Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:55:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam  (Đọc 54230 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #10 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2007, 09:46:08 am »

Ngày 3 tháng 8, báo Pravda có một mẩu tin ngắn về sự kiện ở Vịnh Bắc Bộ, trích dẫn nguồn tin từ Tổng hành dinh của Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương. Không một ai trong số các độc giả của tờ báo chú ý đến đoạn tin này. Thậm chí rất ít người trong số họ biết được Vịnh Bắc Bộ ở đâu. Nhưng đối với các nhà lãnh đạo Xô Viết thì tin tức này là đáng chú ý: tình hình ở Đông Nam Á đã tới độ nguy hiểm. Khi Việt Nam còn đang ở trong một cuộc nội chiến với sự tham gia hạn chế của các cố vẫn Mỹ, thì Matxcơva có thể cung cấp sự giúp đỡ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mà không can thiệp sâu hơn vào tình thế phức tạp của Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, Liên Xô có thể chống trả lại sự chỉ trích ác liệt của Trung Quốc cho rằng Liên Xô tìm kiếm để đạt tới một sự thỏa hiệp với phương Tây bằng chính sinh mệnh đồng minh của họ. Nhưng một khi cuộc chiến tranh tổng lực xảy ra tại Việt Nam, thì Kremlin có thể phải có một lập trường rõ nét hơn, thậm chí điều đó có thể gây tổn hại đến quan hệ giữa hai nước.

Sự việc xảy ra bất ngờ như vậy không có lợi gì đối với các nhà hoạch định chính sách của Liên Xô. Trong khi họ chủ động tìm thấy lợi ích từ sự sa lầy của Mỹ trong cuộc xung đột ác liệt, Việt Nam có thể là một trường hợp sai lầm của Liên Xô: đó là, học phải đối phó với nhiều nhân tố không xác định và với một đồng minh không đáng tin cậy. Do vậy, Liên Xô đã đáp lại sự kiện Vịnh Bắc Bộ với một thái độ có phần tương phản.
Ngày 5 tháng 8, TASS đã đưa ra một bản tin (cùng với sự thống kê các sự kiện) trong đó có cảnh báo với Mỹ rằng những hành động của Mỹ có thể dẫn tới một cuộc xung đột quân sự rộng lớn như các nhà quan sát đã nhận xét, giọng điệu của bản tin này rất ôn hòa. Cùng ngày hôm đó, Chủ tịch Khrushchev đã gửi một bức thư tới Tổng thống Lyndon Johnson. Một lần nữa, lời lẽ của bức thư rất thận trọng và dè dặt. Khrushchev đã thông báo với Tổng thống Jonhson, ông đã biết về sự kiện Vịnh Bắc Bộ: “Ngay từ lúc đầu, ngoài những tuyên bố đã được đưa ra trong những ngày gần đây ở Washington, từ mệnh lệnh đã được ban bố choc ác lực lượng quân đội Mỹ, từ các bản tin của các hãng thông tấn và cũng từ tuyên bố... của người phát ngôn của Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam… chúng tôi không có một thông tin nào khác”. Bằng cách thu hút sự chú ý của Jonhson vào các nguồn tin của ông ta, Khrushchev rõ ràng muốn nhấn mạnh một thức tế rằng Liên Xô không dính líu gì đến các cuộc xung đột ở Vịnh Bắc Bộ.

Sau đó, ông Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô này đã tiếp tục lập luận của mình, chỉ trích sự đáp lại bằng vũ lực của Mỹ chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lưu ý đến những hậu quả nghiêm trọng mà sự kiện này có thể gây ra đối với tình hình quốc tế. Điều này dường như là mối lo ngại chính của các nhà lãnh đạo Xô Viết. Khrushchev đã không chỉ rõ những khu vực, con người bộc lộ tham vọng thổi bùng lên lòng ham muốn, đổ thêm dầu vào lửa và ông cũng không chỉ rõ những kẻ trong trạng thái hiếu chiến nên xem xét một cách thận trọng và kiềm chế... Rõ ràng rằng Khrushchev đang đề cập đến ứng cử viên Tổng thống Đảng Cộng hòa Barry Goldwater, nhưng nhà lãnh đạo Xô Viết này cũng có thể đề cập đến Bắc Kinh với sự trợ giúp của họ trong Cuộc đấu tranh giành thống nhất bằng bạo lực của Việt Nam.

Thú vị hơn là, cũng trong số báo Pravda, với những tin tức về sự kiện Vịnh Bắc Bộ xuất hiện một cây bút tên là Ivanov (một cái tên rất thông dụng ở Nga), đã viết một bài báo tựa đề: “Một cuộc chiến tranh ư? Đó không phải là điều tồi tệ”. Tác giả đã trích dẫn những bài phát biểu của các quan chức cao cấp của chính phủ Trung Quốc, như Trần Nghị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Trung cộng và một quanc hức giấu tên khác để gửi cho một tờ báo của Áo ông ta nêu câu hỏi: Đại diện cao cấp của Trung Quốc đang nói gì?-và ông tiếp tục-“Cộng đồng thế giới đang lo lắng về tình hình căng thẳng ở Đông Nam Á. Liên Xô và các nước yêu chuộng hòa bình thực hiện mọi nỗ lực để ngăn chặn cuộc chiến đang bùng nổ trong khu vực này của thế giới. Nhưng một thành viên cao cấp của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sau những lập luận mập mờ đã nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn rằng: Chiến tranh ở Đông Nam Á không phải là một điều thực sự tồi”.

Trong bất kỳ một sự kiện nào, Khrushchev đều cố gắng thuyết phục Tổng thống Mỹ thể hiện sự bình tĩnh và kiềm chế đối với những diễn biến ở Đông Dương. Sự đề cập của ông ta tới “trách nhiệm to lớn” của hai cường quốc trong việc đảm bảo rằng những sự kiện nguy hiểm xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới sẽ không biến thành những yếu tố đầu tiên trong một chuỗi những sự kiện còn nghiêm trọng hơn và không thể đảo ngược” mà được ủng hộ bởi vai trò công bằng, công khai của Liên Xô đối với cuộc chiến”. Ông cũng nhấn mạnh rằng không có một yêu cầu Chính phủ Liên Xô đề cập đến Tổng thống Mỹ trong mối quan hệ với những diễn biến ở Vịnh Bắc Bộ: “Nếu có xuất hiện một mối đe dọa cho hòa bình, tôi tin tưởng một cách sâu sắc rằng chúng ta không phải đợi những lời yêu cầu và thỉnh cầu từ bất kỳ ai, mà chúng ta phải hành động nhằm loại bỏ mối đe dọa đó không một chút do dự”.

Tuy nhiên, lời kêu gọi của Khrushchev đã không làm thay đổi quyết tấm của Mỹ chống lại “xâm lược” của Bắc Việt Nam đối với chế độ Sài Gòn. Lời giải đáp của Johnson đối với bức thư của các nhà lãnh đạo Xô Viết để lại cho Matxcơva một hy vọng mỏng manh rằng những diễn biến ở Đông Nam Á có thể thay đổi cơ bản theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Tổng thống Mỹ nhấn mạnh một lần nữa rằng, đất nước ông “sẽ luôn dứt khoát và kiên định trong sự đáp lại tích cực đối với những hoạt động xâm lược và sức mạnh của chúng tôi thể hiện tương xứng với bất kỳ thách thức nào đó”.

Với sự đáp lại mang tính tiêu cực của Jonhson, điều rõ ràng đối với các nhà lãnh đạo Liên Xô là sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã đánh dấu một bước ngoặt mới ở Đông Dương. Như Douglas Pike đã nhận xét: “Trong khi bản thân nó không có gì đặc biệt quan trọng, sự kiện Vịnh Bắc Bộ biểu tượng cho mối quan hệ mới mà Hà Nội đòi hỏi từ Matxcơva. Bản chất của chiến tranh đã thay đổi như là thực tế của nó: từ anh Việt Cộng chân đất với khẩu súng ngắn tự tạo cho tới những lực lượng quân đội Cộng sản Việt Nam được trang bị những vũ khí hiện đại nhất mà thế giới cộng sản có thể sản xuất”. Nhưng phải trải qua một khoảng thời gian, Liên Xô và Bắc Việt Nam mới đạt được sự hợp tác toàn diện trong Cuộc chiến tranh chống “Đế quốc Mỹ”.

Trong khi đó, Matxcơva đã tiến hành bước đi đầu tiên trong lộ trình đạt tới mối quan hệ hữu nghị với Hà Nội. Một đại sứ mới của Liên Xô tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được chỉ định vào cuối tháng 8 năm 1964, Ilia S.Shcherbakov là một nhân vật lỗi lạc của Đảng cộng sản Liên Xô. Từ những năm 30, ông đã bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một viên chức của Đảng. Năm 1949, ông được đề bạt vào một chức vụ của Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô. Ông đã tốt nghiệp Học viện quân sự-ngoại giao, một Học viện nổi tiếng của Liên Xô, chuyên đào tạo cán bộ tình báo cho hoạt động đối ngoại của Liên Xô. Trong Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản, Shcherbakov đã trưởng thành một cách nhanh chóng, năm 1953 ông đã là Vụ trưởng Ban đối ngoại có chức năng giám sát các mối quan hệ với các Đảng cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa. Ngay trước khi được bổ nhiệm tới Hà Nội, ông đã được điều tới Bắc Kinh với cương vị là Tham tán công sứ. Vì thế vị Đại sứ mới này hoàn hảo không chỉ trong hoạt động của Đảng mà cả trong hoạt động chính trị quốc tế.
Trên thực tế, Shcherbakov đã có được tất cả những phẩm chất cần thiết cho vị trí đại sứ của Liên Xô tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Như Cơ quan thông tin của Mỹ đã nhận xét trong một bản báo cáo: “Quan hệ của Liên Xô với Bắc Việt Nam được tăng cường vào cuối năm 1964”. “Điều mà người ta cần ở Hà Nội là một người có kinh nghiệm trên lĩnh vực này và một người có thể chiếm được lòng tin của các nhà lãnh đạo ở Điện Kremlin”. Những mối quan hệ của Shcherbakov ở Ủy ban trung ương cho phép ông ta không những thoải mái khi thực hiện chính sách của Matxcơva mà còn ít nhiều tự do thể hiện ý kiến của mình về những mối quan hệ Liên Xô-Bắc Việt Nam mà không sợ ai đó ở “Trung ương” (chỉ Điện Kremlin) phản đối quan điểm của ông. Những yếu tố này đã được các nhà lãnh đạo Xô Viết cân nhắc. Họ cần một bức tranh chính xác về các sự kiện xảy ra tại Việt Nam.
Bị mắc kẹt trong vòng lửa, các nhà lãnh đạo Xô Viết bắt đầu tìm kiếm lối thoát. Nhưng những sự thay đổi ở Kremlin chỉ làm căng thẳng thêm tiến trình này và đó không phải là điểm xuất phát. Điều này giải thích tại sao những chuyển hướng của Liên Xô đối với Cuộc chiến Việt Nam dường nưh diễn ra quá nhanh ngay sau khi “Ban lãnh đạo tập thể mới” lên nắm chính quyền.

Tuy nhiên các nhà lãnh đạo mới ở Điện Kremlin thông báo rằng chính sách đối ngoại của Liên Xô sẽ không thay đổi. Họ đã tuyên bố công khai về điều này tại nhiều diễn đàn khác nhau, cũng như trong các cuộc trao đổi kín với các chính trị gia phương Tây. Ví dụ nưh: Đại sứ Liên Xô ở Washington, A.Dobrynin đã gặp Tổng thống Johnson và đảm bảo với ông ta rằng Matxcơva vẫn cam kết thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của mình và báo Pravda đã nhanh chóng thông tin cho độc giả Xô Viết về cuộc gặp này.

Phớt lờ chuyện đó vào tháng 11, Matxcơva đã sẵn sàng chuyển hướng từ giúp đỡ mang tính tuyên truyền thuần túy cho Hà Nội và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sang viện trợ về vật chất nhiều hơn.

Các nhà lãnh đạo Xô Viết không từ bỏ các mối quan hệ của họ với Mỹ. nhưng sau tháng 11, các mối quan hệ này lại bị ràng buộc với các chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Một yếu tố mới và quan trọng bổ sung vào chính sách của Liên Xô trong giai đoạn quan trọng này: những nỗ lực của các nhà lãnh đạo Xô Viết nhằm tìm kiếm những biện pháp hòa bình để giải quyết Cuộc chiến Đông Nam Á.

Do đó, như Douglas Bile đã nhận xét, chính sách của Liên Xô trong Cuộc chiến Việt Nam thể hiện trên ba khía cạnh:

-Thứ nhất: Matxcơva đã quyết định trong một số giới hạn, Hà Nội có thể nhận được tất cả những giúp đỡ về kinh tế và quân sự cần thiết đủ để theo đuổi cuộc chiến.

-Thứ hai: Liên Xô không thể hy sinh chiến lược hòa hoãn của họ với phương Tây, nhưng thay vào đó Liên Xô có thể điều chỉnh chính sách Việt Nam theo hướng “nếu và khi cần thiết”.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #11 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2007, 09:46:53 am »

-Thứ ba: Liên Xô tập trung vào việc giải quyết cuộc chiến bằng biện pháp thương lượng như một đảm bảo tối ưu nhằm chống lại việc bị kéo sâu vào cuộc chiến, mặc dù Liên Xô nhận thấy rằng chính sách này không được chấp nhận ở Hà Nội.

Vào tháng 11, những biểu hiện về thái độ mới của Liên Xô đã được thể hiện rõ ràng. Ngày 9 tháng 11, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Kosygin đã tiếp đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến Matxcơva, để tham dự những hoạt động kỷ niệm lần thứ 47-Cách mạng tháng 10. Đây là chuyến thăm công khai đầu tiên của các nhà lãnh đạo Hà Nội kể từ khi Khrushchev bị cách chức. Mặc dù vào tháng 10 đã có một chuyến thăm bí mật, diễn ra ngay sau Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, khi đó Hà Nội khao khát duy trì các mối quan hệ với các nhà lãnh đạo Xô Viết mới và tìm kiếm ở những người này, cái mà họ đã không thể tìm thấy được từ Khrushchev, do vậy mà họ đã cử Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Matxcơva.

Vào tháng 10 và tháng 11, chủ đề của các cuộc hội đàm đã được thể hiện rõ ràng, đó là sự hợp tác của Liên Xô với Hà Nội. Có lý do chính xác để tin rằng hai Đảng đã đạt tới sự hiểu biết trên nguyên tắc và vấn đề viện trợ quân sự, và một nhà lãnh đạo Xô Viết sẽ tới thăm Việt Nam ngay sau đó làm rõ các chi tiết.

Lần đầu tiên, trong bản tuyên bố của TASS ngày 27 tháng 11 chứa đựng một lời hứa hẹn về việc tăng gấp đôi viện trợ cho Việt Nam, cùng với một lời cảnh báo “những kẻ nuôi dưỡng các kế hoạch phiêu lưu ở bán đảo Đông Dương phải nhận thức được rằng, Liên Xô sẽ không làm ngơ với số phận một nước Xã hội chủ nghĩa anh em và sẵn sàng cung cấp cho Việt Nam sự giúp đỡ cần thiết”.

Tiếp theo đó, ngày 24 tháng 12, Bộ Chính trị Đảng cộng sản Liên Xô đã mời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở phái đoàn thường trực ở Liên Xô. Liên Xô chấp nhận bước đi này trong bối cảnh Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác có những quyết định tương tự, do đó lời mời của Liên Xô xem ra có ý nghĩa hơn. Vào tháng 12, các nhà lãnh đọa Xô Viết đã tiến hành một trong những nỗ lực cuối cùng của họ nhằm ngăn chặn Mỹ tham gia trực tiếp vào Cuộc chiến ở Việt Nam. Ngày 9 tháng 12, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô Andrei Gomyko đang ở Mỹ đã dự Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc và đã gặp Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk tại Đại sứ quán Liên Xô ở Washington. Việt Nam là chủ đề trong cuộc hội đàm của họ. Gromyko đã cố gắng thuyết phục đối tác của ông: “Mỹ đã phạm phải một sai lầm lớn bằng việc dính líu vào Cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Bởi vì, Mỹ không có lợi ích gì liên quan đến khu vực này”. Ông ta cũng nêu ra thắc mắc “những ý đồ thực sự của Mỹ là gì?”.

Rusk đã đưa ra những lập luận thông thường của Washington về hiểm họa cộng sản từ Bắc Kinh và Hà Nội, về nghĩa vụ của Mỹ đối với chính phủ Sài Gòn và sự chính đáng trong các mục tiêu của Mỹ. Gromyko đã nhận thấy sự nhấn mạnh của Rusk về quyết tấm thực hiện nghĩa vụ của Mỹ: “Ngoại trưởng Mỹ đã lập đi, lập lại rằng nếu Hà Nội và Bắc Kinh để yên cho các nước láng giềng, thì chúng tôi sẽ không ở đó. Mặt khác, ông ta nhấn mạnh, chúng tôi đang ở trong một tình thế rất nghiêm trọng… và một lần nữa, ông ta chỉ có thể nói rằng, nếu Hà Nội và Bắc Kinh để yên cho khu vực này, chúng tôi sẽ rút quân. Nếu không, ở đây sẽ xảy ra một cuộc chiến thật sự”.

Những tuyên bố này của Mỹ đã truyền đến Matxcơva cùng với những thông tin thiếu hy vọng tương tự như vậy từ Hà Nội. Shcherbakov viết từ thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Căn cứ vào những quyết định của Bộ Chính trị (của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam) và những sự kiện khác có thể nhận xét rằng, các kế hoạch của ban lãnh đạo Việt Nam sẽ tập trung vào việc từ từ tăng số lượng của lực lượng Quân giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam và tăng cường các hoạt động quân sự đồng thời với hoạt động tương tự làm xói mòn chế độ bù nhìn từ bên trong”.

Kết hợp những sự kiện này và những thực tế khác, các quan chức Xô Viết vội vã thực hiện những điều chỉnh cuối cùng trong chính sách của họ đối với Việt Nam, trong khi cuộc chiến tranh dường như không phải vài tháng nữa mà là vài ngày nữa sẽ nổ ra.



Chương II: Bước ngoặt
Nếu như sự khéo léo để bắt đầu một cuộc là không cần thiết, thì những sự kiện đầu năm 1965 dường như ủng hộ quanđiểm này. Điều đó đã quá đủ cho các nhà lãnh đạo chính trị mù quáng theo đuổi những diễn biến ở Đông Nam Á nhằm tạo ra cho họ một tình thế mà ở đó chiến tranh trở thành cách lựa chọn duy nhất. Điều này đặc biệt đúng với chính quyền Johnson, mặc dù các nhà lãnh đạo Xô Viết đã đối mặt với một vấn đề tương tự như vậy.
Vị trí của Mỹ ở miền Nam Việt Nam xấu đi nhanh chóng trong những tháng cuối cùng của năm 1964. Chính quyền Sài Gòn vẫn bị mất ổn định và những chương trình bình định được xây dựng để củng cố chính quyền ở vùng nông thôn cho thấy không có hiệu lực. Quân đội Việt Nam Cộng hòa thụ động trước những hoạt động đang tăng lên của Việt Cộng. Từ 26 tháng 12 đến 2 tháng 1, những đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hòa được trang bị đến tận răng và được huấn luyện chu đáo dưới sự hỗ trợ của các cố vấn Mỹ và các trang thiết bị quân sự đã bị đánh bại trong một cuộc giao tranh ở Bình Giã. Theo CIA, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lúc đó hầu như đã mở rộng ảnh hưởng đến mọi ngõ ngách ở miền Nam Việt Nam. Mặt trận này tự nhận là “đã kiểm soát được ba phần tư đất nước và 8 triệu trong số 14 triệu dân của miền Nam Việt Nam”. Các bản báo cáo của tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn trùng hợp với những tín toán của CIA. Các quan chức Mỹ ở miền Nam Việt Nam tin rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam có thể nhìn nhận lại tình hình năm 1964 “với cảm giác mãn nguyện”.
Những cuộc nổi loạn ở miền Nam Việt Nam tăng lên đáng kể. Việt Cộng đã mở rộng khu vực, phạm vi các hoạt động và đã giành được một số thắng lợi quân sự. Thất bại của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong việc dẹp tan cuộc nổi loạn này đã dẫn đến sự sa sút hơn về tinh thần trong quân đội và làm tăng sự mất ổn định chính trị ở Nam Việt Nam. Điều này đã ngược với bối cảnh chính trị ở miền Bắc, “nó không có sự thay đổi rõ ràng ở hàng ngũ lãnh đạo cao cấp hoặc trong các chính sách lớn…”.

Mối quan tâm cao ở Washington về diễn biến của các sự kiện này làm cho Tổng thống Johnson và các cố vấn của ông thiên về một giải pháp quân sự ngày càng tăng lên ở Việt Nam. Vào cuối tháng 11 năm 1964 một kế hoạch hai giai đoạn đã được vạch ra ở Washington bao gồm, những cuộc ném bom của không quân vào Bắc Việt Nam và đây được xem như là một biện pháp cuối cùng để buộc Hà Nội chấm dứt sự ủng hộ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặc dù những cuộc ném bom này không nằm trong chương trình nghị sự của Washington vào thời điểm đó, nhưng việc Tổng thống Johnson thông qua các kế hoạch này đã phản ánh tâm trạng của chính quyền.
Thành công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam miền Bắc Việt Nam đầu tháng 1 năm 1965 đã củng cố quyết tấm của các nhà hoạch định chính sách Mỹ. Cho tới cuối tháng đó, họ cho rằng việc trả đũa lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như là một biện pháp thích hợp cơ bản được thể hiện trong bức thư của Cố vấn an ninh quốc gia Mc George Bundy gửi Tổng thống ngày 27 tháng 1, với cái tên là “Fork in the Y Memo”. Tác giả (cũng là phát ngôn viên của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert Mc Namara), đưa ra hai giải pháp cho Việt Nam: “Giải pháp thứ nhất là sử dụng sức mạnh quân sự của chúng ta ở Viễn Đông buộc tạo ra sự thay đổi trong chính sách của cộng sản; Giải pháp thứ hai là triển khai tất cả các lực lượng của chúng ta cùng với diễn biến của cuộc hội đàm nhằm cứu vãn cái nhỏ nhất cần bảo vệ mà không làm tăng thêm đáng kể những hiểm họa quân sự hiện nay của chúng ta”.
Rõ ràng là biện pháp thứ hai không nằm trong chương trình này của Mỹ.
Washington hiểu rằng, hướng tới một giải pháp quân sự đối với Cuộc chiến ở Đông Dương sẽ bao hàm những hiểm họa chắc chắn và nhiều vấn đề chưa xác định được, trong số đó có thể có phản ứng của Liên Xô đối với cuộc tấn công quân sự của Mỹ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các nhà lãnh đạo Mỹ đã cân nhắc triển vọng này một cách nghiêm túc trong suốt tháng 1 và đầu tháng 2, suy nghĩ kỹ những lập luận của họ cho việc ủng hộ hoặc bãi bỏ sự dính líu quân sự.
Có ba vấn đề này sinh trong đầu của các nhà lãnh đạo Mỹ. Vấn đề thứ nhất, đề cập đến những cách thức tham gia của Liên Xô vào cuộc chiến. Thứ hai, các nhà lãnh đạo Mỹ đã thảo luận về tác động của sự leo thang của Mỹ trong quan hệ Mỹ-Xô. Thứ ba là, triển vọng nói chung cho sự hòa hoãn và các mối quan hệ Trung-Mỹ nói riêng cũng được cân nhắc ở Washington.
Ban lãnh đạo Hoa Kỳ không hy vọng Liên Xô sẽ đứng ngoài khi Mỹ tấn công vào Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng thái độ của Matxcơva đối với những triển vọng về Cuộc chiến ở Đông Nam Á như thế nào và sự giúp đỡ nào mà họ sẵn sàng cung cấp cho Bắc Việt Nam nếu như Mỹ thực hiện những kế hoạch trả đũa chống Hà Nội? Những vấn đề này dường như gây ra sự lo ngại cho Ngoại trưởng Mỹ Rusk, khi ông ta xuất hiện trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện ngày 8 tháng 1 để trình bày về tình hình Đông Nam Á. Theo Rusk, Liên Xô mong muốn tránh dính líu với Mỹ trong cuộc chiến ở khu vực này. Hơn nữa, Liên Xô lo sợ về những hậu quả của cuộc chiến giữa một bên là Bắc Việt Nam và Trung cộng với bên kia là “thủ lĩnh của thế giới tư sản”. Rusk cho rằng: “Chúng tôi có được một dấu hiệu cho thấy rằng họ đang lo lắng về một triển vọng đặc biệt sẽ diễn ra trong tình hình này”.
CIA đã đồng ý với quan điểm này và được thể hiện trong báo cáo tháng 1: “Liên Xô dường như ngày càng lo lắng về khả năng leo thang trong Cuộc chiến ở cả Nam Việt Nam và Lào, đang tìm kiếm một vài biện pháp để ngăn cản các hoạt động của Mỹ và Bắc Việt Nam”. Qua kế hoạch giúp đỡ của Liên Xô cho đồng minh Việt Nam, CIA nhận xét rằng: “Sự đáp lại của Liên Xô đối với các kế hoạch ném bom của Mỹ sẽ bao gồm cả nỗ lực ngoại giao và tuyên truyền mạnh mẽ, kết hợp chặt chẽ với sự giúp đỡ bằng quân sự cho Bắc Việt Nam, trong đó hầ như chắc chắn sẽ gồm cả pháo phòng không và Rada”. Tình báo Mỹ cũng tin rằng Việt Nam cũng có thể thúc giục Liên Xô viện trợ tên lửa đất đốikhông và các máy bay phản lực tiên tiến.

Vào thời điểm này, Liên Xô đã thực sự bắt đầu những chuyến tàu vận chuyển vũ khí cho hệ thống phòng không của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong báo cáo ngày 3 tháng 2, CIA đã cho thất rằng các loại vũ khí phòng không gần đây đã bắt đầu xuất hiện ở Bắc Việt Nam. Ngày 9 tháng 2 William Bundy, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế, đã trình lên các thành viên trong tiểu ban về các vấn đề ở Viễn Đông của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ với thông tin rằng, Liên Xô đã trang bị phòng không đáng kể cho sân bay chính ở khu vực Hà Nội.
Trọng tâm của các cuộc thảo luận ở Washington vào tháng 1 và đầu tháng 2 năm 1965 tập trung vào hai vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, đó là khả năng chính sách của Liên Xô hướng vào Mỹ và Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ tin rằng Trung Quốc là một vấn đề chủ yếu của Liên Xô, khi xem xét đến sự phát triển mãnh liệt của hai cường quốc để giành vai trò lãnh đạo trong phong trào Cộng sản quốc tế. Theo các cố vấn của Tổng thống, vì lý do này nên Matxcơva sẵn sàng tăng cường vị trí của mình trong các nước xã hội chủ nghĩa và thậm chí có thể hy sinh một vài mục tiêu để hòa hoãn với phương Tây.
Quan điểm này đã được Llewllyn Thompson, một chuyên gia về Liên Xô và là Đại sứ lưu động, phát biểu trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ ngày 14 tháng 1: “Rõ ràng là trong các tháng sắp tới, phần lớn việc bận tâm của các nhà lãnh đạo Xô Viết là quan hệ giữa họ với Trung cộng”. Thompson nhận xét: “Bởi vì họ đang tranh giành với Trung cộng để tạo ảnh hưởng tới các Đảng cộng sản khác, do đó bất kỳ điều gì họ làm đều sẽ liên quan đến việc vấn đề đó có ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Xô như thế nào?”. Thompson cho rằng, quan hệ giữa Liên Xô với phương Tây được xếp hàng thứ yếu trong chương trình nghị sự của Liên Xô.
Vài ngày sau, Ngoại trưởng Rusk đã phát biểu cùng quan điểm như vậy, thậm chí còn thẳng thừng hơn khi báo cáo với Thượng viện về tình hình Đông Nam Á: “Suy nghĩ hiện nay của tôi là-ông nhấn mạnh-Vấn đề Trung Quốc là nỗi bận tâm lớn ở Matxcơva và bất kỳ điều gì mà họ và chúng ta đang làm và đang bàn chỉ bằng một phần trong vấn đề của họ với Bắc Kinh. Theo sự cảm nhận cơ bản nhất, vấn đề Bắc Kinh là ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu của họ”.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #12 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2007, 09:48:33 am »

Các đánh giá của tình báo Mỹ đã ủng hộ (và đôi khi còn thổi phồng) quan điểm này bằng cách phân tích sự phát triển trong chính sách của Liên Xô ở Đông Nam Á, từ những dự báo về sự rạn nứt trong quan hệ Trung-Xô: “Kết quả của sự bận tâm của Liên Xô đối với Trung Quốc, theo các nhà phân tích Mỹ, đó là một vị trí không thể hòa hợp, hơn nữa đối với Matxcơva về lĩnh vực quan hệ Xô-Mỹ, đặc biệt trong trường hợp những hoạt động theo kế hoạch của Mỹ chống lại Bắc Việt Nam. Trong một dự báo tình hình quốc gia đặc biệt ngay sau các cuộc ném bom trả đũa của Mỹ chống lại Bắc Việt Nam. Ban lãnh đạo tình báo Mỹ (sau những dự báo vì những nỗ lực của Trung Quốc nhằm khoét sâu thêm sự khó xử của Liên Xô), đã dự báo rằng: “Chính sách chung của Liên Xô sẽ nặng nề hơn đối với Mỹ”. Chính điều này sẽ nuôi dưỡng các hành động cản trở việc làm hòa dịu những căng thẳng và làm tăng cử chỉ thù địch của Liên Xô về các vấn đề Đông-Tây khác. Đồng thời, tình báo Mỹ cũng nhấn mạnh rằng, Liên Xô sẽ không muốn kích động một cuộc khủng hoảng lớn ở bất kỳ nơi nào-Ví dụ như ở Berlin hoặc Cuba-như là phản ứng đối với các hành động của Mỹ.
Mặc dù Washington lo ngại về sự sa sút có thể trong các mối quan hệ Xô-Mỹ, nhưng triển vọng về một Liên minh Trung-Xô thực sự là một cơn ác mộng cho các nhà hoạch định chính sách của Mỹ. Rusk tin rằng nếuỹ không thực hiện những hành động mạnh mẽ để ngăn chặn hiểm họa của Trung Quốc ở Đông Nam Á, thì Liên Xô và Trung Quốc dễ kết hợp các nỗ lực của họ lại với nhau để buộc “đế quốc Mỹ” rút lui ở cả các khu vực khác trên thế giới.
Như ông đã trình bày tại cuộc điều trần trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện: “Nếu như Bắc Kinh có thể chứng minh được rằng, đường lối, chính sách của họ đã đem lại những lợi ích thực tế, như những thành công ở Đông Nam Á và Indonesia, thì sẽ có một khả năng rất to lớn là, Matxcơva sẽ nỗ lực thu hẹp mối ngăn cách giữa Matxcơva và Trung Quốc bằng cách hướng tới quan điểm mang nặng tính quân sự của Bắc Kinh đối với cuộc cách mạng thế giới”.
Vài ngày sau đó Ngoại trưởng Mỹ lại thể hiện niềm tin một lần nữa cũng tại chính Ủy ban này: “Tôi thật sự tin tưởng rằng nếu Bắc Kinh giành được thành công đáng kinh ngạc ở Đông Nam Á hoặc chống lại Ấn Độ, thì Trung Quốc có thể làm tăng thêm triển vọng Liên Xô sẽ thu hẹp khoảng cách với Bắc Kinh bằng cách tiến hành theo định hướng về tư tưởng và chiến thuật của Bắc Kinh. Mặt khác, nếu như những người Cộng sản Trung Quốc bị chặn lại tại các giới hạn hiện tại của họ, thì những cơ hội đó sẽ được chứng minh rằng, Bắc Kinh sẽ tiến xa hơn theo chiều hướng cùng tồn tại hòa bình (ít nhất qua nhiều bước). Tôi không bao giờ hy vọng điều đó xảy ra sớm”.
Ý kiến phản đối về khả năng thiết lập lại mối quan hệ hữu nghị giữa Matxcơva và Bắc Kinh là do Mike Mansfield, thủ lĩnh phe đa số tại Thượng viện đưa ra. Trong bức thư của ông gửi Tổng thống Johnson sau một cuộc thảo luận tại Nhà Trắng, Mansfield cho rằng sự can thiệp trực tiếp của Mỹ vào Cuộc chiến Việt Nam có thể dẫn tới “một mức độ hợp tác gần gũi hơn giữa Liên Xô và Trung Quốc… điều đó có thể tự bộc lộ rõ bằng việc Liên Xô phục hồi lại viện trợ quân sự cho Trung Quốc và việc vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô qua Trung Quốc cho Bắc Việt Nam. Đây có thể là một bất lợi rất lớn bởi vì một trong những hy vọng của phương Tây là khuyến khích sự rạn nứt giữa hai cường quốc cộng sản, một hy vọng mà tôi tin chắc rằng bây giờ đã giảm xuống một mức độ đáng kể”.
Từ rất nhiều cuộc thảo luận ở Washington đầu năm 1965 mà chúng có thể ảnh hưởng đến các mối quan hệ Xô-Mỹ trong Cuộc chiến Việt Nam và cũng có thể rút ra hai kết luận:

-Một là: Liên Xô không hài lòng với cuộc xung đột quân sự ở Đông Dương và mong muốn thật sự dàn xếp hòa bình, càng sớm càng tốt.

-Hai là: Trong cuộc chạy đua lâu dài này, Liên Xô không mong muốn làm nguy hại đến các mối quan hệ với phương Tây nói chung, đặc biệt là với Mỹ bởi vì cuộc xung đột này nằm ở một góc xa xôi của thế giới.

Trong khi các nhà phân tích người Mỹ đang làm rõ sự rối rắm của tình hình thế giới, có thể ảnh hưởng đến hoạt động của Mỹ ở Việt Nam, thì hai sự kiện xảy ra vào tháng 2 đã làm thay đổi cơ bản tình hình ở đó và tạo ra một bước chuyển mới trong Cuộc chiến ở Việt Nam. Ngày 31 tháng báo chí ở Matxcơva đưa tin rằng Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Kosygin sẽ thăm Hà Nội vào đầu tháng 2. Chuyến thăm này đã tạo ra một bước tiến trong quan hệ giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam sau cuộc gặp của các nhà lãnh đạo Xô Viết với Phạm Văn Đồng vào tháng 10 và 11 năm 1964. Khoảng cách giữa các cuộc gặp này và chuyến thăm của Kosygin đã được đánh dấu bằng những thay đổi về chất trong mối quan hệ song phương giữa Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài việc mở cửa phái đoàn thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào cuối tháng 12 năm 1964, Liên Xô đã tăng cường các nỗ lực của họ một cách rõ ràng để bảo vệ Hà Nội khỏi những cuộc công kích có thể xảy ra, bằng cách chuyển tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các loại vũ khí phòng không. Họ cũng đẩy mạnh sự giúp đỡ tinh thần bằng cách lên án chính sách của Mỹ ở Việt Nam và Đông Nam Á. Những chuyển hướng này trong chính sách đã được các “đồng chí” Việt Nam hoan nghênh. Các nhà ngoại giao Xô Viết đã báo cáo với Matxcơva rằng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam miền Nam Việt Nam tỏ ra mãn nguyện với tin tức về sự ủng hộ của Liên Xô trong cuộc đấu tranh của họ. Đồng thời họ cũng nhấn mạnh rằng, vị trí của Liên Xô trong khu vực sẽ phụ thuộc vào mức độ viện trợ của Liên Xô cho cuộc đấu tranh của Việt Nam.

Rõ ràng rằng, chuyến thăm của Kosygin được dự định nhằm củng cố nền tảng mới trong các mối quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời làm rõ các chi tiết trong quan hệ giữa hai nước với các vấn đề quân sự là trọng tâm tại các cuộc thảo luận. Do vậy đoàn đại biểu Liên Xô gồm có Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Nguyên soái Konstantin Vershinia, Phó chủ tịch Ủy ban Nhà nước về ngoại thương, Tướng G.S.Didorovich và Bộ trưởng hàng không dân dụng Engenii Loginov.

CIA đã lưu ý đến tầm quan trọng của chuyến thăm của Liên Xô trong báo cáo tình báo ngày 1 tháng 2. CIA thấy rằng một trong những mục đích chính chuyến thăm của Kosygin đó là “củng cố lòng tin về những tuyên bố công khai được nhắc lại kể từ tháng 11 rằng, Liên Xô “không thể cứ thờ ơ với số phận của một nước xã hội chủ nghĩa anh em và rằng Liên Xô sẵn sàng cung cấp cho Hà Nội sự giúp đỡ cần thiết”. CIA coi chuyến thăm này như “đỉnh cao trong sự trao đổi quan điểm kể từ khi Khrushchev bị đổ”. Nhưng cũng theo tình báo Mỹ, Matxcơva cũng đang theo đuổi các mục đích khác bằng cách gửi một phái đoàn cao cấp tới Hà Nội. Hai tháng sau có được những bằng chứng mới, CIA cho là “Kosygin chắc chắn đã ý định báo động cho Bắc Việt Nam không được đánh giá thấp quyết tấm của Mỹ nhằm ngăn chặn thắng lợi của Cộng sản ở miền Nam”.

Nhiệm vụ của ông ta là kêu gọi Hà Nội tránh những hành động có thể tạo ra sự trả đũa của Mỹ và tạo ra những thay đổi về giới hạn của cuộc chiến và chờ đợi cho đến khi thể chế chính trị ở Sài Gòn thực sự tan vỡ. Qua xem xét đến việc đoàn đại biểu này hai lần dừng chân ở Bắc Kinh đã thể hiện rõ ràng rằng Liên Xô cũng đã có kế hoạch đi đến sự thỏa hiệp với Trung Quốc.
Tuy nhiên, các mục đích chuyến thăm của phái đoàn Kosygin được tính toán rất kỹ. Liên Xô nhanh chóng phát hiện ra rằng ít nhất một số mục tiêu của họ là không thể đạt được. Đầu tiên là mong muốn Việt Nam tránh sự khiêu khích đối với Mỹ đã tỏ ra vô vọng. Ngay sau khi Kosygin đến Hà Nội, các đơn vị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tấn công vào một căn cứ của Mỹ ở Pleiku, giết 8 lính Mỹ và làm bị thương hơn 60 người. Cuộc tấn công này đã biến thành một cái cớ mà Mỹ chờ đợi từ lâu nay để tiến hành một cuộc trả đũa. Tổng thống Johnson ngay lập tức phê chuẩn các kế hoạch công kích trên lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặc dù trước đó Washington đã hủy bỏ Cuộc tuần tiễu De Soto (một nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo ở Vịnh Bắc Bộ và dọc theo bờ biển của Bắc Việt Nam) cho tới sau chuyến thăm của Kosygin, nhằm tránh làm phương hại đến các mối quan hệ Xô-Mỹ, nhưng Cuộc tấn công vào Pleiku đã tạo cho Mỹ một cơ hội tuyệt vời để trừng trị Bắc Việt Nam và rằng với sự hiện diện của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ở Hà Nội cũng không thể cản trở Mỹ có hoạt động như vậy.
Không có một bằng chứng nào cho thấy rằng Liên Xô đã biết trước Cuộc tấn công vào Pleiku, mà chỉ có một số lập luận mâu thuẫn. Các mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Liên Xô vẫn chưa đạt tới mức độ mà Hà Nội có thể sẵn sàng thông báo cho Matxcơva những kế hoạch và các hoạt động của mình ở miền Nam. Ví dụ như, đầu tháng 1, một quan chức của Sứ quán Liên Xô ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc nói chuyện với một đại diện của Bắc Việt Nam trong Ủy ban thống nhất đất nước đã cố gằng tìm kiếm về những hoạt động sắp tới của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam miền Nam Việt Nam, nhưng không có kết quả gì. Quan chức này đã kết luận: “Cũng như trước kia, các đồng chí Việt Nam không muốn chia sẻ với chúng tôi bất kỳ một tin tức nào đặc biệt là những tin tức liên quan đến những vấn đề cụ thể của tình hình ở miền Nam Việt Nam, về hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và các kế hoạch của họ trong tương lai…”.
Trong một nghiên cứu về Chiến tranh Việt Nam, R.B.Smith cho rằng Matxcơva không quan tâm đến việc khuấy động các sự kiện ở miền Nam để dẫn đến việc kích động Mỹ. Thái đọ của các nhà lãnh đạo Xô Viết trước sự kiện này cũng như ảnh hưởng yếu (thậm chí không có) của họ ở Hà Nội, cho thấy rằng Liên Xô khó mà có được những ý đồ như vậy. Các quan chức Mỹ hiểu vấn đề này tương đối rõ. Vào lúc đó, không có một chút nghi ngờ nào ở Washington rằng Liên Xô có thể biết được các kế hoạch của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Điều trái ngược là tất cả những lời tuyên bố và những tài liệu đã khẳng định lời tiết lộ của các nhà hoạch định chính sách rằng, “Kosygin có thể bị Hà Nội bẫy”.
Tuy nhiên, Tổng thống Johnson đã nhận thức được tác động có thể xảy ra đối với Matxcơva từ những hành động trả đũa của Mỹ. Trong các cuộc thảo luận ở Nhà Trắng ngay sau khi các tin tức về cuộc tấn công ở Pleiku được truyền đến Nhà Trắng, không phải tất cả các cố vấn của Tổng thống đều ủng hộ cuộc tấn công trả đũa trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chủ yếu là bởi những tổn thương mà chúng có thể gây ra cho các mối quan hệ Xô-Mỹ. Trong số những người không ủng hộ cuộc tấn công này gồm có: Trợ lý Ngoại trưởg George Ball, Mike Mansfield và Liwellyn Thompson. Nhằm sửa chữa thiệt hại này ở mức tối thiểu, Johnson đã thông qua các biện pháp cho Liên Xô được biết về những dự định của Mỹ ở Việt Nam. Vào ngày hôm trước khi có cuộc họp của Hội đồng an ninh quốc gia 8 tháng 2, Thompson đã gặp Đại sứ Liên Xô Anatoli Dobrybnin cố gắng thuyết phục ông ta rằng Mỹ đã buộc phải đáp lại cuộc tấn công của Việt Cộng. Chính Johnson đã quyết định có một cuộc thảo luận với Đại sứ Liên Xô-như ông đã giải thích cho các nhà lãnh đạo Quốc hội Mỹ: “Bởi vì tầm quan trọng của việc truyền đạt quan điểm của chúng ta tới người Nga”.
Nhưng các nỗ lực của chính quyền Johnson không thể ngăn chặn được phản ứng tiêu cực của Matxcơva. Ngày 9 tháng 2, Chính phủ Liên Xô đưa ra một tuyên bố liệt kê và giải thích về các sự kiện ở Việt Nam với một lời cảnh báo rằng, Liên Xô “cùng với các đồng minh và những bè bạn của mình” có thể thực hiện “những bước tiến xa hơn để bảo vệ an ninh” và tăng cường sự phòng thủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Đáng chú ý là trong đó có một số đoạn đề cập đến các quan chức Xô-Mỹ. Các nhà lãnh đạo Xô Viết nhấn mạnh rằng sự phát triển trong quan hệ giữa hai nước là một tiến trình chung, không phù hợp với những “hành động chính trị hiếu chiến, mà điều đó có thể làm xấu đi những bước tiến tới sự bình thường hóa trong các mối quan hệ Xô-Mỹ”.
Ngày tiếp theo, Kosygin và Phạm Văn Đồng đã đưa ra một tuyên bố chung nhấn mạnh tầm quan trọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như là “một tiền đồ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”, nhấn mạnh đến vai trò của nó trong cuộc đấu tranh chống “Chủ nghĩa đế quốc Mỹ” và những đóng góp trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình ở châu Á và trên toàn thế giới. Bản tuyên bố cũng tái khẳng định rằng Liên Xô sẽ “không giữ thái độ làm ngơ đối với việc bảo đảm an ninh của một nước xã hội chủ nghĩa anh em” và “cung cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa những khoản viện trợ và sự giúp đỡ cần thiết”. Bản tuyên bố cũng cho thấy rằng hai nước cũng đã đạt tới sự hiểu biết về những bước cần phải làm để tăng cường các khả năng phòng thủ của Bắc Việt Nam.
Chiến dịch tuyên truyền của Liên Xô rõ ràng xuất phát từ thái độ căm phẫn đối với những hành động xâm lược của Mỹ đối với Bắc Việt Nam trong khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đang ở thăm Hà Nội. Matxcơva đã không giấu giếm quan điểm: “Sự chọn lựa thời điểm cho các cuộc ném bom của Mỹ lên lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một sự xúc phạm tới Kosygin một hậu quả rất rõ ràng mà nhiều cố vấn của Johnson đã lo sợ”. Ngày 10 tháng 2 một quan chức của Liên Xô tại Liên Hợp Quốc đã khẳng định rằng Liên Xô coi việc ném bom của Mỹ trong chuyến thăm của Kosygin tới Hà Nội là “một hành động thiếu thiện chí”. Bản thân Kosygin cũng không thể tha thứ cho “hành động làm bẽ mặt này”, và thậm chí một năm sau ông lại đưa chuyện này ra trong một cuộc hội đàm với Phó tổng thống Hubert Humphrey ở New Delhi.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #13 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2007, 09:50:01 am »

Nhưng cũng có một số lý do chính đáng tạo nên sự bực tức của các nhà lãnh đạo Xô Viết. Sự kiện ở Pleiku và việc trả đũa của Mỹ đã xóa đi những gì còn lại trong hy vọng của Matxcơva nhằm tránh được việc quốc tế hóa cuộc xung đột ở Việt Nam. Như vậy, Liên Xô bị buộc phải gác qua một bên chính sách ủng hộ về tinh thần, không tham dự và phải nhảy vào một cuộc chiến với những hậu quả không thể lượng trước được.
Sự khó xử trong chính sách đối ngoại của Liên Xô càng trầm trọng hơn do mối quan hệ ngày càng xấu đi với Trung Quốc. Những lần dừng chân của Kosygin ở Trung Quốc cho thấy những mục tiêu không thể thương lượng được giữa hai cường quốc cộng sản. Trên đường quay trở về Matxcơva, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã gặp Mao Trạch Đông ngày 11 tháng 2, nhưng cuộc gặp đó đã không đem lại một kết quả khả thi nào. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã phản đối những đề nghị hòa giải của Liên Xô cũng như lời đề nghị phối hợp giúp đỡ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong bối cảnh này các nhà lãnh đạ Liên Xô đã thông qua một chính sách được bắt nguồn từ cuối năm 1964. Đầu tiên là Matxcơva sẽ không mạo hiểm đọ sức với Mỹ. Mặc dù Liên Xô lên án những hành động gần đây nhất của “Chủ nghĩa đế quốc Mỹ”, những lời tuyên bố của họ đã được phân biệt bằng một giọng điệu hơi kiềm chế. Tương tự như vậy, các nhà lãnh đạo Xô Viết đã hạn chế những lời cảnh báo xa hơn về tác động của những hành động của Mỹ đối với quan hệ hai nước, như vậy sẽ tránh được những khái niệm về sự đổ vỡ có thể xảy ra trong tương lai. Matxcơva cũng tính toán tương đối kỹ về những lời hứa giúp đỡ Bắc Việt Nam.

Trong bài phát biểu trên vô tuyến truyền hình ngày 26 tháng, như các nhà phân tích Bộ Ngoại giao nhận xét. Kosygin đã nói đủ để “bảo vệ Liên Xô chống lại luận điệu của Trung Quốc rằng Liên Xô đã phản bội Hà Nội, nhưng lại tránh xa khỏi việc cam kết rằng Liên Xô sẽ toàn quyền trong việc ủng hộ Bắc Việt Nam”.

Rõ ràng là điều này không có ý rằng Liên Xô có ý định lẩn tránh sự giúp đỡ thiết thực cho những người bạn Việt Nam của họ. Sự thực là số lượng viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam là dáng kể và đang tăng lên hàng năm. Thế nhưng sự hạn chế được thấy rõ trong các tuyên bố của Liên Xô ở giai đoạn đầu của cuộc chiến Việt Nam là những miễn cưỡng của Matxcơva trong việc làm cho viện trợ của họ đối với Việt Nam thành vật chướng ngại trong các mối quan hệ với phương Tây.

Ngoài những dấu hiệu không có thực như vậy, Matxcơva rất muốn tạo cho Mỹ một bằng chứng rõ ràng rằng Liên Xô muốn duy trì những kênh liên hệ của họ với phương Tây một cách cởi mở. Ngày 12 tháng 2, CIA đã gửi cho Bộ Ngoại giao Mỹ nói rằng có một quan chức ngoại giao bậc trung của Liên Xô đã khuyên một đồng nghiệp Mỹ về sự hữu ích của những liên hệ không chính thức giữa hai cường quốc nhằm giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình.

Cho đến cuối tháng 3, CIA đã tổng kết những cuộc tiếp cận riêng của các quan chức Xô Viết trong những ngày đầu tiên của sự leo thang trong cuộc chiến. Theo CIA, những cuộc tiếp cận này “nhấn mạnh mong muốn của Matxcơva tránh sự tham gia vào cuộc chiến Việt Nam và tiếp tục hợp tác Mỹ để tiến tới một giải pháp chính trị”.

CIA nhận xét: “Một đề tài thích hợp trong các cuộc hội đàm “là một điểm được nhấn mạnh trong lợi ích chung giữa Mỹ và Liên Xô, nhằm đạt tới một giải pháp hòa bình cho cuộc khủng hoảng. Bất kỳ ai đã quen với các phương pháp làm việc của bộ máy nhà nước Xô Viết đều có thể hiểu rằng những bước tiến như vậy sẽ không thể thực hiện được nếu như không có sự hướng dẫn từ trên. Về vấn đề này, những cảm giác được nêu ra ở trên đã thể hiện vị trí của các nhà lãnh đạo Xô Viết và mong muốn của Liên Xô tránh sự không cần thiết trong các mối quan hệ với Washington.

Các quan chức cao cấp nhất của Matxcơva đã cho các nhà ngoại giao Mỹ thấy rõ vị trí công khai của họ (Liên Xô) nên được nhận thức như thế nào?
Đại sứ Mỹ ở Matxcơva, Toy Kohler đã báo cáo với Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 4 tháng 3 rằng, mặc dù Liên Xô có thái độ cứng rắng, nhưng tình hình ở thủ đô Matxcơva dường như “dễ thay đổi”, nghĩa là tất cả các kênh liên lạc với Liên Xô nên được giữ “trong tình trạng hoạt động tốt ở tương lai gần”.

Vị Đại sứ Mỹ đã bị thuyết phục bởi sự “thừa nhận gần như thẳng thừng” của Gromyko khi ông ta trả lời câu hỏi của Kohler rằng những tuyên bố khác của Liên Xô cho vị Đại sứ Mỹ này chỉ là “một đoạn tuyên truyền” và không thể coi là một câu trả lời của chính phủ Liên Xô đối với những tuyên bố của Ngoại trưởng Rush với Đại sứ Dobrynin.

Ở Washington, những đề nghị này của Liên Xô đã đạt được sự thỏa mãn ở hai khía cạnh. Đầu tiên là những mối liên hệ giữa các quan chức Liên Xô và Mỹ đã giúp làm cho mỗi bên biết được những quan điểm và các dự định của nhau và những mối liên hệ này được coi như một bảo đảm chống lại sự hiểu lầm có thể gây nguy hại cho quan hệ hai nước. Hai là, Liên Xô có thể cung cấp cho Hà Nội một kênh liên lạc hoặc ít ra có một cách nào đó để thông báo với Hà Nội về các kế hoạch của Mỹ ở Việt Nam mà không bị một hiểm họa rằng thông tin này có thể bị cố ý làm sai lệch-ví dụ như bởi Bắc Kinh.

Những cân nhắc này đã giúp hình thành nên những kiến nghị về tầm quan trọng trong việc liên lạc với Xô Viết do các đại sứ Mỹ ở Đông Nam Á thực hiện. Ngày 26 tháng 2, Maxwell Taylor ở Sài Gòn cũng như U.Alexis Johnson, phó của ông ta, William Sulliwan, Đại sứ Mỹ ở Lào, và Graham Martin, Đại sứ Mỹ ở Thái Lan đã gửi về Washington quan điểm của họ về vai trò khả thi của Liên Xô trong cuộc chiến Việt Nam.

Taylor lo lắng đối với chất lượng tin tức về các mục tiêu của Mỹ mà Hà Nội đang nhận được. Ông nghi ngờ rằng những tin tức đó có thể bị Trung Quốc cố ý làm sai lệch. “Để tránh mối nguy hiểm này”, Taylor cho là: “Chúng ta đề nghị một khả năng liên lạc với Liên Xô một cách chính xác về giới hạn tự nhiên của các yêu cầu nào rằng họ sẽ chuyển các mục tiêu đó cho Hà Nội, nhưng chúng ta hy vọng là họ sẽ làm như vậy trong sự bảo đảm về những lợi ích riêng của họ”.

Sau đó ông nói trực tiếp vào một đường dây chung của bốn đại sứ đang thảo luận rất lâu về các vấn đề của Cuộc chiến ở Việt Nam. Họ nhấn mạnh đến ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc đang kiểm soát Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo cuộc trao đổi này thì chỉ có một cách lựa chọn có thể chấp nhận được đối với Trung Quốc là Liên Xô. “Tuy nhiên, việc Liên Xô nhận được sự biểu lộ chính xác rằng chúng ta không phản đối vai trò đangt iếp tục của Liên Xô ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất quan trọng, Liên Xô muốn thay thế ảnh hưởng đang thống trị ở Việt Nam của Cộng sản Trung Quốc. Đồng thời các đại sứ đã miễn cưỡng buộc Liên Xô ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặc dù các nhà ngoại giao Mỹ cho là thời điểm cho các cuộc thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa tới, nhưng họ công nhận rằng khả năng khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa “có thể cùng với Liên Xô” chấp nhận sự chia cắt Việt Nam và đồng ý với thân phận của nó “như một quốc gia Cộng sản nhỏ, độc lập nằm ở bờ Bắc của Vĩ tuyến 17. Vì vậy, tài liệu này cũng chỉ ra rằng trong tháng 2 năm 1965, Washington đã sẵn sàng thảo luận với Bắc Việt chỉ trên những vấn đề của riêng nó và làm như vậy Bắc Việt Nam sẽ không loại bỏ sự giúp đỡ của Liên Xô.

Đối với các nhà lãnh đạo Xô Viết, sự bắt đầu của hoạt động quân sự của Mỹ chống lại Bắc Việt Nam đã rút ngắn khoảng cách chiến thuật của họ. Sự đoàn kết “vô sản” cùng với cuộc đấu tranh giành độc lập và chống chủ nghĩa đế quốc đã đặt ra luật lệ của Liên Xô. Mặc dù, muốn giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình, Liên Xô cũng phải cân nhắc đến những mong muốn của đồng minh Bắc Việt Nam của họ. Nếu như (như Rush công nhận) Hà Nội và Bắc Kinh đang viết kịch bản cho các hoạt động của Mỹ ở Đông Nam Á thì Liên Xô cũng phải có phần tham gia đóng góp, tối thiểu cũng là đóng góp một cách chính thức. Kosygin nhấn mạnh đến những từ ngữ dễ hiểu này trong một cuộc tiếp chuyện với một quan chức phương Tây vào cuối tháng 2, đây là thời điểm mà các nhà lãnh đạ Bắc Việt Nam rõ ràng có dự định tiến hành chiến tranh để thống nhất đất nước.

Nhưng các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn có thể hài lòng với tình hình tiếp theo sự leo thang của Mỹ vào Cuộc chiến ở Việt Nam. Tất cả những nỗi lo sợ của họ hóa ra là bị cường điệu hóa. Những cuộc ném bom trả đũa Bắc Việt Nam, cũng như một chương trình tiếp tục ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tên mật là: Sấm rền) và việc triển khai các lực lượng quân chiến đấu của Mỹ diễn ra sau đó ở miền Nam Việt Nam đã không dẫn tới một cuộc khủng hoảng quốc tế lớn nào hoặc một cuộc chiến với Trung Quốc và Liên Xô nữa, Matxcơva dường như rất háo hức để giúp đỡ giải quyết tình hình này.

Mc George Bundy, đánh giá kết quả trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến ghi trong báo cáo đệ trình lên Tổng thống rằng những hành động của Mỹ đã không làm cho Liên Xô và Trung Quốc đoàn kết với nhau. Mặc dù, Hà Nội vẫn chưa thuyết phục là “sẽ để những người láng giềng của họ đơn độc”, nhưng Mỹ đã có thể thực hiện bước đi ban đầu. Điều quan trọng nhất, theo Bundy, Washington có thể tiến tới một tình thế (với ít sự xung khắc so với chúng ta dự đoán) mà trong đó dư luận quốc tế có thể xem hành động chống lại Bắc Việt Nam của chúng ta như là một lời đáp lại tự nhiên, chống lại các hoạt động của Việt Cộng ở miền Nam”. Bundy viết: “Điều này phản ánh một tâm trạng đang thịnh hành ở Washington “là một sự thay đổi mới và quan trọng. Điều này có lợi nhất cho chúng ta đối với hoạt động tấn công của du kích trong một cuộc chiến lâu dài, bất kể kết quả cuối cùng là gì”. Thật không may là Bundy đã không biết: kết quả cuối cùng ở Việt Nam là gì?”.
Ở Matxcơva, mức độ rối loạn và khó chịu trong những ngày leo thang đầu tiên của cuộc chiến đã mở ra một tính toán nghiêm chỉnh. Mặc dù họ đã trông đợi một sự trả thù bùng nổ, nhưng các nhà lãnh đạo Xô Viết vẫn chưa xác định rõ đường hướng trong chính sách của mình. Bởi vì, trong những tháng tiếp theo Liên Xô sẽ phải nhanh chóng vạch ra chính sách của họ đối với Việt Nam trong khi đó lại phải cân nhắc sự tham gia của họ vào Cuộc chiến ở Việt Nam.


Chương III: Cuộc chiến tranh đang diễn ra
Với quyết định của Tổng thống Johnson bắt đầu những cuộc trả đũa kéo dài chống Bắc Việt Nam, Cuộc chiến ở Đông Dương đã đi vào một giai đoạn mới. Bây giờ thì những hành quân quyết định của cả hai phía tự đặt ra sự hợp lý của riêng họ cho những người tham gia. Kể từ tháng 3 năm 1965 trở đi kịch bản của cuộc chiến viết theo một cách thực sự trên chiến trường. Những sự kiện xảy ra từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1965 đã chứng minh rằng, cả Washington và Hà Nội mâu thuẫn với những tuyên bố của họ vì việc ủng hộ các cuộc đàm phán hòa bình, đã cho rằng tấn công quân sự là những biện pháp duy nhất để đi đến đích của họ.
Hội nghị 11 của Đảng Lao động Việt Nam, tổ chức vào tháng 3 đã được khẳng định sự nghiệp của những người Cộng sản Việt Nam là giàh thắng lợi về mặt quân sự đối với chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Trong khi đó, những quyết định của chính quyền Johnson và việc triển khai các lực lượng quân chiến đấu của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, và mở rộng các cuộc ném bom chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho thấy quyết tâm của chính quyền Mỹ tại nhằm đè bẹp các cuộc nổi loạn ở miền Nam và những kẻ giúp đỡ ở miền Bắc. Những diễn biến mới ở Đông Nam Á đã có tác động ở thủ đô của các nước bè bạn và đồng minh của các bên tham chiến. Liên Xô là một trong những số nước coi những sự kiện ở Đông Dương với nỗi lo sợ và không chắc chắn:
Vì những nỗ lực để đạt được một giải pháp ngoại giao cho cuộc chiến bị thất bại, Matxcơva rõ ràng đã thiên về (tối thiểu vào lúc đó) việc tập trung củng cố nền quốc phòng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thay thế và hứng chịu những lời buộc tội “phản bội” lại lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Vào tháng 3 Bắc Kinh đã làm căng thẳng chiến dịch chống Liên Xô khi phản ứng Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế được tổ chức vào đầu tháng ở Matxcơva và đối với những dấu hiệu đầu tiên của sư hòa hợp giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam sau chuyến thăm của Kosygin tới Đông Nam Á. Sự không vừa lòng của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã được thể hiện trong một vụ rắc rối xảy ra gần Đại sứ quán Mỹ ở Matxcơva ngày 4 tháng 3. Hôm sau báo Pravda đã thông tin với độc giả rằng có một cuộc biểu tình của sinh viên nước ngoài đang học tai các trường đại học ở Matxcơva tổ chức ngay trước Đại sứ quán Mỹ, được cho là chống cuộc chiến lược của Mỹ ở Việt Nam. Bài báo này rất ngắn gọn và có thể không được để ý tới nếu như một tuần sau đó báo Pravda không ấn hành một bài viết của Bộ Ngoại giao Liên Xô gửi Đại sứ Trung Quốc, trong đó các quan chức Liên Xô lên án “chiến dịch tuyên truyền om sòm” được tiến hành ở Trung Quốc và có liên quan đến cuộc biểu tình ngày 4 tháng 3. Bài viết này đưa ra lời giải thích của Liên Xô về các sự kiện diễn ra ngày hôm đó và gọi hành vi của các sinh viên Trung Quốc trong cuộc biểu tình là “một ý đồ được chuẩn bị trước nhằm gây ra các hoạt động bạo lực nhằm chống lại cả các đại sứ quán nước ngoài lẫn các đại diện của chính quyền “Xô Viết”. Báo Pravda cho rằng hơn ba mươi dân quân và bộ đội Liên Xô đã bị đánh, bốn người bị thương nặng do sinh viên Trung Quốc gây ra. Khi Chính phủ Trung Quốc tuyên dương những sinh viên tham gia vào cuộc biểu tình này và trong một cuộc biểu tình tiếp theo tại các lễ kỷ niệm khi những sinh viên đó đã quay trở về Trung Quốc, điều đó dường như nhằm thể hiện cho các nhà lãnh đạo Xô Viết thấy rõ rằng các quan chức Trung Quốc đứng sau vụ “khiêu khích này”.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #14 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2007, 09:55:14 am »

Những sự kiện trên cho thấy sự rạn nứt giữa hai cường quốc cộng sản không những không được hàn gắn sau hoạt động leo thang của Mỹ ở Việt Nam mà đã tăng lên mặc dù Liên Xô có những nỗ lực tạo ra một “mặt trận thống nhất” của các nước xã hội chủ nghĩa. Bây giờ các nhà lãnh đạo Liên Xô bắt đầu thực hiện những bước đi mạnh mẽ để phát triển các mối quan hệ Liên Xô-Bắc Việt Nam. Đầu tiên Matxcơva cam kết củng cố sự hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực kinh tế và quân sự. Những chuyến hàng quan trọng đầu tiên của viện trợ Liên Xô tới Hà Nội được thực hiện vào tháng 3, như kết quả của chuyến thăm hồi tháng 2 của đoàn đại biểu Liên Xô tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Matxcơva đầu tiên sử dụng vận tải đường biển và hạn chế viện trợ của mình ở dạng cung cấp lương thực và thiết bị, nhưng sau một Nghị định thư giữa Liên Xô và Trung Quốc về việc quá cảnh viện trợ của Liên Xô qua lãnh thổ Trung Quốc được ký kết ngày 30 tháng 3 (đây là một nhượng bộ nhỏ của Bắc Kinh trước những đề nghị của “Mặt trận đoàn kết”), số lượng vũ khí, đạn dược ngày càng tăng lên đã được chuyển từ Liên Xô cho Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong khi đó Matxcơva duy trì một quan điểm công khai cứng rắn về tình hình ở Đông Nam Á. Sự tuyên truyền của Liên Xô tăng mạnh vào dịp tháng 3 khi đó Matxcơva không bở lỡ một cơ hội nào để tuyên bố sự trung thành của họ với “sự nghiệp chính nghĩa” của nhân dân Việt Nam và đã đưa ra nhiều tuyên bố lên án sự xâm lược của Mỹ. Hơn nữa, Matxcơva đã bổ sung thêm một phương thức mới trong những tuyên bố ủng hộ Hà Nội. Ngày 24 tháng 3, Brezhnev phát biểu trên Quảng Trường Đỏ khen ngợi những nhà du hành vũ trụ trên tàu Voskhod II vừa trở về mặt đất, bất ngờ ông ta chuyển sang vấn đề Cuộc chiến ở Việt Nam, Brezhnev như thường lệ lên án “đế quốc Mỹ” vì những cuộc tấn công của nó vào nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của một nước xã hội chủ nghĩa. Sau đó ông ta lưu ý rằng có nhiều công dân Liên Xô đã xung phong lên đường tới Việt Nam để chiến đấu cho tự do. Nhà lãnh đạo Xô Viết đã đảm bảo với các khán giả rằng ông hiểu “tình cảm của tinh thần đoàn kết anh em, Chủ nghĩa quốc tế vô sản” đang tìm thấy sự biểu lộ trong những lời thỉnh cầu này của nhân dân Xô Viết. Ông ta nhấn mạnh, đất nước ông sẽ hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của mình đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tuyên bố của Brezhnev đã báo động tới các quan chức ở Washington, những người mà đối với họ không có nỗi sợ nào bằng sự tham gia trực tiếp của Liên Xô vào cuộc chiến Việt Nam. Đại sứ Mỹ ở Matxcơva, Kohler đã đánh giá bài phát biểu này như là “một khẩu súng đã lên đạn trong một chiến dịch chính trị và tuyên truyền được tạo ra để hạn chế vị trí của Mỹ ở Việt Nam, trước thế giới, để báo động cho dư luận thế giới về một sự leo thang trả thù khổng lồ… và như vậy sẽ thuyết phục được thế giới rằng chỉ có một lựa chọn duy nhất cho sự suy thoái nghiêm trọng của tình hình, đó là, một hội nghị với những quan điểm của Liên Xô”. Nhưng Kohler coi sự đề cập đến những người tình nguyện trong bài phát biểu của Brezhnev như là một vỏ bọc để cho phép Matxcơva triển khai quân đội Xô Viết, nhằm cung cấp người sử dụng các loại vũ khí phức tạp của Liên Xô gửi tới Hà Nội.
Nhưng điều này khó có thể coi là mục tiêu duy nhất của Brezhnev. Trong khi động cơ cơ bản của ông ta là thể hiện sự sẵn sàng của Liên Xô nhằm giúp đỡ một đất nước xã hội chủ nghĩa anh em bằng tất cả các biện pháp có thể, sự công nhận vì những người tình nghuyện Liên Xô cũng nhằm vào các lời buộc tội của Trung Quốc rằng “những kẻ xét lại” ở Matxcơva chỉ cung cấp sự giúp đỡ nửa vời cho các đồng minh của họ nhằm không làm mất đi các mối quan hệ của họ với “bọn đế quốc” và một mục tiêu rõ ràng khác đó là củng cố vị trí của Liên Xô tại Hà Nội, điều này đòi hỏi một tổng thể những nỗ lực của Liên Xô, không phải chỉ là “những tình nguyện”.
Gửi quân tình nguyện tới Việt Nam chắc chắn đã không được Matxcơva xem là một khả năng thực tế vào thời điểm tháng 3 năm 1965 (và như chúng ta sẽ thấy, sau này cũng vậy). Lời phát biểu của Brezhnev là phản ứng trước lời kêu gọi giúp đỡ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 22 tháng 3-kể cả việc gửi lính tình nguyện-đến từ các nước xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh của họ chống lại “Chủ nghĩa đế quốc Mỹ”. Ý nghĩa thực sự của lời kêy gọi này đã tiết lộ bốn ngày sau đó trong một cuộc đối thoại giữa Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hoàng Văn Lợi. Ông Lợi khẳng định chiến dịch kêu gọi gửi quân tình nguyện đóng một “vai trò chính trị, biểu tình đoàn kết và hữu nghị cách mạng của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa”. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam rất biết ơn sự giúp đỡ của Liên Xô nhưng chưa cần tới quân tình nguyện. Họ sẽ được yêu cầu gửi tới khi cần thiết.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #15 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2007, 09:55:55 am »

Tuy nhiên, đối với Hà Nội một “sự cần thiết” như vậy trở nên phức tạp bởi yếu tố Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam hiểu rằng họ sẽ bị bắt buộc phải yêu cầu quân tình nguyện của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng như của Liên Xô và của các nước xã hội chủ nghĩa khác. Mặc dù có những mối quan hệ gần gũi giữa hai nước Châu Á, Hà Nội vẫn mang một mối nghi ngờ ngấm ngầm đã được hình thành từ trước về “người láng giềng khổng lồ phương Bắc”. Bắc Việt Nam cố che giấu “sự thiếu niềm tin” bằng cách viện dẫn sự đối kháng giữa Matxcơva cà Bắc Kinh như là một trở ngại chính trong vấn đề quân tình nguyện và những vấn đề tiếp tế hậu cần khác. Một chuyên gia Bắc Việt Nam cũng đã đề cập tới vấn đề đặt quân tình nguyện dưới sự chỉ huy của người Việt Nam. Mặc dù quan trọng, vấn đề này đã có thể được giải quyết dễ hơn nhiều so với mối lo ngại của Hà Nội sợ mình bị đặt dưới quyền chỉ huy của Bắc Kinh.
Quân tình nguyện Liên Xô và những khía cạnh khác của mối quan hệ của Liên Xô-Bắc Việt Nam được thảo luận trong chuyến viếng thăm Matxcơva do Lê Duẩn dẫn đầu. Chuyến đi này có vẻ như là chuyến viếng thăm cuối cùng trong một loạt các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai nước nhằm xác định phương hướng và hình thức hợp tác trong những điều kiện thời chiến.
Thông tin về sự có mặt của phái đoàn Bắc Việt Nam đã được giới báo chí Liên Xô giữ kín cho mãi đến sau khi phái đoàn rời Matxcơva về nước, điều này đã minh chứng cho tính chất bí mật của chuyến viếng thăm. Thay vào đó báo chí Liên Xô được bao phủ kín bởi những bài tường thuật về chuyến viếng thăm của một phái đoàn cấp cao Mông Cổ. Chỉ mãi tới ngày 18 tháng 4, tờ Pravda mới công bố thông cáo chung Liên Xô-Bắc Việt Nam với những thông tin về chuyến viếng thăm.
Thông cáo chung thông báo với nhân dân Liên Xô rằng Lê Duẩn cùng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, đã gặp gỡ nhà lãnh đạo Liên Xô ở cấp cao nhất từ ngày 10 tới ngày 17 tháng 4. Chương trình nghị sự của cuộc đàm phán này đã không được tiết lộ, tuy nhiên từ thông cáo chung có thể suy luận rằng vấn đề chính được đề cập là sự hợp tác Liên Xô-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc đấu tranh của Bắc Việt Nam chống lại “những kẻ xâm lược Mỹ”.
Trong thông cáo chung có hai đoạn văn quan trọng giúp hiểu được cuộc đàm phán này. Đoạn thứ nhất, là một lời cảnh cáo rõ rằng, trong trường hợp Mỹ tiếp tục có thái độ thù địch với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Liên Xô “theo tinh thần Quốc tế vô sản”, sẽ cho phép những công dân Liên Xô nào bày tỏ mong muốn “được chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, được bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội” ở Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được lên đường tới Việt Nam, miễn là Chính phủ Bắc Việt Nam yêu cầu gửi quân tình nguyện. Thứ hai là, hai đảng “hài lòng” ghi nhận rằng đã đạt được “sự hiểu biết ban đầu” về việc “tăng cường tiềm lực quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo như mức độ và trình tự dự kiến”.
Thái độ hài lòng của nhà lãnh đạo Liên Xô đối với những kết quả của các cuộc đàm phán đã được Thủ tướng Kosygin khẳng định vài ngày sau đó trong cuộc tiếp đón trọng thể phái đoàn Mông Cổ. Kosygin đã nói với cử tọa về chuyến viếng thăm Matxcơva của phái đoàn và nhấn mạnh rằng những cuộc đàm phán giữa các nhà lãnh đạo Liên Xô và Việt Nam đã thành công tốt đẹp. “Những cuộc đàm phán này đã đem lại kết quả khả quan và giúp vạch ra cách thức hợp tác trên những vấn đề về hình thức và phương tiện đấu tranh chống lại chính sách thù địch của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, về sự tăng cường hơn nữa khả năng quân sự của Nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa cũng như về việc giải quyết những vấn đề của bán đảo Đông Dương trên cơ sở Hiệp định Geneva”.
Chuyến viếng thăm tới Matxcơva của Bắc Việt Nam không lọt qua sự chú ý của Washington. Chính quyền Johnson rất sốt sắng biết được kết quả của những cuộc đàm phán; vấn đề chủ yếu là quan hệ hợp tác quân sự Liên Xô-Bắc Việt Nam. Theo một bản ghi nhớ đặc biệt của Hội đồng thẩm định Quốc gia, Liên bang Xô Viết “gần như chắc chắn” sẽ cung cấp cho Hà Nội những vũ khí phòng không. Những vũ khí này có thể bao gồm những khẩu đội tên lửa đất đối không dành cho khu vực xung quanh Hà Nội, Hải Phòng và những trung tâm trọng yếu khác, máy bay chiến đấu-mặc dù máy bay rất khó vận chuyển bằng đường sắt mà không có sự hợp tác của Trung Quốc. Về quân lực, các nguồn tin tình báo của Mỹ cho rằng Liên Xô có lẽ sẽ đưa sang “một số phi công và kỹ thuật viên” dưới vỏ bọc “quân tình nguyện”. Tin tức tình báo Mỹ nghi ngờ khả năng Liên Xô sẽ triển khai tới Việt Nam lực lượng quân sự bao gồm những đơn vị phòng không, những đơn vị bộ binh, và nhiều loại nhân lực kỹ thuật khác, các chiến hạm tuần dương và thậm chí cả tàu ngầm. Tin tức tình báo của CIA và các nguồn khác nghiêng về nhận định Liên Xô sẽ chọn một giải pháp trung dung giữa can thiệp hoàn và đứng ngoài cuộc hoàn toàn, và “một giải pháp trung dung nào đó” hẳn đã “xuất hiện từ giữa tháng tư tại Matxcơva”. Tuy nhiên, bản ghi nhớ cũng khuyến cáo, nếu khủng hoảng tiếp tục duy trì ở mức độ rủi ro và phức tạp hiện tại hoặc cao hơn, thì “giải pháp trung dung có lẽ sẽ không tồn tại được”.
Chuyến viếng thăm Matxcơva của Lê Duẩn và các đồng chí của ông có lẽ cũng giúp giải quyết vấn đề vận chuyển viện trợ của Liên Xô qua lãnh thổ của Trung Quốc và chặng dừng chân của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Kinh trên đường trở về nước hẳn là có liên quan tới việc thỏa thuận viện trợ. Trên thực tế, CIA đã thông báo cho các nhà lãnh đạo ở Washington vào tháng năm rằng “viện trợ quân sự được trông đợi từ lâu của Liên Xô có thể sắp tới miền Bắc Việt Nam”. Vào cuối tháng đó, ngày 25 tháng 5, tin tức tình báo Mỹ báo cáo dấu hiệu xuất hiện đầu tiên của những vũ khí hiện đại của Liên Xô tại Việt Nam: 15 máy bay MIG 15-17S, hẳn đã được gửi tới Việt Nam bằng đường sắt qua Trung Quốc, thêm vào con số khoảng một trăm xe thiết giáp có người lái được trang bị súng phòng không. Ngày hôm sau Bộ Ngoại giao đã thông báo cho Đại sứ quán Mỹ tại Matxcơva về việc những máy bay ném bom loại nhẹ IL-28 đã được chuyển đến Việt Nam mà trước đây quân đội Mỹ đã xem là một loại vũ khí tấn công trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Mặc dù các quan chức Bộ Ngoại giao tin tưởng rằng “mong muốn những chiếc máy bay này theo quan điểm của Matxcơva là để răn đe trong thời điểm hiện tại” nhưng họ cũng lưu ý quyết tâm của nhà lãnh đạo Liên Xô ủng hộ những đồng minh của họ ở Bắc Việt Nam bằng mọi giá, thậm chí có thể gây thiệt hại cho việc giảm tình trạng căng thẳng.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #16 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2007, 09:56:30 am »

Thực vậy, mùa xuân năm 1965 Matxcơva thể hiện thái độ không mong muốn (ngay cả chỉ là thảo luận) triển vọng của giải pháp hòa bình ở Việt Nam. Hình như là các nhà lãnh đạo Liên Xô đã từ bỏ cố gắng trước đó của họ nhằm tìm một giải pháp chính trị cho tình hình nghiêm trọng. Họ thẳng thằng từ bỏ tất cả đề nghị nào không bao gồm việc Mỹ ngừng ném bom hoàn toàn trên lãnh thổ Bắc Việt Nam.
Trong khi viếng thăm Luân Đôn từ 16 đến 20 tháng 3, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Gromyko, mặc dù “có thái độ thiện chí và xây dựng một cách hợp lý” về những vấn đề quan hệ Xô-Anh, cũng đã cứng rắn ở mức độ tương đi khi đề cập đến một giải pháp cho Việt Nam. Ông ta đã làm bế tắc mọi đề nghị triệu tập lại Hội nghị Geneva hoặc bất cứ loại hội thảo nào có sự tham gia của Liên Xô. Phản ứng của ông ta là “sự lặp lại thẳng thừng” những tố cáo của Liên Xô đối với Mỹ và đòi hỏi sự rút lui không điều kiện của quân đội, trang thiết bị và cố vấn Mỹ. Không còn nghi ngờ gì, thái độ này đã cân nhắc đến quan điểm của Bắc Việt Nam. Hà Nội chỉ sẵn sàng thương lượng theo những điều kiện riêng của mình và không vội vàng đi đến bàn đàm phán, muốn giành được ưu thế quân sự sau đó mới đàm phán trên thế mạnh này. Thái độ của Mỹ cũng hoàn toàn giống như vậy.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã được thông báo trước về những quyết định của Phiên họp toàn thể lần thứ 11 của Đảng Lao động Việt Nam, cũng như dự định của Mỹ mở rộng sự có mặt và vai trò của lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam. Báo chí Liên Xô thường cung cấp thông tin những chi tiết của kế hoạch của Mỹ trong tháng 3 và tháng 4 năm 1965. Trong tình huống này Matxcơva rõ ràng đã lựa chọn giải pháp tăng cường vị trí của mình ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đợi những diễn biến mới, một chính sách có vẻ không thích hợp đối với Washington. Trong khi các thành viên của chính quyền Johnson tin tưởng rằng Mỹ có thể tiến tới bàn đàm phán khi cần thiết và “không cần phải vội vàng để đàm phán ngay bây giờ”, họ cảm thấy áp lực từ nhiều giới ở trong nước và ngoài nước ”để tiến hành thăm dò khả năng đàm phán” và đã đánh giá Liên Xô là một đồng minh đầy tiềm năng trong việc thăm dò này. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Mỹ hy vọng việc để ngỏ những kênh thông tin đối với Matxcơva và việc lôi kéo Liên Xô tham gia vào sáng kiến hòa bình như là một bảo ngăn chặn sự dính líu quân sự của Liên Xô trong cuộc xung đột. Cuối cùng, Washington xem Liên Xô như là một đối trọng đáng hoan nghênh đối với Bắc Kinh và khu vực Đông Nam Á và do vậy sẵn sàng có những bước đi, tuy chỉ mang tính biểu trưng, để đáp ứng mong muốn của Liên Xô cho một giải pháp hòa bình của Cuộc chiến tranh Việt Nam. Chính vì lẽ đó mà thông báo gửi Mc George ngày 21 tháng 4, James Thomson và Chester Cooper-nhân viên Hội đồng An ninh Quốc gia đã lập luận ủng hộ việc tổ chức một cuộc hội thảo tại Campuchia, do Hoàng thân Sihanouk đề nghị và được Matxcơva ủng hộ. Những đề xuất này đã được chính quyền xem xét cụ thể vào tháng 4 và đầu tháng 5 khi chính quyền cân nhắc ngừng ném bom.
Tháng 5 năm 1965 nỗ lực tìm một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột đã được xúc tiến trong khi không bên nào trong số Washington và Hà Nội nhất trí có một sự thỏa hiệp nghiêm túc đối với những mục tiêu của mình. Do vậy mà ngay từ đầu nỗ lực này đã thất bại. Tuy nhiên, nó cũng chứng tỏ được lợi ích với tư cách là thử nghiệm quan trọng đầu tiên về thái độ của những quốc gia liên quan đến cuộc xung đột.
Dự án “Hoa tháng 5” tên mật hiệu của lệnh ngừng ném bom của Mỹ đã được nhiều học giả phân tích kỹ lưỡng. Ở đây phân tích của chúng tôi chỉ dành cho việc tổng kết những sự kiện chính diễn ra từ ngày 10 đến 18 tháng 5 có nhấn mạnh đến vai trò của Liên Xô.
Như đã đề cập trước đây, áp lực đối với chính quyền Johnson để tiến tới một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột trên bán đảo Đông Dương đã gia tăng kể từ khi bắt đầu Cuộc chiến tranh leo thang tháng 2-tháng 3 năm 1965. Công luận công chúng Mỹ và nước ngoài lên tiếng ngừng ném bom và tiến hành đàm phán, nhiều nhà lãnh đạo của các nước cũng kêu gọi có những bước đi quyết định vì mục tiêu hòa bình. Tại Mỹ cũng không có được sự nhất trí. Như Brian Van SeMark đã lưu ý, những đòi hỏi ngừng ném bom xuất phát từ phía cánh hữu cũng như phía cánh tả, với những lý do khác nhau. Trong khi cánh hữu phản đối việc tiếp tục ném bom nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán hòa bình “phái quân sự và đặc biệt là các quan chức tình báo, nghi ngờ khả năng của Rolling Thunder ép buộc được Bắc Việt Nam tiến hành đàm phán, bắt đầu việc ngừng ném bom trong một thời gian ngắn để xem thái độ của Hà Nội đối với các cuộc đàm phán và có thể tiếp tục ném bom với cường độ mạnh hơn sau đó”.
Johnson đã phản ứng lại áp lực bằng quyết định ngừng ném bom, đồng thời ra lệnh tiếp xúc với Bắc Việt Nam để đàm phán. Ông đã giải thích quyết định của mình trong bức điện ngày 10 tháng 5 gửi cho Đại sứ Maxwell Taylor ở Sài Gòn: “Ông cần phải hiểu rằng”-Tổng thống tuyên bố-“Mục đích của tôi trong kế hoạch này là bắt đầu dọn đường cho việc khôi phục lại hòa bình hoặc là tăng cường hoạt động quân sự, phụ thuộc vào những phản ứng của cộng sản. Chúng ta đã chứng tỏ mạnh mẽ quyết tâm và cam kết của chúng ta trong hai tháng qua và giờ đây tôi muốn có vài sách lược mềm dẻo”.
Trong nỗ lực để tiếp xúc với Hà Nội, Washington đã trông cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Cần phải tiếp cận Matxcơva để tìm hiểu quan điểm của Điện Kremlin về những cuộc tiếp xúc ngoại giao giữa các bên tham chiến và vai trò của Lai Châu trong việc bố trí những cuộc tiếp xúc như vậy. Với ý tưởng trên, Ngoại trưởng Rusk đã triệu tập Đại sứ Liên Xô Dobyrnin tới văn phòng của ông ngày 11 tháng 5 và thông báo cho Đại sứ biết sáng kiến của Mỹ có cùng một nội dung với thông điệp mà ông dự định gửi cho Kohler ở Matxcơva trong ngày hôm đó.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #17 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2007, 09:59:09 am »

Bức điện gửi cho Đại sứ Mỹ Kohler chỉ đạo gửi một thông điệp cho Đại sức Bắc Việt Nam tại Matxcơva, giải thích rằng Mỹ sẽ ngừng ném bom Bắc Việt Nam trong bảy ngày bắt đầu từ ngày 12 tháng 5. Vị Đại sứ có trách nhiệm phải nhấn mạnh niềm tin vững chắc của Mỹ rằng “nguyên nhân của rắc rối” ở Đông Nam Á là do hành động quyết định của những lực lượng chống đối Chính phủ miền Nam Việt Nam từ phía Bắc Việt Nam. Chính phủ Mỹ sẽ quan sát trong thời gian ngừng ném bom liệu “lực lượng này có giảm bớt đáng kể những hành động quân sự hay không”. Chỉ trong trường trường này mới có cơ hội để chấm dứt lâu dài cuộc tấn công của Mỹ ở Bắc Việt Nam.
Phản ứng của Dobyrnin về thông tin này, đã phản ánh thái độ của Liên Xô vào thời điểm đó. Theo Rusk, Đại sứ Liên Xô “tỏ ra đã trút được gánh năng khi chúng ta không yêu cầu họ làm trung gian”. Rõ ràng các nhà lãnh đạo Liên Xô không muốn đứng ra làm trung gian hòa giải Hà Nội-Washington và Dobyrnin đã biết rất rõ điều đó. Diễn biến các sự kiện đã khẳng định thái độ này.
 
Khi những nỗ lực của Kohler để chuyển Thông điệp tới Đại sức Bắc Việt Nam thất bại, ông đã cố gắng tiếp xúc với bất cứ quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Liên Xô để yêu cầu giúp đỡ, trao đổi thông tin với Bắc Việt Nam. Quan chức duy nhất mà Kohler đã tiếp xúc được là Thứ trưởng Ngoại giao Nikolai Firyubin, người đã từ chối và thẳng thừng vai trò trung gian của Chính phủ ông và tiếp theo đó lên lớp Kohler về chính sách hiếu chiến của Mỹ ở Việt Nam. Firyubin, người chịu trách nhiệm về quan hệ của Liên Xô với các nước Châu Á, đã thường xuyên tiếp xúc với những báo cáo mà Đại sứ quan Liên Xô. Những quan điểm này tương tự như những quan điểm thể hiện qua cuộc nói chuyện giữa một Ủy viên Bộ Chính trị Việt Nam, Lê Đức Thọ và một nhà báo Pháp. Lê Đức Thọ không che giáu sự hài lòng về viện trợ kinh tế và quân sự, cũng như sự ủng hộ tinh thần của Liên Xô dành cho Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên ông cũng nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo Liên Xô không tỏ ra tin tưởng vào thắng lợi sau cùng của Bắc Việt Nam trong cuộc chiến: “… và điều này đã thúc đẩy họ (các nhà lãnh đạo Liên Xô) tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề Việt Nam thông qua con đường đàm phán; về phía mình, chúng tôi nghĩ rằng những điều kiện đàm phán chưa chín muồi”.
Matxcơva đã không thể không cân nhắc mối nghi ngờ của Bắc Việt Nam với những dự tính của Liên Xô về một giải pháp cho cuộc xung đột ở Việt Nam và Firyubin đặc biệt cển trọng để không làm hỏng những nỗ lực của Matxcơva trong tháng 3 và tháng 4 nhằm xây dựng một nền tảng vững chắc cho vị trí của Liên Xô ở Việt Nam. Theo đó, tấn công của ông trong cuộc đối thoại với Kohler vào vai trò của Mỹ, những lời khuyến cáo của ông rằng sự hiếu chiến của Mỹ sẽ “không thể không bị trừng phạt, không bị phản ứng lại”, quan điểm của ông bảo vệ cuộc đấu tranh miền Nam Việt Nam như là một kết quả tất yếu của sự phản đối rộng rãi chống lại sự đàn áp của “chế độ bù nhìn Sài Gòn”, hình như là một phần của nghi thức được sắp xếp để lẩn tránh lời cáo buộc có thể xảy ra về “thái độ quá mềm mỏng” của phía Matxcơva.
Nhưng Firyubin, trong khi từ chối làm một “người đưa thư” giữa hai bên tham chiến “đã không có bất cứ nỗ lực nào để trả lời” văn bản thông báo miệng mà Kohler đã chuyển cho ông lúc mở đầu cuộc đối thoại. Đó có lẽ là một hành động chủ đích của Liên Xô vì cho rằng cuối cùng thì Hà Nội cũng sẽ nhận lời đề nghị của Mỹ, ít ra là từ tay của những người đồng chí Liên Xô.

Đó là sự hiểu biết của Kohler về cách ứng xử của Firyubin, nhưng vị Đại sứ vẫn giữ một thái độ lạc quan đáng ngạc nhiên sau cuộc nói chuyện. Trong một thông điệp gửi cho Bộ Ngoại giao ông đã thú nhận rằng ông “có thể hiểu, nếu không phải là thông cảm với sự nhạy cảm của Liên Xô…”. Ông bày tỏ hy vọng rằng phản ứng của Firyubin sẽ không bị Washington xem là một bằng chứng về sự cứng rắn có chủ đích trong thái độ của Liên Xô. “Cái đó có lẽ đơn giản là một phản ánh về tình trạng rắc rối mà Liên Xô đang gặp phải trong lúc này”. Kohler chắc chắn rằng thông điệp của Mỹ đã nằm trong tay Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Washington cần phải tỉnh táo để đón nhận phản ứng từ phía bên kia”?
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #18 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2007, 09:59:50 am »

Sự lạc quan của vị Đại sứ có một vài cơ sở chỉ một ngày trước lệnh ngừng ném bom, Liên Xô đã cho phép có một cuộc tiếp xúc giữa “hai quan chức trong bóng tối ở một chừng mực nào đó” với Peirre Salinger, cựu thư ký báo chí của Tổng thống Kennedy và Johnson, ông này khi đó đang có mặt ở Matxcơva trong một chuyến đi cá nhân. Salinger được Mikhail Sagatelyan của Công ty điện báo mời ăn tối. Trong bữa ăn tối Sagatelyan đưa ra phán đoán rất đầy đủ về những giải pháp có thể tiến hành đối với xung đột ở Việt Nam. Hai hôm sau Salinger và Sagatelyan gặp lại nhau trong bữa ăn tối, lần này với sự có mặt đầy đủ của một đại diện của Bộ Ngoại giao Liên Xô chỉ nêu danh tính là Vasily Sergeyvich. Phía Liên Xô đã khẳng định mối quan tâm của họ đối với những giải pháp ở Việt Nam và thông báo với Salinger rằng Chính phủ Liên Xô trước đó nhận lời đề nghị của Mỹ đối với Bắc Việt Nam nhưng sẽ khồng trả lời hay có hành động đáp lại đề nghị này cho tới khi các nhà lãnh đạo Liên Xô chắc chắn rằng có thể đạt được một điều gì đó hết sức quan trọng từ những cuộc gặp gỡ với Salinger.
“Suốt cuộc nói chuyện”, như Kohler đã báo cáo với Washington: “Liên Xô đã giải thích rõ ràng với Salinger rằng, với vũ trí nhạy cảm của Liên Xô thì bất cứ tiến bộ nào đối với giải pháp chính trị Việt Nam cần phải được khởi sự và tiến hành, ít ra là ở thời kỳ đầu, trên cơ sở tiếp xúc chính thức, ngụ ý nếu câu chuyện có bị bại lộ hoặc kế hoạch có bị thất bại, thì Liên Xô cũng có khả năng chối bỏ toàn bộ sự việc”. Rõ ràng Sagatelyan đã hành động theo sự hiểu biết của các nhà lãnh đạo Liên Xô, nếu không nhà báo Liên Xô không có lý do gì để đề cập đến chủ đề Việt Nam trong cuộc gặp gỡ với Sagatelyan mà không được phép của lãnh đạo của ông ta.
 
Vì lẽ đó người ta sẽ tự chất vấn về mục đích của các quan chức Liên Xô-những người đã cho phép có những cuộc tiếp xúc với Salinger. Rõ ràng Sagatelyan có hai nhiệm vụ: chuyển tới người Mỹ mối quan tâm của Matxcơva về diễn biến tình hình tại Việt Nam và mong muốn cuộc xung đột sẽ được giải quyết, đồng thời cho Washington biết rằng trong hoàn cảnh hiện tại Liên Xô không có cơ hội để bày tỏ, cho dù tình hình có thể thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Có lẽ Điện Kremlin cũng đang tìm hiểu thực chất những lời đề nghị của Mỹ đối với Bắc Việt Nam. Trong bất cứ trường hợp nào, mối quan tâm của họ đối với các cuộc tiếp xúc của Sagatelyan cũng đã giảm đi.
Một cuộc trò chuyện ngắn bên cách caffe giữa Ngoại trưởng Rusk và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Gromyko tại Viên ngày 15 tháng 5 đã kết thúc mối quan tâm của Liên Xô với dự án “Hoa tháng 5”. Trong cuộc trò chuyện này Gromyko phát biểu một cách rõ ràng rằng Matxcơva sẽ không đàm phán về Việt Nam, rằng Liên Xô xem việc ngừng ném bom tạm thời là “xúc phạm” và chính bản thân Mỹ phải tìm cách tiếp xúc với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam. Rusk kết luận: “Gromyko muốn tôi tin tưởng rằng họ không chuẩn bị để tìm một giải pháp ở Hà Nội hay Bắc Kinh và sẽ có những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đang chờ phía trước (trừ khi chúng tôi từ bỏ những hành động của mình ở miền Nam Việt Nam)”.
Trong khi đó, như các quan chức ở Washington mong đợi gì những phản ứng tích cực của Hà Nội trước sáng kiến của Mỹ. Tuy nhiên, Hà Nội cũng có những bước đi đáng khích lệ, đặc biệt là thông báo của Quốc hội Bắc Việt Nam và cách giải quyết do Trưởng đoàn kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris, Mai Văn Bộ đưa ra trước các nhà ngoại giao Pháp. Tuy nhiên, cách giải quyết này chỉ được đưa ra sau khi Mỹ đã tiếp tục ném bom và quá trễ để ảnh hưởng tới những quyết định của Mỹ.
Mục tiêu của Washington trong việc ngừng ném bom đã không đạt được kết quả-để chứng tở Hà Nội không có xu hướng tìm kiếm một giải pháp hòa bình-và kết quả là việc làm này đã được khẳng định rõ ràng, một vài tháng sau Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận: “Việc ngừng ném bom đầu tiên của chúng tôi chỉ là một nỗ lực tuyên truyền”. Bản chất những động cơ những kết quả-như lời giải thích của Ralph Waldo Emerson-“cuộc chiến đang xảy ra và làm day dứt loài người”.
Trong khi qui mô viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam tiếp tục mở rộng. Nhu cầu cuộc chiến tranh ngày càng lớn hơn buộc Hà Nội phải nhờ đến sự giúp đỡ hơn nữa của các đồng minh xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc. Do vậy Bắc Việt Nam đã gửi một phái đoàn do Lê Thanh Nghị-phó của ông Phạm Văn Đồng tới Matxcơva, Bắc Kinh và thủ đô của những nước Đông Âu khác.
Tờ Pravda tường thuật phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tai Matxcơva vào ngày 5 tháng 6 năm 1965, nhưng không đề cập đến mục đích của chuyến viếng thăm. Song tầm quan trọng của chuyến viếng thăm thật rõ ràng khi báo chí đưa tin: Lê Thanh Nghị được Kosygin và sau đó là Breznhev tiếp đón. Cuộc đàm phán diễn ra giữa Vladimir Novikov, phó của ông Kosygin và phái đoàn Việt Nam kéo dài mãi tới ngày 10 tháng 7, có một thời gian nghỉ ngắn cho phép Lê Thanh Nghị tới các nước Đông Âu với một mục iêu là điều phối viện trợ xã hội chủ nghĩa cho “những chiến sĩ anh hùng Việt Nam”. Trong một thông cáo được đưa ra sau chuyến viếng thăm và được công bố trên tờ Pravda ngày 13 tháng 6, những người tham dự đã đạt được những thỏa thuận với Liên Xô giúp phát triển nền kinh tế quốc dân và tăng cường tiềm lực quân sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thỏa thuận này bao gồm những điều khoản viện trợ tăng cường của Liên Xô cho Bắc Việt Nam ngoài những thứ đang trên đường vận chuyển.
Các nhà đàm phán không tiết lộ số lượng cũng như điều kiện của khoản viện trợ, nhưng Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa “hài lòng ghi nhận những kết quả quan trọng đạt được ở nhiều lĩnh vực trong chuyến viếng thăm này”. Rõ ràng các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã hài lòng về thái độ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với viện trợ dành cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Những cuộc đàm phán tại Matxcơva trong tháng 6 và tháng 7, chứng tỏ Liên Xô ngày càng dính líu sâu vào cuộc xung đột ở Đông Nam Á. Hơn nữa, sự dính líu này không chỉ giới hạn trong khuôn khổ bảo vệ Bắc Việt Nam mà còn cả trong cuộc chạm chán của họ với Mỹ. Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã hoàn toàn ý thức được rằng vũ khí và đạn dược chế tạo tại Liên Xô đã được chuyển cho “những người yêu nước” Nam Việt Nam tạo nên cuộc đối đầu trực tiếp với Washington. Họ tỏ ra sẵn sàng chấp nhận sự mạo hiểm này. Ít ra Kremlin đã không che giấu thái độ thiện cảm của họ đối với đại diện của Việt cộng tại thủ đô Liên Xô.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
hoabinh101
Thành viên
*
Bài viết: 90



« Trả lời #19 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2007, 10:00:37 am »

Tháng 12 năm 1964, Liên Xô đã nhất tri cho thiết lập phái đoàn đại diện thường trú của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Matxcơva, nhưng mãi tới tháng 4 năm 1965 nhân viên của phái đoàn này mới tới đây. Kosygin đã tiếp Đặng Quang Minh, Trưởng phái đoàn vào ngày 3 tháng 6 và nhấn mạnh tầm quan trọng mà Liên Xô dành cho mối quan hệ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự việc này cùng lúc đã chứng tỏ thái độ quyết tâm của Liên Xô ủng hộ cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Tuy nhiên, Liên Xô cũng không muốn vượt qua một số giới hạn của sự mạo hiểm. Liên Xô không thể không nhận được mối nguy hiểm của việc đối đầu trực tiếp với Mỹ, nhất là, nếu Washington lựa chọn giải pháp vũ khí hạt nhân để đàn áp quân phiến loạn ở miền Nam Việt Nam. Đối với Matxcơva đây là cơn chiến sĩ mộng thực sự, vì vào mùa hè năm 1965 Kremlin thường xuyên nhận được những báo cáo về khả năng này. Chẳng hạn, tháng 6 năm 1965, nguồn tin tình báo Liên Xô thông báo với Điện Kremlin rằng trong một cuộc đối thoại với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ý, Amintore Fanfani, Ngoại trưởng Rusk thừa nhận rằng, các nhà hoạch định chính sách Mỹ đang xem xét khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật tại Việt Nam. Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao Xô Viết và KGB trong một báo cáo gửi giới lãnh đạo Xô Viết hồi tháng 8, nghiêm túc đánh giá về mức độ sẵn sàng của Mỹ châm ngòi nổ một cuộc chiến tranh nhiệt hạch và những dự tính của chính quyền Johnson liên quan tới vấn đề này.
Matxcơva cũng không thể bỏ qua những cạm bẫy bắt nguồn từ sự dính líu của Liên Xô tại Việt Nam như là gánh nặng tài chính của viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quan hệ xấu đi với phương Tây và thái độ ương ngạnh không thể sửa chữa được của những người đồng chí Bắc Việt Nam, luôn coi sự giúp đỡ cuộc đấu tranh của họ là trách nhiệm duy nhất của nd Liên Xô. Tất cả những nhân tố này đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo Liên Xô một lần nữa để mắt tới mối quan hệ của họ với Mỹ-dễ thực hiện hơn sau khi Matxcơva đã chứng tỏ sự gắn bó của họ đối với sự nghiệp của Bắc Việt Nam.
Để bày tỏ thái độ của mình đối với Mỹ, các nhà lãnh đạo Liên Xô đã tận dụng một buổi gặp gỡ lễ tân do Đại sứ quán Mỹ tại Matxcơva tổ chức để chào mừng một nhà ngoại giao và học giả có tiếng tăm-người cha tinht hần của Học thuyết chiến tranh Lạnh “kiềm chế”-và cựu đại sứ tại Liên Xô, George F.Kennan, khi đó đang viếng thăm Liên Xô trong “một chuyến đi mang nặng tình cảm” đối với nơi mà ông ta đã trải qua thời tuổi trẻ. Foy Kohler mời nhiều quan chức nổi tiếng của Liên Xô, các nhà sử học và các viện sỹ hàn lâm tới dự bữa ăn trưa ở nhà mình-tòa nhà Spaso House nổi tiếng-Trong số đó có Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Gromyko. Gromyko lúc đầu đã từ chối lời mời nhưng đột ngột thay đổi ý định và đồng ý trong khi một số khách mời khác “bất ngờ” từ chối.
Cuộc đối thoại diễn ra vào ngày 25 tháng 6 có tầm quan trọng lớn xét từ nhiều góc độ. Theo Kohler, cuộc đối thoại “trải ra trên một diện rộng và suốt cuộc đối thoại Gromyko tỏ ra lịch sự, niềm nở và cho một cảm giác thực sự mong muốn nối lại đối thoại về những vấn đề cơ bản đã được khởi đầu từ thời hậu Cuba”. Sau khi thảo luận chung với Kennan về những vấn đề các Phong trào giải phóng dân tộc, Gromyko trong một chừng mực nào đó đã bất ngờ bày tỏ mong muốn được chuyển tới đại sứ Mỹ “hai điểm mấu chốt”: một là, Liên Xô không có quyền và không thể đàm phán thay cho Việt Nam, và thứ hai, Liên Xô đã và đang tiếp tục duy trì “chính sách cơ bả là tìm kiếm sự cải thiện trong mối quan hệ song phương Mỹ-Xô”.
 
Làm rõ lý do thứ nhất, Gromyko nhấn mạnh rằng tình hình của Việt Nam cần phải được thảo luận trực tiếp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan điểm của Liên Xô là ủng hộ phát biểu bốn điểm của Phạm Văn Đồng ngày 8 tháng 4. Như trong cuộc đối thoại của ông với Rusk tại Viên, Gromyko “cảnh báo” chính quyền Johnson sẽ không đạt được tiến bộ nào nếu cách giải quyết trong tương lai đối với Việt Nam vẫn được trình bày bằng những thuật ngữ “xúc phạm” như đã trình bày trước đây.
Về quan hệ Xô-Mỹ, Gromyko nhấn mạnh rằng Chính phủ Liên Xô đã rất thất vọng bởi “sự thay đổi nghiêm trọng” trong chính sách của Mỹ kể từ cuộc bầu cử năm 1964. Ông đã so sánh một số biện pháp của chính quyền Johnson với những biện pháp trước đó đã được Goldwater ủng hộ trong chiến dịch vận động tranh cử của ông ta.
Logged

Chân lý thuộc về kẻ chiến thắng
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM