Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:08:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Danh tướng Việt Nam - Tập 1  (Đọc 67676 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2009, 11:39:50 pm »

Tên sách: Danh tướng Việt Nam-Tập 1
Tác giả: Nguyễn Khắc Thuần
Nhà xuất bản: Giáo dục
Năm xuất bản: 1996
Số hoá: ptlinh, chuongxedap


Chịu trách nhiệm xuất bản:
                                             Giám đốc: PHẠM VĂN AN
                                             Tổng biên tập: NGUYỄN NHƯ Ý

                                             Biên soạn: NGUYỄN KHẮC THUẦN
                                             Biên tập: TRẦN KIM NHUNG
                                             Biên tập kĩ thuật: TRẦN THÀNH TOÀN
                                             Trình bày bìa: NGUYỄN THU YÊN
                                             Sửa bản in: DI LINH


NƯỚC VIỆT NAM TA LÀ NƠI PHONG HÓA MỞ MANG, KHÍ TINH HOA TỤ HỌP. ĐÂY LÀ NƠI KẾ NGHIỆP CỦA CÁC ĐẤNG MINH QUÂN, NƠI ANH HÙNG HÀO KIỆT ĐỜI NÀO CŨNG CÓ. CÔNG LỚN CỦA CÁC BẬC TIÊN HIỀN, HOẶC ĐƯỢC KHẮC GHI Ở ĐỈNH, HOẶC TỎA SÁNG NƠI LƯỠI BÚA VÀ CỜ MAO, HOẶC RẠNG NGỜI TRONG VĂN CHƯƠNG SÁCH VỞ, HOẶC ĐỌNG LẠI TRONG KHÍ TIẾT ANH TÚ… TẤT CẢ ĐỀU LÀ NHỮNG NGƯỜI CẦN ĐƯỢC SỬ SÁCH GHI CHÉP LẠI.

                                                                                       Phan Huy Chú
                                                                            LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ
                                                                                       (Nhân vật chí)
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Giêng, 2021, 01:58:26 pm gửi bởi ptlinh » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2009, 11:46:12 pm »


LỜI NÓI ĐẦU

Bạn đọc yêu quý,

Đây là tập đầu tiên của bộ sách dài nhiều tập, cùng mang tên gọi chung là DANH TƯỚNG VIỆT NAM. Chúng tôi dự kiến chia kế hoặch biên soạn thành hai giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn thứ nhất (1996 - 1998), chúng tôi sẽ cố gắng hoàn tất năm tập đầu. Cụ thể nhu sau:

- Tập 1: Danh tướng trong sự nghiệp giữ nước từ đầu thế kỉ thứ X đền cuối thế kỉ XIV.

- Tập 2: Danh tướng Lam Sơn.

- Tập 3: Danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỉ XVIII và phong trào Tây Sơn.
 
- Tập 4: Danh tướng trong sự nghiệp đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc.
 
- Tập 5: Danh tướng chống Pháp trước thế kỉ XX.
 
Trong giai đoạn thứ hai (1998 - 2000), chúng tôi sẽ cố gắng biên soạn tiếp các tập giới thiệu danh tướng Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay. Hi vọng rằng đến lúc đó, tác giả còn đủ sức khỏe và sự minh mẫn để có thể hoàn thành công việc nặng nề này.

Bạn đọc yêu quý,

Trải hàng ngàn năm đấu tranh quyết liệt, đất nước đã sản sinh không biết bao nhiêu người có biệt tài cầm quân, nhưng, không phải bất cứ ai có biệt tài cầm quân cũng đều là danh tướng cả. Xuất phát từ nhận thức đó, bộ sách này giới thiệu những người có biệt tài cầm quân và đã thực sự đem tất cả biệt tài đáng quý đó giúp ích cho sự nghiệp cứu nước cứu dân, để công đức lớn cho muôn đời con cháu. Nói khác hơn, họ vừa là người có biệt tài cầm quân, lại cũng vừa là người được dân tộc suy tôn là anh hùng. Tuy nhiên, cũng có không ít những vị anh hùng, tên tuổi ngời ngời trong sử sách, sự nghiệp sáng mãi trong kí ức bất diệt của nhân dân, nhưng sinh thời, họ chỉ là những người lính bình thường, chưa bao giờ là tướng, dẫu là tướng nhỏ. Trong trường hợp đó, chúng tôi chỉ có thể trân trọng giới thiệu họ trong khuôn khổ những tấm gương anh hùng tiết tháo tiêu biểu mà thôi.

Ngoài ra, trong sự nghiệp giữ nước, cũng có những người gần như chưa bao giờ trực tiếp cầm quân, nhưng, những ý kiến xuất sắc của họ lại có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ hoạt động của lực lượng vũ trang, đến thắng lợi vẻ vang của cả nước. Nói khác hơn, họ thực sự là danh tướng dù chưa bao giờ là võ quan. Chúng tôi kính cẩn ghi tên tuổi của họ vào hàng các danh tướng Việt Nam.

Tên gọi riêng của tập 1 tự nó đã nói lên hai giới hạn cụ thể. Thứ nhất là giới hạn về thời gian, và thứ hai là giới hạn về đặc trưng chung. Khái niệm giữ nước ở đây bao hàm cả sự nghiệp chống xâm lăng và sự nghiệp chống các thế lực chia cắt đất nước, làm phương hại đến truyền thống đạo đức cũng như tiềm lực quốc gia.

Bạn đọc yêu quý,

Để viết bộ sách này, chúng tôi dựa hẳn vào ghi chép của các bộ chính sử xưa, như: Đại Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn thực lục, Đại Việt thông sử, Khâm định Việt sử thông giám cương mục...v.v. cùng nhiều thư tịch cổ khác. Trong một vài trường hợp đặc biệt, chúng tôi mới sử dụng tài liệu khảo cứu của những người đi trước1. Tất nhiên, sử cũ không thể ghi chép hết tên tuổi và sự nghiệp của các vị danh tướng, cho nên, chắc chắn là bộ sách này chưa thể giới thiệu một cách đầy đủ các danh tướng Việt Nam. Đó là chưa kể rằng, cũng có những trường hợp, tuy sử cũ có ghi chép, nhưng ghi chép quá ít ỏi, không đủ để tái hiện, dù là tái hiện một cách sơ sài. Vì không dám sơ sài, chúng tôi xin được để lại, chờ khi có điều kiện sẽ viết bổ sung sau.

Bạn đọc yêu quý,

Giờ đây, đất nước thái bình, vận hội mới mỗi ngày một tốt đẹp, tác giả thực sự lấy làm mãn nguyện vì được trở về một cách nguyên vẹn sau bao năm bom lửa của chiến tranh, lại còn được thảnh thơi ngồi đọc sách xưa và kể chuyện người xưa. Với tất cả tâm thành, tác giả xin được cám ơn Nhà Xuất bản Giáo dục và bạn đọc gần xa, những người đã trực tiếp hoặc gián tiếp cổ vũ cho tác giả một cách hào phóng và vô tư, khiến tác giả cảm kích, cần mẫn viết tất cả những gì tự thấy là bổ ích. Dẫu đã rất cố gắng bộ sách này chắc chắn cũng không sao tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả mong mỏi được bạn đọc gần xa vui lòng chỉ bảo cho.

                                                                                TP. Hồ Chí Minh, ngày 01 - 01 - 1996
                                                                                       NGUYỄN KHẮC THUẦN

_____________________________________
1. Ví dụ: Trong tập 1 này, chúng tôi chỉ sử dụng có ba tư liệu nhỏ của các tác giả Sổ tay nhân vật lịch sử Việt Nam (Nhà Xuất bản Giáo dục, 1990) mà thôi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2009, 10:00:27 pm »


01 - DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (? - 937)

                                                          “Khi Lý Khắc Chính bắt được (Khúc) Thừa Mỹ, (Dương) Đình
                                                           Nghệ bèn tìm cách đánh báo thù. Ông chiêu tập hào kiệt,
                                                           dùng đại nghĩa để khuyến khích cùng hợp mưu để đánh đuổi
                                                           tướng (Nam) Hán là Lý Khắc Chính. Vua (Nam) Hán sai Lý Tiến
                                                           sang làm Thứ Sử Giao Châu (thay cho Lý Khắc Chính). Dương
                                                           Đình Nghệ lại đem quân vây hãm Lý Tiến. Vua (Nam) Hán liền
                                                           sai Trần Bảo sang cứu Lý Tiến. Dương Đình Nghệ đón đánh và
                                                           chém được Trần Bảo. (Từ đó) Dương Đình Nghệ giữ lấy châu
                                                           thành tự xưng là Tiết Độ Sứ, nhận lãnh mọi việc của châu”


                                                                                                       Ngô Thì Sĩ
                                                                                                    (Việt sử tiêu án)

Trong sử cũ, thỉnh thoảng, Dương Đình Nghệ cũng được chép là Dương Diên Nghệ. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ trong Hán tự, mặt chữ Đình và chữ Diên gần giống nhau, rất dễ nhầm lẫn khi đọc cũng như khi sao chép. Dương Đình Nghệ sinh năm nào chưa rõ. Hiện tại, chúng ta chỉ biết ông mất vào năm 937. Tuy nhiên, xét việc ông nhận con nuôi và chọn con rể, cộng với một vài chi tiết có liên quan khác, cũng có thể ước đoán ông đã hưởng thọ khoảng trên dưới năm mươi tuổi.

Dương Đình Nghệ vốn là một hào trưởng, người làng Dàng. Làng này nay thuộc xã Dương Xá, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa. Thời Khúc Hào cầm quyền (907 - 917), Dương Đình Nghệ từng là một trong những bộ tướng của họ Khúc. Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp cha. Dương Đình Nghệ tiếp tục làm bộ tướng cho Khúc Thừa Mỹ (917 - 930 ).

Bấy giờ, Trung Quốc đang trong thời loạn lạc, các tập đoàn thống trị không ngớt tìm cách chia bè kết cánh và xâu xé lẫn nhau. Một loạt các tiểu vương quốc lần lượt ra đời. Sử gọi đó là thời Ngũ đại thập quốc (năm đời mười nước)1. Sát biên giới phía bắc nước ta là Nam Hán - một tiểu vương quốc do họ Lưu lập nên. Trong bối cảnh phức tạp đó, sự khôn khéo trong quan hệ bang giao có ảnh hưởng rất to lớn đối với vận mệnh quốc gia. Khúc Hạo nhận thức rất đầy đủ về vấn đề này, rất tiếc là Khúc Thừa Mỹ lại không kế thừa được kinh nghiệm quý giá đó. Khúc Thừa Mỹ thường gọi Nam Hán là “ngụy triều”, “ngụy tặc” và chính lời lẽ thiếu tế nhị đó đã có tác dụng khiêu khích Nam Hán. Sẵn có mưu đồ bành trướng từ trước, nhân được thêm cơ hội này, năm 930, Nam Hán đã xua quân sang xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống Nam Hán do Khúc Thừa Mỹ chỉ huy đã nhanh chóng thất bại.

Sau thất bại của Khúc Thừa Mỹ, vai trò của họ Khúc trên vũ đài chính trị của nước nhà cũng kể như chấm dứt. Triều đình Nam Hán tuy chưa kịp thiết lập một hệ thống chính quyền đô hộ vững chắc trên toàn cõi nước ta, nhưng, nguy cơ bị ngoại bang thống trị lâu dài cũng đã thể hiện rất rõ. Trước tình hình như vậy, Dương Đình Nghệ đã quả cảm đảm nhận trọng trách lãnh đạo nhân dân vùng lên giành lại độc lập và chủ quyền. Từ một vị hào trưởng - một bộ tướng thân tín của Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ. Dương Đình Nghệ đã trở thành một vị danh tướng, có công lớn đối với nước nhà. Chỉ trong vòng chưa đầy một năm. Dương Đình Nghệ đã ba lần đánh đuổi ba đạo quân lớn của Nam Hán do ba viên tướng khét tiếng khác nhau cầm đầu.

Lần thứ nhất: Diễn ra ngay sau khi Khúc Thừa Mỹ thất bại trong việc chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán xâm lăng. Từ quê nhà, Dương Đình Nghệ đã tập hợp được hơn ba ngàn quân, tự mình làm tướng, đánh thẳng vào lực lượng của Nam Hán lúc bấy giờ đang đóng rải rác ở khu vực Hà Nội ngày nay. Tướng giặc là Lý Khắc Chính bị đại bại.

Lần thứ hai: Nhà Nam Hán cho Lý Tiến sang thay Lý Khắc Chính và sẵn sàng đối phó một cách kiên quyết với Dương Đình Nghệ. Nhưng, Lý Tiến chưa kịp thực hiện sứ mạng được giao thì đã bị Dương Đình Nghệ đánh cho tơi bời. Lý Tiến phải hốt hoảng chạy về nước để cầu cứu.

Lần thứ ba: Nhận lời kêu cứu của Lý Tiến: Nam Hán lập tức sai tướng Trần Bảo đem quân sang đàn áp. Nhưng, khi Trần Bảo tới, thành Giao Châu đã bị mất. Trần Bảo bèn cho quân vây thành, quyết tiêu diệt bằng được Dương Đình Nghệ. Trong trận giao tranh đầu tiên, Trần Bảo bị chém đầu, toàn bộ quân sĩ Nam Hán hoảng hốt bỏ chạy thục mạng. Từ đó, giặc Nam Hán không dám đụng tới Dương Đình Nghệ nữa.

Bấy giờ, Nam Hán không phải là một nước lớn, lực lượng quân đội của chúng cũng không phải là hùng mạnh hơn người, nhưng nước ta vừa mới giành được độc lập. dân ta còn ít, tiềm lực của ta còn yếu... cho nên, đây cũng thực sự là một cuộc đối đầu hoàn toàn không cân sức. Để giành được thắng lợi vẻ vang và liên tục như Dương Đình Nghệ, ngoài chí lớn phi thường, hẳn nhiên là còn phải có mưu lược phi thường. Ông thật sự xứng đáng được xếp vào hàng những bậc danh tướng của nước nhà.

Năm 931, sau khi lập nên những võ công xuất sắc như đã kể ở trên, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết Độ Sứ, tự mình quản lí và điều hành các công việc của nước nhà. Tiết Độ Sứ là tên chức quan đô hộ của Trung Quốc đối với nước ta, được Trung quốc đặt ra kể từ khoảng cuối thời Bắc thuộc. Đối với Dương Đình Nghệ, đây chẳng qua là một danh xưng tạm dùng, cốt tạo ra sự tế nhị cần thiết trong quan hệ bang giao. Trong thực tế, ông chính là vua của nước ta.

Tháng ba năm Đinh Dậu (937) Dương Đình Nghệ bị một kẻ phản phúc giết hại. Kẻ đó là Kiều Công Tiễn2. Chua xót thay, Kiều Công Tiễn lại cũng chính là con nuôi và là một trong những nha tướng từng được Dương Đình Nghệ cưu mang và tin cậy. Sau đó chẳng lao lâu, Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền giết chết. Đó là bản án đích đáng dành cho kẻ bất trung, bất nghĩa, phản phúc, phản chủ và phản dân.
___________________________________
1. Năm đời gồm: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Còn như mười nước, nếu so với bản đồ Trung Quốc hiện đại thì Ngô (ở An Huy), Tiên Thục (ở Tứ Xuyên), Ngô Việt (ở Chiết Giang), Sở (ở Hồ Nam), Mân (ở Phúc Kiến), Nam Hán (ở Quảng Đông), Nam Bình (ở Hồ Bắc), Hậu Thục (cũng ở Tứ Xuyên), Nam Đường (ở Giang Tô) và Bắc Hán (ở Sơn Tây).
2. Kiều Công Tiễn cũng đọc là Kiểu Công Tiễn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2009, 10:06:58 pm »


02 - NGÔ QUYỀN (898 - 944)

                                                                  “Tiền Ngô Vương lấy quân mới họp của nước Việt ta
                                                                   đánh tan cả trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở
                                                                   nước và xưng vương, làm cho bọn người Bắc không dám
                                                                   sang nữa. Có thể nói là (Tiền Ngô Vương) một lần nổi
                                                                   giận mà khiến cho trăm họ được yên, mưu đã giỏi mà
                                                                   đánh cũng giỏi. Tuy chỉ mới xưng vương, chưa lên ngôi
                                                                   Hoàng Đế, cũng chưa đặt niên hiệu, nhưng quốc thống
                                                                   của ta cơ hồ đã được nối lại rồi vậy”


                                                                                                         Lê Văn Hưu
                                                                                                        (1230 – 1322)

1. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ

Ngô Quyền người đất Đường Lâm. Đất này nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Nơi đây hiện cfn có lăng và đền thờ Ngô Quyền. Về tiểu sử của Ngô Quyền, sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 5, tờ 20-b) chép rằng:

“Thân phụ (của Ngô Quyền ) là (Ngô) Mân, làm chức Châu Mục ở bản châu (tức châu Đường Lâm – NKT). Khi Vua (chỉ Ngô Quyền - NKT) mới sinh, đầy nhà có ánh sáng lạ. Vua có ba nốt ruồi ở lưng, dáng mạo thật khác thường, thầy bói cho là có tướng tốt, có thể làm chúa cả một phương, vì thế (thân phụ của Vua) mới đặt tên (cho Vua) là Quyền. (Vua) lớn lên, khôi. ngô tuấn tú, mắt sáng như chớp, dáng đi như hổ, gồm đủ trí và dũng, sức có thể nâng được vạc lớn. (Vua từng) làm Nha Tướng cho Dương Đình Nghệ (cũng tức là Dương Diên Nghệ, người đứng đầu chính quyền độc lập và tự chủ từ năm 931 đến năm 937 – NKT), được (Dương) Đình Nghệ gả con gái cho, đồng thời, trao quyền cai quản vùng Ái Châu (tức vùng thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay - NKT)”.

Các bộ chính sử cũ đều chép rằng, Dương Đình Nghệ có người con nuôi, tên là Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn là kẻ bất hiếu, bất nghĩa và bất trung, kẻ bạo ngược hiếm thấy trong lịch sử. Tháng ba năm Đinh Dậu (937), Kiều Công Tiễn đã giết chết Dương Đình Nghệ rồi đoạt lấy chức quyền. Căm phẫn trước hành động đó, tháng 12 năm Mậu Tuất (938), từ Ái Châu, Ngô Quyền đã đem quân ra hỏi tội Kiều Công Tiễn. Hoảng sợ trước lực lượng của Ngô Quyền. Kiều Công Tiễn đã sai sứ đem của cải sang đút lót cho vua nước Nam Hán để cầu cứu. Nam Hán nhân đó cho quân sang xâm lược nước ta. Ngô Quyền lập tức giết chết Kiều Công Tiễn, chặt đứt chỗ dựa nguy hiểm của quân xâm lăng, đồng thời, đánh trận quyết chiến chiến lược với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (cũng vào tháng 12 năm 938), quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi.

Mùa xuân năm Kỉ Hợi (939), Ngô Quyền xưng vương, lập triều nghi, đặt phẩm phục, dựng nền độc lập và tự chủ, đóng đô ở Cổ Loa. Về việc làm sau chiến thắng của Ngô Quyền, sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét:

“Tiền Ngô Vương nổi lên, không chỉ có công thắng trận mà còn đặt trăm quan, chế định triều nghi và phẩm phục, có thể nói là có tầm vóc của đấng Đế Vương”1.

Năm Giáp Thìn (944), Ngô Quyển mất, hưởng thọ 46 tuổi.

Không rõ Ngô Quyền có tất cả bao nhiêu người con, nhưng có hai người con trai được sử sách chép tới. Một là Ngô Xương Văn do bà Dương Thị Như Ngọc (con gái của Dương Đình Nghệ) sinh hạ, chưa rõ là vào năm nào. Năm 951, Ngô Xương Văn lên nối ngôi (trước đó, từ năm 944 đến năm 950, ngôi vua bị em vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha chiếm đoạt), xưng là Nam Tấn Vương. Năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn chết khi đi đánh dẹp ở vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay. Người con trai thứ hai của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Ngập là anh của Ngô Xương Văn, nhưng khi Dương Tam Kha chiếm ngôi, Ngô Xương Ngập phải chạy đi lánh nạn, vì thế, phải đến cuối năm 951, Ngô Xương Ngập mới được em đón về. Cả hai anh em cùng làm vua, sử gọi đó là thời Hậu Ngô Vương. Ngô Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương, nhưng chỉ ở ngôi được ba năm thì mất (vào năm 954) vì bị bệnh.

Các con của Ngô Quyền đều không phải là những người có tài cầm quân và trị nước, vì thế, loạn lạc đã liên tiếp xẩy ra ngay khi họ đang ở ngôi. Sau khi Thiên Sách Vương rồi Nam Tấn Vương lần lượt qua đời, đất nước lâm vào một thời kì hỗn chiến ác liệt giữa các thế lực cát cứ, sử gọi đó là thời Loạn mười hai sứ quân. Năm Đinh Mão (967), Đinh Bộ Lĩnh mới dẹp được cuộc hỗn chiến tương tàn này.
_________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, ngoại kỉ, quyển 5, tờ 21 a-b.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2009, 10:41:58 pm »


2. NGÔ QUYỀN VỚI TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC Ở BẠCH ĐẰNG NĂM MẬU TUẤT (938).

Vài nét về Nam Hán

Kẻ bị Ngô Quyền đánh cho đại bại là quân Nam Hán, vậy, Nam Hán là ai? Mưu đồ cụ thể của quân Nam Hán đối với nước ta lúc bấy giờ như thế nào?

Chính sử của Trung Quốc cho hay, năm Đinh Mão (907), nhà Lương sụp đổ, Trung Quốc lâm vào một thời kì loạn lạc, sử gọi là thời Ngũ Đại Thập Quốc (nghĩa là năm đời mười nước). Ngũ Đại gồm: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Còn Thập Quốc thì gồm có:

- Nước Ngô do Dương Hành Mật lập nên ở vùng An Huy của Trung Quốc ngày nay.

- Tiền Thục do Vương Kiến lập nên ở vùng Tứ Xuyên của Trung Quốc ngày nay.

- Ngô Việt do Tiền Cù lập nên ở vùng Chiết Giang của Trung Quốc ngày nay.

- Nước Sở do Mã Ân lập nên ở vùng Hồ Nam của Trung quốc ngày nay.

- Nước Mân do Vương Thẩm Tri lập nên ở vùng Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay

- Nam Hán do Lưu Ẩn lập nên ở vùng Quảng Đông của Trung Quốc ngày nay.

- Nam Bình do Cao Bảo Dung lập nên ở vùng Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay.

- Hậu Thục do Mạnh Tri Tường lập nên, cũng ở vùng Tứ Xuyên của Trung Quốc ngày nay.

- Nam Đường do Lý Thăng lập nên ở vùng Giang Tô của Trung Quốc ngày nay.

- Bắc Hán do Lưu Sùng lập nên ở vùng Sơn Tây của Trung Quốc ngày nay.

Như vậy, trong số mười nước kể trên, Nam Hán là nước có chung đường biên giới với nước ta, qua lại nước ta dù là bằng đường bộ hay đường biển đều thuận tiện. Vua sáng nghiệp của Nam Hán là Lưu Ẩn (cũng tức là Lưu Nghiễm, Lưu Yêm, Lưu Thiệp hay Lưu Cung…) vốn là kẻ kiệt hiệt. Nam Hán có tiềm lực khá mạnh. Tháng 7 năm Canh Dần (930), vua Nam Hán từng sai tướng Lý Khắc Chính (cũng có sách chép là Lương Khắc Chính) đem quân sang xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến do Khúc Thừa Mỹ lãnh đạo bị thất bại, nước ta bị quân Nam Hán thống trị từ cuối năm 930 đến cuối năm 931. Tháng 12 năm 931, vì bị Dương Đình Nghệ đem quân từ Ái Châu (Thanh Hóa) ra tấn công bất ngờ và dồn dập, chúng mới phải tháo chạy vế nước.

Thời Dương Đình Nghệ đứng đầu chính quyền độc lập và tự chủ (từ cuối năm 931 đến đầu năm 937), Nam Hán cũng từng nuôi tham vọng xâm lăng nước ta, vừa để có thể bành trướng xuống phương Nam, vừa rửa mối nhục thất bại như đã nói ở trên nhưng chúng chưa có cơ hội thực hiện. Cuối năm Mậu Tuất (938) nhân được Kiều Công Tiễn cầu cứu, Nam Hán liền quyết chí sang đánh nước ta lần thứ hai.

Bấy giờ, Nam Hán không phải là nước lớn, nhưng ta lại là một nước nhỏ, đất đai đại để mới từ vùng Quảng Bình trở ra mà thôi. Tính chất nguy hiểm của cuộc xâm lăng này không phải chỉ có từ phía quân Nam Hán mà còn có cả ở phía lực lượng phản dân hại nước do Kiều Công Tiễn cầm đầu. Vua Nam Hán tự mình soạn thảo kế hoạch, bất chấp mọi lời can ngăn của quan lại dưới quyền. Con trai của vua Nam Hán là Vạn Vương Lưu Hoằng Thao được cử làm tướng tổng chỉ huy quân xâm lăng. Bản thân vua Nam Hán thì điều thêm quân ra đóng ở Hải Môn (vùng Tây Nam, huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngay nay) để làm thanh viện.

Quần thần vẫn tiếp tục can ngăn. Vua Nam Hán bèn đến hỏi ý của quan giữ chức Sùng Văn Sứ là Tiêu Ích. Và, Tiêu Ích đã trả lời một cách rất khôn ngoan, vừa không làm phật lòng vua Nam Hán, vừa có thể giữ yên thân mình. Tiêu Ích nói:

“Nay mưa dầm đã mấy tuần mà đường biển thì xa xôi và nguy hiểm, trong khi đó, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể nào khinh suất được. Đại quân của ta phải tiến một cách thận trọng và chắc chắn, tốt nhất, hãy nên dùng người hướng đạo đi trước rồi sau hãy cất quân đi”1.

Nhưng. vua Nam Hán vẫn không nghe theo lời khuyên của Tiêu Ích. Tháng 12 năm Mậu Tuất (938), quân Nam Hán rầm rộ vượt biển tiến vào nước ta qua ngả sông Bạch Đằng.

Bạch Đằng là một con sông ngắn nhưng rất rộng và sâu. Sông vốn có tên Nôm là sông Rừng, nhưng vì sông này thường có sóng bạc nổi lên, nhân đó mới có tên chữ là Bạch Đằng. Cửa sông Bạch Đằng xưa nay đều có tên là cửa Nam Triệu, cũng vì thế, con sông này còn có tên là sông Nam Triệu. Tuy nhiên, cửa Nam Triệu thời Ngô Quyền nằm ở vị trí sâu hơn, vào khoảng ngã ba của sông Cấm và sông Bạch Đằng hiện nay. Sở dĩ có sự khác biệt này là vì sự vận động địa chất, dẫn đến sư biến đổi địa hình của vùng Đông Bắc nước ta trong hơn một nghìn năm qua. Từ vùng biển Đông Bắc. Bạch Đằng là con sông tiện lợi nhất để thủy quân có thể men theo đó mà tiến sâu vào lãnh thổ nước ta.
_______________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, ngoại kỉ, quyển 5, tờ 19-a
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2009, 10:45:06 pm »


Trận Bạch Đằng

Cuối năm 938, để cứu nguy cho vận nước, Ngô Quyền đã có hai quyết định quan trọng. Một là nghiêm trị Kiều Công Tiễn, kẻ đã giết hại Dương Đình Nghệ và sau đó đã cam tâm đi cầu cứu quân Nam Hán. Giết Kiều Công Tiễn tức là tiêu diệt chỗ dựa của quân xâm lăng. Giết Kiều Công Tiễn tức là để bảo vệ đạo lí và nghĩa khí của dân tộc. Giết Kiều Công Tiễn cũng tức là để tạo ra sự ổn định hậu phương trước khi đại quân xuất trận. Hai là Ngô Quyền đã vạch kế hoạch đánh gục quân Nam Hán xâm lăng. Binh pháp cổ thường nhấn mạnh câu tri bi tri kỉ bách chiến bách thắng (biết người biết ta, trăm trận trăm thắng). Những ghi chép của sử cũ cho thấy Ngô Quyền đã biết rất rõ mưu đồ của quân Nam Hán lúc bấy giờ. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 5, tờ 19-b) chép rằng:

“Ngô Quyền nghe tin Hoằng Thao sắp đến, liền nói với các tướng dưới quyền rằng:

Hoằng Thao là đứa trẻ khờ dại. Hắn đem quân từ cõi xa đến, lính tráng đều mỏi mệt, đã thế, lại nghe tin Kiều Công Tiễn đã bị giết rồi. Mất kẻ nội ứng, hẳn nhiên là chúng đã bị mất vía từ trước. Ta nay lấy quân khỏe mạnh để đánh quân mỏi mệt, ắt là phải phá được. Nhưng, bọn chúng lợi thế ở chiến thuyền, nếu ta không lo phòng bị trước thì chưa biết sẽ ra sao. Nay, nếu ta sai người đem cọc lớn, vạt nhọn và bịt sắt, ngầm đóng sẵn ở cửa biển, rồi nhân khi nước triều lên cao (che khuất bãi cọc) mà dụ cho chiến thuyền của chúng tiến vào thì sau đó ắt sẽ dễ bề chế ngự, quyết không cho chiếc nào chạy thoát”.

Xưa nay, cửa sông Bạch Đằng đều rất sâu, có chỗ sâu đến 18 mét. Độ sâu ấy, không cho phép đóng cọc theo lối giăng ngang mà chỉ có thể đóng ở hai bên mé sông, nơi thuyền bè thường xuôi ngược. Công việc dựng bãi cọc gỗ vạt nhọn và bịt sắt được tiến hành khẩn trương nhưng cũng rất công phu. Hàng ngàn người được huy động đi đốn cây. Hàng trăm thợ được điều đến để bịt sắt vào cọc gỗ. Đông đảo quân sĩ đã tham gia vào việc tạo dựng bãi cọc này. Trước khi giao chiến với Hoằng Thao, Ngô Quyền đã nghiên cứu rất kĩ chế độ thủy văn của sông Bạch Đằng và chính phần hiểu biết quan trọng này đã dự phần không nhỏ vào thắng lợi chung.

Sau khi hoàn tất bãi cọc gỗ, Ngô Quyền đã bố trí lực lượng như sau:

- Đại binh của Ngô Quyền bố trí ở ngay phía sau bãi cọc gỗ: tất cả được mai phục sẵn trong những lùm cây mọc đầy ở ven sông.

- Phía tả ngạn sông Bạch Đằng là đạo quân do Dương Tam Kha (con Dương Đình Nghệ, em vợ của Ngô Quyền) chỉ huy.

- Phía hữu ngạn là đạo quân do Ngô Xương Ngập (con trai của Ngô Quyền) và tướng Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy.

Vị tướng trẻ có tài bơi lội và rất thông thuộc sông nước Bạch Đằng là Nguyễn Văn Tố được giao nhiệm vụ ra phía trước bãi cọc để khiêu chiến.

Về diễn biến của trận Bạch Đằng, sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 5, tờ 19-b và tờ 20-a) chép như sau:

“Định xong kế sách rồi, (Ngô Quyền) bèn cho đóng cọc gỗ ở hai bên cửa sông. Khi nước triều lên, (Ngô) Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi giả thua để dụ địch đuổi theo. Bọn Hoằng Thao quả nhiên tiến nhanh vào. Khi chiến thuyền của chúng đã nằm hết ở trong bãi cọc thì thủy triều cũng vừa rút, khiến cho cọc nhô dần lên. Bấy giờ, (Ngô) Quyền mới tung quân ra, ai nấy cũng đều liều chết để chiến đấu. Nước triều rút quá nhanh, quân Hoằng Thao trở thuyền không kịp nên đều vướng cọc mà lật úp. Lũ giặt rối loạn rồi tan vỡ, quân lính chúng bị chết đuối đến hơn một nửa. (Ngô) Quyền thừa thắng đánh đuổi rất gấp, bắt được Hoằng Thao, đem giết đi. Vua Nam Hán (đóng ở Hải Môn, nghe tin dữ) liền thương khóc, thu nhặt tàn quân (của Hoằng Thao tháo chạy đến) và rút về. Vua Nam Hán cho rằng, tên mình là Lưu Cung thật đáng ghét lắm vậy”.


Danh thơm còn mãi với thiên thu

Trận Bạch Đằng năm 938 là một trong những trận thủy chiến xuất sắc của lịch sử nước nhà. Với chiến thắng này, Ngô Quyền đã đè bẹp hoàn toàn tham vọng bành trướng xuống phương Nam của Nam Hán, khẳng định một cách hiên ngang kỉ nguyên độc lập và tự chủ của nước nhà. Với chiến thắng này, Ngô Quyền thực sự trở thành một anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự của nước nhà. Ngô Quyền đã để lại cho hậu thế những kinh nghiệm vô giá trong tổ chức và chỉ huy thủy chiến. Ông là người đầu tiên dùng bãi cọc và cũng là người đầu tiên biết tận dụng thủy triều vào trận mạc. Trận Bạch Đằng năm 938 là một trong những trận mẫu mực của sự hợp đồng tác chiến giữa thủy binh với bộ binh, cũng là một trong những trận mẫu mực của sự kết hợp hài hòa giữa mai phục với tấn công tiêu diệt. Từ trận Bạch Đằng, tên tuổi và sự nghiệp của Ngô Quyền chói sáng trong sử sách và trong kí ức bất diệt của các thế hệ nhân dân ta. Trong Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) viết:

“Nếu không có trận đại thắng này thì nhuệ khí của bọn Lưu Nghiễm vẫn còn, và cái cơ bị ngoại thuộc lại dần dần nổi lên. Cho nên, trận Bạch Đằng chính là gốc rễ của sự khôi phục quốc thống. Sau này, các đời Đinh, Lê, Lý, Trần... cũng được nhờ ở dư âm của sự oanh liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, thực sự là để tiếng thơm đến muôn đời chứ đâu phải chỉ sáng rỡ trong nhất thời đâu”.

Sau thất bại thảm hại ở Bạch Đằng, nước Nam Hán vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển thêm một thời gian nữa, nhưng trong suốt thời gian đó, chúng không dám bén mảng đến nước ta. Nhận xét về thực trạng của Nam Hán lúc bấy giờ, sử thần Ngô Sĩ Liên viết:

“Lưu Cung tham đất của người muốn mở rộng bờ cõi, nhưng đất không lấy được mà lại để mất đứa con của mình, đã thế, còn gây hại cho dân. Mạnh Tử nói “đem cái mình chẳng yêu mà hại cái mình yêu”, đại để là như thế này chăng?”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2009, 10:55:19 pm »


03 - ĐINH BỘ LĨNH (924 - 979)

                                                                  “(Đinh) Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt, mưu lược
                                                                   hơn người, dũng cảm nhất đời, đương khi nước Việt ta
                                                                   không có chúa, hùng trương đua nhau cát cứ... một
                                                                   phen cất quân mà khiến cả mười hai sứ quân đều phải
                                                                   hàng phục. Vua mở nước định đô, đổi xưng là Hoàng Đế,
                                                                   chia đặt bách quan và sáu quân, chế độ gần như đã
                                                                   đầy đủ. Có lẽ trời đã vì nước Việt mà lại sinh đấng
                                                                   thánh triết...”.

   
                                                                                                  Lê Văn Hưu
                                                                      (Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ quyển 1,tờ 2-b và 3-a)


1. THUỞ THIẾU THỜI

Đinh Bộ Lĩnh là con của Đinh Công Trứ. Thời Dương Đình Nghệ (931 - 937), Đinh Công Trứ được trao chức Thứ Sử Hoan Châu1. Thời Ngô Quyền (938 - 944), Đinh Công Trứ cũng tiếp tục được trao chức ấy, nhưng chưa được bao lâu thì mất. Thân mẫu của Đinh Bộ Lĩnh người họ Đàm, còn như tên húy của bà là gì thì hiện vẫn chưa rõ.

Đinh Bộ Lĩnh sinh năm Giáp Thân (924) tại quê cha là động Hoa Lư, châu Đại Hoàng2, mất năm Kỉ Mão (979), thọ 55 tuổi. Do thân sinh đi làm quan ở xa, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh gắn bó với thân mẫu nhiều hơn. Sau khi Đinh Công Trứ qua đời, Đinh Bộ Lĩnh cùng thân mẫu dắt díu nhau về dựng nhà và lập nghiệp tại khu vực cạnh đền Sơn Thần động Hon Lư.

Thuở thiếu thời, Đinh Bộ Lĩnh đã có tính cách khá đặc biệt. Sử cũ viết về thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh như sau:

“Vương (chỉ Đinh Bộ Lĩnh - NKT) lúc nhỏ thường cùng lũ trẻ chăn trâu ở chốn núi rừng vui chơi, được chúng tôn là bậc huynh trưởng. Chúng vẫn thường lấy lễ (đại để như) vua tôi để giúp Vương. Khi vui chơi đùa giỡn, bọn trẻ thường đấu tay làm kiệu để khiêng Vương đi, lại còn lấy bông lau giả làm cờ cho đi trước để dẫn đường, chia làm tả hữu hai phía để theo hầu, nghi vệ chẳng khác gì Thiên Tử. Lúc rảnh rỗi, lũ trẻ lại giục nhau đi kiếm củi về cho Vương, làm y như thể là nạp thuế vậy. Chiều đến, bà thân mẫu của Vương thấy vậy thì vui mừng, bèn mổ heo đãi chúng. Các bậc trưởng lão trong làng đều nói:

- Đứa trẻ có khí chất và dung nghi phi thường này ắt sẽ trở thành đấng cứu đời, đem lại yên lành cho muôn dân. Bọn ta nếu không sớm theo về, để ngày khác hối hận thì đã muộn.

Nói rồi, họ thúc giục con em mình theo Vương”3.
_________________________________
1. Nay là vùng Nghệ An.
2. Châu Đại Hoàng nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
3. Đại Việt sử lược (quyển 1).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2009, 11:02:31 pm »


Thời trai trẻ, Đinh Bộ Lĩnh được dồn dập chứng kiến những biến cố lớn lao của lịch sử nước nhà. Đó là thời họ Khúc khôn khéo đặt nền tảng đầu tiên cho kỉ nguyên độc lập và tự chủ. Đó là thời Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền liên tiếp đánh bại quân Nam Hán xâm lăng. Đó là thời mà thân sinh của Đinh Bộ Lĩnh từng góp phần vào sự nghiệp chung, làm rạng danh gia tộc. Nhưng, đó cũng là thời đau thương. Sau khi Ngô Quyền qua đời, chính quyền trung ương mau chóng suy yếu, các thế lực cát cứ ở khắp các địa phương lần lượt nổi lên. Đất nước loạn li bởi cuộc hỗn chiến giữa các thế lực cát cứ ấy. Theo quy luật đào thải nghiêm khắc và lạnh lùng, tất cả các thế lực yếu đều mau chóng bị tiêu diệt, các thế lực mạnh thì tồn tại lâu hơn. Cuối cùng, cả nước còn lại 12 thế lực mạnh, sử gọi đó là loạn mười hai sứ quân. Danh sách 12 sứ quân này cụ thể như sau:

01. Ngô Xương Xí chiếm giữ đất Binh Kiều1.

02. Kiều Công Hãn chiếm giữ đất Phong Châu2 và xưng là Kiều Tam Chế.

03. Kiều Thuận chiếm giữ đất Hồi Hồ3 và xưng là Kiều Lệnh Công.

04. Nguyễn Khoan chiếm giữ đất Tam Đái4, xưng là Nguyễn Thái Bình.

05. Ngô Nhật Khánh chiếm giữ đất Đường Lâm5, xưng là Ngô Lãm Công.

06. Đỗ Cảnh Thạc chiếm đất Đỗ Động Giang6, xưng là Đỗ Cảnh Công.

07. Lý Khuê chiếm giữ đất Siêu Loại7 và xưng là Lý Lãng Công.

08. Lữ Đường (cũng đọc là Lã Đường), chiếm giữ đất Tế Giang8 và xưng là Lữ Tá Công.

09. Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ đất Tiên Du9, xưng là Nguyễn Lệnh Công

10. Nguyễn Siêu chiếm giữ đất Phù Liệt10, xưng là Nguyễn Hữu Công

11. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ đất Đằng Châu11, xưng là Phạm Phòng Át.

12. Trần Lãm chiếm giữ đất Bố Hải Khẩu12, xưng là Trần Minh Công.

Loạn mười hai sứ quân đã khiến cho dân tình khốn khổ, thế nước suy vi và tạo điều kiện thuận lợi cho giặt ngoại xâm có thể lợi dụng để tràn vào nước ta bất cứ lúc nào. Chưa bao giờ nhu cầu tái lập vào bảo vệ nền thống nhất quốc gia lại trở nên bức thiết như lúc này.
____________________________________
1. Nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
2. Nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú.
3. Thời Hán, đó là đất Cẩm Khê. Thời Lê, đó là đất huyện Hoa Khê. Nay là đất huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú.
4. Nay thuộc huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú.
5. Nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.
6. Nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
7. Nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.
8. Nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng.
9. Nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
10. Nay thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
11. Nay thuộc huyện Kim Thi, tỉnh Hải Hưng.
12. Nay là vùng thị xã Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2009, 11:05:33 pm »


2. VUNG GƯƠM DẸP LOẠN

Sứ cũ chép:

“Bấy giờ, trong cõi không có chúa, Vương (chỉ Đinh Bộ Lĩnh - NKT) nghe tin Trần Minh Công (tức sứ quân Trần Lãm - NKT) là người giỏi nhưng lại không có con nối dõi, bèn đến xin nương nhờ. Trần Minh Công thoáng trông đã biết Vương là bậc có khí chất hơn người, liền nhận làm con và đem hết binh quyền giao phó cho”1.

Đoạn ghi chép ngắn ngủi nói trên cho thấy rõ, Đinh Bộ Lĩnh đã bắt đầu sự nghiệp dẹp loạn bằng cách tìm đến để nương nhờ Trần Lãm là một trong những sứ quân mạnh nhất đương thời. Đó là một sự chọn lựa rất thông minh, bởi vì ngoài những lí do mà sử cũ đã kể, lãnh địa của Trần Lãm có một vị trí rất quan trọng đối với cục diện chung. Nắm giữ được lãnh địa ấy cũng có nghĩa là nắm được kho lương thực và thực phẩm lớn nhất.

Dựa vào ưu thế đặc biệt của mình, Đinh Bộ Lĩnh đã lần lượt đánh bại các sứ quân. Đến cuối năm Đinh Mão (967), sự nghiệp dẹp loạn của Đinh Bộ Lĩnh hoàn thành. Sang đầu năm Mậu Thìn (968), ngay sau khi Trần Lãm qua đời, Đinh Bộ Lĩnh đã lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, định đô ở Hoa Lư, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Đến năm Canh Ngọ (970), Đinh Tiên Hoàng đặt niên hiệu là Thái Bình.

Từ đây, triều Đinh được dựng lên và với tư cách là Hoàng Đế Đinh Bộ Lĩnh đã có những đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp kiến thiết quốc gia. Sứ thần Ngô Sĩ Liên nói rằng:

“Đế vương dấy nghiệp, không có ai là không nhờ ở mệnh trời. Nhưng, thánh nhân không bao giờ cậy có mệnh trời mà không làm hết phận sự của mình. Khi việc lớn đã thành thì lại càng phải lo nghĩ cách đề phòng. Sửa sang lễ nhạc, hình án và chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa và đánh hiệu canh là để phòng kẻ hung bạo. Lòng dục không cùng, việc đời vô bờ vô bến, không thể không đề phòng trước được. Đó là cách nghĩ xa cho đời sau, mưu tính cho con cháu”2.

Tuy nhiên, là người xưng Đế đầu tiên của kỉ nguyên độc lập tự chủ và thống nhất, mọi việc mà Đinh Tiên Hoàng đã làm đều chỉ mới có ý nghĩa mở đầu. Một số Nho sĩ đời sau lấy khuôn mẫu chặt chẽ của thời đại họ làm chuẩn để đánh giá, đã có ý chê Đinh Tiên Hoàng sơ sài trong việc trị nước. Những lời chê ấy quả là không sai nhưng thật khó mà nói là đúng.

Đinh Bộ Lĩnh không phải là danh tướng chống xâm lăng, nhưng, võ công oanh liệt của ông thực sự đã góp phần rất to lớn vào sự nghiệp giữ nước. Từ đây, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, trở thành hai mặt bản chất nhất, nổi bật nhất của lịch sử nước ta. Thắng lợi của mặt này là tiền đề, là cơ sở thắng lợi của mặt kia và ngược lại.

Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh bị kẻ phản nghịch là Đỗ Thích giết hại. Ông mất khi triều Đinh mới được hơn mười năm, khi vận nước đang bắt đầu lâm nguy bởi mưu đồ bành trướng của nhà Tống ở phương Bắc.
__________________________________
1. Đại Việt sử lược (quyển l).
2. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 1, tờ 6-b và tờ 7-a).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 10:59:23 pm »


04. LÊ HOÀN (941 – 1005)

                                                                  “Vua đánh đâu được đấy: Chém vua Chiêm Thành để
                                                                   rửa mối nhục bị bọn phiên di bắt giữ sứ giả của mình;
                                                                   đánh tan quân của vua nước Tống là người vốn dòng họ
                                                                   Triệu, mau chóng đập tan mưu đồ của họ. Có thể coi
                                                                   vua là đấng anh hùng nhất đời vậy”.


                                                                                                      Ngô Sĩ Liên
                                                                                  (Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển l)

1. ĐẠI LƯỢC VỀ LÍ LỊCH

Sách Đại Việt sử lược1 chép rằng Lê Hoàn người Trường Châu2, nhưng sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 13-a) lại nói Lê Hoàn người Ái Châu3. Sử cũ chép không nhất quán, song, các cuộc khảo sát sau này đều cho kết quả chung, rằng Lê Hoàn người làng Trung Lập, Ái Châu, nay làng này thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Các bộ chính sử và dã sử xưa đều chép rằng Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (tức năm 941) tại Ái Châu. Thân sinh của Lê Hoàn là Lê Mịch, thân mẫu người họ Đặng nhưng chưa rõ tên là gì. Gia đình Lê Hoàn thuộc tầng lớp nghèo khổ ở Ái Châu, đã thế, cả thân sinh lẫn thân mẫu đều nối nhau qua đời sớm, cho nên, tuổi thơ của Lê Hoàn đầy gian nan, cơ cực. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 1, tờ 14 và 15.) chép rằng:

“Trước kia, mẹ của vua là Đặng Thị, khi đang có thai bỗng nằm mơ thấy bụng mình nở ra hoa sen và hoa sen ấy kết thành hạt ngay. Đặng Thị lấy chia cho mọi người nhưng mình lại không ăn. Tỉnh dậy (Đặng Thị) lấy làm lạ lắm. Đến khi sinh con thấy con có dáng mạo khác thường, Đặng Thị nói với mọi người rằng:

- Thằng bé này về sau ắt sẽ làm nên cơ nghiệp lớn, chỉ tiếc là tôi chẳng kịp hưởng lộc mà thôi.

Được độ vài năm, thân mẫu rồi thân sinh (của Lê Hoàn) đều mất. Khi ấy, có viên quan giữ chức Quan Sát ở Ái Châu người họ Lê (hiện chưa rõ tên), thấy Vua có dáng mạo khác thường, bèn nhận làm con nuôi. Một năm, trời mùa đông rét mướt, Vua phải nằm phục xuống như hình cối úp (cho đỡ rét), chẳng dè đêm đến, cả nhà rực ánh sáng lạ bởi có con rồng vàng nằm che trên Vua. Viên quan họ Lê càng lấy làm lạ.

Khi lớn lên, vua từng giúp việc cho Nam Việt Vương (Đinh) Liễn (con trai trưởng của Đinh Tiên Hoàng - NKT), tỏ ra có tài trí và chí lớn hơn người. (Đinh) Tiên Hoàng khen là người có mưu lược và khỏe mạnh, lúc đầu giao cho cai quản hai ngàn quân, sau thăng dần đến chức Thập Đạo Tướng Quân4, Điện Tiền Chỉ Huy Sứ”.
_________________________________
1. Xem bản dịch của Nguyễn Gia Tường. Nguyễn Khắc Thuần hiệu dính và viết lời bạt. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
2. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên) chú thích rằng: Trường Châu là đất 4 huyện Văn Dương, Đồng Thái, Trường Sơn và Kỳ Thường thời Nguyễn. Nay, cả bốn huyện này thuộc tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình.
3. Sách này chỉ chép là Ái Châu chứ không chỉ rõ là ở địa điểm nào của Ái Châu.
4. Đinh Tiên Hoàng chia nước ra làm mười đạo và dự định sẽ tuyển mộ quân lính như sau: Mỗi đạo gồm 10 quân, mỗi quân gồm 10 lữ, mỗi lữ gồm 10 tốt, mỗi tốt gồm 10 ngũ, mỗi ngũ gồm 10 người. Theo đó thì quân số sẽ lên tới một triệu người. Tuy nhiên, đó chỉ là lí thuyết, là ước vọng mà thôi. Lê Hoàn được thăng tới chức Thập Đạo Tướng Quân, tức là chức võ quan cao cấp nhất thời Đinh. Chức này, Lê Hoàn được tấn phong vào năm Tân Mùi (971).
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM