Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Năm, 2024, 08:20:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các chiến sĩ Quốc tế trong kháng chiến chống Pháp  (Đọc 103736 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 04:59:29 pm »

Trước đâu chủ đề này đã được em Post ở bên TTVNOL rồi, hy vọng tái xuất sẽ gặt hái được nhiều thông tin hơn.

Theo em biết , trong kháng chiến chống Pháp , giai đoạn 1946-1954 của dân tộc ta , có khá nhiều chiến sĩ Quốc tế sát cánh cùng chúng ta trong cuộc chiến chính nghĩa này , họ đã đứng trong đội hình Quân đội nhân dân Việt Nam . Họ là những người lính lê dương thuộc quân đội Pháp với nhiều quốc tịch : Pháp , Đức , Maroc ,...hay lính Nhật bỏ ngũ , ...
Em rất muốn biết về những con người này , chế độ đãi ngộ " hậu chiến " của chúng ta , cuộc sống của họ khi về nước , quân hàm của họ trong Quân đội nhân dân , ....dù chỉ qua câu chuyện về một (vài) cá nhân thôi cũng được .
Mong các bác !
Em hiện biết khá chung chung qua một vài nhân vật họ có thể là : người Pháp là tù binh sau đó được giác ngộ hay là lính phản chiến ; một số người Đức là lính trong quân đội Hitle sau khi thua trận phải lựa chọn gia nhập quân viễn chinh để tránh đi cải tạo ( hình như thế ) ; có anh lính người Bỉ là tham gia quân đội chống phát xít của Pháp , sau 1945 cũng bị đưa sang Việt Nam ; hình như lính Nhật cũng khá đông , khi quân Đồng minh vào giải giáp thì họ bỏ theo Việt Minh chống Pháp ;...
Trong quân đội ta , họ có thể đảm nhận nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu , huấn luyện hay công tác địch vận . Dù những đóng góp ấy không phải quá lớn hay quyết định những cũng rất đáng trân trọng .
Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #1 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 05:01:42 pm »

Những người Đức tham gia kháng chiến ở Việt Nam


Theo sáng kiến của Viện Goethe tại Hà Nội, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam vừa tổ chức một cuộc tọa đàm với sự có mặt của nhiều nhân chứng Việt Nam từng tham gia công tác địch vận trong kháng chiến , một số nhà sử học Việt Nam và Đức, thân nhân một số người Đức đã có mặt trong kháng chiến ở Việt Nam, dưới chủ đề "Những người châu Âu tham gia hàng ngũ kháng chiến Việt Nam".

Trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), chúng ta đã tiếp nhận vào hàng ngũ của mình một số chiến sĩ tình nguyện người Nhật Bản, người châu Âu và châu Phi. Họ đến bằng nhiều con đường và vì nhiều lý do khác nhau, nhưng tất cả đều chán ghét cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và không muốn cầm súng chống lại nhân dân Việt Nam. Vấn đề này đến nay vẫn chưa được các nhà sử học Việt Nam quan tâm, trong khi đó các tài liệu chủ yếu lại đến từ các học giả nước ngoài.

Hội thảo "Những người châu Âu tham gia hàng ngũ kháng chiến Việt Nam" đã giúp cho giới sử học tiếp cận tài liệu của một thời đã qua.

Mở đầu cuộc tọa đàm, Tiến sĩ Heintz Schutte trình bày nghiên cứu về quá trình đưa đến sự gia nhập hàng ngũ Việt Minh của ba trí thức nói tiếng Đức, được coi là tiêu biểu và được các sách báo Pháp và Đức nói đến nhiều nhất. Đó là Rudy Schroder, Erwin Borchers (Đức), và Ernst Frey (người Áo gốc Do Thái). Cả ba đều sinh khoảng năm 1910, đã rời khỏi nước Đức và Áo năm 1933 khi phát- xít lên cầm quyền. Họ đã tốt nghiệp đại học và gia nhập Đảng Cộng sản hay hoạt động trong đoàn thanh niên Cộng sản. Họ phải vất vả lắm mới kiếm được việc làm ở Pháp. Khi chiến tranh Pháp - Đức bùng nổ năm 1939, tất cả đều bị đưa vào trại tập trung của Pháp và sẽ bị cầm tù cho đến hết chiến tranh. Vì vậy một số lớn đã chọn con đường gia nhập đội quân lê dương Pháp để "chiến đấu chống phát-xít". Từ 1939 đến 1940 con số đăng lính lên đến trên 3.500 người. Đến tháng 6-1940, Pháp thất trận. Đầu 1940, Đức yêu cầu Pháp trao lại tất cả những người lê dương Đức cho mình. Tuy nhiên, viên tướng chỉ huy quân Pháp ở Bắc Phi lại muốn cứu những người không muốn trở về với chính phủ quốc xã vì có nguy cơ bị trừng trị. Vì vậy, có khoảng 100 người Đức được điều sang Đông Dương trước khi lệnh trục xuất có hiệu lực.

Số phận đưa Schroder, Borchers và Frey đến Việt Nam vào giữa năm 1941. Cùng năm đó Schroder và Borchers và một số người khác đã lập chi bộ Cộng sản trong đơn vị lê dương đóng ở Việt Trì. Họ đã nhìn thấy vai trò của Pháp ở Đông Dương và bất bình trước thái độ hống hách của quân đội Pháp đối với người bản xứ tìm cách tiếp xúc với những người cách mạng Việt Nam. Tháng 11-1943, thông qua đảng viên xã hội Pháp Louis Caput, Frey đã tiếp xúc với một cán bộ cao cấp Việt Minh ở gần Nhà đấu xảo Hà Nội. Ít lâu sau Borchers được gặp Tổng Bí thư Trường Chinh giữa một cánh đồng thuộc tỉnh Bắc Ninh (khi đó đồng chí Trường Chinh đã cải trang và không xưng danh tính). Theo một số nhân chứng thì đầu mùa hè 1944, tiểu tổ cộng sản của lê dương Đức được những người cách mạng Việt Nam chấp nhận.

Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, binh sĩ Pháp bị Nhật bắt sau đảo chính tháng 3- 1945 được trả tự do. Nhưng ba người lính lê dương Đức không muốn ở lại với quân Pháp mà tìm cách chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Frey còn rủ thêm hai người bạn là Walter Ullrich và Georges Wachter. Họ tìm đến tòa soạn báo Cờ Giải phóng, được đồng chí Trường Chinh bảo lãnh và trực tiếp phân công việc cho từng người. Walter Ullrich ở trong quân đội lấy tên Hồ Chí Long, Georges Wachter vốn là kỹ sư được đưa vào quân giới trở thành Hồ Chí Thọ. Schroder lấy tên Lê Đức Nhân làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam, Frey trở thành Nguyễn Dân phụ trách huấn luyện quân sự và Borchers tức Chiến Sĩ làm báo địch vận và từ 1951 phụ trách giáo dục tù binh Đức.

Giữa năm 1946, Lê Đức Nhân, Nguyễn Dân và Chiến Sĩ đã cùng tham gia xuất bản tờ báo tiếng Pháp Le Peuple (Nhân dân) để tuyên truyền trong hàng ngũ quân Pháp mới sang chiếm đóng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi những người nước ngoài gia nhập hàng ngũ cách mạng là "Việt Nam mới". Trong nhật ký, Frey cũng viết rằng "Cả ba người chúng tôi đều coi Việt Nam là tương lai của mình, thực sự Việt Nam đã trở thành đất nước của chúng tôi".

Báo cáo của ông Schutte đã được các nhân chứng tham gia tọa đàm thảo luận và bổ sung. Chúng ta được biết thêm những người tình nguyện khác đã đến với Việt Nam bằng những con đường khác mà tên gọi "hàng binh" không diễn tả được đúng như tên gọi tiếng Pháp là "rallié". Vì họ đâu có phải chỉ là những hàng binh, còn về phía quân đội Pháp thì họ là những người "đào ngũ". Đó là trường hợp của Georges Boudarel, một trí thức Pháp, đảng viên Cộng sản, đã sang dạy học ở Sài Gòn năm 1946 rồi trốn ra bưng biền trước khi trở thành cán bộ giáo dục chính trị trong trại tù binh ở Việt Bắc.

Ông Lưu Văn Lợi, nguyên Trưởng phòng địch vận trong quân đội thời kháng chiến đã bổ sung thêm về vai trò của Borchers (Chiến Sĩ) trong việc làm trung gian qua sự tiếp xúc với một đảng viên xã hội Pháp (SFIO) là Louis Caput để tổ chức cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Trường Chinh với những người Pháp phái De Gaulle là Thiếu tá hậu cần Auriol, Thiếu tá quân y Seyberlich thay mặt tướng Mordant vào cuối tháng 12- 1944, để bàn về việc hợp tác giữa những người Pháp chống phát-xít với Việt Minh. Nhưng cuộc tiếp xúc đó không đi đến kết quả. Ông Lê Vân, nguyên Phó giám đốc chiêu đãi sở hàng binh Âu - Phi còn kể lại việc thành lập đội commando mang tên William Tell để làm công tác tuyên truyền vũ trang. Đội gồm chừng 40 người đa số là người Đức và một trung đội người Việt, đã lập được nhiều chiến công ở Lạng Sơn và Cao Bằng.

Ông Hữu Ngọc kể lại những kỷ niệm trong thời gian làm báo địch vận với những người Đức như Chiến Sĩ, Lê Đức Nhân... phải nói rằng trong những năm đầu kháng chiến, đóng góp của những người tình nguyện nước ngoài là đáng kể. Chúng ta đã thật sự tin tưởng họ mạnh dạn giao những công việc quan trọng. Frey được phong hàm Đại tá, phụ trách an ninh an toàn khu, là nơi có các cơ quan tham mưu của quân đội Việt Nam tại vùng giáp ranh giữa Thái Nguyên và Tuyên Quang.

Sự có mặt của bà Maria Schroder đã cung cấp thêm những tài liệu về thân phận những hàng binh Đức sau khi trở về nước (CHDC Đức). Phải thừa nhận rằng sau khi những hàng binh châu Âu rời khỏi Việt Nam từ năm 1951 trở đi, vì nhiều lý do, chúng ta ít có liên hệ với họ. Khi trở về nước không phải ai cũng suôn sẻ, vì với quá khứ tham gia đội quân lê dương, họ không dễ dàng tìm được việc làm thích hợp và không ít trường hợp bị phân biệt đối xử. Việc thiếu sự động viên từ phía Việt Nam cũng làm cho họ mang mặc cảm bị bỏ rơi . Những câu chuyện xúc động do bà Maria dẫn lại trong nhật ký của Lê Đức Nhân đã gợi lại cho những người tham dự nhiều suy nghĩ.

Cuộc tọa đàm đã tạo cơ hội cho giới sử học Việt Nam tiếp cận lại những vấn đề có một thời đã bị lãng quên. Mong rằng các nhà sử học Đức và Việt Nam sẽ có dịp hợp tác chặt chẽ hơn để tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến lịch sử của hai nước.
( Đào Hùng )
Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #2 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 05:06:31 pm »

Ở bài báo trên Hà Nội Mới mà em đã đưa lên phía trên , chúng ta đã biết tới tên những người Đức tiêu biểu nhất đứng trong hàng ngũ Việt Minh là :
Ernst Frey Nguyễn Dân
Rudy Schroder Lê Đức Nhân
Erwin Borchers Chiến Sĩ
Walter Ullrich Hồ Chí Long
Georges Wachter Hồ Chí Thọ
Dưới đây là bài tham luận của Heinz Schütte về những con người ấy . Trong bài viết này em thấy nó có rất nhiều thông tin rất giá trị . Tuy vậy , đó cũng là cái nhìn riêng của tác giả đứng ở góc độ của mình .

Những tiến sĩ Đức trong Việt Minh[1]


Heinz Schütte


Để tưởng nhớ Georges Boudarel,[2]
từ trần ngày 26-12-2003


I – Những trang sử chung

Nói tới những trí thức thuộc những nước sử dụng tiếng Đức đã đi theo Việt Minh, là đụng tới lịch sử Việt Nam giai đoạn 1941-1966, và đụng tới cả lịch sử Pháp, Áo và Đức từ năm 1933 đến nay. Đó là những trang sử chung của chúng ta, nên đó cũng là đề tài chúng ta gặp nhau. Cuộc hội thảo này có mục đích soi rọi một chương đoạn còn ít được biết. Về phần tôi, chỉ có thể làm công việc truy tìm những tư liệu và từ đó, dựng lại những sự kiện. Nhưng chứng từ của những người đã quen biết họ, làm việc với họ cũng rất quý báu và đáng hoan nghênh.

Tôi đã may mắn tìm ra những tư liệu, đôi khi cả những phông tư liệu trong thư khố của Cộng hoà Dân chủ Đức cũ (CHDCĐ), của Pháp, dưới hầm một ngôi nhà nông thôn không xa thành phố Frankfurt trên sông Main, hay trong một căn phòng chứa vật dụng phế thải ở Paris, hoặc nhờ một bà cụ già ở Vienna. Phải nói là trong các cuộc kiếm tìm năm 2003, đôi khi tôi có cảm giác mình đang làm sống lại những con người đã bị người ta bỏ quên, bỏ quên vì chuyện của họ “có vấn đề”. Trên mỗi trang tư liệu, trong mỗi cuộc hỏi chuyện, tôi khám phá ra một nét mới trong cuộc đời của họ. Chúng ta hãy cùng nhau bù đắp sự quên lãng ấy, dù rằng đối với những ai đã quen biết và thương mến họ, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng suôn sẻ.


II – Một vấn đề có lợi cho CHDCĐ


Trước khi đi theo trình tự thời gian và phác hoạ lại một vài hành trình tiêu biểu, tôi muốn nói qua về việc hồi hương của các hàng binh dưới góc độ chính trị CHDCĐ :

 Ngày 20.2.1950, Erich Honecker, lúc đó là chủ tịch Phong trào Thanh niên Đức (FDJ), đã ra tuyên bố kêu gọi “những người lính Đức đang ở Việt Nam trong hàng ngũ đội quân Lê Dương”.  Vì sự tham gia Lê Dương của họ “đi ngược lại tiền đồ và danh dự của dân tộc ta”, ông kêu gọi hãy đứng sang “phe cách mạng Việt Nam hiện nay đã có nhiều người lính Lê Dương cũ người Đức tham gia”.  Honecker hứa là người nào trở về CHDCĐ sẽ được ân xá và tạo công ăn việc làm [3].  Bốn tháng sau, chủ tịch CHDCĐ Wilhelm Pieck nhận được thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam cho biết “có nhiều binh lính Đức hiện đang là tù binh của Giải phóng quân Việt Nam”.  Vấn đề này được coi là rất quan trọng, Pieck đã báo cáo trước Bộ chính trị vì “nếu chúng ta đưa được một số (những người này) về nước, thì là một điều... quá hay cho công tác tuyên truyền sang Tây Đức” [4].  Và khi chuyến đầu tiên chở lính Lê Dương cũ sắp về tới Đức, tổng bí thư Đảng xã hội thống nhất (SED) Walter Ulbricht đã chỉ thị “phát động một chiến dịch tuyên truyền chống chính sách tái võ trang Tây Đức, thông qua những cuộc phỏng vấn, những chương trình phát thanh và phổ biến hình ảnh” [5].  Qua việc này, ta thấy rằng, ngay từ đầu, các hàng binh người Đức đã được sử dụng trong cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của CHDCĐ...

 Cho nên sau đó Bộ an ninh CHDCĐ (Stasi) được chỉ thị “kiểm soát thường xuyên” những người trở về: đọc thư, theo dõi... Bộ an ninh đòi hàng tháng phải báo cáo về công tác, sinh hoạt xã hội, đạo đức và thái độ chính trị của mỗi người, và nhất là về các mối liên hệ của họ với “phương Tây” [6].  Bởi vì, cho dù họ tham gia phong trào chống thực dân của Việt Minh đi nữa, “đạo quân Lê Dương, những tội ác mà lính Lê Dương reo rắc... ở các nước thuộc địa tạo ra những điều kiện thuận lợi để các lực lượng phản động Pháp có thể lợi dụng khai thác những phần tử yếu đuối, dễ dao động nhằm phục vụ mục đích của đế quốc” [7]. Chủ trương này được áp dụng đối với những thanh niên gia nhập Lê Dương sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, và cả những người đấu tranh chống phát xít từ thập niên 1930.  Và CHDCĐ đã gài một số người hồi hương vào các cơ quan đại diện của Pháp ở Berlin.

Những năm 1949-1950 , trong những vùng Việt Minh kiểm soát, xì xào tin đồn là đã xảy ra (và rất có thể đã có xảy ra) một cuộc nổi loạn của lính Âu châu đào ngũ. Đó là những người đã nghe theo tiếng gọi của Erwin Borscher, tức Chiến Sỹ, tổng biên tập những tờ báo tuyên truyền địch vận.

Ngày 6.8.1950, cũng ở Việt Bắc, một người Đức khác, Rudy Schröder (mà người Việt Nam quen biết dưới cái tên Lê Đức Nhân), được ông bạn Trần Văn Giàu cho biết “một tỉ số đáng kể” hàng binh Âu-Phi “sắp được đưa về nước”.

Họ là ai ? Thực ra, phải phân biệt hai loại. Thứ nhất là những người sinh ra khoảng năm 1910, sau tháng giêng 1933, đã phải bỏ nước Đức hay nước Áo sang Pháp tị nạn phát xít, đến tháng 9 năm 1939, khi chiến tranh thế giới bùng nổ, Pháp đưa họ vào những trại tập trung, sau đó họ đăng kí vào các đơn vị Lê Dương. Họ được đưa sang Đông Dương và cuối cùng, họ đã gia nhập kháng chiến chống thực dân. Số người này không đông, khoảng một chục, nhưng họ là những người có lí tưởng chính trị, có văn hóa và có học. Những người lính Lê Dương “ngoài khuôn mẫu”.

Loại thứ nhì, cũng là đa số, năm 1945 ở lứa tuổi 17-25, là những thanh niên mất phương hướng sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ. Vô học, vô gia cư nghề nghiệp, tứ cố vô thân, họ tìm thấy ở đội quân Lê Dương cơ hội giải thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng, một nơi chốn nương tựa. Họ đào ngũ, chạy sang theo Việt Minh vì nhiều lí do khác nhau, trong đó chính trị là lí do ít quan trọng hơn cả. Từ 1946 đến 1954, tổng cộng có 1325 lính Lê Dương đã bỏ ngũ theo Việt Minh, trong đó 673 người bỏ ngũ trong thời gian 1946-48. [9]

Như đã nói trên, chính phủ Việt Nam đã cho binh lính Đức trở về CHDCĐ. Trong số này, có cả tù binh lẫn “hàng binh”.[10] Từ tháng ba 1951 đến cuối năm 1955, tổng cộng có 761 người, đi làm 7 đợt, từ Việt Bắc, qua Bắc Kinh và Moskva, về đến Berlin. Mặt khác, Erich Frey, bí danh Nguyễn Dân, và Georges Walter, bí danh Hồ Chí Thọ, về tới Áo vào tháng năm 1951; cũng năm đó, Rudy Schröder và Walter Ullrich tức Hồ Chí Long về tới Berlin vào tháng 11. Riêng Erwin Borchers còn ở lại Hà Nội đến năm 1965. Dưới đây chủ yếu tôi sẽ nói về Schröder, Frey, và Borchers là ba người đã sống với Việt Minh từ 1945 đến đầu thập niên 1950, để tìm hiểu những động cơ nào đã dẫn họ tới quyết định tham gia kháng chiến Việt Nam, cảnh ngộ của họ lúc ở Việt Nam cũng như khi trở về châu Âu giữa thời kì chiến tranh lạnh.


III – Bối cảnh lịch sử

Peter Scholl-Latour, nhà báo Đức từng tham gia binh chủng nhảy dù của quân đội thực dân Pháp, đã kể lại chuyến đi của ông sang Đông Dương cuối năm 1945, trên một con tầu chở quân mà Pháp mượn được của Anh. Tàu đến Hồng Hải thì “gặp từng đoàn tàu đi ngược chiều, trở về châu Âu, cờ chiến thắng phất phới bay trên cột buồm. Đứng chen chúc trên boong là những cựu chiến binh người Anh từ mặt trận Miến Điện trở về quê hương trong cảnh thanh bình...”. Những binh sĩ Anh hạnh phúc ấy chế nhạo toán chiến binh thuộc địa chậm chân, hét to : “Các cậu đi nhầm chiều rồi1] Bài này đã được trình bày tại cuộc hội thảo về những hàng binh người Đức đi theo Việt Minh (thập niên 1940-50) tổ chức tại Viện Goethe (Hà Nội) trong hai ngày 8 và 9 tháng giêng 2004.

[2] Kính tặng hương hồn Georges Boudarel (GB). Cuộc đời của GB in sâu dấu ấn của Việt Nam kể từ năm 1949 khi ông 24 tuổi. Trong những năm qua, ông đã khuyến khích tôi tiếp tục nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tinh thần mà ông vẫn theo đuổi : đoàn kết phê phán. Militant và học giả, GB là một trong những người Pháp đầu tiên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Mấy bài báo của tờ QĐND đã đăng phía trên chính là viết về ông .

[3] Điện của E. Honecker gửi Nguyễn Văn Hương (?), đại diện Việt Nam ở Praha, 20 tháng hai 1950. Thư khố quốc gia Bundesarchiv (BA) : DY 24/3691

[4] Leo Zuckermann gửi Wilhelm Pieck, Berlin 9 tháng sáu 1950. BA : NY 4182/1269

[5] W. Ulbricht gửi Hermann Axen, 29 tháng ba 1951. BA : NY 4182/1269

[6] Bộ trưởng Mielke gửi Tổng thanh tra Gutsche. Berlin, 5 tháng tư 1951. Bundesbeauftragter für die Unterlagen des Staatssicherheitsdienstes der ehemaligen Deutschen Demokratischen Republik (Thư khố của Bộ công an cũ Stasi) (B St U) : MfS-BdL/Dok. Nr. 003670

[7] Verwaltung Gross-Berlin, Abtlg. II, gez. Herbst, tháng hai 1957, Arbeitsrichtlinie. B St U : MfS AS 1310/67, trang 000015

[8] Nhật kí của R. Schröder 6 juillet, 6 tháng tám và 23 tháng chạp 1950. Fonds Maria Schröder (FMS)

[9] Eckart Michels, Deutsche in der Fremdenlegion. Mythen und Realitäten. Paderborn 1999, tr. 160

[10] BA: NY 4090/488

[11] Peter Scholl-Latour, Der Tod im Reisfeld. Dreißig Jahre Krieg in Indochina. München 1988, tr. 29.


[12] Wilhelm Reschl, Europas letzte Söldner, in : DAMALS, 2/96, tr. 69.

[13] Jean-Luc Einaudi, Viêt-Nam! La guerre d’Indochine (1945-1954), Paris 2001, tr. 133.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười, 2007, 09:56:47 pm gửi bởi Tunguska » Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #3 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 05:10:05 pm »

IV – Những người chống phát-xít tị nạn ở Paris – Con đường dẫn họ vào Lê Dương

Người Đức trong đội quân Lê Dương luôn luôn chiếm một tỉ lệ cao. Họ được coi là những người lính Lê Dương gương mẫu , kỉ luật, dũng cảm, hung hãn và luôn luôn “sẵn sàng nhận lệnh”.[14] Nhưng điều này không đúng tí nào đối với những thanh niên Đức sang Pháp tị nạn từ sau năm 1933, trong đó chỉ có một số ít gia nhập Lê Dương trong thời gian 1933-39, bởi vì “những người bị chế độ nazi bức hại..., do thành phần xuất thân, trình độ học vấn... và nghề nghiệp của họ, cũng như do chính kiến và thể chất, không mấy tương ứng với mẫu lính lê dương tiêu biểu, thường xuất thân từ những giai cấp bên dưới... ít học..., tứ cố vô thân, đi làm thuê trong nông nghiệp hay công nghiệp, nay đây mai 22] Về mặt vật chất, cuộc sống rất chật vật. Để có thể sống qua ngày đoạn tháng, Schröder phải đi làm thêm trong một xưởng dệt, có lúc phải vác những tấm thảm đi gõ cửa rao bán từng nhà.

Một người bạn hồi đó, Fritz Meyer, bị giam cùng trại tập trung với Schröder. Năm 2003 ở Paris, ông Meyer kể lại cho tôi: khi tới sân vận động Colombes (ngoại ô tây bắc Paris, chú thích của ND), họ được người ta nói rõ là họ sẽ ở mãi sau hàng rào kẽm gai cho đến ngày chiến tranh kết thúc, trừ phi là họ đăng kí đầu quân vào đội Lê Dương; ai “tình nguyện” đầu quân thì gia đình sẽ không bị đưa đi tập trung. Sau này, Schröder viết: “Chỉ nghĩ tới việc vợ tôi và cháu bé chưa đầy một tuổi thôi nôi phải vào trại an trí là tôi thấy không tài nào chịu nổi rồi”.

« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười, 2007, 10:02:01 pm gửi bởi Tunguska » Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #4 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 05:13:40 pm »

V – Từ Paris đến Hà Nội qua Sidi Bel Abbès

Thật ít có khả năng Schröder và Borchers quen nhau từ Paris... Erwin Borchers sinh năm 1906 tại Strasbourg, người vùng Alsace gốc Đức. Cha ông làm thợ tiện trước khi trở thành quân nhân, là người nước Phổ. Mẹ ông quê vùng Alsace, thuộc một gia đình sống bằng nghề trồng nho. Gia đình Borchers như vậy là một gia đình sống ở vùng giáp ranh giữa hai nước, bị xâu xé giữa hai quốc gia và giữa hai chủ nghĩa quốc gia. Con người ở đây dễ bị lâm vào thảm kịch “cái gì của con người cũng bị chính trị hoá”, có nguy cơ ngày mai là anh hùng... (và) ngày kia biến thành tên phản quốc26] Ông còn nói tới “sự hoàn toàn vô tích sự”, “sự ngu xuẩn, tàn bạo và thô tục trong cuộc đời” của “tên lính Lê Dương Schröder, nguyên là phu đào huyệt, nay làm lính dắt la kiêm ‘ông già khố đế’” để nói rằng chỉ còn sống nhờ những bức thư của vợ con.[27] Đầu năm 1941, uỷ ban đình chiến Đức tới trại Lê Dương, yêu cầu phải dẫn độ toàn bộ lính Lê Dương người Đức. Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Lê Dương chỉ chịu nhận dẫn độ những ai tự nguyện xin về Đức sống dưới chế độ Reich thứ III. Tướng Maxime Weygand, tổng đại diện của Pétain ở Bắc Phi, tìm cách bảo vệ những binh lính Lê Dương người Đức; theo đề nghị của ông, Biệt đội Ma, gồm “khoảng một trăm phần tử đối lập với chủ nghĩa quốc-xã là những người đặc biệt dễ bị truy bức... cộng thêm mấy đào binh của quân đội Wehrmacht”,[28] được đưa sang Đông Dương trước khi họ bị Uỷ ban đình chiến Đức bắt được. Điều này chứng tỏ, ngay trong nội bộ của những hệ thống tư tưởng, “phán đoán từng cá nhân cũng phải uyển chuyển và căn cứ vào hành xử của mỗi người”.[29]

Ngày mồng 1 tháng tám 1941, trên tàu Cap Pandaran ghé bến Madagascar, Schröder viết cho vợ một lá thư dài, kể rằng ngày 4 tháng bảy, ông cùng khoảng một trăm người đã lên tàu ở cảng Dakar. Ông khoe đã đánh cuộc với “B” – chắc là Borchers – về một động từ bất quy tắc hiếm có trong tiếng Latinh, và “anh đã được cuộc”. Đọc Bergson và Hobbes. “Bọn anh ở chen chúc dưới hầm tàu,... nhưng người An Nam còn ở khổ hơn thế”. Họ cập bến Sài Gòn ngày mồng 3 tháng mười một, rồi mấy ngày sau, đi xe lửa ra bắc, đến Việt Trì, cách Hà Nội 80 km về phía tây-bắc.[30]

Chẳng mấy lúc, Borchers và Schröder mất hết ảo tưởng về phong cách chính trị - quân sự của đội quân Lê Dương. Toàn quyền Decoux ngày càng áp đặt nhãn quan “cách mạng quốc gia” và “suy tôn chiến sĩ” theo đúng đường lối của Pétain. Đó không phải là bầu không khí dân chủ và chống phát-xít họ chờ mong, mà giống như bầu không khí mà họ đã trốn tránh. Vấn đề chống Nhật không đặt ra vì Decoux đã kí kết thoả ước chấp nhận sự chiếm đóng của quân đội Nhật Bản, như Pétain đã kí kết với Đức ở bên Pháp. Lí do Decoux nêu ra là để duy trì Đông Dương cho nước Pháp. Borchers và Schröder đã nhận thức ra thực tại của chế độ thực dân và được biết người An Nam đang hoạt động kháng chiến ở vùng Đông Bắc. Tổ chức kháng chiến còn phôi thai của Pháp tại Đông Dương thì chủ trương Đông Dương phải trở về trong lòng đế quốc Pháp, do đó họ từ chối mọi sự hợp tác với Việt Minh và dân chúng trong công cuộc kháng Nhật. Ngày 9 tháng ba 1945, Nhật đảo chính, Pháp thua... Việt Minh kêu gọi cùng nhau kháng chiến chống Nhật, rồi kêu gọi bình đẳng và độc lập, phía Pháp không hiểu ra. Ngay cả đến năm 1946, khi Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng nội vụ, đón chào Leclerc, tổng tư lệnh Pháp, bằng câu : “Là người kháng chiến Việt Nam, tôi xin chào một người Pháp kháng chiến vĩ đại...”,[31] thì cũng vẫn thế.

Chú thích :
[14] Jean-Pierre Hallo, Monsieur Légionnaire. L’homme et ses traditions. Paris 1994, tr. 29, trích dẫn theo Michels, sđd., tr. 190.
[15] Michels, sđd., tr. 104
[16] Michels, sđd., tr. 119 và 164
[17] Raymond Aron, Mémoires, Paris, Julliard 1983, tr. 72/73
[18] FMS
[19] Lebenslauf des Schröder, Reiner, Josef, Rudy. Berlin 9 tháng mười một 1951, in: B St U: Ddn. AIM 808/59, tr.000058-000063
[20] Leo Spitzer gửi Raymond Aron. Cologne 24 tháng chín 1933, trong : Thư khố riêng của Raymond Aron, hộp 209, với sự cho phép của Dominique Schnapper và Elisabeth Dutartre.
[21] Klaus Brill gửi Max Horkheimer, New York. Paris 31 tháng ba 1936, trong: Max Horkheimer, Gesammelte Schriften, vol. 15: Briefwechsel 1913-1936. Frankfurt am Main 1995, tr. 504
[22] Max Horkheimer gửi Raymond Aron, Paris. New York 20 tháng mười một 1936, trong: Horkheimer, sđd., tr. 729
[23] Reinhold Schneider, Verhüllter Tag, Köln 1962, tr. 164
[24] Bà mẹ của Erwin Borchers cũng bị ông cụ thân sinh truất quyền thừa kế vì đã lấy một “tên Phổ bẩn thỉu” (Saupreuße). Thông báo miệng của Lilo Ludwig, em gái Borchers, Berlin 28 tháng sáu 2003.
[25] Lebenslauf. Berlin 14 mai 1966, trong : B St U : MfS AP 14061/73, trang 000008
[26] S. P. 554, 6 tháng bảy 1940; trong: Fonds Philippe Delaunay (FPD)
[27] R. Schröder gửi Hilde Schröder, 23 tháng chín 1940, Bel-Abbès 16 tháng hai 1941 và Bel-Abbès 27 tháng hai 1941
[28] Michels, sđd, tr. 136
[29] Raymond Aron, Lời tựa, trong: André Thérive, Essai sur les Trahisons, Calman-Lévy, Paris 1951, tr. XIV
[30] Thư Schröder gửi vợ, 1 tháng tám 1941, trong : FPD
[31] Jean Lacouture, Hô Chi Minh. Seuil, Paris 1967, tr. 115

« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười, 2007, 10:03:20 pm gửi bởi Tunguska » Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #5 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 05:15:18 pm »

VI – Vượt khỏi sự dấn thân dân tộc...

Đến đây, tôi muốn dành đôi dòng để nêu câu hỏi này: Vì sao Schröder và Borchers đã sẵn sàng hợp tác với cuộc kháng chiến của Việt Minh và đã tham gia Việt Minh với “lương tâm yên ổn và hăng hái tin tưởng” [32] ? Đối với những người yêu nước và dân tộc chủ nghĩa (câu hỏi này đặt ra cho người Đức và người Áo trong hai cuộc thế chiến, và cho người Pháp trong các cuộc chiến tranh thuộc địa), câu hỏi đặt ra là: làm sao tưởng tượng nổi là người ta rời bỏ cái nôi quốc gia tự nhiên và đứng sang hàng ngũ địch? Cần phải nhấn mạnh là Schröder cũng như Borchers đều không phải là những người cộng sản chính thống, họ không coi cách mạng là mục tiêu tối thượng.

Vậy thì cái gì đã thúc đẩy họ rời bỏ hàng ngũ? Ban đầu, như ta thấy, quyết định đầu quân Lê Dương là do hoàn cảnh đưa đẩy. Đối với Schröder, thế giới “thiếu sự nhất quán”, “chẳng có cách nào thoát khỏi phi lí”.[33] Nhưng bước sau, gia nhập Việt Minh, là một quyết định gay go hơn nhiều, bởi vì đi với Việt Minh là qua sông đốt cầu với Tây Âu. Cảm tưởng của tôi là đối với người trí thức – nhưng không riêng gì trí thức – có một sự “giác ngộ”, một ước vọng về một thế giới ‘tự nhiên’, thì ý muốn tham gia vào một chính nghĩa vừa có tính chất chính trị vừa có tính chất đạo lí... Sự giác ngộ ấy được thể hiện trong tập chuyện tranh nhan đề Les Oubliés d’Annam (Những người bị quên lãng ở An Nam): sau ngày Paris giải phóng, một thanh niên kháng chiến Pháp đầu quân vào Lê Dương để tiếp tục chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, và phải đối mặt với một biến cố làm anh phải nhìn thế giới với một con mắt khác. Một tên lính Lê Dương cũng người Pháp cãi nhau với người phu xich lô về giá cả chuyến xe, rồi rút dao đâm chết anh xích lô. Anh thanh niên Pháp khởi tố tên lính Lê Dương, tên này chỉ bị 15 ngày tù. Anh viết thư cho mẹ: “Con không những tham gia vào một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, mà còn ở trong một quân đội gồm những tên sát nhân. Ô nhục quá...”. Và “càng ô nhục hơn nữa, vài ngày sau, người đầu bếp trại lính vốn khoái thịt chó đã bị kết án một tháng tù vì tội làm thịt con chó của đại u39] tuy lúc đó Trường Chinh không nói mình là ai. Tôi có cảm tưởng chi bộ Lê Dương đã được sáp nhập vào ĐCSĐD vào đầu mùa hè 1944, [40] và đó là mối liên hệ duy nhất thực sự giữa Việt Minh và nước Pháp tự do trước ngày Nhật đảo chính 9 tháng ba 1945. Trường Chinh đã đề nghị các phần tử người Âu chống phát xít hãy cộng tác với Việt Minh song không nhóm nào, phe De Gaulle hay Đảng xã hội, muốn chấp nhận ý tưởng một nước Việt Nam độc lập. Viễn cảnh liên minh quân sự Âu-Việt chống Nhật với mục tiêu Việt Nam độc lập đã tan biến.


VII - …tiến tới đoàn kết cộng hoà & chống thực dân

Sau ngày 9 tháng ba, một vài người Pháp quy phục Việt Minh vì muốn trốn tránh sự đàn áp của quân Nhật. Borchers, Frey và Schröder cùng mấy ngàn binh sĩ bị Nhật bắt làm tù binh, lúc đầu bị giam trong thành Hà Nội, sau đó bị đưa lên trại “tận diệt” gần Hoà Bình.[41] Họ bị lao đao vì bệnh kiết lị và thương hàn. Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám, Việt Minh tiến hành Cách mạng tháng Tám như một dòng thác lũ dân tộc chủ nghĩa. Schröder ghi : “Người an-nam-mít đã trở thành người Việt Nam”.[42] Ngày 2 tháng 9, Hồ chủ tịch tuyên bố độc lập với mục đích xây dựng một quốc gia đoàn kết thành một khối thống nhất và thuần nhất.
Các tù binh được trả tự do ngày 16 tháng 9. Frey-Schröder đã có nhiều cuộc họp với các đảng viên xã hội tập hợp chung quanh Louis Caput, có lẽ với sự thoả thuận ngầm của Jean Sainteny, với mục đích dùng các đảng viên chi bộ làm trung gian nhằm đưa chính phủ Hồ Chí Minh nhận thương lượng với các đại diện của Pháp có mặt tại chỗ, nhưng đại diện Pháp không chấp nhận độc lập là điều kiện tiên quyết – tối cùng, họ chỉ chấp nhận thảo luận về những phương thức đưa tới một nền độc lập trong tương lai. “Họ vẫn dùng chữ An-na-mít”, Frey nhận xét, “còn chúng tôi nói: Người Việt Nam”.[43]

Frey thu xếp với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp để ông và hai bạn Walter Ullrich và Georges Wächter chuyển sang hàng ngũ Việt Nam, vì như lời Borchers, “nơi đây, triết học sắp trở thành thực tiễn, và tôi có cảm tưởng họ sẽ cần tới chúng ta”.[44] Cuộc đào ngũ của họ được nguỵ trang thành một công tác gián điệp cho chính quyền Pháp (như Schröder viết) hay một công tác do Caput-Sainteny giao cho nhằm thuyết phục những người lãnh đạo Việt Minh chịu thương lượng với Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Bắc Kì. Nhóm đồng chí đi ra khỏi Thành cổ Hà Nội trong một chiêc xe Buick cũ. Tôi mường tượng công cuộc mới này quyến rũ và kích động họ tới mức nào. Họ vừa sống sót sau một cuộc đại chiến, họ còn trẻ tuổi, và chắc mẩm đã tìm ra chính nghĩa...

Đầu mùa thu 1945, Nhật đầu hàng và Việt Nam tuyên bố độc lập, người Pháp không còn có thể nói họ ở Đông Dương để đánh các lực lượng phát xít phương Đông như trước đó họ chiến đấu chống Đức quốc xã và chính quyền Quốc gia Pháp cô-la-bô. Nói như vậy chẳng ai tin. Từ nay, rõ ràng người Pháp là kẻ xâm lăng, chống lại những người yêu nước, những người quốc gia đang bảo vệ nền độc lập của đất nước; một cách nào đó, họ đã trở thành bọn Nazi của người Việt Nam và Việt Minh. Quân lính Pháp ngày càng thắc mắc, nghi hoặc : “Trước mặt họ, người ta nói thế, là Cộng sản; nhưng Cộng sản là như thế nào? Ở Pháp, chính đảng số 1 không phải là Cộng sản sao?... Có thể nào tin vào lời nói cửa miệng của bọn lãnh đạo tồi tệ như vậy không?... Có một điều họ chắc chắn : trước mặt họ, là những người Việt Nam chiến đấu cho độc lập của đất nước họ”.[45]

Vì thế mà có một số, với những động cơ khác nhau, đã quyết định bước sang hàng ngũ “bên kia”, trong đó có những quân nhân Nhật và những người trong lực lượng võ trang Pháp (trong đó phải kể những người Maroc, người Algérie) và một số dân sự. Họ mang tới cho Việt Minh những tri thức quân sự và kĩ thuật. Frey có viết về những người lính Nhật đào ngũ mà Ban chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam sử dụng rất thận trọng vì nghi họ có thể làm gián điệp... Stefan Kubiak, một người Ba Lan táo bạo, tỏ ra là một người thợ máy cừ khôi, có biệt tài là “cái thú sửa chữa các vũ khí bị hư hỏng hay mới chiếm được của địch như đại bác, súng cối...
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười, 2007, 10:05:01 pm gửi bởi Tunguska » Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #6 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 05:15:58 pm »

...
Trong những người đổi hàng ngũ nói trên, có những người đã làm vì tinh thần đoàn kết xuyên quốc gia, họ “đã chọn một tổ quốc mới, tin tưởng vào nhân sinh quan và đường lối chính trị của tổ quốc mới – họ nói tới tổ quốc cũ như là nói tới một đất nước thù địch”.[47] Sau khi những người “phản quốc vì lí tưởng” ấy đã bước sang “bên kia”, họ được tổng bí thư Trường Chinh phân công vào cơ quan tuyên truyền (riêng Walter Ullrich công tác trong quân đội, sau được phong hàm trung tá, dưới bí danh Hồ Chí Long; còn Georges Wächter tức Hồ Chí Thọ trước khi làm báo đã theo học trường kĩ sư ở Vienna, nên được sắp xếp làm công tác kĩ thuật và tổ chức). Schröder làm bình luận viên Đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, còn Frey làm việc dưới quyền tướng Giáp, nghiên cứu quân sự và tổ chức những lớp học quân sự đầu tiên cho Quân đội Nhân dân. Borchers mang quân hàm trung tá, làm chính uỷ phụ trách tuyên truyền địch vận; ông có nhiệm vụ biên tập các tài liệu tuyên truyền tiếng Pháp và tiếng Đức, và từ năm 1951 trở đi, phụ trách tuyên huấn cho khối tù binh Lê Dương người Đức. Bộ ba Borchers, Frey và Schröder chuẩn bị xuất bản tuần báo La République (Cộng hoà), rồi Le Peuple (Nhân Dân) “nhằm làm cho người Pháp thấy chính phủ Việt Nam và Việt Minh không phải là phiến loạn mà là những tổ chức hợp pháp, dân chủ. Mọi mưu toan dùng võ lực tái chiếm sẽ được coi là vi phạm nhân quyền”.[48] Có lẽ những tờ báo này cũng nhắm cả giới độc giả thượng lưu Việt Nam biết tiếng Pháp.
Báo Le Peuple ra từ ngày 7 tháng tư đến 26 tháng chín 1946; nó kêu gọi tất cả những người thiện chí hảy ủng hộ nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nghĩa là phản đối việc tách Nam Kì ra khỏi chủ quyền Việt Nam như Truman, Stalin và Churchill đã quyết định hồi tháng bảy-tám 1945 ở Potsdam. Các tiến sĩ người Đức (Jacques Doyon[49] đã gọi họ như vậy) viết báo dưới những bút hiệu: Frey thì kí tên là Nguyễn Dân, Borchers trở thành Chiến Sỹ, Schröder kí Lê Đức Nhân hay Walter R. Stephen; còn một người Đức nữa, Siegfried Wenzel, thì lấy bút hiệu Đức Việt. Họ trở thành những người Việt mới: “nơi ấy từ nay là tương lai, là tiền đồ của tôi, tôi tin chắc ở điều đó”, sau này Frey đã viết như vậy, còn Schröder thì khẳng định: “cả ba chúng tôi đều coi Việt Nam là tưong lai của chúng tôi, và thật sự đã là đất nước của chúng tôi rồi”.[50]

Chú thích :
[32] Bản thảo đánh máy của Schröder 260 trang không tựa đề (MS), FMS, tr. 58

[33] MS, p. 174

[34] Lax-Giroud, Les Oubliés d’Annam, édition intégrale, Aire Libre, Dupuis (1990 et 1991) 2000, tr. 54-55

[35] Ernst Frey, Vietnam mon amour. Ein Wiener Jude im Dienst von Hô Chi Minh, nhà xuất bản Doris Sottopietra, Vienne 22002, tr. 64 et 94. Frey muốn theo học hoá học kĩ thuật

[36] như trên., tr. 118/119, 121, 170

[37] Ferry Stern, Und ist es auch Wahnsinn, tr. 655. – Đây nguyên thuỷ là bản thảo 1216 tranh đánh máy của Frey, được FS biên tập và xuất bản..

[38] Stern, sđd., tr. 692-726

[39] Borchers, Lebenslauf, tr. 000010/11

[40] Stern, sđd., tr. 704

[41] Schröder, MS, tr. 113


[42] như trên, tr. 117

[43] Stern, sđd, tr. 793

[44] Schröder, MS, tr. 58

[45] Gérard Tongas, J’ai vécu dans l’enfer communiste au Nord Viêt-Nam. Les nouvelles éditions Debresse, Paris 1960, tr. 173

[46] Arkady Fiedler, Im Lande der wilden Bananen, VEB F.A. Brockhaus Verlag, Leipzig 1959, tr. 170

[47] Margret Boveri, Verrat im 2o. Jahrhundert, I – Für und gegen die Nation, Rowohlt, Hamburg 1956, tr.111

[48] Frey, sđd., tr. 206

[49] Jacques Doyon, Les Soldats Blancs de Hô Chi Minh, Fayard, Paris 1973

[50] Frey, sđd., tr. 206; Schröder, MS, tr. 60
Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #7 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 05:19:42 pm »

VIII – Vỡ mộng, tìm đường trở về

Các nhà lãnh đạo của nước Việt Nam mới chủ yếu là những trí thức hay những nhà cách mạng chuyên nghiệp, phần đông đã học trường trung học Pháp-Việt và thạo tiếng Pháp, nhưng họ chưa bao giờ ( ở đây chỉ nói là chưa từng làm chứ không phải là không làm được các bác nhá ) là những nhà chiến lược quân sự, kĩ thuật viên, kinh tế gia hay những người tổ chức bộ máy hành chính. Vì vậy những người ngoại quốc từ bỏ hàng ngũ để đi theo kháng chiến, quân nhân cũng như dân sự, học cao và có khả năng kĩ thuật, trung thành với sự nghiệp kháng chiến và sẵn sàng hi sinh, đã được hoan nghênh tích cực, một số đã giữ những vị trí cao.

Borchers, như đã nói trên, được cử làm chính uỷ, với quân hàm trung tá trong quân đội, phụ trách địch vận. Hữu Ngọc, nhà báo và nhà văn nổi tiếng, phụ trách khối “hàng binh” người Âu trong thời kì chiến tranh (dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Chí Thanh). Từ năm 1947, cùng với bạn là Borchers, đã ấn hành các tờ báo Waffenbrüder – Kampforgan der Deutschen im Dienste Viet-Nams và Frères d’armes – Organe de Combat des Amis du Viet-Nam (Chiến hữu -- Cơ quan ngôn luận của những người Bạn của Việt Nam). Đến năm 1950, hai tờ này đổi tên thành Heimkehr và Retour (Trở về). Chiến Sỹ còn dạy tiếng Đức cho Hữu Ngọc, và “nhất là văn hoá Đức!” (theo yêu cầu của Hữu Ngọc). Giữa thập niên 1950, Hữu Ngọc đã dịch các chuyện kể của anh em họ Grimm ra tiếng Việt – âu cũng là hệ quả thứ yếu của một cuộc chiến tranh ghê gớm từ đó đã nảy sinh những gì anh hùng, cao đẹp nhất cũng như những gì thú tính và tàn bạo nhất của con người.
Sau trận Điện Biên Phủ, Borchers về Hà Nội công tác ở Bộ thông tin. Cuối thập niên 1950, làm thông tín viên cho ADN (Thông tấn xã Đông Đức), đồng thời cung cấp “tin tức nội bộ” cho đại sứ quán CHDCĐ. Cho đến ngày nay, tên tuổi Chiến Sỹ vẫn còn là một huyền thoại, song, cũng như mọi huyền thoại, đương nhiên nó đã được gạn lọc, mọi “thực tế phũ phàng” đều bị gạt ra để phục vụ lợi ích cách mạng... Georges Boudarel, bạn thâm giao của Borchers, đã kể lại cho tôi rằng Chiến Sỹ cũng đồng tình với ông trong thái độ phê phán ngày càng mạnh . Đúng là Borchers đã tiêm nhiễm tư tưởng xét lại từ năm 1956 lan truyền trong Đảng – Borchers và Boudarel đều bị quy kết là thành phần xét lại. Mặt khác, đối với các đại diện Đông Đức ở Hà Nội thì Borchers bị coi là quá Việt Nam, còn đối với người Việt Nam, tôi ngờ rằng Borchers vẫn bị coi như người nước ngoài. Tất cả những yếu tố ấy gộp lại đã góp phần đưa tới ý định trở về Âu châu, song những cuộc ném bom Mĩ bắt đầu ở miền Bắc mới là nguyên nhân quyết định: Borchers ngán sợ chiến tranh, ông nói thẳng với vợ con là ông không kham nổi thêm một cuộc chiến tranh nào nữa. Ứơc muốn của Borchers là về sống ở sinh quán là thành phố Strasbourg, nhưng Strasbourg thuộc lãnh thổ Pháp, mà đối với chính quyền Pháp ông là đào ngũ và phản quốc. Vì vậy, năm 1966, cùng với bà vợ và sáu trong số bảy người con, Borchers về sống ở Cộng hoà Dân chủ Đức. Tại đây, ông được xếp vào làm việc ở Ban Phi châu của Đài phát thanh quốc tế Berlin. Về mặt chính thức, Borchers được coi là một chiến sĩ chống phát xít và quốc tế chủ nghĩa, nhưng năm 1968, ông bị Đảng kỉ luật vì đã biểu lộ cảm tình với phong trào Mùa Xuân Praha. Một báo cáo của cơ quan Stasi hồi tháng tám 1968 ghi rằng Borchers thường tỏ ra “không quán triệt đường lối của Đảng ta”, liên tục “thắc mắc hoài nghi những mục tiêu” mà Đảng ( Đảng Cộng sản Đức ) đề ra.[51] Năm 1985, Borchers sang Tây Berlin ở đó cho đến ngày ông chết (bốn năm sau). Còn người vợ cũ của ông, thì cách đây (9-2004) vài tuần, đã từ trần tại Berlin.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nguyên là giáo sư sử học. Nghệ thuật quân sự, ông phải học từ A tới Z; tôi ngờ rằng trong quá trình tập sự ấy của tướng Giáp, có phần đóng góp của người bạn ông là Nguyễn Dân. Ernst Frey tham gia Việt Minh, được cử làm cố vấn quân sự cho tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (các bạn của Frey, trong các thư từ trao đổi, thường gọi ông là Gottöberst, tức là người ở bên cạnh Thượng đế) và cho một nhân vật huyền thoại là tướng Nguyễn Sơn . Khi được trao nhiệm vụ phụ trách Khu IX là khu vực bảo vệ ATK (An toàn khu, cơ sở của các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ), Frey trở thành uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Là một người ham thích quyền lực, đến năm 1949-50, khi các cố vấn Trung Quốc xuất hiện, Frey không thể không nhận ra rằng mình không còn cần thiết đối với Việt Minh như hồi 1945. Trong bản thảo để lại, Frey kể lại nỗi tuyệt vọng của mình trước bầu không khí khủng bố và chính sách thanh lọc bộ máy đảng, trước tình huống cuộc cách mạng bắt đầu ăn thịt những đứa con của chính mình.. Cũng cần nói thêm: chính Frey đã ra lệnh (cho Walter Ullrich tức Hồ Chí Long) xử tử hai cựu binh lê dương bị tình nghi. Nhưng, như tôi đã nhấn mạnh ở phần trên, Frey mang nặng mặc cảm “cứu thế” – ông toàn tâm toàn ý hiến thân cho giấc mộng ý thức hệ là cải tạo thế giới, một thế giới mà ông cho là “tính bản ác”. Căn bệnh cuồng loạn hưng phấn (hystérie enthousiaste) ấy ở Frey là do di truyền từ bà mẹ. Frey là một thứ tu sĩ thừa sai, tin tưởng ở ngày Tận thế gần kề, thậm chí, như ông đã kể lại cuộc đấu tranh với quỷ dữ cho Pierre Sergent : “Tôi nhìn thấy mình đang vật lộn với bọn ác quỷ ngự trị để giải thoát nhân loại, như chúa Jesus vậy... Tôi biết, tôi ngộ”.[52] Ông tự nhiên thấy những ảo ảnh hiển linh, bị mặc cảm tội lỗi dằn vặt, trong lòng như bị quỷ ám, và quyết tâm đi tìm sự cứu rỗi – cứu mình thoát khỏi chính mình, hay thoát khỏi một tình cảnh không lối thoát ? – trong sự tân tòng Công giáo. Tại Việt Nam, tôi được nghe kể là Frey trở thành vĩ cuồng, rồi phát điên. Tháng năm 1951, ông lên đường về Áo. Vài năm sau, trở thành con chiên sùng đạo. Vốn là người nhiệt tâm, tất nhiên ông phục vụ say sưa cho Giáo hội công giáo, “ngoài Giáo hội, không thể có cứu rỗi”.

Như vậy là khi nhận thấy trong hàng ngũ Việt Minh, mình đã mất dần ảnh hưởng và trở thành vô dụng, Frey đã “phát điên”. Để tìm ra đáp án cho một thực tế quá đớn đau, ông đã chọn giải pháp tín ngưỡng. Đó cũng là cách giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: rời Việt Nam và trở về nước. Thật vậy, tôi tự hỏi, muốn trở về và được chấp nhận, trong tình cảnh của E. Frey, phải chăng chỉ có một cách là trở về như một người “khác” – “khác” con người trước kia phải ra đi vì bị ruồng bỏ – cụ thể là trở về như một tín đồ Công giáo sùng đạo. ‘Giải pháp’ này có ưu điểm là nó thoả mãn truyền thống văn hoá thống trị của nước Áo. Bằng sự ‘tái sinh’ trong niềm tin Công giáo, Frey có thể tìm ra chỗ đứng trong xã hội Vienna. Ở một cấp độ khác, theo đạo còn là cách tiếp tục cuộc thánh chiến thường trực mà ông đeo đuổi là giải thoát thế gian khỏi sự ngự trị của cái Ác.

Về tới Vienna năm 1951, Frey đến trụ sở Đảng cộng sản để báo cáo về các hoạt động và chiến tích của mình từ năm 1938. Rồi ông lấy vợ, sinh được hai đứa con gái, sống bằng nghề đi chào hàng may dệt. Tại Vienna, quây quần chung quanh Frey là cả một lứa thanh niên say mê nghe ông kể chuyện quá khứ, coi ông là cha đẻ tinh thần, là mẫu mực chính trị. Chưa hết. Công việc chào hàng nay đây mai đó, đưa ông đi khắp các miền nước Áo và nước Đức, cũng là cơ may để ông thoát ra khỏi kiếp sống tiểu tư sản và thân phận một người kể chuyện. Thật ra, Frey có máu cờ bạc, đi chào hàng cũng là dịp đi khắp các sòng bạc. Trên thảm xanh của sòng bạc, chẳng hạn như sòng bạc Baden-Baden, nửa say nửa tỉnh, ông muốn tìm lại những cảm giác mạnh của những cuộc phiêu lưu mạo hiểm đã lùi vào quá vãng, mà nay ông muốn tái tạo trên chiếu bạc dưới con mắt dò xét của hồ lì. Vào những năm cuối đời, Frey bỏ đạo để hoạt động bảo vệ môi trường, rồi lại đùng đùng bỏ đảng xanh, về làm đầu bếp tại xứ đạo của một người bạn là linh mục Faust, làm việc quần quật để trang trải những món nợ sòng bạc. Ông từ trần năm 1994 tại Vienna, với lời trối trăng để lại cho hai người con gái: “Các con phải xuất bản cho được cuốn sách của bố”.

Còn đối với Rudy Schröder, xác tín duy nhất của ông là sự phi lí của cuộc sống: không phải tình cờ mà ông đã nghiền ngẫm tác phẩm L’Être et le Néant (*). Trong thư viết ngày 29 tháng năm 1946 cho vợ, ông đề cập tới khả năng hai vợ chồng sẽ sinh sống ở Việt Nam. Tháng chạp 1946, khi chiến tranh bùng nổ, Schröder được phong trung tá, và tình nguyện xin ra tiền tuyến. Ngày 9 tháng tư 1948, tướng Giáp (bí danh Văn) viết thư mừng chiến công của Schröder : “J’apprends avec joie ton retour. Et avec beaucoup de plaisir le joli coup de main que tu as dirigé contre les Tho Phi… Cordialement ton Van.55] Ông bị Đảng phê bình. Và đó cũng là nguyên nhân tại sao – hay cũng chỉ là cái cớ – ông không còn được tướng Giáp sủng đãi nữa.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười, 2007, 10:08:31 pm gửi bởi Tunguska » Logged
Red_army_vn
Thành viên
*
Bài viết: 14


« Trả lời #8 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2007, 09:20:20 pm »

Các cuốn nhật kí viết ở Việt Bắc của Schröder là nguồn tư liệu quý giá giúp ta hiểu nhiều điều, đặc biệt là mối quan hệ giữa hàng binh người Âu và các đồng chí Việt Nam của họ. Tháng tám 1951 ông rời Việt Nam, tháng mười một về tới Cộng hoà Dân chủ Đức, dạy Đức văn và lịch sử trong một trường trung học ở thành phố Dresden.

Năm 1953, ông kí hợp đồng làm việt cho cơ quan mật vụ Stasi.[56] Nhiệm vụ của ông là báo cáo về “những phần tử tiêu biểu trong giới trí thức”, nghĩa là về những đồng nghiệp và học trò của mình, cũng như về bạn bè cũ trong đội quân Lê Dương. Tôi đã được đọc những bản báo cáo này và có thể kết luận Schröder không hề tố cáo ai cả. Ngược lại, trên những trang viết ấy, ông từng bước phê phán chế độ và biểu lộ sự nôn nóng, tuyệt vọng của mình về hoàn cảnh cuộc sống. Vào cuối thập niên 1950, ông bị “khó khăn chính trị” và mất việc. Sau đó ông làm thợ tiện trong nhà máy; cuối năm 1959 cùng với người vợ trẻ, sang Tây Đức. Hi vọng làm báo không thành, cuối cùng Schröder phải nhận một chỗ dạy Pháp văn tại một trường tư ở Frankfurt trên sông Main với đồng lương bạc bẽo. Tháng giêng 1977, ông chết trong cô đơn, tuyệt vọng, nhưng đến giờ phút cuối cùng, Schröder vẫn tiếp tục viết.

Tình cảnh của Frey, Borchers và Schröder của con người sống giữa hai trận tuyến, Zwischenfrontmensch. Năm 1945, Việt Minh nồng nhiệt nhận đón Frey và các bạn ông. Với sở trường về tuyên truyền, tổ chức, hiểu biết kĩ thuật và quân sự về mặt lí thuyết cũng như trong thực hành, họ đã giúp ích cho Việt Minh. Song, sau thắng lợi của chiến dịch biên giới đông bắc năm 1950, tình hình thay đổi hoàn toàn với sự có mặt đông đảo của các cố vấn Trung Quốc, từ đó bắt đầu một quá trình “cải tạo cộng sản chủ nghĩa” trong một phong trào cho đến lúc ấy vẫn mang sắc thái của một mặt trận nhân dân. Từ nay, cố vấn Trung Quốc mới là đồng chí cách mạng quốc tế chủ nghĩa, còn hàng binh Âu châu là người ngoại quốc, người ngoài, là những kẻ đào tẩu từ hàng ngũ quân địch. Cuối cùng, cái gọi là mối mâu thuần “hiện sinh” giữa những người dân thuộc địa và những người da trắng khiến cho người ta không thể tín nhiệm người Âu[57] bởi vì họ sống “không hài hoà” với quê hương hay với bản sắc của họ; trong con mắt Việt Nam, họ sẽ không bao giờ vượt qua được mâu thuẫn cơ bản đó, đơn giản vì họ không phải là người Việt ! Không những thế, họ là những người có đầu óc phê phán, không bao giờ chịu ngoan ngoãn thi hành chỉ thị của Đảng mà không thảo luận, phản biện. Trong cuộc gặp ở Ban chấp hành Trung ương ngày 15 tháng tám 1950, anh Thận (tức là Trường Chinh) đánh giá họ là “thiếu bồi dưỡng về mặt tư tưởng, và có biểu hiện... chủ nghĩa sô-vanh”. Schröder coi câu nói đó là một lời Hinauswurf, cho “về chơi xơi nước”.[58] Phải nói là ở thời điểm ấy, nhiệt tình cách mạng của mùa thu 1945 nhờ đó họ (những người nước ngoài ) gắn bó khắng khít với nhau trong mấy năm trời nay đã nguội lạnh. Cuối năm 1950, Frey, Schröder, Borchers, Wächter và Ullrich ăn mừng Lễ giáng sinh với nhau và chính những ngày sống chung này đã “rọi sáng những mối quan hệ giả tạo, thậm chí dối trá” giữa họ với nhau, và cho thấy rõ “sự nối kết tạm bợ giữa họ với nhau không xuất phát từ mục đích chung và hoạt động chung, mà chỉ vì họ cùng chống đối”.[59] Chính vì thế mà từ năm 1954 trở về sau, chỉ vài ba người Âu còn ở lại Việt Nam...

Nói theo hình tượng của Adorno, Frey Schröder và Borchers xuất thân từ “cuộc đời thương tổn”. Họ là những con người bị bầm giập, mang đầy thương tích, bị bứt khỏi những ước vọng gia đình, sự nghiệp, dân tộc, bị ném vào một thế giới thù nghịch và phi lí. Trong cơ ngũ Lê Dương, cái không khí “đại đồng”, những “tận tâm, tình đồng đội, cảm giác mạnh mẽ
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười, 2007, 10:12:13 pm gửi bởi Tunguska » Logged
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #9 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2007, 11:09:54 am »

Ảnh của bài viết trên (lấy từ website tapchithoidai.org)



Từ trái qua phải:
Ngồi: Phạm Văn Đồng, Erwin Borchers / Chiến Sỹ, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Võ Nguyên Giáp, Đặng Bích Hà (vợ tướng Giáp) ; Đứng : Lưu Văn Lợi, X, X, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân (Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)





Từ trái sang phải:
Dương Bạch Mai, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Trường Chinh, X,
Georges Wächter / Hồ Chí Thọ, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân
(Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)


Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM