88 tiến công đồn Phước Hứa mở màn cho đợt 2 chiến dịch. Trên hướng chủ yếu, đêm 28-11, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), tiến công Chi khu Bù Đốp; Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tiến công cụm quân địch đóng ở phía đông chi khu, diệt một đại đội biệt kích ngụy, đánh thiệt hại nặng khu bảo an, khu quân trường. Ngày 29-11, địch dùng Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 28 Mỹ), Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 9), Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 8 ) quân cộng hoà và một đại đội pháo binh, một đại đội cơ giới Mỹ đổ bộ xuống khu vực đông nam sân bay và phía bắc Chi khu Bù Đốp phản kích, hòng đẩy lùi lực lượng ta ra xa, chiếm đóng, củng cố lại chi khu. 21 giờ ngày 29-11 chỉ huy Sư đoàn 9 Quân giải phóng Miền, ra lệnh cho Trung đoàn pháo hoả tiễn ĐKB đánh vào các cụm quân địch trong sân bay Bù Đốp, đồng thời, các chiến sĩ bộ binh Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), từ hai hướng bắc, đông chi khu, tiến công vào các cụm quân địch. Trung đoàn 2 đánh trúng, tiêu hao nặng Tiểu đoàn 1 Mỹ và một bộ phận Tiểu đoàn 2 ngụy. Do bám địch không chắc, nên mũi tiến công của Trung đoàn 1 không gặp địch, vì chúng đã di chuyển đi nơi khác.

Trên hướng Hớn Quản, đêm 2-12, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 141), tiến công cụm quân địch ở cầu Tàu Ô, diệt 1 đại đội Mỹ và 14 xe quân sự.

Hướng Phước Long, ngày 3-12-1967, một tiểu đoàn của Trung đoàn 88 đánh ấp chiến lược Đắc Sơn, diệt hai trung đội bảo an. Trận đánh không dứt điểm, nên không hỗ trợ được cho nhân dân nổi dậy. Ngày 6-12, địch phản kích, Trung đoàn 5 Quân giải phóng đánh diệt 2 đại đội bảo an, bắt 15 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Cuộc tiến công của ta trên hướng Bù Đốp, Hớn Quản tiếp tục diễn ra quyết liệt. Địch tăng cường lực lượng giành giật với ta hòng đẩy lùi ta trên từng khu vực. Ta kiên quyết tiến công giữ vững trận địa, đánh lui nhiều trận phản kích cỡ tiểu đoàn tăng cường của địch, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 1 Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên, diệt 2 đại đội bảo an...

Ngày 10-12-1967, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh kết thúc chiến dịch, rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho nhiệm vụ Xuân - Hè 1968.

Chiến thắng Bình Long - Phước Long chứng tỏ ta có khả năng mở chiến dịch dài ngày, thu hút giam chân một bộ phận lớn quân Mỹ cũng như quân ngụy, tạo điều kiện thuận lợi cho các hướng chiến lược khác.

Trong khi chiến dịch Bình Long - Phước Long đang diễn ra những trận đánh ác liệt trên các hướng Phước Long, Bù Đốp Lộc Ninh, thì lực lượng vũ trang Tây Nguyên mở chiến dịch Đắc Tô 1 nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ, bức địch phải điều lực lượng cơ động lên Tây Nguyên để sơ hở các chiến trường khác; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng Quân đoàn II ngụy; đẩy mạnh chiến tranh du kích...

Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cử Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Trần Thế Môn làm Chính uỷ mặt trận Tây Nguyên thay cho Thiếu tướng Chu Huy Mân về làm Tư lệnh Quân khu V.

Lúc này Sư đoàn 4 Mỹ đang mở cuộc hành quân “Mắc Áctơ (Mc Arthur) càn quét khu vực phía tây nam tỉnh Gia Lai và bắc tỉnh Đắc Lắc; đồng thời lập căn cứ tiền phương ở thị trấn Tân Cảnh và căn cứ Đắc Tô 2 để thăm dò lực lượng ta. Bộ Tư lệnh mặt trận (đồng thời là Bộ Tư lệnh chiến dịch Đắc Tô 1) ra lệnh cho các đơn vị chủ lực tại chỗ và bộ đội địa phương hai tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc bám đánh địch, thu hút sự chú ý của chúng về hướng nam Tây Nguyên, giữ bí mật ý định chiến dịch, tạo điều kiện cho Sư đoàn bộ binh 1 (trung đoàn 320, 66, 174), Trung đoàn pháo binh 40, Tiểu đoàn 6 độc lập mang mật danh Tiểu đoàn Tây Ninh tiến vào khu vực tây nam thung lũng Đắc Tô, xây dựng trận địa. Nơi đây, núi rừng trùng điệp, kín đáo với các dãy Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Tang, Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Rinh Rua cao trên 1.000 m. Chiếm các điểm cao này thì toàn bộ thung lũng Đắc Tô, thị trấn Tân Cảnh sẽ bị ta khống chế. Điểm cao 875 nằm ở phía tây các dãy Ngọc Bờ Biêng và ở phía nam dãy Ngọc Cơ Ring là trung tâm không gian chiến dịch được chọn làm điểm quyết chiến then chốt của chiến dịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2010, 10:15:52 pm »


Ngày 3-11-1967, chiến dịch Đắc Tô mở màn bằng trận đánh quyết liệt của các chiến sĩ Tiểu đội 7, Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 6 Tây Ninh với hai đại đội Mỹ tại điểm chốt chiến dịch trên mỏm đồi yên ngựa dãy Ngọc Bờ Biêng. Đợt tiến công thứ nhất của địch bị đẩy lùi. Các chiến sĩ Tiểu đội 7 nhảy lên chiến hào thu 2 súng AR15, 1 súng M79. Đây là những khẩu súng chiến lợi phẩm đầu tiên của chiến dịch.

Sư đoàn 4 Mỹ đang mở cuộc hành quân Mắc Áctơ ở nam Tây Nguyên và Lữ đoàn dù 173 đang càn quét ở tỉnh Phú Yên phải bỏ dở các cuộc hành quân, được không vận cấp tốc lên Đắc Tô đối phó với ta.

Sáng ngày 4-11, địch dội bom xăng, bom đào và hoá chất độc xuống trận địa chốt của Tiểu đội 7. Cây cối um tùm bỗng sạch quang, lửa napan cháy nham nhở, nhiều đoạn hào giao thông, hầm chiến đấu cá nhân bị san phẳng. 8 giờ, quân Mỹ tiến công lên chốt, nhưng bị đánh bật khỏi trận địa. Trong ngày, địch tổ chức tám lần tiến công chiếm chốt của ta, nhưng các chiến sĩ Tiểu đội 7 kiên cường, bình tĩnh đánh lui, diệt 120 tên Mỹ, thu nhiều súng đạn.

Ngày 5-11, một đại đội Mỹ bất ngờ đánh chiếm trận địa chốt thứ hai của Đại đội 11 ở Ngọc Tang. Bộ đội ta đã đánh “giáp lá cà” với quân Mỹ, diệt 70 tên, giành lại điểm chốt. Trong trận này, chiến sĩ Nguyễn Tấn - một tân binh mới vào chiến trường, lần đầu ra trận đã kiên cường chiến đấu, khi còn một viên đạn cuối cùng, anh đợi tên Mỹ xông lên gần, mới ấn cò bắn gục tên địch và anh đã anh dũng hy sinh.

Các trận địa chốt chiến dịch của Đại đội 11, Tiểu đoàn 6 Tây Ninh đã nhử địch vào sâu khu trung tâm chiến dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung đoàn 320, Trung đoàn 66 (Sư đoàn 1), trong hai ngày 6 và 7-11 đánh tiêu diệt, tiêu hao 3 đại đội Mỹ, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng, loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên tại khu vực điểm cao 724, 823 và Ngọc Rinh Rua. Cùng với các trận ác chiến ở khu vực Ngọc Kom Liệt, Ngọc Rinh Rua, Đại đội 1 pháo binh do đại đội trưởng Bùi Xuân Phái và chính trị viên Thân Trọng Oanh chỉ huy dùng hai khẩu sơn pháo bố trí ở Ngọc Bờ Biêng bắn phá căn cứ dã chiến tiền phương của Sư đoàn 4 Mỹ ở Đắc Tô 2. Pháo ta đã bắn cháy kho đạn 1.100 tấn của địch, làm cho toàn bộ dự trữ hậu cần của cuộc hành quân bị thiêu huỷ hoàn toàn, 3 đại đội lính ngụy bị tiêu diệt, 150 tên Mỹ chết, 3 máy bay C130 chở quân ứng cứu vừa hạ xuống đường băng sân bay Đắc Tô bị trúng đạn nổ tung. Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải kêu: đây là cơn bão lửa đáng kinh khủng nhất, gây thiệt hại nặng cho đồng minh (Mỹ - ngụy).

Lữ đoàn dù 173 Mỹ được máy bay lên thẳng cấp tốc chở đến Đắc Tô, lần lượt đổ xuống chiếm các điểm cao 823, 845, 882 trên dãy Ngọc Kom Liệt phối hợp với Sư đoàn bộ binh 4 tiến công vào sườn bên phải Sư đoàn 1 của ta, để tiến lên chiếm điểm cao 875. Nhưng, ngày 11-11, Trung đoàn 320 và Trung đoàn 66 hiệp đồng chiến đấu đánh trận vận động tiến công xuất sắc, diệt 4 đại đội Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 và Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 4) Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 400 tên. Tiểu đoàn 1 dù đến cứu nguy, nhưng Tiểu đoàn 8 và đại đội trợ chiến súng máy 12,7mm thuộc Trung đoàn 66 kịp thời đánh ngăn chặn, tiêu hao một số, làm cho Tiểu đoàn 1 Mỹ không cứu nguy được cho lực lượng địch bị ta tiến công ở khu vực điểm cao 823. Địch không thực hiện được ý đồ chia cắt đội hình chiến dịch của ta. Bị ta đánh thiệt hại nặng, Lữ đoàn dù 173 và Sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ đang bị mắc kẹt ở khu vực Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt, buộc Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải tung lực lượng dự bị gồm hai tiểu đoàn của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và Chiến đoàn dù 3 ngụy vào vòng chiến. Không quân Mỹ phải dùng mỗi ngày 700 lần chiếc máy bay B52 và máy bay phản lực ném bom huỷ diệt khu vực Đắc Tô. Những ngày cuối chiến dịch, số phi vụ ném bom của không quân Mỹ và Sài Gòn tăng lên 737 lần chiếc mỗi ngày. Núi rừng Đắc Tô trùng trùng điệp điệp, cây cối um tùm trước đó, giờ bỗng sạch quang, chỉ còn trơ ra những quả đồi trọc, hố bom chi chít. Hào giao thông, hầm cá nhân, hố bắn trên trận địa chốt của các đơn vị nhiều đoạn bị san lấp. Nhưng từ trong những trận địa bị bom đạn Mỹ cày xới tới mức tưởng chừng như không còn sự sống đó, bộ đội ta vẫn bình tĩnh chủ động tổ chức những trận đánh kết hợp giữ chốt kiên cường với xuất kích ngắn tiến công dũng mãnh. Khẩu hiệu “Quyết giữ trận địa đến cùng”, “Phấn đấu đạt dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú” ở khắp chiến hào đã có sức cổ vũ bộ đội vượt qua mọi ác liệt, quyết chiến lập công.

Từ ngày 8 đến ngày 27-11-1967, các đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh... dồn dập tiến công quân Mỹ trên toàn tuyến chiến dịch. Trên dãy Ngọc Bờ Biêng, Tiểu đoàn 6 Tây Ninh đảm nhiệm khu chốt chiến dịch đã lập công xuất sắc, diệt 300 tên Mỹ, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 1, Sư đoàn 4) Mỹ. Tại khu vực quyết chiến chiến dịch ở Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Cơ Ring, Trung đoàn 66 và Trung đoàn 320 dưới sự chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn trưởng Nguyễn Hữu An và Chính uỷ Hoàng Thế Thiện đã vận dụng linh hoạt chiến thuật chốt kết hợp với vận động tiến công, đánh tiêu hao nặng lực lượng của Lữ đoàn dù 173 và Sư đoàn 4, đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn, diệt 4 đại đội Mỹ khác. Những trận đánh của trung đoàn 66 và 320 đã nhử được Lữ đoàn dù 173 Mỹ vào khu quyết chiến then chốt của chiến dịch - điểm cao 875. Bởi vì sau những cố gắng tiến công chia cắt đội hình chiến dịch của ta ở khu vực Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt không thành, lại bị thương vong lớn, Bộ chỉ huy Mỹ cho rằng nếu không chiếm được điểm cao 875 làm bàn đạp tiến công và khống chế ta để từ đó thực hiện đòn đánh vu hồi vào sau lưng đội hình chiến dịch do Sư đoàn 1 đảm nhiệm, thì không thay đổi được thế trận. Vì vậy, dù xa các căn cứ pháo binh yểm trợ, Lữ đoàn dù 173 Mỹ vẫn quyết tiến công lên điểm cao 875. Quân Mỹ tin rằng với hoả lực yểm trợ ồ ạt của máy bay chiến lược B52 và máy bay chiến đấu chiến thuật, Quân giải phóng không thể đương đầu nổi với chúng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2010, 10:16:46 pm »


Ngày 17-11-1967, tiểu đoàn 1 và 2 thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ tiến công lên điểm cao 875. Cánh quân của Tiểu đoàn 1 chưa đến chân điểm cao đã bị Trung đoàn 66 đánh diệt từng bộ phận, buộc chúng phải dừng lại chống đỡ. Tiểu đoàn 2 Mỹ tiếp tục tiến chiếm cao điểm 875. Tại đây, Đại đội 7 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174) đã bí mật xây dựng điểm cao 875 thành trận địa chốt kiên cố, đánh chặn, sát thương quân địch trước chiến hào. Ngày 18-11, địch cho từng tốp máy bay B52 luân phiên dội bom xuống điểm cao 875. Nhưng từ trận địa bị bom Mỹ cày xới nát vụn tưởng không còn sự sống, các chiến sĩ Đại đội 7 bắn mãnh liệt vào đội hình tiến công của bộ binh Mỹ, diệt từng tốp địch. Tuy vậy, lính Mỹ vẫn cố sống cố chết lao lên theo lệnh chỉ huy. Đại đội 7 kiên cường chiến đấu, động viên nhau “giữ vững quyết tâm, thà hy sinh không để mất chốt” để tạo điều kiện cho trung đoàn lập công. Tổ ba người Phùng Quang Chí, Bùi Xuân Lộc, Đỗ Văn Chuyên đã nêu gương dũng cảm, mưu trí đánh diệt 102 tên Mỹ, góp phần cùng đại đội đánh tan các đợt tiến công của địch.

Ngày 19-11, trong lúc quân Mỹ đang bị Đại đội 7 ghìm chặt dưới chân điểm cao 875, từ các hướng, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 1), do Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy chỉ huy thực hành chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, đánh tiêu diệt Tiểu đoàn 2 (Lữ đoàn dù 173) Mỹ. Ngày 20-11, bộ đội ta tiêu diệt thêm một số, bắn rơi 12 máy bay. Xác lính Mỹ và số bị thương nằm ở thung lũng chân điểm cao 875 sau trận đánh 50 giờ vẫn chưa được chúng đưa ra khỏi trận địa. Cuối cùng, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải cho máy bay ném bom xăng trong phạm vi rộng để thiêu xác chết và xoá dấu vết bại trận. Các trận kịch chiến còn tiếp diễn ác liệt đến ngày 29-11, quân Mỹ và lực lượng ta mới rút khỏi khu chiến dịch.

Chiến dịch Đắc Tô 1 kéo dài 27 ngày đêm liên tục, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã vượt qua muôn vàn khó khăn, ác liệt sáng tạo nhiều cách đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn dù 173, đánh thiệt hại Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 4) Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 4.000 tên địch. Tướng Oétmolen, Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam phải thú nhận: cuộc đương đầu với quân Bắc Việt Nam trong năm 1967 ở Tây Nguyên đã gây những tổn thất hết sức nặng nề cho cả Sư đoàn bộ binh 4 và Lữ đoàn dù 173 Mỹ. Chiến dịch Đắc Tô 1 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất và hàng trăm cán bộ, chiến sĩ được thưởng Huân chương Chiến công các hạng. Bộ đội chủ lực Tây Nguyên đã sáng tạo và hoàn thiện chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, mở ra khả năng mới về đánh tiêu diệt từng đơn vị địch trên chiến trường, là một cống hiến xuất sắc đóng góp vào kho tàng nghệ thuật quân sự của quân đội ta.

Chiến thắng Đắc Tô mùa đông 1967 cùng với chiến thắng Bình Long - Phước Long và các chiến trường khác đã buộc quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn phải co dần vào thế phòng ngự chiến lược, giữ các thành phố, căn cứ lớn quan trọng.

Cùng với những chiến thắng của quân, dân ta ở miền Nam, trên miền Bắc - hậu phương lớn, mặc dù không quân Mỹ tập trung đánh phá, ngăn chặn rất ác liệt, nhưng sáu tháng cuối năm 1967, quân, dân miền Bắc đã bắn rơi 631 máy bay Mỹ, nâng tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong năm lên 1.067 chiếc, bắt nhiều giặc lái. Nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam tăng gấp sáu lần năm 1965. Việc tuyển quân đạt số lượng cao, chưa bao giờ thanh niên nam, nữ lại hăng hái, nô nức gia nhập quân đội, thanh niên xung phong để vào Nam đánh Mỹ như thời kỳ này. Mỗi tháng quân số bổ sung cho miền Nam từ 5.000 đến 7.000 người. Tháng giêng năm 1968, số quân bổ sung cho chiến trường tăng lên 22.000 người.

Vào những tháng cuối cùng của năm 1967, các đơn vị quân Mỹ ở vùng Quân khu III, Quân đoàn III bắt đầu chuyển quân, chuẩn bị cho cuộc hành binh ngăn ngừa ở tỉnh Phước Long được tướng Oétmolen dự định trong tháng 12. Nhưng trước sức tiến công của ta và tình báo địch phát hiện, lực lượng “cộng sản” từ các căn cứ ở vùng biên giới Campuchia đang di chuyển về các vùng trung tâm dân cư, kể cả Sài Gòn; hai sư đoàn 325C và 304 “cộng sản” từ miền Bắc vào và từ Lào sang đã tập kết xung quanh Khe Sanh, Oétmolen hốt hoảng ra lệnh huỷ bỏ kế hoạch phản công lần thứ ba, triệt thoái các đơn vị đã triển khai đánh vào chiến khu D, C để về giữ Sài Gòn - Gia Định. Oétmolen cũng huỷ bỏ lệnh điều động Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 đang hoạt động ở Bình Định, Phú Yên về miền Đông Nam Bộ, để cùng với Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196, Sư đoàn Amêricơn tăng cường cho mặt trận Quảng Trị.

Như vậy, tất cả lực lượng quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn từ chuẩn bị phản công để giành lại quyền chủ động chiến trường, phải quay về phòng ngự bị động chống đỡ trên hai hướng chính: xung quanh Sài Gòn - Gia Định và Trị - Thiên. Mỹ lại bị động về chiến lược và chiến dịch, phải đảo lộn kế hoạch quân sự và thế bố trí lực lượng trên toàn chiến trường. Điều này càng tạo ra những sơ hở trong thế phòng ngự bị động của quân Mỹ, mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung trong chiến lược phòng giữ và tiến công của địch phát triển. Quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn bộc lộ thế suy yếu mới.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 18 Tháng Tư, 2010, 09:16:25 am »


II- QUYẾT ĐỊNH LỊCH SỬ

Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã phát triển tới mức rất cao, nhưng bị quân và dân ta đánh bại một bước rất quan trọng, đẩy chúng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân các nước phụ thuộc Mỹ không thể làm nhiệm vụ “tìm diệt” và “bình định” có hiệu quả. Lực lượng của chúng bị căng ra các chiến trường và bị thế trận chiến tranh nhân dân của ta vây hãm. Thế chiến lược của địch bị đảo lộn và vỡ từng mảng, làm cho tinh thần, ý chí của binh lính Mỹ và Sài Gòn sa sút nghiêm trọng. Do thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Chính phủ Mỹ phải lo đối phó với những khó khăn lớn về quân sự, chính trị và tài chính không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trong nước Mỹ. Địa vị của Mỹ có bước suy yếu mới, chúng đang bị cô lập với thế giới và bị loài người tiến bộ lên án mạnh mẽ, làm cho nội bộ giới cầm quyền thêm lục đục.

Trong lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, chưa bao giờ lực lượng quân sự, chính trị của ta ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam mạnh như lúc này. Chúng ta đang nắm quyền chủ động chiến trường. Tình hình đó đã đưa lại cho quân và dân ta những điều kiện và thời cơ thuận lợi để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, mở rộng thế làm chủ trên những vùng rộng lớn ở nông thôn đồng bằng, rừng núi và đô thị, có thể tiến lên tổng tiến công và nổi dậy, giành thắng lợi quyết định. Tháng 6-1967, Bộ Chính trị chủ trương: nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ta cần chuẩn bị đánh một đòn quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua về quân sự. Tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương vẫn trên cơ sở phát huy mạnh mẽ phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược, đồng thời với đẩy mạnh tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực thực hiện đánh vừa và đánh lớn, tiêu diệt các đơn vị cấp chiến dịch, chiến lược quân Mỹ cũng như quân ngụy Sài Gòn, đánh thắng âm mưu “tìm diệt” của địch. Mục tiêu Bộ Chính trị Quân uỷ Trung ương đề ra là đánh tiêu diệt gọn từng đơn vị địch; trước đây ta đã tiêu diệt được đại đội, tiểu đoàn, nay phải nâng mức lên đánh tiêu diệt trung đoàn, lữ đoàn Mỹ; trung đoàn, sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường quân chủ lực ngụy. Làm được như vậy sẽ gây “thôi động” toàn chiến trường, góp phần quan trọng giành thắng lợi quyết định, tiến lên đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.

Tháng 7 và tháng 8-1967, Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương. Điểm lại hai năm đánh Mỹ, bộ đội ta đã diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch, trong đó có một số trận tiêu diệt gọn được những đơn vị cấp chiến thuật của chúng, nhất là đối với quân ngụy Sài Gòn. Song, nhìn chung ngoài tiểu đoàn Mỹ bị tiêu diệt ở thung lũng Ia Drăng tháng 11-1965, bộ đội ta chưa đánh tiêu diệt gọn được một đơn vị Mỹ nào khác, vì hoả lực phi pháo địch mạnh, sức cơ động của chúng nhanh, chỉ huy cấp chiến dịch của quân Mỹ thường không đi cùng với đơn vị trên địa bàn tác chiến. Do đó, vấn đề nâng mức đánh tiêu diệt từng đơn vị địch cấp chiến dịch, chiến lược khó có thể thực hiện được - nhất là đối với quân Mỹ. Đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng gợi ý cho “Tổ kế hoạch” do Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế hoạch và cách đánh khác cách đánh “truyền thống” mà lâu nay ta vẫn làm, thì mới có thể giành thắng lợi quyết định. Trong khi “Tổ kế hoạch” còn đang suy nghĩ tìm cách đánh mới, thì đồng chí Lê Duẩn khi trao đổi với các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương về kế hoạch chiến lược năm 1968 đã đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt địch trong các thành phố, thị xã. Nhiều năm trên cương vị Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn luôn luôn nung nấu ý tưởng táo bạo đó, vì có đánh vào sào huyệt địch ở các đô thị mới tạo được chuyển biến mới. Với cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mỹ, thành thị là căn cứ hậu phương quan trọng, là nơi đầu não của địch. Không đánh vào đầu não địch ở thành thị thì khó có thể giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn được. Từ ý tưởng đó, ngay trong thư gửi cho Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định tháng Giêng năm 1967, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra rằng: “trong một giai đoạn nhất định, cuộc chiến tranh cách mạng vừa quân sự vừa chính trị của ta sẽ phát triển đến tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm đánh bại về cơ bản lực lượng quân sự, chính trị của địch ở tất cả các vùng do chúng kiểm soát mà hướng chính là thành thị, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân”1. Đồng chí còn nhấn mạnh thêm: “Trong quá trình chiến tranh cứu nước ở miền Nam, nếu ở giai đoạn đầu đấu tranh chính trị và quân sự ở nông thôn đã có tác dụng quyết định giành thắng lợi từng bước và làm thay đổi lực lượng so sánh ngày càng có lợi cho cách mạng, thì ở giai đoạn cuối, những đòn tiến công mãnh liệt về quân sự và chính trị ở thành thị, đánh vào một trong những chỗ dựa của địch, cũng là những đòn quyết định đánh bại hoàn toàn chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ”2. Ý kiến của đồng chí Lê Duẩn bắt gặp tư duy của các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và trở thành ý định quyết tâm chiến lược năm 1968 của ta là chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn vào đô thị - nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Nhưng cách đánh mới như thế nào thì mọi người cũng chưa hình dung ra cụ thể. Song, theo đồng chí Lê Duẩn cách đánh mới là phải khởi nghĩa và tiến công vào đầu não địch ở trung tâm các thành phố lớn và thị xã - nơi địch cho là an toàn nhất, nơi chúng có nhiều sơ hở và chủ quan. Có đánh được thành phố mới tạo nên làn sóng đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các đô thị miền Nam và nước Mỹ, đồng thời cũng để tỏ rõ cho thế giới biết thế và lực của cách mạng miền Nam Việt Nam mạnh chứ không như Mỹ, ngụy tuyên truyền. Đánh thẳng vào thành phố sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, củng cố lòng tin và quyết tâm cho lực lượng biệt động, đặc công, tình báo, an ninh, pháo cối chuyên trách và các tiểu đoàn mũi nhọn, cơ sở nội tuyến của ta đã từng bám trụ vùng ven và nội đô.

Theo tinh thần gợi ý của đồng chí Lê Duẩn, “tổ kế hoạch” bắt tay vào xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược mới. Vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng kế hoạch chiến lược là bộ đội ta có đánh được thành phố không? Khả năng nổi dậy của quần chúng và binh biến của ngụy quân, ngụy quyền? “Tổ kế hoạch”, Bộ Tổng tham mưu luôn trao đổi những vấn đề trên với các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường ở miền Nam để xây dựng kế hoạch cho phù hợp với thực tế.
______________________________________
1, 2. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 163, 164.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 18 Tháng Tư, 2010, 09:26:27 am »


Tháng 10-1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp Bàn về kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 – 1968. Tham gia hội nghị này có các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Lê Đức Thọ. Đồng chí Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp vắng mặt vì lý do sức khoẻ phải đi chữa bệnh ở nước ngoài. Các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng và Uỷ viên Quân uỷ Trung ương Tố Hữu, Lê Văn Lương, Song Hào, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Quý Hai cũng được mời tham dự1. Hội nghị do đồng chí Trường Chinh chủ trì.

Buổi sáng ngày khai mạc hội nghị, Bộ Chính trị nghe Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Cục trưởng Cục 2 báo cáo về tình hình địch. Địch cho rằng ta vẫn chủ trương tiếp tục đánh lâu dài, Vùng I chiến thuật sẽ là hướng chính cuộc tiến công của ta trong Xuân - Hè 1968. Đối với các thành phố, thị xã, chúng nhận định, ta chỉ có khả năng hoạt động quấy rối, hoặc đột nhập đánh một vài điểm rồi rút. Từ nhận định trên, địch tăng cường lực lượng bố trí ở Vùng I chiến thuật 11 lữ đoàn, Vùng II chiến thuật 5 lữ đoàn, Vùng III và Vùng IV chiến thuật 10 lữ đoàn nhằm phòng ngừa và ngăn chặn ta tiến công, bảo vệ các khu vực chiến lược và cơ quan đầu não của chúng trong các thành phố, thị xã... Cách bố trí này lộ rõ lực lượng địch tập trung mạnh ở hai đầu, hướng bắc và Sài Gòn - Gia Định, phân tán và mỏng, yếu ở miền Trung, Tây Nguyên. Chiều hướng địch đang ngày càng lui vào thế phòng ngự bị động.

Chiều ngày 20, Đại tá Lê Ngọc Hiền, Cục trưởng Cục tác chiến báo cáo về tình hình ta. Sáng ngày 21, Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng thay mặt Quân ủy Trung ương báo cáo về kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo. Bản báo cáo nêu rõ nhận định của Quân ủy Trung ương là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã phát triển tới đỉnh cao, nhưng những mục tiêu mà Nhà Trắng và Lầu Năm Góc Mỹ đề ra đều bị phá sản. Thời gian tới, cả địch và ta đều nỗ lực tìm mọi cách đánh bại đối phương, giành thắng lợi quyết định về mình. Trước tình hình đó, ta càng phải nỗ lực vượt bậc để chuyển hướng tiến công chiến lược vào thành phố, thị xã bằng công kích và khởi nghĩa. Đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày rõ mối quan hệ giữa công kích và khởi nghĩa. Nếu ta kết hợp chặt chẽ công kích với khởi nghĩa trong các đô thị thì sẽ tạo nên bước đột biến có lợi cho cách mạng...

Chiều ngày 21, Bộ Chính trị nghe mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ báo cáo kế hoạch tác chiến cụ thể của từng chiến trường. Ở Nam Bộ, các đồng chí cho biết khả năng bộ đội đánh được thành phố, nhưng có trụ lại được không, quần chúng có nổi dậy được không thì chưa rõ. Các đồng chí Khu V thì bảo đảm chắc chắn ta đánh vào là có nổi dậy và thắng lợi v.v... Sau đó, các đồng chí Trần Quý Hai, Song Hào, Nguyễn Văn Vịnh trong Quân ủy Trung ương phát biểu bổ sung thêm về kế hoạch tác chiến chiến lược. Các đồng chí đều nhất trí với báo cáo của đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày, tập trung phân tích sâu thêm về thời cơ, về khả năng đánh thành phố của bộ đội ta, khả năng khắc phục khó khăn của ta. Các đồng chí nhấn mạnh khâu tổ chức thực hiện là trọng tâm nhất, cần phải tập trung trí tuệ, sức lực chuẩn bị chu đáo, vì có tổ chức thực hiện tốt mới giành được thắng lợi của kế hoạch chiến lược đề ra...

Ngày 23 và 24, Bộ Chính trị tập trung nghiên cứu thảo luận báo cáo về tình hình địch, tình hình ta, nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968, về phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị với đấu tranh ngoại giao; về sách lược và nhiệm vụ của miền Bắc, trong đó Bộ Chính trị tập trung phân tích kỹ khả năng đánh thành phố và khả năng khởi nghĩa, các bước tiến hành và dự kiến kết quả.

Bộ Chính trị nhất trí đánh giá báo cáo của Quân ủy Trung ương là tốt, làm cơ sở để thảo luận.

Về nhận định tình hình: Bộ Chính trị cho rằng Mỹ đang thất bại lớn, dù chúng có tăng quân cũng không giải quyết được gì vì nội bộ mâu thuẫn sâu sắc, chúng đang bị cô lập. Song, Mỹ ỷ giàu tiềm lực nên rất ngoan cố, đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình quân sự, chính trị của chúng ở Nam Việt Nam không xấu thêm.

Đối với ta: Quân và dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Nhân dân ta ngày càng đoàn kết vững chắc. Cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta được các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc cùng nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần, vật chất và kỹ thuật. Đó là thuận lợi lớn. Song, khả năng đánh vào thành phố của ta còn yếu, mà trụ giữ cũng khó có thể làm được. Tình hình trên đặt ra cho ta khả năng gì khi thực hành công kích và khởi nghĩa? Bộ Chính trị cho rằng nếu chuẩn bị tốt, kỹ về mọi mặt, tạo được thời cơ và nắm thời cơ chiến lược, hành động đúng lúc ta có thể có khả năng giành thắng lợi quyết định.

Về nhiệm vụ: Tranh thủ và tạo thời cơ, tích cực chuẩn bị để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa làm thay đổi tình hình, chuyển biến chiến lược có lợi cho ta như các nghị quyết của Trung ương đề ra, Bộ Chính trị đặt vấn đề: chủ trương như vậy có đúng không? Có gì là phiêu lưu không? Phải tiếp tục nghiên cứu để quyết định chính thức trong cuộc họp Bộ Chính trị tới. Khi thực hiện công kích và khởi nghĩa, Bộ Chính trị nhấn mạnh phải thực hiện chiến tranh nhân dân kết hợp chặt chẽ hai chân, ba mũi. Tổng công kích, tổng khởi nghĩa tốt nhất là làm nhất loạt cùng ngày, cùng giờ ở hai hướng trọng điểm Đà Nẵng - Sài Gòn để gây “thôi động” lớn về chính trị, quân sự và tạo ra tác động dây chuyền mạnh mẽ, buộc Mỹ, ngụy quyền Sài Gòn phải chấp nhận thua. Bộ Chính trị còn lưu ý các chiến trường trong khi tổng công kích, tổng khởi nghĩa cố gắng bắt cho được Thiệu, Kỳ hoặc Oétmolen thì rất tốt.
____________________________________
1. Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa thu: Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Đông - Xuân - Hè 1967-1968. Tài liệu ghi biên bản các hội nghị của Quân uỷ Trung ương về kế hoạch tác chiến, quyển số 053-VP-QU, ngày 3-10-1967.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 18 Tháng Tư, 2010, 09:27:31 am »


Bộ Chính trị đề ra ba mức giành thắng lợi:

- Mức cao: giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam, giữ vững được miền Bắc.

- Mức thứ hai: căn bản thắng lợi, nhưng địch co lại cố thủ một số nơi, tiếp tục cuộc chiến tranh.

- Mức thứ ba: chỉ thắng được một phần. Ví dụ đạt 50% chẳng hạn.

Bộ Chính trị đồng ý phối hợp với bạn Lào đánh Nậm Bạc và chuẩn bị thêm, có thời cơ thì đánh cả Bôlôven, nhưng phải bàn thống nhất với Đảng bạn và được bạn đồng ý.

Tóm lại, mức độ giành thắng lợi, nhiều đồng chí trong Bộ Chính trị có ý kiến khác nhau, nhưng quá trình thảo luận thì các ý kiến tập trung giống như cách đặt vấn đề của Quân uỷ Trung ương mà đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày. Do đó, đồng chí Trường Chinh khi kết luận đề nghị bỏ cụm từ “ba mức” dùng cụm từ “trường hợp”. Cuối cùng, quyết tâm của Bộ Chính trị là cố gắng giành thắng lợi hoàn toàn.

Về sách lược: Bộ Chính trị đề ra tập trung mũi nhọn đấu tranh nhằm phân hoá, chia rẽ và cô lập Mỹ - Thiệu, Kỳ. Tiếp tục phổ biến thực hiện cương lĩnh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Lập mặt trận thứ hai (chuẩn bị người cụ thể trước), tiến tới lập chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, binh lính, ngụy quyền đoàn kết với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trung lập Mỹ, đánh đổ Thiệu - Kỳ, thương lượng với miền Bắc. Lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần lấy Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm nòng cốt.

Ngoại giao nhằm phục vụ cho công kích và khởi nghĩa, Bộ Chính trị nêu rõ là phải tranh thủ cao độ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa.

Đối với miền Bắc, nhiệm vụ hàng đầu là tập trung chi viện cho miền Nam.

Kết thúc Hội nghị Bộ Chính trị, đồng chí Trường Chinh kết luận: về quân sự, đánh vào thành phố là có khả năng. Bộ Tổng tham mưu làm kế hoạch tác chiến theo hướng Bộ Chính trị đã quyết. Vấn đề khởi nghĩa phải nghiên cứu thêm và chờ ý kiến của một số đồng chí lãnh đạo nữa sẽ quyết định trong cuộc họp sau.

Trên cơ sở những vấn đề đặt ra trong Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10, tình hình miền Nam sau cuộc tiến công Thu - Đông của ta và báo cáo kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy ở Nam Bộ của đồng chí Nguyễn Văn Linh, đầu tháng 12-1967, Bộ Chính trị mở hội nghị tiếp tục thảo luận, quyết định chính thức kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta. Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Hồ Chí Minh tới dự và chỉ đạo hội nghị. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương chủ trì.

Căn cứ vào những diễn biến mới nhất trên chiến trường miền Nam và hậu phương miền Bắc cũng như tình hình thế giới (chủ yếu là Mỹ) những tháng cuối năm 1967, thời cơ chiến lược mới đã xuất hiện có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị nhận định: “Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”1. Sau khi nghiên cứu những ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường, nhất là Bộ chỉ huy Miền, Khu V về khả năng đánh thành phố và khởi nghĩa, đồng thời phân tích âm mưu cơ bản của Mỹ và những thất bại của chúng về quân sự, chính trị, “bình định” trong năm 1967, Bộ Chính trị thống nhất nhận định “Địch khó có khả năng mở cuộc phản công mùa khô lần thứ ba. Xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”2. Từ những nhận định biện chứng đó, Bộ Chính trị quyết định: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định...3. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và cấp bách, đòi hỏi quân, dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc nỗ lực vượt bậc với những cố gắng cao nhất, cho nên Bộ Chính trị chủ trương: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ở cả hai miền đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”4 nhằm đạt tới những mục tiêu chiến lược mà Trung ương đã đề ra.
____________________________________
1÷3. Trích Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 được Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua tháng 1-1968, thành Nghị quyết Trung ương lần thứ 14. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
4. Tài liệu đã dẫn.

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM