Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 02:39:57 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hành trình qua cánh đồng chết  (Đọc 38676 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #60 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:07:07 pm »

Giữa dòng người cuồn cuộn, chị thoáng lên một cái nhìn tuyệt vọng về phía tôi. Chúng tôi về đến lều, Map không còn ở đó nữa. Cả anh Than và chị Ry cũng không. Phần lớn các lều chung quanh đã được tháo ra, rồi biến mất. Chị Ra kêu lớn bảo tôi tìm Map trong khi chị vội vã gói ghém đồ đạc.
Đám người trôi qua quanh tôi, tôi chăm chăm nhìn từng đứa trẻ tôi gặp. Bọn chúng đều khóc lóc, giống như tôi. Đột nhiên tôi nhìn thấy xa xa một đứa bé đang gào khóc, mắt thì nhìn về hướng mà chị Ra và tôi đang chạy đến. Trên con đường đất nhô cao giữa ruộng lúa, nó bước thình thịch, tay giơ cao huơ lên hoảng loạn trên không trung. Tôi chạy nhanh, hai tay rẽ đám người sang hai bên trong khi mắt cố khỏi mất dấu đứa bé. Đến gần hơn, tôi mới nhận ra được quần áo của nó. Đó chính là Map!
"Map, Map ơi! Chị ở đây, trên này ne!" tôi giơ tay, vẫy loạn.
Map chạy đến tôi, đưa tay chùi nước mắt. Tôi nắm lấy bàn tay kia của nó, Map nhìn tôi. "Em chờ lâu quá" nó càu nhàu "Sao chị không về sớm hơn?" Nó ném cho tôi một cái nhìn giận dữ, hàng lông mi dài nhướng lên rồi hạ xuống.
Tôi nhẹ người và cám ơn Trời Phật đã tìm ra được Map, thấy được khuôn mặt nhỏ xíu giận dữ của nó trách móc tôi, đến nỗi lúc đó tôi quên bẵng cả tiếng súng đang nổ bên tai.
Chị Ra thì đang buồn phiền. Chị gọi lớn bảo tôi mang đống đồ đạc gồm bao lúa, soong, nồi…tất cả đều buộc lại để mang bằng đòn gánh. Chị thì nhấc gói đồ của mình lên vai, rồi lại đặt xuống. Chị lấy bớt ra một cái nệm đan, được cuốn lại, dài gần gấp hai lần Map, và đưa cho nó mang. Rồi chúng tôi chạy, hướng về phía cây cầu tạm bắc qua con mương. Đám đông dồn lại. Một tiếng nổ vang dội như sấm sét. Mọi người kêu rú lên như động kinh. Chị Ra bèn bước xuống mương và lội qua phía bên kia. Tôi theo chị. Map ở phía sau, thở hồng hộc. Sức nặng của tấm nệm làm nó chậm lại, kéo ngước nó ra phía sau. Chị Ra thì ở phía trước rất xa, chỉ còn là một hình dáng nhỏ bé trong đám người. Tôi đứng chờ Map. "Đi nào, nhanh lên", tôi tự bảo mình, lo sợ cho Map và cho chính tôi.
Khi một quả đạn đại bác nổ, tiếp theo là một tràng âm thanh trầm đục của súng trường, mọi người càng dồn nhanh về phía trước. Tôi chạy qua một ruộng lúa khô nứt nẻ, đến ruộng khác, rồi leo lên con đường đất cao. "Map, nhanh lên, nhanh lên!" tôi hét lớn, mong cho Map bước nhanh lên. Khi tôi quay lại tìm nó, nó ở rất xa phía sau, cách cả một thửa ruộng, và đang đứng yên. Nó khóc, hai tay vẫn cố cầm tấm nệm còn cao hơn cả nó. Tôi vẫy tay gọi nó tới. Nó lắc đầu. Tôi bèn bỏ gánh đồ xuống và chạy về phía nó, nhưng Map đã buông tấm nệm xuống và đi về phía làng Chhnoel. Tôi kêu thét lên "Không, đừng trở lui!"
Map khuất hẳn sau đám người và đám cây. Tôi đứng yên, chờ nó trở lại, nhưng chỉ thấy những đứa trẻ khác cùng với gia đình của chúng. Tôi bèn đặt gói lên vai và chạy về phía trước.
"Chị Ra, chị Ra, ngừng lại!" tôi gào. Chị quay lại. Tôi ngừng chạy, khóc.
"Map đâu rồi?" Chị hỏi, mắt chị lộ vẻ hoảng sợ.
"Chị chỉ biết lo cho thân chị" tôi hét lớn "Chị không giúp em trông Map. Bây giờ nó đi rồi, chạy lui rồi!"
"Chạy lui đâu?"
"Về phía Khmer Đỏ!" tôi gào lên, rồi chỉ về phía hàng cây và đám người đang chạy.
Chị Ra đặt gánh đồ trên vai xuống, chạy, rồi leo lên đứng trên con đường đất nhô cao "Ming, pao, có ai thấy thằng em con đâu không?" Chị Ra hỏi, tay giơ ra phía trước các người đi qua, nhưng không ai nhìn vào chị.
Đột nhiên một người đàn bà nói với chị Ra "Này Ra, em trai cháu đang đến kia kìa!"
Chị Ra đưa mắt tìm kiếm rồi chân chị nhảy vọt lên trên con đường đất. Người đàn bà vừa nói đang chạy về phía tôi, với hai cô con gái. Tôi bèn hỏi "Dì ơi, em cháu đang chạy đến đây phải không?"
Người đàn bà gật đầu. Bây giờ tôi mới nhớ ra bà là ai – lều bà nằm gần lều chúng tôi ở Chhnoel.
Đột nhiên chị Ra và Map xuất hiện, tấm nệm thì vất đâu mất rồi. Chị kéo Map lên con đường mương. Khi Map đến gần, tôi mắng nó "Thằng điên! Sao lại chạy trở lui! Em không biết là sẽ bị bắn chết hả?"
"Nhưng tấm nệm nặng quá, chân em đau lắm" Map sụt sịt "Chị không chờ em, chị để em đi một mình".
Cả ba chúng tôi cùng chạy đi, bắt kịp người đàn bà kia và mấy đứa con gái. Rồi chúng tôi vượt lên phía trước họ. Khi chúng tôi đến gần làng Kandal, cách làng Chhnoel chừng hai dặm, người phụ nữ từ phía sau gọi tới chị Ra
"Này, nghỉ một chút đi cháu!" bà van vỉ, thở hụt hơi.
Chúng tôi bèn dừng lại cách con mương vài bước.
"Được, chúng cháu nghỉ với dì", chị Ra nói, miệng cũng thở hổn hển.
Người phụ nữ, mệt và chán nản, nói lớn với hai đứa con gái "Ném bớt đồ đi con, nặng quá, mang không nổi.Nhanh, nhanh lên"
Chị Ra cũng nhìn lại đống đồ của mình, chị lấy ra cái nồi, thớt và một bao muối rồi chị kêu lên "Thy ơi, chị không thể ném các thứ này đi được, mình cần chúng!"
Bùm! Một quả đạn pháo đổ xuống gần đó. Chúng tôi vội nhảy xuống mương, rồi chị Ra nhô đầu lên kêu lớn "Dì ơi, ở đây nè!"
Khi tng súng ngưng, chúng tôi leo lên khỏi con mương. Để tránh một cuộc tấn công của Khmer Đỏ từ làng Kandal, chúng tôi chuyển đến một rừng cây cách xa làng này. Tại đây, chúng tôi nằm nghỉ trên mặt đất dưới bóng cây, những người chạy loạn đâu mất cả, chỉ còn chúng tôi. Hai gia đình – người phụ nữ và hai đưá con gái, chị Ra, Map và tôi. Bây giờ tôi mới thở ra hơi, và cảm thấy cả người đau nhức. Trí óc như trôi đi, nhường chỗ cho cơn mệt nhoài. Đầu gục xuống, tôi ngủ gà ngủ gật ngay. Dầu vậy tôi vẫn cố mở mắt và cố nghe chị Ra và người phụ nữ kia nói chuyện về nỗi sợ hãi của họ.
Rồi có ai đó xuất hiện sau hàng cây. Chúng tôi đứng bật dậy, sẵn sàng bỏ chạy.
"Là Meng…chị là Ameng đây mà", chị Ra chạy tới phía cô ấy, tôi đi theo sau.
"Ara, ôi Ara ơi – các chị em tôi, trời ơi, dì tôi, dì tôi…" bang Meng lắp bắp, ngắt quãng "Ara ơi, họ chết hết rồi! Chết rồi! Bọn Khmer Đỏ giết cả gia đình tôi rồi…."
Chị Meng thở hổn hển, người chị run lên bần bật, lắc lư. Tay chị cố nắm lấy cây đòn gánh đang đung đưa hai cái rương to bự trên vai. Chị Ra phải đỡ lấy cây đòn gánh đặt xuống đất.
Thoát khỏi gánh nặng đè trên vai rồi, bang Meng trong tiếng khóc, hãi hùng lắp bắp kể lại cái chết của những người trong gia đình chị. Đang nói, chân chị bỗng khuỵu xuống, rồi chị cố đứng lên. Lúc đó cả một đám ruồi bay lùi lại, bật khỏi chiếc áo đầy máu của chị, nhưng rồi bu lại ngay.
Khi chị bình tĩnh lại, chị kể cho chúng tôi chuyện vừa xảy ra, nước mắt ứa ra đầy mặt. "Lúc đó chúng tôi quá mệt và sợ bị trúng bom đạn nên ngừng chạy, núp vào trong ruộng lúa cùng với bốn gia đình khác cạnh con đường đất. Đột nhiên một người mặc đồ đen, một tên Khmer Đỏ tiến lại. Hắn đến chỗ một đứa bé, một đứa bé trai bệnh hoạn, mặt sưng phù đang nấp cạnh con đường. Ôi, Ara, dì ơi, khủng khiếp quá…" Chị Meng rũ người  ra, run lẩy bẩy.
Cậu bé van xin, tay đưa lên trán. Nó nói "Pao ơi, đừng giết, xin đừng giết cháu!"
"Tên Khmer Đỏ đó nói với cậu bé "Tao không giết mày đâu",nhưng vừa nói thế, hắn vừa rút khẩu súng lục ra và bắn cậu bé, ngay vào đầu. Khi thấy vậy, tôi biết rằng chúng tôi sẽ là những người kế tiếp". Chị Meng kể "Khi hắn bước lại phía chúng tôi, các em trai em gái tôi, dì tôi, các cô gái khác trong gia đình này, cả bà ngoại già…tất cả đều sampeahed [1] hắn. Tất cả đều van xin hắn. "Poo, Khmuy [2], chow [3], đừng giết, xin đừng giết chúng tôi!" Khi hắn đến gần, tôi nhắm chặt mắt lại. Tôi lấy cả khăn và nón để che mặt. Tôi nằm dài ra đất ngay chân của dì, anh chị em tôi. Tôi nghe những tiếng súng, rất lớn. Trời ơi, mọi người ngã xuống trên người tôi. Máu nóng chảy xuống trên người tôi, ướt đẫm cả áo tôi. Rồi tôi cảm thấy một bàn chân giẫm lên ngực, tôi nghĩ hắn đã bắn tôi…"
Về sau, chị Meng nghe tiếng chân bước lại gần. Chị cứ sợ chính tên Khmer Đỏ hồi nãy trở lại để giết nốt chị. Chị kêu lên, run lật bật vì khiếp sợ, nghe tiếng chân dừng lại bên chị. Rồi chiếc nón che đầu chị bị giật ra. Chị run lẩy bẩy, kêu thét lên, đưa tay che mặt. "Đừng sợ tôi", chị nghe một tiếng đàn ông nói "Tôi không làm hại cô đâu. Tôi là một người lính tốt, lính của PARA [4]".
Anh nói rằng khi anh chú ý thấy thân thể chị Meng còn thở, anh biết mình có trách nhiệm phải cứu chị. Sau khi giải thích thái độ của mình xong, anh khuyên chị nên rời Chhnoel, vì thế chị đi đến đây với chúng tôi, một mình, không còn gia đình nữa.
Sau khi nghe câu chuyện của chị Meng, tất cả chúng tôi đều quyết định phải đi xa hơn nữa khỏi Chhnoel và Kandal. Chúng tôi nhập vào một nhóm người ở một vùng đầy cỏ khô. Chỉ một vài đàn ông và đàn bà nói chuyện, đa số thì ngồi ngắm các ngọn cỏ hay nhìn vào khoảng không. Chúng tôi đóng trại đêm ở đó.
Sáng hôm sau bang Meng liều đi trở lại Chhnoel với vài người khác cũng mất gia đình như chị. Nước mắt chị ứa ra khi chị kể về mùi hôi và đống xác người được chuyển đến một cánh đồng khác để thiêu. "Ara ơi, đứa em trai nhỏ của mình đã mất rồi!", chị nức nở. "Nó nhợt nhạt, không còn hột máu, bất động…" Chị yêu cầu chị Ra cùng chị đi xem thi thể của người thân một lần cuối trước khi hỏa thiêu. Trong tình cảnh như vậy, chị Ra không thể từ chối được. Đấu tranh mãi để quyết định xem làm đíều gì là đúng nhất, cuối cùng chị Ra mang cả Map và tôi đi theo vì sợ lại lạc nhau nếu như Khmer Đỏ lại tấn công lần nữa.
Khi chúng tôi về lại Chhnoel, dấu tích hiện diện của Khmer Đỏ vẫn còn. Quần áo nằm lung tung, chăn màn, soong nồi vất rải rác gần các gốc dừa, gốc cây cọ. Tôi rất sợ trở lại nơi này, khi chúng tôi đến gần một ngõ hẹp giữa xóm nhà, một cơn gió ấm mang lại cái mùi kinh khủng. Trước khi tôi kịp hỏi đó là mùi gì, chúng tôi đã thấy một bãi đất tro đen sì, bằng nửa thửa ruộng lúa.
"Ôi trời ơi, họ đà thiêu hết những người thân của mình rồi" Chị Meng thét lên, choáng váng, đưa tay lên che miệng.
Chị vội vã chạy đến chỗ những phần thân thể cháy thành than. Chị Ra chạy theo chị. Nắm chặt tay Map, tôi như mọc rễ xuống đất. Tôi co rúm người lại khi chị Meng và chị Ra lúi húi lục tìm trong đám tro đen những phần thân thể cháy đen còn lại. Mùi khét lẹt đây bật tôi lùi lại, nhưng chính sự im lặng ma quái lại thúc tôi dắt Map lại chỗ hai chị. Bây giờ thì tất cả chúng tôi đều chăm chú nhìn vào những phần thể cháy thành than đó.
"Ara ơi, đây là mấy đứa em gái và dì mình đó. Xem này" bang Meng bước tới nhặt lên một mảnh ngực nhỏ cháy đen "Có lẽ đây là một phần của em trai mình đó. Nó còn nhỏ lắm mà".
Liếc nhìn qua cái bộ ngực cháy đen với xương lồng ngực vẫn còn nguyên vẹn, tôi vội kéo Map đi. Tôi quay mặt đưa mắt nhìn hàng cây và cánh đồng xa xa. Tôi cũng lấy tay che mặt cho Map, bụng tôi sôi sùng sục, muốn ói.
Rồi chúng tôi rời nơi đó, đi trở lại con đường chính của làng Chhnoel, chị Meng kể cho chúng tôi nghe những chuyện chị nghe được vào ngày đầu tiên chị trở lại nơi này. Đưa tay chỉ đám cây cọ, chị nói rằng lính PARA tìm thấy thi thể của một phụ nữ bị sát hại nằm lăn lóc bên cạnh thi thể của đứa con mới sinh, hai chân bị xé toạc ra. Chị nói nhiều đứa bé bị giết bằng cạnh răng cưa sắc lẻm của một cành cọ. Còn một phụ nữ khác bị phù thũng thì bị bắn vào đầu trong nhà. Tôi ước chi bang Meng đừng kể cho chúng tôi nghe những chuyện ấy. Tôi cũng cầu nguyện cho chị Ry và anh Than đã không quay trở lại đây tìm chúng tôi. Tôi cầu mong họ vẫn còn sống ở một nơi nào đó.
 
Chú thích:
[1] Van lạy, cử chỉ kính cẩn bằng cách chắp hai lòng bàn tay vào nau, đưa từ ngực lên cằm
[2] Cháu, tức con của cô, dì…
[3] Con, tức con của mình
[4] Tức Mặt trận Giải phóng quốc gia người Khmer, một tổ chức kháng chiến, chống lại Khmer Đỏ được lãnh đạo bởi Son Sann, một thủ tướng thời còn hoàng thân Sihanouk
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #61 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:11:11 pm »

Hành trình qua cánh đồng chết
________________________________________
CHƯƠNG 16
Chanrithy Him
Hành Trình Qua Cánh Đồng Chết
Dịch giả: Mịch La
CHƯƠNG 16
CUỘC DI DÂN
Chúng tôi tới làng Sala Krao thì gặp một vụ khác đang chấn động dân chúng. Chúng tôi, cùng vừa khoảng mười lăm gia đình đi tìm chỗ trú ẩn an toàn, nhập vào một đám người gồm đàn ông, đàn bà dang giận dữ nhìn về phía ba người đàn ông tay bị trói quặt ra sau lưng. Kèm bên họ là hai người đàn ông mặc quần áo dân thường và hai người bộ đội Việt Nam trong đồng phục màu xanh lục thẫm và nón sắt. Đây là hai trong số bộ đội Việt Nam chúng tôi từng gặp, mặc dù người ta bảo rằng có nhiều bộ đội đóng tại phía bên phải con đường.
"Chúng là Khmer Đỏ" một người đàn ông trong đám đông kêu lên "Chúng mặc thường phục như vậy để xâm nhập vào làng này đấy".
Tâm trí tôi như bị khoá lại, không nhận ra thêm bất cứ tin tức nào nữa. Giọng người đàn ông vẫn đều đều. Tôi không còn nghe nữa. Cơn đau giật nhức nhối của chiếc răng khôn bị sâu bỗng trở lại. Cơn đau làm suy mòn luôn chút sức lực còn lại trong  tôi khi đến Sala Krao. May mắn thay, trên đường đi cùng với các gia đình tị nạn, chúng tôi nhận ra anh Than, chị Ry và Phally, vốn là người giúp việc trước đây của Leng hồi còn ở Phnom Penh. Khi Khmer Đỏ tấn công làng Chhnoel, họ thu xếp chạy về phía nam, rồi họ đi theo các gia đình khác cho đến khi tình cờ chúng tôi lại đoàn tụ. Anh Than và chị Ry mang giúp tôi bao đồ thực phẩm, gánh nặng này đã làm tôi chậm bước nhiều lần. Bây giờ, mặc dù không còn mang vác gì nữa, tôi bước đi vẫn còn thấy khó khăn.
"Athy, nằm xuống đây một chút đã", chị Ry vỗ lên vai tôi, chị đưa tay chỉ một tấm vải trải ra trên đất gần một rễ cây nhô ra ngoài.
Thân thể tôi đòi nằm xuống nghỉ, nên rất vui mừng trước tấm vải đợi sẵn. Nhưng một tiếng nổ lớn vang vọng. Một ánh lửa sáng loà. Đất rung chuyển. Tôi cảm thấy nóng nực. "Mak ơi, giúp con…" tôi nghe thấy mình kêu lên một tiếng kêu dài.
"Nhảy xuống nước, nhảy xuống nước đi, nhanh lên".
"Mak ơi, cứu con…" Vào lúc ấy tôi tưởng rằng mình đã chết, nhưng tôi nhận ra mình đang nằm soãi ra và thấm ướt. Nước bùn chảy vào miệng và tai tôi. Tôi vùng vẫy, cố đứng dậy. Một tiếng nói ra lệnh "Đừng nhỏm dậy, Athy". Tôi cảm thấy có một bàn tay đè lên vai tôi. Tôi mở mắt ra và thấy chị Ry đang nằm bên cạnh. Hóa ra chúng tôi đang nằm dưới một cái ao! Tôi không hiểu nổi…
Đột nhiên có tiếng em bé khóc ré, và chỉ đến lúc đó tôi mới hiểu ra rằng chúng tôi đang bị Khmer Đỏ tấn công lại. Lúc này là ban đêm, một đêm trăng sáng. Nhiều cái đầu mờ mờ rải rác đó đây trên mặt nước. Chị của đứa bé, có lẽ được ba tuổi, cũng khóc – tiếng mẹ nó thì thào "Đừng khóc, nếu Khmer Đỏ nghe thấy, chúng sẽ giết con đó. Nín đi!" Đứa bé gái nín khóc, đưa mắt nhìn mẹ nó. Cha nó chậm chậm lội đến gần nó.
Một tiếng súng khác bắn đi từ phía xa, tạo nên một tiếng động lớn trong đêm. Bây giờ thì tôi biết đó là loại súng gì – đó là súng chống xe tăng bắn đạn hoải tiễn. Sau vài giây nó đập vào cành của chính cái cây chúng tôi đang nấp ở đấy, làm lá cây vụt bốc cháy.Đột nhiên một tiếng nổ khác phát ra từ phía những người bộ đội Việt Nam, khiến chúng tôi hoảng hốt gào lên tìm chỗ núp.  "Thật đúng lúc. Thế mà tôi cứ tưởng họ chết hết rồi chứ", tiếng một người đàn ông thở phào.
Tiếng súng từ phía Khmer Đỏ ngừng lại. Một lát sau lại tiếp tục, nhưng rồi ngừng sau hai loạt pháo liên tục từ phía Việt Nam. Sau đợt thứa ba, đêm trở lại hoàn toàn yên tĩnh. Tôi nhẹ nhõm, thầm cám ơn bộ đội Việt Nam đã có mặt ở đây đêm nay để chống lại Khmer Đỏ.
Đến sáng tôi thức giấc bởi nghe nhiều giọng nói. Một người lính Việt Nam mặc đồng phục màu xanh thẫm, đội nón sắt đang bước nhanh trên đường với một cái xách trông giống như cái cặp da trên tay. Đi cùng ông ta là hai cô gái, có lẽ tám và mười tuổi. Họ đến chỗ chúng tôi. Hai cô gái đứng cạnh ông ta, cô gái trẻ hơn ngắm nghía chúng tôi. Người lính nói tiếng Việt, cô gái lớn nhìn ông ta, lắng nghe. Rồi cô dịch lại cho chúng tôi "Ông ta muốn đến xem thử mọi người co bị thương ở đâu không".
Rồi người lính lần lượt lấy từng mảnh đạn pháo nhỏ xíu cắm vào lưng, mặt, tay chúng tôi ra. Đêm nay một người đàn ông tóc bạc trắng mà anh Than quen biết cho chúng tôi ở nhờ nơi căn nhà gỗ của ông chừng nào chúng tôi muốn. Ông nói, ở đó an toàn hơn. Chúng tôi lễ phép gọi ông là Om, ông chú. Nếu như Khmer Đỏ lại tấn công, hàng cây và con đường sẽ che chở cho chúng tôi khỏi bị trúng đạn trực tiếp. Căn nhà dựng trên cột gỗ lớnó có ban công rộng bốn phía. Phía trước là một câu thang xây bằng xi măng, bậc thang gỗ và sàn nhà. Chúng tôi nhẹ người khi có được chỗ này để trú ngụ.
Sáng hôm sau có hai người lính đến thăm chúng tôi. Hai người này chắc phải là anh em, họ có cùng chiều cao, chừng hơn một mét sáu mươi lăm, tóc đen dày, da nâu sậm. Trông họ khoẻ khoắn, mạnh mẽ và duyên dáng, nhất là khi cười. Họ đưa mắt liếc vội chị Ra, đứng dậy đi vào ngồi xuống khu nấu nướng. Ở tuổi hai mươi tràn trề sinh lực, sự nhọc nhằn đã không cướp đi nổi vẻ đẹp của chị. Dáng thon thả, vẻ mặt thanh, mái tóc dài khiến chị trông quyến rũ, đẹp hơn bất cứ người phụ nữ nào tôi từng gặp. Trong tất cả chúng tôi, chị cũng là người khoẻ mạnh nhất.
Một trong hai người lính cầm lên một chiếc xô bằng kim loại và hỏi tôi bằng một thứ tiếng Cambodia vỡ vụn "Cái này gọi là gì vậy?"
Tôi chầm chậm nói với anh cái từ một âm tiết chỉ cái xô. Anh cố gắng nói theo, nhưng nói không đúng. Nhăn răng ra cười, anh lập lại từ đó. Tôi bắt đầu. Anh cố lần nữa nhưng vẫn nói sai. Khi tôi nói từ đó nhanh hơn, tôi nghe tiếng dội sai lạc từ miệng anh ta vọng lại. Giống như mình nói từ "cow" rồi nghe dội lại bằng từ "cook".
Tên anh ta là Tranh. Anh biết ít tiếng Cambodia hơn người kia, Minh, người thường xuyên đưa mắt liếc chị Ra. Sau khi học được ít tiếng Cambodia, Minh và Tranh kể cho chúng tôi nghe về Việt Nam, về đới son của họ ở đó. Về khiêu vũ, âm nhạc. Rồi đột nhiên Tranh vụt chạy đi, biến mất trên đường làng.
"Rồi cậy ấy sẽ trở lại ngay thôi", Minh bảo chúng tôi, miệng mỉm cười.
Liền đó Tranh xuất hiện với một người lính khác, miệng cười bẽn lẽn. Minh đứng dậy, đưa cái xô kim loại cho người lính, rồi nói với anh ta điều gì đó bằng tiếng Việt. Đứng đối diện chỉ cách nhau vài tấc, Minh và Tranh cười tươi rói, rồi gật đầu về phía người lính kia.
Nghe họ ra hiệu, người lính này bèn bắt đầu gõ vào hai bên chiếc xô bằng sắt, tạo ra một âm thanh nhỏ, đều, rền như chuông. Miệng anh ta mấp máy rồi hát lên một bài hát trữ tình rất hay bằng tiếng Việt. Trước khi tôi kịp hiểu, thì thân hình Minh và Tranh đã uốn éo nhịp nhàng, cong người về phía trước và uốn người lui, mềm dẻo như hai cây tre uốn mình theo nhịp của cơn gió. Tay họ cũng múa, đưa theo những chuỷên động vòng tròn. Họ cười vang. Tôi cũng thấy vui lây.
  
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #62 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:11:52 pm »

Hàng người bất tận bước trên con đường uốn lượn phía trước nhà Om. Đứng nơi ngã ba đường, chúng tôi quan sát những người đàn ông, đàn bà chân trần bước qua. Một số bồng em bé nơi tay. Số khác mang hàng bó nồi niêu, soong chảo và chăn màn bằng đòn gánh hoặc đội lên đầu. Một vài người còn chiếc xe đạp cũ kỹ thì chất chăn chiếu và thực phẩm lên đó. Trẻ em lớn hơn một chút thì dắt đi, tay được mẹ hay chị nắm chặt.
Om hỏi một người đàn ông gầy về nơi ông ta định đến. "Chúng tôi không còn muốn ở lại Cambodia nữa". Ông ta nói cương quyết "Đời sống ở đây quá khó nhọc. Chúng tôi cũng không biết đi đâu, chúng tôi chỉ muốn rời bỏ xứ sở này".
Trong ba ngày tiếp đó, Sla Krao từ sáng đến chiều là cửa ngõ cho cuộc di dân. Sau này chúng tôi mới biết, điểm đến của họ là một trại tị nạn nằm trên biên giới giữa Cambodia và Thái Lan.
Chị Ry, Phally và tôi quen với một phụ nữ địa phương tên là Art. chúng tôi gọi bà là dì Art, một người phụ nữ mảnh khảnh, dễ mến với cặp mắt đen đẹp, tuổi có lẽ chừng ngoài ba mươi. Dì có một đứa con nhỏ, nhà dì là một căn nhà gỗ nhỏ, nằm cách nhà Om chừng nửa dặm. Trong nhà treo đầy thúng đánh cá, soong nồi, rổ rây gạo và vỉ  nướng bánh trên vách. Vỉ nướng bánh!
Trở về nhà Om, tôi kiểm tra lại chiếc cối đá dùng để nghiền gạo thành bột, và còn dùng vào các việc khác nữa. Sau đó đến tối, tôi bàn với chị Ra, Ry và anh Than ý tưởng của tôi về việc làm bánh nướng để đổi lấy gạo với người trong làng. Tôi bảo họ, khách hàng cũng chính là những người dân đi ngang qua làng Sala Krao. Người đi đường đói sẽ phải mua thức ăn. Mục đích của tôi là sống bằng số gạo dư ra như thế chúng tôi khỏi phải trồng lúa. Chị Ra nói khó mà bán được vì người ở đây không bán thứ gì cả. Anh Than thì không nghĩ rằng người ta sẽ mua bánh của tôi, cho nên anh bảo sẽ phí chỗ gạo dùng để đầu tư vào việc làm bánh mà thôi.
Không giống chị Ra và anh Than, chị Ry cho rằng tôi phải thử mới biết được. Được sự hỗ trợ của chị, tôi ngâm nước sẵn chừng bốn ký gạo để ngày mai xay thành bột. Rạng sáng tôi thức dậy, vo lại gạo và rửa cái cối đá, xong nghiền gạo thành bột. Chừng một tiếng đồng hồ thì xong. Tôi bèn trộn bột với nước đường cọ đen sì, với muối và nước. Tôi nghĩ, thêm trứng và nước dừa vào nữa, bánh này hẳn ngon không kém gì loại bánh chúng tôi ăn hồi còn ở Phnom Penh, nhưng ngay cả thế này thì cũng vẫn ngon rồi.
Nơi ngã ba đường cái, dưới bóng mát của hàng cây lớn, tôi chọn một địa điểm gần nơi giao lộ có nhiều người qua lại. Đặt nồi đựng bột xuống đất, rồi đào một cái hố, xong đặt ba viên đá bên mép hố để đỡ chiếc vỉ sắt.
Chị Ry mang cho tôi củi, vỉ nướng bánh mượn của dì Art, đĩa dẹt, nĩa, một mảnh gỗ thông từ nhà Om để nhen lửa. Map thì xách cho tôi một cái xô rỗng và một thùng đựng sữa cũng rỗng. Sửa soạn xong, tôi bắt đầu làm bánh.
Chị Ry, Map và chính tôi là khách hàng đầu tiên của tôi. Chúng tôi ăn hai cái bánh đầu tiên khi chúng dính vào vỉ sắt, giòn tan. Tôi đưa một miếng vào miệng. Map nôn nả nhặt các miếng vỡ lên và ăn ngay trước khi tôi cho nó ăn. Chị Ry thì nhắp môi, suy nghĩ.
"Athy ơi, bánh không được ngọt lắm", chị đưa mắt nhìn tôi, nghĩ ngợi.
"Em biết", tôi nói, nhăn răng cười, sung sướng vì cuối cùng đã nghe chị bình luận. Thật ra đó là vì tôi không muốn tốn quá nhiều đường trong trường hợp chúng tôi không bán được và cuối cùng phải ăn hết cả sản phẩm của mình.
Chị Ry cười nói, vừa lắc đầu "Cái con bé này. Được rồi, chị sẽ về lấy thêm nhiều đường nữa".
Tôi cũng cười "Đó chính là điều mà em định nhờ chị làm".
Dần dần, đám trẻ trong làng Sala Krao kéo đến nhìn chúng tôi. Chúng đứng nhìn thèm thuồng trong khi tôi bóc từng chiếc bánh ra khỏi vỉ.
Chị Ry bảo chúng "Nào, đi lấy gạo đi. Bảo với mẹ là tụi em muốn ăn bánh nướng." Chị cười bẽn lẽn và vẫy tay bảo bọn chúng đi. Chị cười vì đã nói như vậy.
"Một lon gạo," tôi nói thêm, nhặt cái lon sắt trong xô không đưa lên cho chúng xem, "thì đổi được hai cái bánh này". Tôi chỉ vào các chiếc bánh nướng trong dĩa. Chị Ry nhéo tôi, cười rúc rích. Map thấy vậy cũng cười theo.
Bột bánh hết nhanh hơn là tôi tưởng. Xách về một xô gạo khá nặng – cả vốn lẫn lời của chúng tôi – tôi đùa với chị Ry về công việc của ngày hôm nay. Chị Ry trêu tôi, lập đi lập lại lời bình luận của khách hàng. Tôi thì đóng cả vai khách hàng lẫn vai của tôi, nói như là đang đóng kịch. Map cũng cười, ngước mắt nhìn hai người chị khùng điên của nó, trong khi chúng tôi rúc ra rúc rích như các cô học trò nhỏ ngày nào.
 
*
Tiệm bánh nhỏ xíu của chúng tôi kéo theo cả một cái chợ dã chiến. Nơi ngã ba đường dưới bóng cây, người dân làng Sala Krao và các làng khác kéo đến tham gia vào việc mua bán, đổi chác. Họ mang đu đủ, dừa, bí, cá sống, cả thúng mủng, bất cứ cái gì dùng được để đổi lấy gạo. Nhiều người khác cũng dựng lên chỗ bán bánh để cạnh tranh với chúng tôi. Vì thế chúng tôi phải đỏi qua làm và bán bún.
Cái chợ này mở rộng hơn, lan từ chỗ ngã ba đường vào tận một căn nhà gỗ lớn. Trong hai tháng, với dòng người đi qua, đột nhiên thực phẩm, mọi thức khác được trao đổi bằng những miếng vàng nhỏ hai mươi bốn ca ra cắt ra từ dây chuyền, vòng tay, nhẫn…một thứ tiền tệ nhẹ, dễ mang hơn gạo nhiều.
Tôi ngạc nhiên thấy người ta vẫn còn nữ trang. Nhìn lại, tôi nhớ cái lúc người trưởng làng ở Daakpo bảo chúng tôi trao hết nữ trang của mình cho Angka. Ông ta bảo rằng chúng tôi thật xấu khi sở hữu những vật có liên hệ đến "bọn đế quốc Mỹ", thế mà bây giờ nó lại giúp người ta mua được cái ăn.
Cũng như với bánh nướng, những người khác cũng bắt đầu làm bún, cạnh tranh khách hàng với chúng tôi. Chẳng bao lâu chúng tôi đã thấy tác động của sự cạnh tranh này và chỉ còn bán được cầm hơi.
Chị Ra, anh Than, chị Ry và tôi bàn luận về sự sống còn trong tương lai, cách để sinh sống. Sau khi nói chuyện với những người từ Kompong Cham, chị Ra, anh Than, chị Ry và Phally quyết định đi cùng họ đến biên giới để mua hàng từ các nhà buôn Thái rồi mang về bán ở Sala Krao.
Một hôm, sau khi mấy người họ đã rời khỏi nơi đây, chúng tôi quyết định nghỉ bán, cũng vì ngày hôm trước chúng tôi bán chẳng được bao nhiêu. Tạm thời trút bỏ gánh nặng buôn bán khỏi vai, tôi bèn chơi nhảy dây dưới hàng cây trước của nhà Om.
Lát sau có một con bé trạc tuổi tôi – mười ba – đến và xin cho nó chơi. Tôi vui vẻ đồng ý. Chúng tôi chơi nhảy dây thi. Tôi thắng, thế là tôi được nhảy trước, tôi vừa nhảy vừa mỉm cười. Trông như tôi đang nghỉ xả hơi sau một lớp học dài buổi sáng. Rồi đến phiên con bé nhảy, tôi thích thú nhìn nó.
Bỗng mẹ nó gọi nó đi. Trong khi tôi đang tiếp tục nhảy dây một mình thì nó trở lại. Nó phấn khích nói rằng nó và mẹ nó sắp đi mua thức ăn gần Thái Lan rồi mang trở lại đây. Nó hỏi tôi có muốn đi cùng không. Tôi hỏi nó mất bao lâu thì đến được cái chợ ở gần Thái Lan.
Mẹ nó nói "Ồ, không xa lắm đâu, và trước khi cháu nhận ra thì cháu đã về đến đây rồi. Một đứa trẻ như cháu thì có thể mang được bốn hộp mì ăn liền. Kiếm được lời nhiều đấy. Cháu có muốn đi không? Bác sẽ dẫn theo Srey cùng đi với bác".
"Vâng ạ" tôi hăng hái đáp. Tôi tưởng tượng mình mang bốn thùng mì trên lưng, chưa chi tôi đã thấy mình đi trong chợ này. Rồi trong nháy mắt tôi đã trở lại Sala Krao. Dễ ợt, tôi nghĩ, giống như người đàn bà kia nói.
Tôi bảo chị Ry rằng hai ngày nữa tôi sẽ trở lại đây. Thấy sự phấn khích của tôi chị mỉm cười khi chia cho tôi nửa số vàng chúng tôi kiếm được bằng cách bán bánh và bán bún.
Hành trình dài hơn nhìều so với lời của mẹ Srey nói. Chúng tôi đi xuyên qua làng, qua những cánh đồng. Đói khát và mệt lả trùm lên toàn bộ người tôi. Mẹ của Srey nhắc chúng tôi phải tiếp tục đi và bảo tôi cất kín vàng nơi nào đó khó tìm thấy trong áo quần phòng khi chúng tôi gặp cướp.
Chúng tôi đi đến một cái hồ lớn mọc đầy cây cỏ nước cao gọi là cây Kak nhô lên khỏi mặt nước đen kịt cả nửa thước. Tôi chẳng muốn lội vào cái hồ này chút nào. Nhưng đã đến đây mẹ của Srey bảo bà sẽ chẳng quay trở lại đâu. Còn nếu tôi trở về một mình, tôi sẽ bị lạc. Nếu tiếp tục đi tới, tôi sẽ mua được mì và mang về bán sẽ có lời.       
Srey và mẹ nó bồn chồn đứng bên bờ hồ chờ tôi quyết định. Lúc đang cân nhắc chọn lựa, tôi quan sát một nhóm người lớn vượt qua hồ. trong nhóm đó tôi nhận ra Phally đang tiến về phía tôi. Hình như cô kinh ngạc và thất  vọng khi nhìn thấy tôi. Cô đặt tay lên vai tôi, cô cho biết nhóm của cô bị cướp tấn công. Khi súng nổ, mọi người chạy tán loạn nên cô không biết chị Ra và anh Than ở đâu nữa.
Tôi biết nếu tiến tới về phía biên giới là rất nguy hiểm. Nhưng tôi quyết định không đi trở lui với Phally. Ít nhất mẹ của Srey đã đi trên lộ trình này trước đây rồi. Còn Phally thì không biết đường vì đây là lần đầu tiên cô đi như vậy. Tôi bèn nói vài lời bảo Phally quay trở lại với chị Ry và Map, rồi tôi đi theo Srey và mẹ nó vào trong hồ nước lạnh ngắt giờ đây tối mịt như bầu trời đêm.
Rồi chúng tôi tiếp tục đi trên con đường đất, được lính PARA đi kèm theo một đoạn ngắn, sau đó qua đêm tại một bìa rừng. Ngày hôm sau chúng tôi đến một quãng trống và thấy nhiều người chạy trối trết trên đó. Mẹ Srey nhắc rằng chúng tôi phải chạy qua đó thật nhanh. "Đây là nơi bọn cướp có thể thấy chúng ta và thường người ta bị bắn ở chỗ này. Nếu cháu nghe tiếng súng và tiếng hô, đừng dừng lại. Nếu vấp té, cháu phải đứng dậy ngay và chạy tiếp. Khi nghe bác nói "đi", thì cháu chạy liền. Cháu hiểu không?"
Khi bà ra hiệu, chúng tôi chạy, chân giẫm trên các cạnh sắc của mặt đất nứt nẻ. tôi cầu nguyện Pa, Mak, cả tổ tiên để che chở cho tôi. Tất cả chúng tôi qua được một cách an toàn. Rồi chúng tôi lại gặp một chướng ngại khác trên đường đi – địa lôi. Người ta bảo chúng tôi phải theo đúng vết chân của người đi trước khi băng ngang đồng cỏ. Nhờ may mắn và nhờ sự giúp đỡ của một quyền năng cao hơn nào đó, và nhờ vào sự bình tĩnh và chính xác của mọi người, chúng tôi vượt qua đồng cỏ an toàn.
Mẹ của Srey nhìn tới nhìn lui quang cảnh chung quanh rồi sung sướng  nói "Chúng ta hầu như đã ở đó rồi. Chúng ta đã gần đến New Camp rồi".
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #63 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:13:24 pm »

Hành trình qua cánh đồng chết
________________________________________
CHƯƠNG 17
Chanrithy Him
Hành Trình Qua Cánh Đồng Chết
Dịch giả: Mịch La
CHƯƠNG 17
TRẠI NEW CAMP
Tháng Năm 1979. Chúng tôi đến vùng ngoại vi của trại New Camp vào cuối buổi chiều. Ánh nắng bớt gay gắt cho chúng tôi được một chút thoải mái. Trước mặt chúng tôi, ở giữa rừng, là những túp lều lợp bằng cỏ khô, không có cửa, dựng sát vào nhau giống như những cây nấm mọc dưới tàn cây lớn.
Mẹ của Srey dẫn tôi đến lều của con gái Om, người mới đến ở trại này với chồng. khi chúng tôi đến chiếc lều bằng vải màu ngụy trang, mẹ của Srey gọi lớn, tay đập đập vào vách vải. Sau vài phút, con gái của Om, mà tôi gọi bằng chị, chui ra khỏi lều. Chị cao, mảnh khảnh, với làn tóc đen xoăn xoã xuống ngang cằm. Mặt chị cũng sáng như tôi.
"Cô có thấy chị và anh của nó quanh đây không? Họ rời khỏi Sala Krao trước đây hai ngày". Mẹ của Srey nói với chị.
"Không ạ, chồng cháu và cháu không hề thấy họ", bang nói, trán hơi nhăn lại. "Tụi cháu có buôn bán với người Thái nhưng cũng không thấy họ ở đó".
Mẹ Srey hỏi tôi có ở lại với họ được không cho đến khi tôi tìm thấy anh Than và chị Ra. Hai vợ chồng đồng ý và bảo đảm với bà rằng họ rất hoan nghênh tôi ở chung. Mệt nhoài, tôi để mặc cho họ nói chuyện với nhau. Tôi ngồi bệt xuống đất trong khi họ tiếp tục nói. Điều kế tiếp tôi biết là chị dẫn tôi đến một cái lều khác của chị để tôi ngủ, tách biệt với khu của chị và chồng chị.
Chị hỏi tôi có muốn ăn chút gì không, tôi lắc đầu rồi nằm dài xuống tấm chăn trải trên nền đất.
Có tiếng rì rầm rồi tiếng nổ nhẹ. Tôi bật dậy, ngồi giữa một chỗ tối thui và hâm hấp nóng. Rồi tôi sờ soạng ra khỏi, mò qua một bức tường gồm nhiều lớp màn, tôi đến chỗ bang và chồng  chị ngủ - nhưng họ đã đi đâu mất rồi.
Gần lối vào lều có tấm vải mở một nửa, ánh nắng dọi vào, chiếu trên một đĩa cơm, một miếng cá nướng, một chén nước chấm chua ngọt trong có các lát hành xắt mỏng, tỏi băm và ớt đỏ tươi xắt mỏng cùng với đậu phụng nghiền. Miệng tôi trào nước bọt. Tôi hít mùi thơm một cách thèm thuồng.
Bụng tôi trống trơn, đã hai ngày nay chỉ toàn uống nước cho nên tôi nuốt hết mọi thứ trong chớp mắt. Cơm, cá, nước chấm thật ngon. Thứ nước sốt đậm đà mà tôi ngạc nhiên được ăn ở đây, kéo tôi trở lại cái thời nhà tôi còn ở Phnom Penh hay Takeo. Ước chi mình được ăn thứ này cùng với cha mẹ và các anh chị em như ngày xưa. Nhưng không còn có thể được nữa. Tôi ở đây một mình, không có anh hay chị bên cạnh.
Một ngày rồi bốn ngày. Tôi vẫn không thấy anh Than hay chị Ra mặc dù tôi đã lùng sục khắp trại, đi qua các quầy bán nhiều thứ thực phẩm khác nhau. Chuối khô, khoai, cháo, rau quả và thịt – một cái chợ tạm bợ, hấp dẫn và còn hối hả, nhộn nhịp hơn cả sức tưởng tượng của tôi. Khi tôi quay trở lại về lều của bang, chấm dứt một ngày tìm kiếm vô ích, có tiếng ai đó hối hả gọi tên tôi.
Tôi ngừng lại, quay lui, cố tìm tiếng gọi trong đám đông người đang đi lại vội vàng. Cuối cùng ở phía bên trái gần một bụi cây nhỏ, bên cạnh dãy lều, hai bàn tay đang rối rít vẫy tôi. Tôi nhìn người đàn bà đang giơ cả hai tay vẫy loạn lên. Tôi bước đến trước mặt bà. Bà hỏi "Cháu không nhận ra cô hả?"
Tên bà là Sitha, một phụ nữ nhỏ nhắn, tóc cắt ngắn, có lẽ ngoài ba mươi. Giọng bà nhẹ nhàng, dễ mến. Bà nhắc cho tôi nhớ chúng tôi đã gặp nhau ở Korkpongro, một ngôi làng ở đó chúng tôi lần đầu nghe thấy tiếng súng của Khmer Đỏ ngay sau khi rời khỏi Daakpo. Bà nói chắc tôi còn nhớ cha bà. Bà chỉ căn lều nơi bà ở, chỉ một người đàn ông vẻ thân thiện , đạo mạo mà bao giờ tôi mới nhận ra được. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đã cầu nguyện thật nhiều khi ở Korkpongro. Có lẽ những lời cầu nguyện đó đã được chứng giám cho nên bao giờ chúng tôi mới ở đây, được gặp nhau lại. Và điều không dám tin là bà đã thấy chị Ra và anh Than. Bà tình nguyện dẫn tôi đến nơi họ ở.
Chúng tôi đến gần một túp lều lợp cỏ vàng nằm gần một mô đất có hai cây lớn. Cô Sitha chỉ căn lều nơi chị Ra và anh Than ở đó. Mỉm cười cô giã từ tôi, để tôi đứng lại đó với nỗi hồi hộp sắp được gặp anh chị mình. Tôi hình dung ra họ ngạc nhiên như thế nào khi nhìn thấy tôi, đứa em gái nhỏ của họ, đứng trước mặt. Khi tôi đến trước căn lều không có cửa, tôi thấy một người phụ nữ mặc áo màu xanh sáng và váy in hoa đang ngồi trên một tấm nệm, quay lưng lại phía tôi, mải mê làm một việc gì đó. Đây đâu phải là lều của họ, tôi thất vọng nghĩ.
Tôi vội vã chạy lui lại chỗ tôi và cô Sitha chia tay nhau, tính bảo rằng cô đã chỉ nhầm chỗ, nhưng cô Sitha đã đi đâu mất rồi.
Quay trở lại căn lều, tôi quyết định hỏi thăm người phụ nữ này xem có biết anh Than và chị Ra ở đâu không.
"Xin lỗi chị cho em hỏi".
Người phụ nữ quay lại.
"Trời ơi chị Ra! Thế ra là chị!" Tôi cười vang, ngạc nhiên và hạnh phúc khi thấy cuối cùng đó là chị tôi.
Cười rạng rỡ, chị đứng dậy khỏi tấm nệm "Em đến đây khi nào vậy? Em đi với ai?"
Không nghe chị hỏi, tôi bận nhìn chị từ đầu đến chân. Nhìn làn da sáng, khoẻ mạnh của chị. Nhìn cặp mắt chị. Chúng hạnh phúc, đầy sức sống. Cuối cùng tôi mới tìm ra từ ngữ để diễn tả chị trông khác trước như thế nào kể từ khi tôi trông thấy chị cách đây một tuần. "Chị Ra", tôi cười hớn hở nói, "Chị thật vững vàng. Chị có da có thịt. Nước da chị trông đẹp quá. Chị giống Koon chen (người có giòng máu Trung Hoa)".
Chị Ra cười toét miệng, với tay năm lấy tôi, chị không nói gì trước lời nhận xét thật thà của tôi.
Tôi ngồi bên cạnh chị trên tấm nệm và chị kể cho tôi nghe anh Than cố đi mua hàng của những người Thái đem về bán cho những người Cambodia.
"Anh ấy không sợ sao?" Tôi nhíu mày. "Em nghe nói rất nguy hiểm. Lính Thái bắt người Cambodia tra tấn, đánh đập. Chuyện đó có thật không, chị Ra?"
"Ừ, có những lính Thái đi tuần, chị cũng nghe thấy vậy. Nhưng rồi em phải biết, khi đi buôn với các người buôn bán Thái," Chị Ra giải thích, chị cũng không chắc lắm. Rồi đột ngột mặt chị sáng lên, rạng rỡ "Athy ơi, ở bên đó, nếu em có tiền Thái hay có vàng, em muốn mua thứ gì cũng có. Họ có đủ thứ. Dứa này, bò này, gà này, kem này. Mọi thứ. Tất cả mọi thứ mà em muốn ăn đó". Rồi chị cười hài hước "Tất cả những gì em cần là tiền".
"Hèn chi chị có da có thịt ra".
Nhẹ nhõm và vui sướng, tôi cười luôn miệng với chị Ra. Kể từ khi Khmer Đỏ cầm quyền, chưa bao giờ tôi cười nhiều với các anh các chị tôi như thế này. Nhưng hôm nay chúng tôi cười nhiều đến nỗi hai gò má và bụng đau thắt. Mặt tôi ấm lên, tinh thần rất thoải mái.
Sau đó tôi đến chỗ bang và chồng chị cho họ biết tin tôi đã tìm được anh chị tôi. Họ nhẹ nhõm khi biết tôi đã tìm ra chị Ra. Khi tôi quay trở lại lều chị Ra, anh Than đã ở đó, mỉm cười, vui sướng thấy lại tôi. Ngồi bên cạnh lều, có một người mà chị Ra đã từng nói với tôi, từ tỉnh Kompong Champ đến. Đó là một người đàn ông da sậm, người tầm thước , hàng lông mày dài và rậm. Anh ta tên là Vantha, có biệt danh là Preag. Anh đã đi từ Kompong Cham đến làng Sala Krao cùng với vài người nữa. Chị Ra nói, tất cả những người kia đều đã trở về, ngoại trừ anh ta.
Đang suy nghĩ cảnh chị Ra bất tiện như thế nào khi chung quanh toàn là đàn ông, tôi ngạc nhiên thấy Vantha được phép ở lại đây. Nếu như Pa hay Mak còn sống, không bao giờ họ chấp nhận cho một chuyện như vậy. Nhưng bây giờ, ai dám nói rằng người ta phải tuân theo truyền thống văn hoá khi mà mọi sự đã thay đổi đến vậy? Điều tôi quan tâm nhất là làm sao tồn tại ở trại này. Khi anh Than và Vantha đi mua hàng của người Thái, tôi nói chuyện với chị Ra về việc bán thực phẩm. Tôi biết rằng mình sẽ không bao giờ liều thân đi vào đất Thái để mua bán.
Chị bác ngay ý kiến đó và đề nghị tôi đưa số vàng mang theo cho Vantha. Chị giải thích rằng chúng tôi không thể sống mà không dựa vào lợi tức của Vantha và sự mua bán của anh Than. Nhìn vào mắt chị, tôi biết rằng chẳng có gì để tranh luận với chị được nữa. Một lúc sau tôi chấp nhận đề nghị của chị Ra và hy vọng rằng cả tôi nữa cũng có thể  dựa vào sự buôn bán của anh Than và Vantha – với số vàng làm vốn của tôi.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #64 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:14:01 pm »

Anh Than và Vantha lao vào một công cuộc kinh doanh mới. Sau bữa ăn, hai anh đi ra ngoài lều kiếm khách và đưa về cho chúng tôi. Họ là những người trung gian. Đổi tiền Thái cho chúng tôi lấy vàng, sau đó chúng tôi đổi tiền này với một hối suất cao hơn với những người buôn hàng chuyến dùng tiền này mua hàng hoá đem về lại tỉnh mình.
Tôi đảm nhận vai trò xem xét vàng có thật không và cân vàng bằng cái cân đồng nhỏ của mình. Chị Ra và anh Than bảo với Vantha rằng tôi rất giỏi trong việc phân biệt vàng hai mươi bốn cara với các đồ kim hoàn giả hay những vật không phải là vàng. Tôi đã học được từ các nhà buôn khác cũng như từ sự quan sát của chính tôi, dựa theo trọng lượng và màu sắc của vàng.
Khi có sự nghi ngờ, tôi đã học được cách đặt miếng nữ trang hay vật kim lọai được gọi là vàng đó vào than hồng trong bếp hay trước ngọn lửa cháy bằng nhiên liệu nhẹ. Nếu là vàng thật, màu vẫn vàng sáng như trước. Nếu không phải, nó sẽ chuyển thành màu đen. Cho đến lúc đó, chưa có ai lừa đảo tôi được.
 
*
Có tin đồn rằng chúng tôi sẽ được di chuỷên đến một trại khác nằm sâu trong phần đất Thái. Chị Ry và Map vẫn còn ở Sala Krao. Chúng tôi sợ rằng nếu dời đi, gia đình chúng tôi sẽ bị chia cách vĩnh viễn.     
Vài ngày sau tôi nhẹ người khi nghe anh Than tình nguyện đi ngược trở về Sala Krao để đem chị Ry và Map đến đây. Trong lúc đó, nếu trại phải rời đi Thái Lan trước khi anh trở lại, anh nhấn mạnh, rằng tôi và chị Ra phải ở lại đây để chờ.
Khi anh Than đi rồi, chị Ra tâm sự với tôi rằng chị và anh Vantha sẽ quyết định lấy nhau khi đến trại mới. Chị nói "Anh ấy nói nếu chị không lấy anh ấy, không yêu anh, anh sẽ trở về Kompong Cham với cha mẹ. Nếu không có anh ấy, ai sẽ lo cho chúng mình? Người lớn thường nói rằng cần phải có một người đàn ông để gánh vác gia đình. Chị muốn em ở lại với chị đến khi chị và anh ấy lấy nhau".
Đến đêm anh Than về, vác Map trên vai. Map quàng tay quanh cổ anh, có vẻ sắp tuột tay bất cứ lúc nào. Anh Than nhấc Map lên và đặt xuống nệm bên cạnh chị Ra và tôi. Map yên lặng, không có một lời phát ra từ miệng nó. Nó ngồi yên, cặp mắt buồn bã, mệt rũ.
Tôi đứng dậy, nhìn ra lối đi trước lều nhưng không thấy chị Ry. "Anh bỏ chị ấy", giọng anh Than bực tức "Chị ấy chẳng mang gì mà đi chậm quá. Đi một tí lại dừng. Đi một tí lại dừng. Nghỉ, nghỉ, nghỉ…Vì đã gần đến đây nên anh không đợi chị ấy nữa".
"Thế bây giờ chị ấy đâu rồi?" tôi hỏi.
"Anh cũng không biết nữa. Chị ấy muốn nghỉ, thế là anh để chị ở đó. Anh phải cõng Map vì nó không đi được, mà nó thì càng lúc càng nặng. Anh rất mệt, nhưng anh phải tiếp tục đi, còn chị ấy cứ tiếp tục nghỉ…"
Chị Ra lo lắng "Nó không biết đường ở đây. Đáng lẽ em nên chờ nó mới phải chứ".
Anh Than ngồi xổm xuống nệm, không trả lời. Đầu anh gục xuống trên cánh tay đặt trên đầu gối.
"Athy, sáng mai em đi tìm chị ấy. Em cứ nhìn quanh quẩn đường vào trại sẽ thấy chị ấy thôi". Anh Than mệt mỏi nói, giọng anh đã trấn tĩnh và có phần quan tâm hơn.
Trời vừa rạng sáng, tôi đã nhỏm dậy khỏi tấm nệm. Điều đầu tiên tôi nghĩ tới là chị Ry. Tôi chạy đi liền, hy vọng chị chưa dậy và chưa bắt đầu đi tìm chúng tôi.
Dọc theo con đường đất đầy cỏ dại hai bên là hàng cây lớn, tôi kiếm chị Ry. Tôi kiểm tra một, hai, ba lần, đi xa khỏi trại, nhưng vẫn không thấy chị. Tôi nỗ lực lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng, vẫn không thấy dấu vết gì của chị. Tôi bật khóc.
Không biết làm gì nữa, tôi đứng dựa vào một cái hàng rào làm bằng những thân cây mới cưa bao quanh một cánh đồng mở rộng gồm bụi cây và gốc cây. Tôi quan sát những người trẻ tuổi gầy gò đang tập nhảy qua những gốc cây, làm động tác giương súng nhắm bắn một thân cây. Có một người loạng choạng và té nhào xuống. Có tiếng cười vang lên từ hai bên phía hàng rào. Quay đầu lại nhìn, tôi thấy một đám trẻ em đang cười khúc khích cùng với một vài người lớn đang đứng xem.
Vui theo chúng, tôi cũng cười. Càng có nhiều người té chúng càng cười lên ha hả trước sự vụng về của họ. Đột nhiên  có hai bàn tay lạnh ngắt bịt chặt lấy mắt tôi. Giật mình, tôi quay ngang và nghe thấy tiếng cười khúc khích. Tôi giơ tay lên gỡ hai bàn tay kia ra nhưng nó càng xiết mặt tôi chặt hơn.
"Ai đó? Ai đó?" Tôi bực mình hỏi.
không có tiếng trả lời.
Tôi quặt tay ra đàng sau và đánh người bịt mắt tôi, mặc dù không biết đó là ai, người kia né tránh được và kéo ngược đầu tôi ra sau. Tức giận, tôi kéo mạnh đôi tay đang bịt mắt mình và lần này nó tuột ra. Tôi quay ra sau và nhìn thấy chị Ry đang nhìn tôi cười trêu cợt.
Chị cười khúc khích đưa tay chỉ vào tôi "Chị đứng sau lưng em mà em chẳng biết gì hết. Em xem họ và cười nữa". Chị bắt chước tiếng cười của tôi, coi bộ rất  vui thích.
Chúng tôi vội vã trở về lều. Chị Ry nói cho tôi biết chị đã ngủ ở đâu và ăn gì tối hôm qua. Chị bảo chị dùng một ít vàng mang theo để mua một bữa ăn tối, và tìm được một gia đình cho chị ngủ nhờ trong lều của họ. Chị thoải mái thật! Trong khi tôi ở trong lều bồn chồn lo âu cho chị. Bây giờ thì tôi đã nhẹ lòng cám ơn Trời Phật đã để cho chị về nhà, một mái nhà không phải được định nghĩa bởi cái trại nơi chúng tôi đang sống, hay bởi mái lều che trên đầu chúng tôi, mà đúng hơn bởi những người còn sống sót tụ họp nhau lại. 
Lều của chúng tôi bây giờ chật cứng vì có thêm chị Ry và Map, nhưng chúng tôi không còn cách nào khác. Tôi nhớ đến một bài hát quen thuộc "chật bụng chứ chật chi nhà".
Chị Ra đã nói với chị Ry, anh Than và Map rằng chị sẽ lấy anh Vantha, và có vẻ mọi người đều đồng ý. Tất cả chúng tôi cho rằng việc đó là quyết định của chị.
Một tối nọ chị Ra và anh Vantha đi dạo chơi quanh trại, và trở về dắt theo một bé gái chừng sáu tuổi. Con bé gầy guộc, chỉ cao ngang Map, mặt nhem nhuốc bụi đất, nước mũi chảy nhoe nhoét, tóc cắt ngắn như con trai và áo quần rách tả tơi.
Ngồi xuống nệm giữa chị Ra và anh Vantha, con bé còn thút thít rồi đưa tay quệt nước mũi. Anh Vantha đưa mắt nhìn nó hãnh diện.
"Ara và anh muốn nhận nó làm con nuôi. Nó mồ côi. Mình đặt tên nó là gì nhỉ?"
Chị Ra ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn con bé. "Mình đặt tên cho nó là Savorng (chim sáo), vì nó phát âm và nói chuyện như Sakira[1]". Chị có vẻ hãnh diện vì đã chọn tên này.
Anh Vantha đồng ý, anh nghĩ rằng Savorng là một đứa bé rất khôn. Anh kể rằng anh và chị Ra thấy đứa bé này trên một lối đi gần chợ. Nó đứng xin người qua đường bằng một giọng trẻ con nhưng rất chững chạc "Cô ,dì, chú, bác ơi xin giúp con. Xin cho con ít tiền. Con chúc gia đình cô, dì, chú, bác luôn được sống lâu, khoẻ mạnh".
Map ứa nước mắt và xích sát lại gần chị Ra – Savorng cũng làm như vậy và tuyên bố "Đây là mẹ tao!" Nó lấy tay hất tay Map đang đặt trên chân chị Ra ra.
Map khóc oà vì thất vọng, vì bị bỏ rơi. Anh Vantha bật cười thú vị. Chị Ra thì cuối cùng cũng hướng sự chú ý sang Map và choàng tay lên người nó. Map khóc mãi và khóc dữ hơn khi thấy vài bộ áo quần của nó được lấy ra cho Savorng mặc khi con bé tắm xong. Nó chạy đến và giằng lại cái áo.
"Không! Đây là áo của tao!" con bé nói và trừng mắt nhìn Map.
 
*
Việc di chuyển đến một trại ở Thái Lan không bao giờ thực hiện được, những lời cảnh báo về sự tấn công của Khmer Đỏ thì lại đột ngột xuất hiện trong trại. Chúng tôi bèn tập trung trước cửa lều để bàn tán. Theo người ta nói, ngày mai, vào khoảng mười giờ sáng, Khmer Đỏ sẽ tấn công trại. Mục đích của chúng là chiếm lấy trại lính của PARA , và thế là chúng tôi bị kẹt trong vùng chiến trận, một người đàn ông buồn thảm báo lại như thế. Trước khi trở về nhà riêng của mỗi người, một vài phụ nữ lớn tuổi đề nghị rằng chúng tôi nên dậy sớm để nấu ăn. Họ lý luận, nếu bị bắt buộc phải chạy nữa, ít nhất chúng tôi cũng no bụng cái đã.
Thế là chúng tôi dậy sớm và chuẩn bị một bữa ăn thật ngon. Thức ăn nóng được múc ra đặt trên nệm. Bảy đĩa cơm. Hai bát canh với dứa xắt lát, cá đồng, củ sen, cà chua, bạc hà, hành xanh, và tỏi xắt nhỏ. Giữa hai bát canh là một đĩa cá tươi chiên với dưa chuột thái nhỏ và hai chén nước chấm chua ngọt.
Tôi ăn vài miếng, nhưng bụng lo lắng quá lại không ăn được, tôi bèn bước ra ngoài. Tôi đi quanh lều đến góc sân sau rồi leo lên gò đất, sau đó leo lên một trong hai cây to gần đó. Tôi leo lên cao hơn nữa, cách xa hẳn mái lều. Nếu quay người, tôi có thể thấy đủ mọi hướng.
Nhìn về phía cánh rừng bên tay phải, tôi thoáng thấy có gì bất thường – những chiếc khăn kẻ trắng đỏ lấp ló giữa hàng cây cao xanh mướt. Những người mặc đồ đen. Một người mang khẩu súng phóng lựu. Những người khác thì mang súng trường hoặc súng ba zô ka.
Tôi bèn gọi lớn cho các anh chị "Em thấy bọn Khmer Đỏ. Em thấy bọn Khmer Đỏ. Chúng có súng. Một tên cầm một khẩu "hoa chuối" [2]. Chúng mặc áo quần đen. Chính là Khmer Đỏ. Chắc chắn là Khmer Đỏ rồi!"
Chị Ry chạy vụt về phía gò đất, nhìn về phía rừng nơi tôi chỉ. Mấy người hàng xóm chui ra khỏi lều đến tụ tập ngay trước lều chúng tôi.
Trong khi tôi còn ở trên cây, một quả pháo nổ ngay phía sau lều. Rồi tiếng súng gầm lên, trút xuống cả trại. Tôi sợ cứng người, bám chặt lấy thân cây. Còn Ra, Map và mọi người thì lao xuống mương và các hố nước. Chị Ry vẫn nằm trên gò đất, khóc.
"Chị Ry, giúp em với!" tôi gào đến khản cổ. Vẫn nằm dài trên gò đất, chị Ry vẫy tay bảo tôi leo xuống nhưng tôi lắc đầu, nước mắt chảy giọt xuống.
Tôi sợ có viên đạn nào đó bay đụng vào tôi.
"Chị Ry…" tôi áp mặt vào thân cây, vẫn gào.
"Athy, xuống đây!" chị Ry kêu lên một tiếng thật dài.
Tôi nhìn khuôn mặt đã dại đi của chị và lắc đầu. Đột nhiên nhiều tiếng nổ liền nhau, tiếng này sau tiếng kia, tạo ra một loạt tiếng động làm rung chuyển cây cối và lều chúng tôi. Mình phải leo xuống, mình phải leo xuống. Nhưng mình sẽ trúng đạn mất! Tôi khóc, thất vọng cùng cực.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #65 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:14:30 pm »

Chị Ry nhìn lên, vẫy tay lại. Tôi cố tập trung vào mặt chị rồi trụt dần xuống, lăn đến bên chị, ôm chặt lấy gò đất. Tay và hai lòng bàn chân tôi sưng rộp lên vì trượt từ cây xuống, nhưng bây giờ cái đau đớn đó bị chìm đi bởi tiếng động khàn khàn, bất tận của tiếng súng.
"Mak ơi, Pa i, Chúa ơi, xin che chở cho con, xin che chở cho con…" chị Ry cầu nguyện một cách điên dại. Chị nắm lấy mớ đất rồi rắc lên đầu mình liên tục.
Bị lây bởi cơn cuồng loạn của chị, tôi bắt đầu cầu nguyện như chị. Tôi gọi linh hồn của Mak, của Pa, gọi cả Chúa, rồi cũng rắc đất lên đầu, lên mặt đồng thời cố gắng thở.
Chị Ry và tôi bò về phía sau gò đất, nơi đối diện với vùng mà tôi thấy bọn Khmer Đỏ hồi nãy. Ở đây có một người nằm thở hổn hển, đầu đầy máu, mặc đồng phục giống áo quần của lính PARA.
Chị Ry bò lại gần ông ta "Chú ơi, chú bị thương ở đâu? Cháu giúp chú nhé?" Giọng chị ấm và dịu dàng.
Người đàn ông nhợt nhạt chậm chậm mở miệng "Tôi bị trúng đạn ở thái dương. Khát lắm, nhưng có lẽ không sao đâu. Có một người đàn bà nấp bên cạnh tôi đây này", ông đưa tay chỉ. "Bà ta chảy máu nhiều lắm, bị thương ở bụng".
Theo tay ông ta chỉ, tôi thấy người đàn bà, nhợt nhạt nằm trong một vũng máu. Thấy rằng chúng tôi có thể là người kế tiếp trúng đạn, tôi đề nghị với chị Ry rằng mình sẽ bò xuống vùng đất thấp hơn để ẩn nấp. Chị đồng ý, và khi một trái pháo nổ gần bên cạnh, chị Ry bò thật nhanh, biến mất vào trong hồ nước gần lều chúng tôi, để mặc tôi kinh hoàng trên mặt đất.
Nằm sấp bụng, tôi ráng sức bò đến vách lều, hy vọng tiếng nổ lốp bôp dữ tợn của súng trường sẽ dịu bớt để tôi kịp chui vào mương cùng với gia đình. Đột nhiên một trái pháo khác lại nổ. Trong một thóang khủng khiếp, tôi phóng cả người xuyên qua vách lều, bò qua lều và chui xuống mương.
"Lạy Chúa ở trên trời, xin hãy giúp chúng con, xin giúp chúng con. Xin cứu chúng con khỏi điều ác, khỏi bom đạn. Xin giúp con cái chúng con…" Một người đàn bà vừa nằm sấp vừa lớn tiếng cầu nguyện, hai lòng bàn tay vẫn chắp vào nhau.
Một nhà buôn người Thái mà tôi đã gặp trước đây núp trong một cái rãnh giống như cái hầm ngay trong mương. Ong ta say sưa dùng tay cào mặt đất đầy những mảnh thuỷ tinh vỡ, tay ông đầy máu đỏ tươi pha lẫn với đất.
"Xin Samdech Aov (cha của các ông hoàng), hãy giúp chúng con. Hãy giúp chúng con, hỡi Samdech Aov…" một bà già cầu nguyện, hai lòng bàn tay ép chặt vào trán.
Samdech Aov? Tôi quên mất lời cầu nguyện thầm của mình khi nghe nhắc đến con người này trong lời cầu nguyện của người đàn bà già nua. Ông Hoàng Shihanouk. Ông ta là người, hình như từng là vua, nhưng không phải là một vị thần. Tôi nhìn bà không tin, và trong một lúc tâm trí tôi tắt hẳn tiếng gào thét và tiếng ồn ào chung quanh.
Tiếng pháo và tiếng súng ngưng lại. Chúng tôi ngồi lên và nhẹ nhõm, tuy vậy chúng tôi chưa biết chắc mình sẽ làm gì tiếp. Rồi một trong sô
 Chúng tôi chia sẻ cho nhau nỗi sợ hãi của mình, kể lại mình hút chết như thế nào. Một người đàn bà, hàng xóm của chúng tôi, kể huyên thuyên, tay vung vẩy "Hồi nãy tôi chẳng biết chuyện gì xảy ra nữa, rồi đột nhiên một quả pháo nổ làm tôi sợ muốn chết, hồn vía bay đâu mất. Rồi tôi thấy Ry đang bò, tôi bèn bò theo, đầu áp sát đất…" Khuôn mặt lo lắng của chị Ra hình như cũng muốn kể chuyện mình. Khuôn mặt của những người khác là tấm gương soi của người đang kể lại câu chuyện. Rồi đột nhiên mọi cái đầu bỗng quay về phía cánh rừng nơi tôi  đầu tiên thấy Khmer Đỏ. Tôi giật mình thấy nhiều người đàn ông đang tiến về phía chúng tôi, mặc đồng phục đen và quấn khăn rằn quanh cổ, đeo trên vai là súng trường, ba zô ka, súng phóng lựu, quanh hông quấn đầy băng đạn.
Đi ngang qua, họ nhìn chúng tôi. Tôi nhìn họ, chuẩn bị tinh thần cho lúc họ xả súng bắn chúng tôi. Mọi người khác cầu xin tha mạng. TG không làm thế. Tôi tê liệt vì quá sợ.
"Chúng tôi không giết các người đâu", một người Khmer Đỏ cao cao tuyên bố, giọng nghiêm khắc.
"Cám ơn Lok, cám ơn các ngài rất nhiều…" Người phụ nữ hàng xóm của tôi vừa nói vừa khóc, hai tay chắp lại, đưa lên trán nhiều lần.
Ngay khi họ vừa khuất sau dãy lều, súng lại nổ. Mọi người kêu la như trước. Lính Khmer Đỏ đang xung đột với lính PARA ở đâu đó trong khu vực trại. Mọi người leo lên khỏi con mương, chạy hoặc khom mình theo con mương vào rừng. Trong giây phút ấy tôi không còn biết các anh chị em tôi ở đâu nữa. Tất cả những gì tôi biết là chạy cứu lấy thân. Đột nhiên một viên đạn bay vù tới, tôi vọt về phía trước, tránh đạn, và khi tôi nhìn tới thì tôi thấy chị Ry, tay cầm tay Map, và chị Ra cùng với Savorng. Tôi cảm tạ linh hồn Mak và Pa đã che chở cho tôi.
Trong rừng cây, chúng tôi dừng lại nghỉ. Các gia đình khác cũng làm vậy. Vào ngày thứ hai, anh Than, anh Vantha và những người đàn ông khác đi liều xuyên rừng gần Thái Lan. Khi trở về, họ rất phấn khích. Họ bảo rằng họ đã trông thấy "người Mỹ". Và những người Mỹ này bảo họ rằng chúng tôi sẽ được đón và mang vào trong nước Thái Lan.
Vài ngày sau, trước khi chúng tôi có thể thấy được điều gì, tiếng động cơ xe tải hướng đến gần. Nó nhô ra từ hàng cây cao rồi tiến theo con đường trong một đám mây bụi mù mịt. Rồi một chiếc, rồi một chiếc khác nữa. Cả thảy ba chiếc xe tải, mái phủ vải dày. Mọi người chạy lại gần xe. Đàn bà và trẻ em được đưa lên một chiếc xe trước mặt chúng tôi. Còn đàn ông thì lên một chiếc khác dành riêng. Chẳng bao lâu, xe đã đầy người. May mắn thay, chúng tôi đều ở trong xe cả.
Dựa vào cửa sau xe, tôi nhìn quang cảnh phía biên giới Cambodia đang khuất dần qua làn bụi. Rồi tôi thấy thảng thốt – tôi đang rời bỏ quê hương. Tôi nói thầm lời từ biệt với những linh hồn của gia đình tôi. Giã biệt Mak, Giã biệt Pa…Chúng con phải đi….
Chú thích:

[1] Gân giống với avorng, tên  của một lọai chim màu đen, có vệt vàng và trắng trên đầu, có thể tập nói tiếng người được
[2] Gọi thế vì trái đạn được gắn vào nòng súng trông giống hình dạng một cái hoa chuối
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #66 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:19:14 pm »

Hành trình qua cánh đồng chết
________________________________________
CHƯƠNG 18
Chanrithy Him
Hành Trình Qua Cánh Đồng Chết
Dịch giả: Mịch La
CHƯƠNG 18
TRẠI KHAO I DANG

Đoàn xe vận tải đã đi qua những con đường không trải nhựa bụi bặm giữa những hàng cây và những cánh đồng trống không, hết con đường ngoằn ngoèo này sang con đường khác. Rồi đoàn xe đi vào một cánh đồng cháy xém dưới đất đầy tro than và những gốc cây, rạ đen kịt nhỏ bằng ngón tay đến lớn bằng cổ tay. Trông giống như những que diêm bị đốt cháy.
Trút chúng tôi xuống xong, đoàn xe lại quay ra, lần lượt chạy đi. Một người đàn ông cho chúng tôi biết rằng mấy chiếc xe này quay trở lại đón những người còn lại, và sẽ chở thức ăn nước uống cho chúng tôi.
Trên cánh đồng này không có bóng mát để núp, thế là chúng tôi phải đứng chân trần trên mặt đất nóng bỏng, chân tôi đen kịt và dính đầy tro. Mấy đứa bé khóc đòi uống nước mà không ai trong chúng tôi có một giọt nước nào cả. Map và Savorng cũng vừa khát vừa đói, mặt chúng buồn bã, sầu thẩm, lông mày nhíu tít lại. Xe chở thêm nhiều người tị nạn Cambodia nữa, và sau đó đến tối thì cuối cùng thức ăn và nước uống cũng được mang đến cho chúng tôi. Đêm đến chúng tôi nằm ngủ trên đất, bầu trời là mái nhà.
Đến ngày hôm sau, đoàn xe lại chở đến cho chúng tôi tre, rơm và dây buộc. Mọi người, từ đàn ông, đàn bà và trẻ em đều giúp vào việc dựng lều, chia công việc từ vác tre cho đến mang dây cho cánh đàn ông Cambodia dựng nhà. Trong vài ngày những ngôi lều mái rơm chia thành mười khu cho mười gia đình được dựng lên cạnh nhau, chỉ cách một lối đi nhỏ. Cứ mỗi khu, chỉ định một người trưởng khu đại diện cho các gia đình, nhằm bảo đảm việc nhận đủ thực phẩm. Trại này được gọi là trại Khao I Dang [1], quanh trại rào kẽm gai, gần đó có một vài lính Thái đi tuần tra. Họ làm cho chúng tôi cảm thấy an toàn, không còn sợ Khmer Đỏ nữa.
Chúng tôi được phát đĩa, bát, xô nhựa nhiều màu cùng chăn màn. Tất cả những thứ đó là cả một ân huệ cho chúng tôi, và tôi rất nhớ điều này. Tuy nhiên tôi vẫn ao ước cái ngày chúng tôi không nhận khẩu phần thức ăn nước uống nữa, tức là khi mỗi người chúng tôi tự múc cơm ăn và cháo mà không còn phải lo mình có lấy quá nhiều không.
Vài tuần sau khi chúng tôi đến đây, các con buôn người Thái cũng đến nơi hàng rào, lảng vảng ở đó, cách xa chỗ lính gác. Chúng tôi đói, và thế là họ mang bắp nấu, trứng, rau đến bán cho chúng tôi. Tin này lan ra khắp trại. Vào ban đêm, trẻ em và đàn ông chạy qua hàng rào để buôn bán khiến cho một bé trai bị lính bắn chết.
Một tháng sau, thay vì chạy đến hàng rào để mua bán, các con buôn người Thái mang luôn hàng vào trong trại. Sau nửa đêm, tiếng bước chân nhè nhẹ và tiếng nói khe khẽ, lo âu vang lên dọc theo lối đi hai bên lều chúng tôi. Họ phải cố giữ hoạt động kín đáo đừng cho lính Thái biết.
Đêm nào cũng có buôn bán, sau đó là rượt đuổi dọc theo các hẻm nhỏ, sau cùng là việc lục sóat lều của dân tị nạn. Với tất cả các chuyện đó, dầu chúng tôi có dính vào các việc mua bán hay không, chúng tôi cũng bị phiền nhiễu. Nhưng những kẻ khổ nhất là những người Cambodia mua hàng bị bắt, họ bị lính đá và đánh đập bằng báng súng. Cuối cùng thì một cái chợ dã chiến mọc ra vào ban ngày, bán đầy bún, rau, cả những chiếc xà rông và áo hoa rất đẹp.
Còn hôm nay thì căn lều của chúng tôi thơm lừng mùi cà ri ngọt ngào nấu với nước dừa tươi ép ra, thịt bò, hành, đậu tây, khoai. Trong cái bọc nhựa màu xanh đặt trên xô nước là những bó bún sắp theo hình xoắn ốc, dùng để ăn với  cà ri bò, giá, bạc hà. Có mười lăm khách, phần lớn là bạn của chị Ra, anh Vantha, tụ tập trong lều của chúng tôi. Một số ngồi gấp chân trên tấm nệm trải trên nền đất gần chị Ra và anh Vantha. Một số khác đứng gần cửa.
Savorng, Map, chị Ry, anh Than và tôi ngồi trên cái sàn tre nơi chúng tôi thường ngủ, nhìn chị Ra và anh Vantha làm lễ cưới nhau dưới sự chủ trì của một người đàn ông già, có lẽ trước đây là một nhà sư. Nơi góc xa của chiếc sàn tre là đồ cúng mà chị Ra làm để cúng linh hồn của Pa, Mak, chị Chea, em Avy và em Vin, anh Tha và cả linh hồn của tổ tiên nữa. Hai bát cà ri, hai bát bún, hai ly nước, một nén nhang cháy được cắm chắc vào lon đựng gạo. Đồ cúng này là lời mời những người chết đến dự buổi đám cưới, đồng thời cũng có nghĩa là lời cầu xin linh hồn người chết mang lại hạnh phúc và sức khoẻ, hoặc bất cứ điều gì chị Ra cầu xin.
"Xin Ara và Vantha cưới nhau nhiều hạnh phúc và nhiều con cái". Người bạn thân nhất của anh Vantha là chú Lee khấn vái. Mọi người cười ồ lên.
Chị Ra, hai mươi hai tuổi, mỉm cười bẽn lẽn. Mặt chị mịn màng, thanh nhã. Tóc chị chải khéo, uốn cong lên, trông chị giống ngôi sao điện ảnh Trung Hoa với chiếc áo viền đăng ten màu kem từ hồi ở Phnom Penh mà chị cố giữ nguyên lành suốt trong thời gian Khmer Đỏ cai trị.
Chú Lee cười nhiệt thành rồi ngắm chị Ra, ngắm anh Vantha. Trước đây chú thường đến lều chúng tôi và quen biết gia đình chúng tôi. Chúng tôi cũng biết gia đình chú. Chú thường hối anh Vantha cưới chị Ra. Nhiều lần chú cảnh cáo anh trước mặt chúng tôi "Nếu cậu không lấy cô ấy thì chính tôi sẽ cưới cô ấy đấy. Tôi không đùa đâu. Cậu còn đợi gì nữa? Cô ấy là một phụ nữ tốt và thuộc về một  gia đình tốt".
Anh Vantha và chị Ra đã bán sợi dây chuyền vàng hai mươi bốn cara để mua thức ăn cho lễ cưới. Vợ của chú Lee giúp chúng tôi mua thịt, rau, bún, các thứ, cũng như lo việc nấu nướng cho bữa tiệc.
Khi đêm xuống và mọi người đi ngủ, một giọng nhẹ nhàng hát nho nhỏ một bài hát. Một bài hát đầy sự háo hức, ham muốn và tiếc nuối. Đó là chị Ra, phát ra từ căn phòng chị tự làm lấy bằng cách treo màn phủ khắp cái sàn tre phía đối diện nơi chúng tôi ngủ.
"Ô..háo hức biết mấy tất cả các cảm xúc bồn chồn…
Trong đêm mật ngọt này tôi tiếc cho tấm thân tôi
Hm…tiếc, tiếc thay, một tấm thân như nụ hoa sắp nở
Giờ đây con ong đã lấy mất mật ngọt và bay đi xa
Nếu chàng rời bỏ tôi thật, tim tôi sẽ tan nát
Và khi đó sẽ chỉ còn nước mắt.
Thế ra đây là tình yêu, mà tôi đã biết trong cái đêm đầu tiên
Xin hãy nhẹ nhàng, dịu dàng với em
Anh yêu, anh yêu, người ta chỉ là trinh nữ một lần duy nhất
Không thể có hai lần"
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #67 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:19:52 pm »

Chúng tôi đến Khao I Dang ba tháng trước, vào tháng 11 năm 1979. Bây giờ ở đây có một lớp học tư tiếng Anh được mở ra. Tôi phải kiếm cách để trả tiền học phí, khoảng 150 baht[2]. Đó là một số tiền lớn đối với tôi vì tôi chẳng có lương hay tìền trợ cấp, ngoại trừ khẩu phần thực phẩm. Tôi quyết định dùng số vàng đã mang theo từ Sala Krao và đã không đưa hết cho anh Vantha. Tôi tự bảo, mình sẽ dùng số vàng này để đổi lấy việc học. Tôi sẽ đem bán số vàng ấy đi và tốt hơn là nên giữ chuyện này cho một mình mình biết.
Chị Ra tắt kinh, chị bị đau ốm, thế là sau đó chị phải thôi không đi học lớp tiếng Anh. Các bà hàng xóm bảo rằng chị có bầu. Họ nói khi một người phụ nữ có bầu, họ thường khó chịu vào buổi sáng. Cô ta sẽ nôn oẹ, mệt mỏi và rất thèm những thứ như xoài xanh, me chua.
Mấy người hàng xóm nói, khi không có những thứ đó để ăn, thì mình sẽ thấy đau đớn, cồn cào trong ruột. Và Ra có những triệu chứng của một người bị ốm nghén. Chị háo hức nói với các bà rằng chị thèm ăn, và họ cười vang. Chị Ry và tôi cũng cười, còn chị Ra mỉm cười bẽn lẽn.
 
*
Mọi người bàn tán về cuốn phim sắp được chiếu ở trại. Đó là một cuốn phim về Ki tô giáo, theo những người hàng xóm cho biết, và về Jesus Christ. Tôi có nghe về Jesus Christ trước đây do chị Chea kể khi chị học về Người thời còn ở Phnom Penh và hát một số bài hát cho chị Ra, chị Ry và tôi nghe. Bây giờ tôi muốn biết về Người. Có khác với Đức Phật không? Ngày chiếu phim đến, tôi và gia đình đi ra một cánh đồng trống có nhiều người đứng sẵn trước một màn ảnh lớn cắm chắc trên một gò đất.
Phim bắt đầu chiếu thì trời đổ mưa. Mới đầu là mưa bụi sau là mưa lớn. Một vài người có dù, nhưng phần lớn chúng tôi đứng ướt sũng dưới cơn mưa. Đàn ông cởi áo che lên đầu, phần lớn trẻ con lạnh run cùng với người lớn ra về, cả gia đình tôi cũng thế. Tôi run bắn lên, hai tay ôm chặt lấy người, nhưng vẫn khóc khi thấy tay chân của Jesus Christ bị đóng lên thập tự giá. Dẫu tôi không hiểu điều đang nói trong phim, tôi rất đau buồn và thấy gắn bó với cuốn phim, với Jesus Christ, và với nỗi buồn của những kẻ thương tiếc Người.
Tôi nghĩ đến Pa và việc hành hình ông.
 
*
Chị Ra đi chợ về. Đặt giỏ đồ ăn xuống chị cười rạng rỡ. Bụng chị đã tròn, nhô ra giống như chị đặt một trái dưa hấu dưới lần áo. Chị Ry và tôi nóng lòng nóng ruột muốn biết chị nghĩ gì. Không biết điều gì làm chị sung sướng đến khờ ra như vậy.
Chị cười, chùi hay bàn tay vào nhau như chuẩn bị để trình bày sự phấn khích của mình rồi lại đi ra khu nấu bếp.                   Quá mệt vì căng thẳng, tôi gọi với theo "Chị Ra, chuyện gì vậy? Chị cười vì cái gì vậy?"
"Em có muốn biết sáng nay chị gặp ai ở ngoài chợ không?"
"Ai vậy?" Chị Ry và tôi hỏi hầu như cùng một lúc.
"Chị gặp cô Eng (em họ của Pa). Thấy cô, chị nghĩ, ai đây nhỉ, mình đã gặp người này trước đây rồi. Sau đó thì chị nhớ ra. Các em có biết cô bảo chị thế nào không?"
"Cô bảo chị cái gì?" tôi hỏi.
Chị Ra kể, cô Eng đã tìm ra chú Seng, người đã rời khỏi Cambodia hai ngày trước khi Khmer Đỏ nắm quyền, hiện giờ chú đang sống ở Mỹ. Cô đã viết thư cho một người bạn của cô sống ở California hỏi cô ấy thử có biết chú Seng không. Bạn cô trả lời quả thực cô có biết một người tên là Leng Seng, hiện sống ở tiểu bang Oregon. Cô Eng bèn viết thư yêu cầu chú bảo lãnh cho gia đình cô qua Mỹ. Hiện giờ chú đang làm thư ký tại đó. Như thế, chị Ra nôn nả nói, chúng mình cũng có thể qua Mỹ.
Tôi nhảy lên, thụp xuống như đang tắm suối. Tôi cười, chụp lấy cái tin kỳ diệu, khó ngờ này một cách háo hức. Sau chừng đó năm nhọc nhằn và mất mát, tôi hồi tưởng, chúng tôi nhận được tin này. Chú Seng, người em trai duy nhất của Pa còn sống, và chú sẽ mang chúng tôi qua Mỹ. Ôi Chúa ơi, xim cảm ơn Người. Tôi nhảy lên, ngâm nga và cười.
Sau hai tháng học tiếng Anh, tôi phải chấm dứt, chị Ra thiếu ăn. Có đêm chị bảo tôi và chị Ry rằng chị thường khóc, ước ao có thức ăn như chị muốn. Vì chị không còn một xu nào sau khi bán sợi dây chuyền vàng, chị thường đi rảo vòng quanh chợ để nhìn ngắm những thức ăn chị thèm, ước ao mình có tiền để mua.
Tôi không đành lòng nhìn bộ mặt bi thảm của chị và quyết định cho chị tất cả số tiền còn lại từ lúc bán vàng. Mắt chị Ra sáng lên khi nhìn thấy sốt tiền ấy. Chị cầm lấy tiền, áp vào tim và mỉm cười. Chị Ry cũng nhìn tôi, ngạc nhiên và hạnh phúc. Sau đó ba người chúng tôi đi ra chợ, mua bất cứ thứ gì chị Ra thấy thèm, và chị là bà bầu sung sướng nhất mà tôi đã từng thấy.
 
*
Vào một ngày nắng, Map, Savorng và tôi đứng sắp hàng chờ lãnh phần nước. Hai đứa con gái, một trạc tuổi tôi, đứa kia bằng tuổi Savorng, đi đến chỗ chúng tôi và gọi Savorng là "Peang". Đứa nhỏ hơn cầm tay Savorng và mỉm cười, Savorng giật tay lại bước sát vào tôi. Đứa con gái hỏi Savorng đang sống ở đâu. Savorng hé mắt nhìn hai đứa con gái, bối rối, rồi nhíu mày, đưa mắt nhìn tôi như thể xin tôi giúp đỡ.
Tò mò, tôi hỏi chúng làm sao chúng biết Savorng. Đứa con gái lớn bèn kể cho tôi nghe câu chuyện của gia đình Savorng. Lúc trước, ở một ngôi làng bên Cambodia, sau khi cha mẹ của Savorng chết, một gia đình Khmer Đỏ đem nó về nuôi. Sau khi bộ đội Việt Nam tiến vào Cambodia vài tháng trước, gia đình này bỏ trốn vào rừng, bỏ Savorng lại. Sau đó khi có nhiều gia đình rời làng, đi di cư tại trại New Camp, nó đi theo họ rồi sống với một bà già trong trại này. Bà già bảo nó đi xin thức ăn và xin tiền, đó chính là lúc chị Ra và anh Vantha gặp nó và mang nó về nuôi.
Tôi bảo hai đứa con gái bây giờ thì Savorng ổn rồi. Nó sống với gia đình chúng tôi và chúng tôi đã đặt tên lại cho nó. Hai đứa kia có vẻ mừng vì gặp nó và nghe nó đã ổn định. Savorng thì chỉ đứng yên, liếc mắt nhìn hai đứa kia một cái rồi cắm mặt nhìn xuống mặt đất đầy sỏi.
Đứng chờ để được phân phối nước, tôi ngẫm nghĩ về cuộc đời của Savorng. Về cha mẹ đã chết của nó, về gia đình Khmer Đỏ đã mang nó về nuôi. Thật thú vị khi định mệnh đã mang nó lại cho chúng tôi, vốn cũng là những đứa trẻ mồ côi. Tôi buồn khi nghe chuyện nó, nhưng nhẹ lòng vì nó đã ở với chúng tôi, và hy vọng rằng nó cũng sẽ cùng qua Mỹ với chúng tôi nữa.
 
*
Khao I Dang mở rộng rất nhanh. Lều mới được dựng lên để thích hợp với dòng người đổ vào đây. Về sau còn có tin đồn trong chúng tôi rằng một số lớn người dân đã bỏ Cambodia đi và hiện đang sống ở biên gíi. Tôi rằng buồn khi thấy Cambodia trở thành một cái nơi càng ngày càng ít người muốn sống ở đó, mặc dù tôi rất hiểu cái nhu cầu phải lìa quê cha đất tổ khi mà chiến tranh và áp bức đã đè nặng lên cuộc sống của chúng tôi quá lâu.
Một số người không thể đợi để được mang đến Khao I Dang hay những người không có cơ may để đến đó do tình trạng pháp lý của họ khi đến được biên giới, đã trả tiền cho những người Cambodia đưa họ sang biên giới lậu. Một trong số đó là chú Aat, anh em họ của anh Vantha từ tỉnh Kompong Cham. Cứ mỗi người Cambodia nhập lậu vào trại này, phải trả một số tiền cho lính Thái gác trại.
Để phụ thêm vào khẩu phần ít ỏi của chúng tôi, anh Than, lúc này đã 16 tuổi, quyết định cùng với vài người đàn ông lớn hơn đi ra biên giới và đưa người lậu vào. Sau đó anh tổ chức đường dây riêng của mình vì anh biết đường về New Camp trên đất Cambodia và đã học tiếng Thái để tiếp xúc với lính Thái. Khi anh đi lâu hơn anh dặn, tôi rằng lo lắng. Tôi tưởng tượng anh bị bắn và bị lục lấy hết tiền. Khi anh về, tôi nhẹ cả người, nhìn anh ngưỡng mộ và phục sự can đảm của anh và vì anh đã giúp gia đình có tiền mua nhiều thức ăn hơn. Sau đó khi chú Aat và anh Vantha cùng đi với anh, tôi mới yên lòng và ngủ được.
Nỗ lực học tiếng Anh của tôi không ngừng lại mặc dù tôi không còn tiền để trả tiền học phí nữa. Tôi tự học Anh văn một mình. Tôi ôn lại các bài dịch từ cuốn Essential English Book 1 tôi mua được và từ cuốn tập của mình. Tôi tự tìm từ ghép thành câu rồi đọc lớn lên cho mình nghe.
Tôi cũng tìm được một cách khác để học tiếng Anh nữa. Khi đi lang thang quanh trại, có một lần tôi nghe lỏm các từ tiếng Anh phát ra qua một khung cửa sổ nhìn xuống lối đi hẹp. Tôi lần theo tiếng nói và thấy bốn người đàn ông đang đứng trong một ngôi lều dài, đang ghi chép vào trong sổ tay. Nhón gót lên, tôi nhìn qua vai họ vào lớp học và thấy các chữ tiếng Anh cùng các nguyên âm được chép trên bảng đen.
Dầu đã tiến sát về phía trước, tôi cũng chỉ mới nghe được các từ tiếng Anh từ miệng thầy giáo. Tôi phải tranh thủ đến sớm để giữ được chỗ gần cửa sổ để có thể nhìn thấy bảng đen, trong khi đó cũng có nhiều người khác khám phá ra chỗ này. Phần lớn là đàn ông, cũng có một vài phụ nữ, đến tụ tập phía sau chúng tôi, nhìn qua vai chúng tôi, họ chép lại từ sổ chúng tôi, và những người đàng sau họ lại chép lại từ sổ, giấy của họ. Ngày qua ngày, càng có nhiều người đến đây, làm nghẽn cả con hẻm. Cái đám đông học sinh đói chữ người Cambodia này đứng tràn ra cả con hẻm kế cận, xa đến cả trăm mét, hí hoáy ghi chép dưới ánh mặt trời chói chang.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #68 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:20:23 pm »

Sự hiện diện của những người phụ nữ khác ở đây làm tôi cảm thấy thoải mái hơn, ít quan tâm đến điều chị Ra, anh Than, anh Vantha có thể nói với tôi nếu họ trông thấy tôi đứng lẫn trong đám đàn ông. Chúng tôi cùng bẻ cong luật lệ của nền văn hoá cũ. Một người phụ nữ ở giữa đám đàn ông là không thích hợp, những người lớn ở Cambodia thường nói thế, và một số bà con họ hàng của tôi cũng sẽ lập lại quan điểm đó. Nhưng tôi sẽ biện hộ cho mình và nói, tôi ở đây là để tự học. Nếu người ta quan tâm đến sự không thích hợp của hoàn cảnh này, thì người ta hãy cho tôi tiền để cho tôi được ngồi trong lớp học là đúng mực nhất.
Sau nhiều tuần liên lạc bằng thư từ với chú Seng ở Portland, Oregon, gởi cho chú thông tin về ngày sinh, nơi sinh của chúng tôi, chúng tôi lại được báo tin là phải dời về một trại khác, trại Sakeo II. Những người sẽ đi là cô Eng và gia đình, anh Vantha, chị Ra, chị Ry, anh Than, Map, tôi và cả Savorng, người được đăng ký là em gái của chúng tôi. Tất cả, trừ chú Aat, người anh em họ của anh Vantha. Chú đến trại sau khi bảy tên của người trong gia đình chúng tôi gởi sang Mỹ cho chú Seng làm bảo lãnh. Dù vậy, anh Vantha vẫn muốn chú Aat đi Mỹ thay cho Savorng nhưng chị Ra không đồng ý. Chị Ra nói rằng chúng ta không thể để Savorng ở đây, nó chỉ là một đứa bé mới có sáu, bảy tuổi. Mặt khác, chị lý luận, chú Aat là một người lớn, chú có thể xoay sở được. Sau này, giống như nhiều gia đình khác, chú cũng có thể làm đơn xin đi Mỹ hay một quốc gia khác như Pháp, Canada hay Australia. Chú Aat có vẻ buồn, thất vọng, nhưng chắc chú ấy hiểu cho cái khó của chị Ra, buộc phải chọn giữa chú và Savorng, người mà chị và anh Vantha đã đón vào trong gia đình chúng tôi.
Chú Aat đã tỏ ra rất tử tế với chúng tôi, chia xẻ thức ăn với chúng tôi và con cho tôi tiền để tiêu. Chú nói năng rất nhã nhặn với chúng tôi, không giống như anh Vantha, người cư xử hờ hững đôi với chúng tôi kể từ khi anh bắt đầu lui tới với đám người gọi là "bạn bảnh" của anh. Vantha đã thay đổi. Bây giờ anh nổi tính hay gây gỗ, đặc biệt đôi với anh Than, nhất là từ khi anh Than kiếm được tiền từ việc đưa người nhập lậu. Vantha thường tìm cách hạ giá anh Than hoặc gay gắt với anh không có lý do. Anh Than không thèm để ý, nhưng sau đó anh bảo Vantha hãy từ bỏ cách cư xử ấy đi và hành xử như một người lớn, như một người vừa là anh rể vừa lớn tuổi hơn phải làm.
Có đêm anh Vantha về nhà và bảo chị Ra ngay trước mặt chúng tôi rằng bạn anh đã nói "bạn thì khó kiếm, nhưng vợ thì dễ ợt", và anh nói anh đồng ý.
Anh trở thành tự mãn, kiêu hãnh về mình. Bây giờ chị Ra có bầu, anh tránh đi bên cạnh chị. Chị Ra biết thế, nhưng giữ kín ý nghĩ của riêng mình.
Tối nọ Vantha chọc cho Savorng và Map đánh nhau để anh xem. Anh khiến chúng chộp lấy các thanh tre trên mái lều và bảo Savorng đá vào Map thật mạnh. Chị Ra có vẻ không ngăn anh được, và chúng tôi cũng không thể nói gì vì anh như một kẻ độc tài cai trị gia đình chúng tôi. Cuối cùng, Map và Savorng đều làm nhau đau và cả hai đều khóc. Thường thì Map là kẻ bị đau nhiều nhất do nó không thể quay người nhanh được vì bụng nhô ra, dấu tích còn lại của tình trạng thiếu dinh dưỡng từ thời Khmer Đỏ để lại. Savorng định kết thúc trận đấu bằng cách đá vào bụng Map. Chúng lại tiếp tục đánh nhau cho đến khi Vantha nghĩ rằng chúng đã đánh nhau đủ rồi. Trông chúng khóc và Vantha thì vênh váo, tôi thầm ước giá mà chị Ra lấy chú Lee. Hẳn chị sẽ ăn ở tốt với chú, vì chú kính trọng chị và gia đình tôi. Nhưng bây giờ thì đã quá muộn. Chị đã có bầu và sắp sanh rồi. Và chúng tôi thì sắp di chuyển đến trại Sakeo II, một nơi mà tôi hơi ngờ vực. Tôi nghe nói nơi này chứa nhiều cựu Khmer Đỏ. Thế mà giờ đây chúng tôi đang ở trên xe buýt đợi để được đưa đến đó.
Nỗi sợ của tôi tăng nhanh khi chiếc xe buýt tăng tốc độ và hàng cây, quang cảnh hai bên đường vụt qua. Tôi bật khóc khi nỗi sợ của tôi đổi thành nỗi buồn. Cứ mỗi khắc qua đi, tôi lại bị mang xa hơn khỏi Cambodia. Tôi nhớ Pa và Mak, chị Chea…Tôi quay lui tìm chị Ra và Ry ngồi phía sau. Họ cũng khóc. Nhiều người khác cũng khóc, cặp mắt đỏ biểu lộ nỗi sợ hãi câm nín. Bỗng một bài hát tiếng Anh cất lên làm dịu đi nỗi buồn của chúng tôi. Một người Thái ngồi bên tài xế với tay đến máy phát thanh xách tay và bấm nút. Bài hát tiếp tục và chiếc xe buýt tràn ngập âm nhạc kích động.
Ô là la em yêu anh nhiều hơn em có thể nói
Em yêu anh hai lần nhiều hơn ngày mai…
Mỉm cười qua làn nước mắt, tôi vui vẻ bảo cho chị Ra và chị Ry biết tôi hiểu được lời của bài hát này. Họ cười, có vẻ hãnh diện. Tôi quay trở lại, chùi nước mắt và thưởng thức bài hát.
 
Chú thích:
[1] Cuối năm 1979, trước sự  phản đối gay gắt của quốc tê, chính phủ Thái đã cho phép Cao uỷ về người Tị Nạn Liên Hiệp quốc (UNHCR) mở những trung tâm tị nạn trong lãnh thổ Thái Lan. Khao I Dang được mở ra vào tháng 11 và trong hai tháng đã là một thành phố có 120.000 người. Khao I Dang bỗng chốc trở thành thành phố những Cambodia lớn nhật trên thế gíi. Timothy Carney – một viên ch c tại toà đại sứ Hoa kỳ ở Bangkok đã ghi chú như  vậy (Ủy ban Hoa kỳ về người tị nạn, "Người tị nạn Cambodia tại Thái Lan: những giới hạn của một nơi ẩn núp")
[2] Tiền Thái Lan, theo hối suất lúc đó, 150 baht vào khoảng 7.50 USD
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #69 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 02:21:14 pm »

Hành trình qua cánh đồng chết
________________________________________
CHƯƠNG 19
Chanrithy Him
Hành Trình Qua Cánh Đồng Chết
Dịch giả: Mịch La
CHƯƠNG 19
TRẠI SAKEO II
Tháng bảy năm 1980, bây giờ chúng tôi đang ở trong một trại tị nạn mới. Trại Sakeo II nhỏ hơn trại Khao I Dang, nhưng sạch sẽ và đẹp hơn. Lều không có cửa, được cất thành một nhóm bốn lều, quay mặt vào nhau với một không gian rộng phía trước, được gọi là lều bốn (quad). Dọc theo con đường đất là hàng dãy các lều bốn như vậy, làm bằng gỗ ván dày màu xám, sàn cũng bằng gỗ. Cũng nằm trên con đường đi xuyên qua trại này là một toà nhà gỗ hai tầng rất rộng có tên là "Trung tâm Y tế công cộng" và ở phía bên kia là các lều bốn nơi người ta có thể gởi thư, đơn từ đến các lãnh sự quán Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Canada để yêu cầu xin nhập cư.
Là một gia đình bảy người, chúng tôi chia xẻ khu lều bốn với một gia đình khác. Cũng như ở Khao I Dang, chúng tôi nhận khẩu phần nước và thức ăn hàng ngày. Khẩu phần thức ăn ở đây khá hơn ở trại trước nhiều. Dù vậy, vẫn không đủ cho tất cả chúng tôi.
Người tị nạn ở đây cũng không khác gì mấy so với những người tôi thấy ở Khao I Dang. Họ cũng mặc quần áo hoa với xà rông hay quần. TG không thấy ai mặc đồng phục đen giống như của Khmer Đỏ, vì thế tôi không có cảm giác sợ như trước lúc tới đây.
Tôi đi dạo trên con đường chính dẫn đến chợ, lại gần doanh trại của lính Thái. Đột nhiên nghe một bài hát tiếng Thái phát ra từ loa phóng thanh. Trước mặt tôi,một số lính Thái đứng thẳng, súng hạ thấp, đáy súng chạm trên mặt đất. Một số người tị nạn Cambodia chú ý và dừng lại. Tôi cũng làm theo.
Khi bài hát đang tiếp tục, một ông già lướt sát người tôi, vượt qua tôi, mắt nhìn xuống đất. Ông cứ tiếp tục đi dọc tới phía trước. Vừa khi đó bài hát chấm dứt, một trong mấy người lính lao tới phía ông già, đưa súng lên và nện vào lưng ông. Ông ngã úp mặt xuống đất, quằn quại. Khi ông loạng choạng đứng lên, người lính chửi thẳng vào mặt ông bằng tiếng Thái. Rồi sau đó người lính lôi ông ta vào đồn gác, khuất sau cánh cửa kim loại. Ông già bối rối, sợ hãi. Những người tị nạn Cambodia hoảng hồn, đứng chôn chân trên đường, bất lực.
Về sau đồn lính này trở thành một ni người ta thường nghe thấy từ trong đó vang lên tiếng người kêu thét vì đau đ n. Một ngày nọ người ta nghe thấy tiếng một người đàn ông kêu gào vì thống khổ. Đột nhiên có một người đàn ông cao lớn có mái tóc màu nâu nhảy qua hàng rào vào và nhanh chóng bấm máy ảnh. Lính Thái liền ùa tới, lùa ông ta vào một góc. Họ giật máy ảnh, tháo cuộn phim ra, rồi ném trả máy ảnh vào giữa ngực ông ta. Người nhiếp ảnh viên đành bước lui ra trong khi bọn lính chửi rủa ông ta bằng tiếng Thái.
Vài tuần sau, tôi chứng kiến một vụ tra tấn hành hạ người trong gia đình tôi. Có một người bạn chạy tìm chị Ry và tôi, bảo rằng anh Vantha đánh anh Than, sau đó anh Than xách rìu rượt anh Vantha.
Chúng tôi chạy theo đường chính, dáo dác tìm anh Than. Nhưng trước mặt chúng tôi lại là anh Vantha, đang nhởn nhơ đi dạo. Gặp anh, chị Ry hỏi chuyện gì đã xảy ra, anh nói "Tao có đấm thằng Than mấy cái, thế là nó xách rìu rượt tao, thế là tao nói bạn tao bảo lính bắt nó. Bây giờ bọn lính đang nện nó. Đi tới giúp nó đi".
Đến trại lính, chúng tôi nhòm qua cánh cửa sắt, và tự hỏi họ giam anh Than ở đâu. Chị Ry và tôi lay cửa, khóc lóc. Một người lính cho chúng tôi vào, và tôi thấy nằm trên mặt đất là anh Than. Mặt anh sưng vù, đầy máu và đất. Người anh lăn tròn khi bọn lính đá liên hồi vào anh và nện anh bằng báng súng.
Chị Ry gào lên, và tôi kêu thét mỗi khi họ đánh vào anh Than. Chúng tôi ép bàn tay vào nhau, van lay xin họ ngừng, nhưng họ vẫn tiếp tục đánh, rồi họ đổ nước vào người anh, khi anh cất tiếng rên thì họ lại đánh.
"Xin ngừng tra tấn anh trai tôi. Xin ngừng lại!" tôi gào le^nó, chạy lại gần bọn lính. "Anh ấy chỉ là một đứa bé thôi mà. Xin ngừng đánh anh tôi…."
Tất cả mấy người lính khác đứng nhìn, trong đó có một người mặc thường phục. Họ vẫn tiếp tục nhìn khi chị Ry và tôi van xin họ tha. Nắm tay chị Ry đập xuống đất như thể sự đau đớn mà họ xuống người anh Than là quá lớn không thể chịu đựng nổi. Quay mình khỏi cảnh anh Than bị đánh đập, tôi khẩn nài người lính lớn tuổi nhất, đang ngồi trên ghế, để ông bảo ngừng cuộc đánh đấm này lại. Ông ta nhìn đi chỗ khác, nét mặt lạnh lùng. Rồi cuối cùng thì họ cũng thôi đánh và chúng tôi mang anh về nhà.
Chị Ry, anh Than, Map và tôi dời qua lều cô Eng với chồng cô cùng hai đứa con gái. Chúng tôi ngủ trong lều, còn cô  và gia đình ngủ ở phía trước. Savorng thì ở lại với chị Ra và Vantha. Chị Ra không nói gì nhiều về chuyện này. Có vẻ như anh Vantha đã một lần nữa thành công trong việc thuyết phục chị rằng chuyện đánh nhau đó không phải là lỗi của anh mà là lỗi của anh Than. Có lẽ chị quá theo chồng, hay chị đã chịu chấp nhận vai trò của một người vợ phục tùng chồng. Dù gì đi nữa, việc chị mất khả năng giải quyết một tình huống như vậy, cùng với sự ngỗ ngược của Vantha và thái độ thô lỗ của anh đôi với chúng tôi, đã khiến gia đình chúng tôi tách ra xa nhau. Chúng tôi hiếm khi gặp chị Ra và Savorng nữa.
 
*
Có một vài lớp Anh văn tư được mở. Tôi theo học tất cả các lớp đó, nhưng rời lớp ngay sau khi giáo viên nhắc học sinh mang tiền theo để đóng học phí.
 Sau đó khó khăn của tôi được giải quyết. Có một trường công tên là Sras Sang được mở ra ngay trong trại. Trường nằm trong khoảng đất rộng, trống nơi vùng phụ cận của trại Sakeo II, gần rừng. Dựng trên cột với cầu thang và chỗ trống rộng, trường này có năm lớp học từ lớp sáu đến lớp chín. Tiếng Anh được dạy cùng với môn toán, ngữ văn Cambodia và thể dục.
Đã sáu năm rồi kể từ khi tôi theo học một trường chính thức. Bây giờ ở tuổi 15, tôi đăng ký vào lớp bảy, cao hơn hai lớp so với lúc tôi còn ở Phnom Penh. Hôm nay, trong lớp, tôi nhẩm đếm số học viên, có lẽ chừng năm mươi người cả thảy. chúng tôi ngồi trên sàn vẫn còn thơm mùi gỗ mới. Con trai ngồi một phía, con gái một phía. Tôi ngồi với bọn con gái, gấp chân ngồi gần cửa vào lớp với tập, bút, bút chì ở trước mặt.
Cũng như tôi, anh Than, bây giờ đã 17, đã phục hồi sau khi bị bọn lính đánh đập, cũng ghi tên vào lớp bảy, nhưng học khác lớp với tôi, giáo viên cũng khác. Còn chị Ry thì theo lớp tám – chín, nằm ở dưới nhà. Sau đó chị định theo học khóa giảng dạy – chị nói vậy. Mục tiêu của chị là trở thành giáo viên, dạy trẻ em tiếng Cambodia.
 
*
Chị Ra đã sinh ra một bé gái ngày 30 tháng chín, 1980, sớm hơn một tuần. Một buổi chiều chị và Savorng mang đứa bé tên là Syla, đến lều chúng tôi. Khi chị Ry, anh Than và tôi đi học về, họ đang ngồi trước lều nơi chúng tôi nấu ăn. Cùng ngồi ở đó là Map, cô Eng và hai cô con gái của cô.
Syla nhỏ, da sậm với mái tóc dày. Mắt nó nhắm nghiền, miệng mút chíp chíp, tay nắm lại thành nắm đấm. Savorng ru Syla, nó ngủ yên lành. Chúng tôi nhìn đứa bé, nói chuyện, hỏi han về nó, chứ không nói chuyện gì khác nhiều.
 
*
Ngày đó người ta háo hức đi học giống như bị đói vậy. Mỗi đêm tôi đều mong mau sáng để được trở lại trường. Sau khi ở lớp về, tôi chăm chỉ học toán và Anh ngữ. Vừa về đến lều là tôi lo chuyện trường, xem lại chỗ ghi chép và những gì sẽ được dạy vào ngày hôm sau.
Một ngày kia thầy giáo của tôi, mà tôi gọi là Lok Kruu (Lok nghĩa là ngài, còn Kruu nghĩa là "thầy"), trả lại tôi bài tập toán. Biết rằng mình làm bài này rất đúng, tôi hăm hở nhận lại bài tập. Nhận bài, tôi thấy có dâu đỏ chỉ số điểm là mười chín trên hai mươi. Tôi kiểm tra lại thấy mình trả lời đúng nhưng điểm ghi sai.
Tôi trình bày với Lok Kruu, và thầy đã sửa lại điểm cho tôi. Tôi rất mừng, tôi vừa mỉm cười vừa quay lại chỗ ngồi. Tôi đưa bài tôi cho một bạn học ngồi sau lưng tôi xem. Con bé nói tôi thật giỏi khi làm mọi câu đều đúng cả. Nó có làm sai vài điểm. Nó hỏi tôi nó mượn bài tập. Tôi nghe có tiếng cười khúc khích sau lưng. Sida đưa trả lại tôi bài làm, rồi đi lên chỗ Lok Kruu với bài làm của nó trong tay. Nó quay trở về, có vẻ tự mãn, bảo tôi "Thy này, tao cũng được thêm điểm đấy. Hai mươi trên hai mươi đó".
Giật mình, tôi không nói được tiếng nào. Làm sao mà nó có thể hãnh diện vì gian lận, chép lại câu trả lời của tôi để được thêm điểm! Nhưng rồi tôi còn khiếp hơn nữa. Hai đứa con gái ngồi sau tôi, cả vài đứa con trai nữa, cũng đi lên chỗ Lok Kruu sau khi Sida đưa bài của mình cho họ xem.
Mặt của Lok Kruu đỏ bừng lên vì giận khi cả mấy đứa đều kéo lên chỗ thầy khiếu nại vì điểm chấm sai. Thầy bảo chúng trở về chỗ ngồi, rồi ông lao ra khỏi phòng. Khi ông trở lại lớp, ông không nói gì, ngồi vào bàn giấy, dằn cơn giận lại.
Tiếng bước chân rầm rầm nơi hành lang. Rồi ông hiệu trưởng, chừng khoảng ngoài bốn mươi, xuất hiện. Tôi muốn đứng dậy và nói cho ông rõ chuyện xảy ra. Tôi muốn chỉ Sida và những người đã "cóp" các câu trả lời trong bài của tôi.
Vừa bước vào lớp học, ông hiệu trưởng hỏi ngay "Ai khởi xướng cái trò gian lận này? Ai làm đầu tiên?" Ông chống nạnh vào hông.
Tôi đứng dậy giải thích "Em".
"Em?" ông hiệu trưởng phủ đầu tôi, ngón tay chỉ liên tiếp vào mặt tôi "Tại sao em khởi xướng việc gian lận? Em là loại học sinh nào vậy, lại là con gái nữa? Đồ…"
Choáng váng, tôi nhìn vào ông ta, đứng chôn chân trên sàn nhà. Mặt tôi đỏ bừng.
Từ khi còn là một đứa con gái nhỏ, tôi đã được dạy bảo phải kính trọng người lớn, nhưng giờ đây làm sao tôi kính trọng người đàn ông này được? Tôi từng bị Khmer Đỏ áp bức, tước đoạt tự do của tôi, nhưng không ai có quyền đối xử với tôi theo kiểu này! Tôi nhìn lại ông ta trong khi ông tiếp tục nổi đoá.
Tôi chống tay vào hông, giống hệt như cách ông đứng, tôi bảo ông "Nếu thầy không biết sự thật, thì đừng vội buộc tội tôi xúi giục gian lận. Nếu ông ngu ngốc, đừng làm như ông đã biết hết mọi chuyện". Lời nói tuôn ra khỏi miệng tôi, những lời mà tôi không thể nào tưởng tượng mình dùng khi nói với một người lớn. Tay tôi giơ lnó, ngón trỏ của tôi cũng chỉ ngược lại phía ông "Ông là người lớn thì hãy xử sự cho ra người lớn. Nếu không, không ai kính trọng ông, dù ông có là hiệu trưởng đi nữa".
Ông ta rủa lên một tiếng, chỉ tôi và gọi tôi là đứa con gái mất dậy. Cố trấn tĩnh, tôi bảo ông xử sự cho đàng hoàng và lắng nghe ông nói như một người lớn bảo ban một đứa trẻ động kinh cố tỉnh táo lại. Lok Kruu chạy đến bên ông hiệu trưởng, nói một cách vững chắc "Học sinh này không hề xúi giục việc gian lận".
Ông hiệu trưởng giật mình lùi lại, mắt ông tìm mắt Lok Kruu, như thể ông ta cố gắng hiểu điều Lok Kruu vừa nói với mình. Đột nhiên tôi cảm thấy như mình ở trong một hành lang của sự yên lặng. Ông hiệu trưởng đi ra cũng vội vàng như khi ông vào.
 
*
Trên bức tường của nhà bưu điện, tôi đọc tin tức và thông báo về những gia đình bị mất tích. Có thể một số bà con đã thất lạc từ lâu đang tìm kiếm chúng tôi. Sau đó tôi dò danh sách tên của những người có thư từ thân nhân. Tôi thấy ngay tên của tôi trong đó.
Tôi bèn mở ra, thư viết "Gởi cháu Thy, ông đã tới Khao I Dang và đang ở với cha của bạn cháu là Sonith tại chùa. Các cô của cháu, Chin và Leng cùng gia đình của họ vẫn còn ở Phnom Penh. Sau này họ cũng sẽ đến Khao I Dang…Còn về phía bên gia đình của mẹ cháu, thì các dì và cậu cháu cùng gia đình của họ cũng hiện đang sống tại Phnom Penh…"
Tôi không thể tin rằng ông lại tìm ra tôi sau bao nhiêu thời gian kể từ khi ông, cô Chin, cô Leng cùng với gia đình rời chúng tôi ở làng trước khi đến Kerkpongro. Cách đây cả năm rồi. Bây giờ chúng tôi lại tái hợp qua một lá thư.
Vài tuần sau, tôi lại nhận được một lá thư từ Khao I Dang. Kèm theo thư là một bức ảnh  cô Chin và con cô, cô Leng chụp với người chồng thứ hai, cũng có cả người anh họ Navy, đó là người sống sót duy nhất trong gia đình bảy người của cô. Mọi người trên được mang đến Khao I Dang an toàn. Tôi cảm tạ trời đất. Chỉ vài năm sau chúng tôi có thể cùng nhau cười về những nỗi nguy hiểm trong cuộc hành trình của họ. Vì biết rằng đến Khao I Dang nguy hiểm như thế nào, họ bèn giấu nữ trang gồm vàng và ngọc vào hậu môn. Nhưng rồi khi kiệt sức vì cuộc hành trình dài và nhọc mệt, không ai còn nhớ gì về kho báu của mình nữa. Chồng cô Leng, trên đường đến New Camp, phải đi đại tiện sau một bụi cây, và đó chính là nơi ông để lại mấy viên ngọc giấu kín! Chuyện tương tự như vậy cũng xảy ra với người con gái của cô Chin.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM