Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:50:42 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bên kia Cổng Trời  (Đọc 30351 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:08:50 pm »

Tác giả: Ngôn Vĩnh
NXB: Công an nhân dân
Số hóa: bodoibienphong
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #1 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:12:46 pm »

PHẦN MỘT
NHỮNG KẺ PHẢN LOẠN
1

Lên hết dốc Pa-pao, Mã Học Văn dừng ngựa. Đó là một người có dáng tầm thước, mặt xương xương, gò má cao, mắt tròn vàng, khoác chiếc áo ca-pốt màu cứt ngựa, hai hàng khuy đồng sáng loáng, đeo khẩu súng “Khai phong” bao gỗ nhẵn bóng, màu vàng óng. Chiếc mũ cát két dạ đen, lưỡi trai phẳng lì, che trước trán.

Văn đưa mắt nhìn khoảng rừng núi trùng điệp, gật gật đầu. Chiếc mũ đập vào chùm lá xõa phía trước. Nét mặt khắc khổ, biểu lộ sức chịu đựng bền bỉ trong xông pha chinh chiến.

Trước mắt Văn, một con đường độc đạo, rộng chỉ đủ một hàng ngựa đi, ngoằn nghèo như con rắn, trườn dần từ đỉnh núi xuống hõm Cắn Tỷ. Một bên đường là vách đá dựng thành vại, một bên là vực thẳm sâu hun hút. Những con ngựa đi qua trượt chân ngã, chết còn để lại những bộ xương khô khốc.

Trời đang tiết tháng tư. Rừng cây xung quanh xanh biếc. Trên những đỉnh núi cao, nhọn hoắt như mũi mác, những làn sương màu trắng đục lờ lững quấn quanh như những chiếc khăn voan mềm mại, mờ ảo.

Ngắm cảnh rừng núi xong, Văn dắt ngựa, lững thững đi lên phía Cổng Trời. Một bức thành đá dày chắn ngang đường, hai bên tựa vào vách núi đá, chỉ để chừa một khuôn cửa đủ người ngựa lọt qua. Cánh cửa gỗ lim dầy chằn chặn, đen bóng, đóng kín. Hai bên là những lỗ châu mai, như những con mắt đen bí hiểm nhìn ra phía trước.

Đây là cửa ngõ phía nam của vùng Đồng Văn, một cửa ải án ngữ mọi cuộc tấn công của đối phương. Từ Hà Giang lên Đồng Văn phải qua cửa ải này. Một trung đội giữ Cổng Trời thì hàng trung đoàn địch cũng không vượt qua được. Trước kia, Cổng Trời chỉ là một khe núi tự nhiên, nhưng khi chiếm được Đồng Văn, Pháp liền cho làm đoạn đường Cắn Tỷ và xây Cổng Trời, bốn trăm dân công Mèo đã bỏ xác.

Văn vừa bước đến trước cổng, cánh cửa lim treo từ từ rút lên. Một tên lính Mèo đầu đội mũ nồi, mình mặc quần áo tả-pú đen, dầy như mo nang, chân quấn xà cạp, đi hài xảo, hấp tấp chạy ra đón cương ngựa trong tay Văn, dắt vào cổng.

Văn bước vào trong thành. Mùi ẩm mốc của tường đá, mùi hăng hắc của cây rừng, mùi mồ hôi người nồng mặn, mùi phân ngựa, mùi rượu bắp cay xè quyện vào nhau, xộc lên mũi thành cảm giác khó chịu, ngột ngạt. Cũng may mà trên đỉnh núi cao này, trời quanh năm lạnh, nếu không, những mùi kia làm người ta nghẹt thở.

Ngay lúc đó, một thanh niên trên hai mươi tuổi, bước tới, thân hình cao, mặt dài, mũi khoằm như mỏ diều hâu, mắt tròn lồi, môi đỏ và mỏng, lông mày xếch, mình khoác một chiếc áo va rơi màu tím, đầu đội mũ cát két da, cổ đeo ba kiềng bạc loảng xoảng, hai bên hông đeo hai khẩu súng lục: một khẩu “Pạc hoọc Mô-de”, một khẩu “Brô-ninh ca-na-đa”; Sau lưng còn khoác thêm khẩu súng săn. Đó chính là Mã Chính Minh, con trai cả của Mã Học Văn. Minh là một tướng trẻ nhưng dạn dày chinh chiến. Ngay từ năm mười sáu tuổi, Minh đã theo cha đi trấn ải các nơi hiểm yếu. Nhiều tướng thán phục tính gan dạ của Minh. Minh có đặc điểm là hay bắn địch bằng súng săn ở cự ly gần, vừa làm cho địch bất ngờ, vừa hạ sát được nhiều địch một lúc. Vừa qua, nhận lệnh Hoàng đi canh giữ Cổng Trời, Văn cho con đi theo.

Minh cung kính chắp hai tay trước ngực chào rồi đón cha vào lô-cốt.

Những tên lính Mèo chạy đi chạy lại, hối hả dọn dẹp nền lô-cốt bừa bộn. Chúng trải tấm da thú trên nền đá lạnh lẽo, lễ mễ khiêng ra một vò rượu, một chảo thịt bò đang bốc khói, mùi thơm bay ra ngào ngạt. Bọn lính mang những chiếc bát sành to, đặt trên chiếc bàn gỗ lim đen bóng.

Học Văn tháo khẩu “Khai phong” treo lên tường, quay sang phía Chính Minh đang khúm núm đứng bên cạnh:

- Con ngồi xuống đây, hôm nay cha họp các vị chỉ huy mặt trận Cổng Trời, bàn định việc đánh bọn giặc Nhật, giữ cửa ải này.

Chính Minh ngồi xuống bên cạnh cha, dè dặt hỏi:

- Cha không cho thằng Mã Chính Lâm đi theo à?

Học Văn chậm rãi:

- Nó còn bé, để nó dồn tâm trí vào việc học hành, cho đi trận mạc, ngựa non háu đá, nó mê đi bỏ cả học hành.

Chính Minh khẽ lắc đầu:

- Người Mèo ta sinh ra với cây súng, lớn lên, sống chết với cây súng. Thằng Lâm nó vốn ham thích súng đạn, bắn giỏi, võ nghệ cừ, sao cha lại ngăn cản nó? Thầy số đã bảo sau này nó sẽ thành tướng tài.

Học Văn nhìn con:

- Cái lý người Mèo ta là thế, nhưng cha và con ở đây, chưa đủ hay sao?

- Con muốn con trai cả nhà ta đều cầm súng?

- Ừ! Trước sau rồi nó cũng cầm súng thôi!

Hai cha con đang mải chuyện, từ ngoài thành có tiếng ngựa hí. Mấy khắc sau, một người nhỏ, thấp, dáng nhanh nhẹn, đầu chít khăn, mình khoác chéo những băng đạn đi vào. Đó là Vàng Chỉn Cáo, vừa là Tổng giáp(1) vừa là tướng cai quản cả vùng Quản Bạ, Cắn Tỷ này.

Cáo cung kính chào Văn. Văn bình thản hỏi:

- Ngài bố trí trận địa thế nào rồi?

- Thưa tướng quân - Vàng Chỉn Cáo trình bày - Tôi đã cho lính dõng và dân bắc một dàn đá lớn ở phía Nam, cạnh hõm Cắn Tỷ. Hai trung đội phục kích dọc theo hai bên đường, còn lực lượng chính tập trung ở Cổng Trời này:

- Tình hình quân địch thế nào rồi, trình bày cho ta biết.

- Dạ, theo tin của thám tử cho biết, hiện chúng đang đóng ở phố Tráng Kìm, đốt hết nhà ở phố. Ngày mai chúng có thể tấn công ta. Tôi đã cho lính chuẩn bị đầy đủ. Có nhiều người dân tiếp tế lương thực, dùng súng kíp đêm đêm tập kích làm bọn giặc lùn khiếp sợ!

Mã Học Văn cùng Cáo họp bàn.

Rượu thịt xong, Văn, Minh, Cáo ra trước cổng thành, quan sát địa thế. Văn đến từng ụ súng, từng lỗ châu mai, trèo lên các dàn đá trên sườn núi, khích lệ quân sĩ.

Đêm ấy, Văn không ngủ, căng óc nghĩ mưu kế giữ Cổng Trời, thực hiện lời Hoàng dặn.

Bên ngoài, trời tối đen, rừng im lặng. Chốc chốc, tiếng cú mèo rúc, tiếng hổ gầm vang, tiếng vượn hú hòa thành âm thanh man dại, heo hút.

*

Trên phố Tráng Kìm, quân Nhật bắt đầu thu dọn lều vải. Cả hai bộ phận khinh kỵ và bộ binh chuẩn bị lên đường hành quân về phía Cổng Trời.
Mở đầu là đội khinh kỵ binh quần ngựa xung quanh phố. Bụi bay mù. Tiếng vó ngựa rộn rập gõ trên mặt đá tóe lửa. Tiếp sau là đại đội bộ binh bước chân rầm rập. Bụi bay mù. Tiếng người ngựa rộn rã. Những tràng pháo thị uy nổ liên hồi.

Tên chỉ huy ngực đeo ống nhòm, ngang hông đeo khẩu súng ngắn nhỏ xíu (người ta bảo là để tự sát khi thất trận), phóng ngựa vượt lên trước, mặt đầy vẻ tự đắc. Đây là một đội quân thiện chiến. Với một trung đội, chúng đã chiếm Lạng Sơn, Đồng Mỏ. Với một đại đội chúng đã từng chiếm Hải Phòng một cách dễ dàng. Vó ngựa chúng đã từng nện trên miền rừng núi Thái Lan, Cao Miên; gót giầy chúng đã từng dẫm trên đất Mã Lai.

Lần này, tiến lên mảnh đất xa lạ này, hắn tin chắc rằng sẽ chiến thắng dễ dàng.

Nhưng càng tiến quân, những nỗi mệt nhọc càng đè chĩu lên chúng. Lối đi hẹp, quá dốc, làm cho những con ngựa Cao Ly mệt nhoài. Dốc đá cao, có chỗ dựng đứng, làm cho đôi chân bó trong những đôi ghệt da mỏi nhừ. Cái nắng như rang cộng với những trận mưa đột ngột ào đến làm cho chúng thở dốc, mệt mỏi.

Lên đến gốc cây đa, đội quân mệt mỏi dừng lại. Lúc này, chúng thấy khát cháy cổ. Chúng xục xạo tìm kiếm, nhưng xung quanh chỉ có đá khô cứng, bới không ra giọt nước. Một chiếc dù phủ trên cây làm vọng gác. Tên chỉ huy trèo lên chĩa ống nhòm về phía Cổng Trời quan sát.

Mã Học Văn đang nằm bên bàn đèn cùng con hút thuốc thì Vàng Chỉn Cáo vào báo cáo:

- Thưa tướng quân, giặc đã đến rồi

Tuyệt đối tin tưởng ở sức mình, Văn mỉm cười:

- Biết rồi!

Văn trèo lên lô cốt, hướng ống nhòm về phía địch. Trước mặt, đoàn quân Nhật đang chậm chạp tiến bước. Những tên lính Nhật lăm lăm súng trong tay, cố trèo lên. Nhiều tên chân đã khập khiễng. Mồ hôi thấm ướt đẫm áo, nhễ nhại trên mặt.

Chờ chúng lọt vào thế trận, Văn mới dõng dạc ra lệnh:

- Dàn đá!

Một phát súng hiệu nổ ròn. Tự dưng, những tảng đá to như những con trâu ầm ầm từ trên đỉnh dốc lao thẳng xuống đám quân Nhật. Bụi cuốn mù mịt. Đất rung chuyển. Quân Nhật không kịp trở tay. Những tảng đá cứ thế nghiền nát gọn toán quân đi đầu. Tên chỉ huy vội vã cho quân rút về gốc đa chờ đợi.
Sau khi cho những tốp quân nhỏ đi dò đường, biết địch quân đã hết đá lăn, quân Nhật ồ ạt tấn công.

Mã Chính Minh ra cửa thành chỉ huy lính Mèo chiến đấu.

Trên các lỗ châu mai, hai khẩu liên thanh bắc chéo cánh sẻ; những khẩu súng trường, súng săn và cả súng kíp chìa ra tua tủa như lông nhím. Những vò rượu lớn được khênh đến chân thành. Quân lính vục bát uống, mặt mũi đỏ gay, hoa súng hò hét, chửi rủa bọn giặc lùn. Đó là thói quen của người Mèo. Ngay từ khi mới lọt lòng mẹ, người ta đã quệt rượu vào môi đứa bé, và thế là nó lớn lên với rượu.

Một thầy cúng được đưa đến, mình mặc bộ quần áo có dán bùa lòe loẹt. Hắn nhảy nhảy múa múa, hai tay chắp trước ngực, giậm chân, bắt quyết, gọi thần, gọi ma một hồi, đoạn cầm ống thẻ bằng nứa xóc xóc, Một que thẻ chồi lên rơi xuống đất. Tên thầy cúng cầm lấy xem rồi nói với Chính Mính:

- Thưa tráng sĩ, quân ta lại sẽ thắng!

Quân Nhật vẫn tiến. Một tiếng tù và nổi lên. Tất cả các cỡ súng từ trong các lỗ châu mai nổ ran. Lửa lóe. Khói bay mù mịt. Quân Nhật chết lăn xuống vực như sung rụng.

Sau hai đợt tấn công, không chiếm được Cổng Trời, quân Nhật đành lui về Cắn Tỷ, chờ thời cơ mở những đợt tấn công mới.

Lính Mèo reo hò, mở cổng thành nhảy múa, uống rượu, hút thuốc phiện mừng chiến thắng. Một con bò được dắt đến. Một tên lính hoa đại dao chọc tiết bò. Dòng máu phun ra đỏ tươi. Bọn lính xúm lại, vũm tay hứng máu, húp xùm xụp, cười khoái chí.

Văn, Minh, Cáo lững thững ra khỏi cổng thành, nhìn xác quân Nhật ngổn ngang hai bên đường, gật gù đắc ý.

Văn ra lệnh cho lính Mèo vừa ăn mừng, vừa củng cố trận địa. Một dàn đá mới được xếp cao. Đạn dược thồ thêm đày ắp kho. Rượu và thuốc phiện được chở đến. Mấy vọng tiêu được dựng thêm. Một lũy đá được xếp ngay phía trước, cách Cổng Trời vài chục mét.

Bọn lính còng lưng khiêng vác, quét dọn xung quanh thành, kéo xác giặc lại thành đống, chất đá lấp kín.

Hai ngày sau, trận địa vẫn im tiếng súng. Bọn Nhật nằm im ở Cắn Tỷ, không thấy xuất quân.

Văn lại mở tiệc khao quân.

Cuộc vui đang giữa chừng, những tên lính Mèo say rượu đang múa hát, đánh bạc thì từ dóc Pa-Pao, một tên lính cưỡi ngựa, tay cầm hỏa bài phi đến như bay. Tên lính dừng ngựa, hộc tốc vào thành, đến trước mặt Mã Học Văn, trình hỏa bài thưa:

- Thưa tướng quân, có mật thư!

Tên lính đưa chiếc ống gỗ sơn son cho Văn. Văn mở ống, rút ra một phong thư, đưa cho Minh:

Minh đọc một lượt, bỗng sắc mặt thay đổi, đỏ lựng lên, hai tay run run:

- Thưa cha, lệnh mật của cụ Hoàng, bảo cha phải mở Cổng Trời!

- Sao, con đọc ta nghe?
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Mười Một, 2017, 10:54:10 pm gửi bởi bodoibienphong » Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #2 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:17:06 pm »

Nghe xong lệnh, Văn tái mặt, đập tay xuống chiếc bàn lim:

- Mở Cổng Trời, mở Cổng Trời? Lạ thật! Cho quân Nhật vào Đồng Văn? Không thể hiểu nổi! Cha phải về Sà-Phìn hỏi cụ Hoàng xem sao. Chưa thể thi hành lệnh này được. Con cùng Vàng Chỉn Cáo chờ ở đây, khi nào có lệnh cha mới được mở. Hễ bọn giặc lên, cứ đánh!

Mã Học Văn lên ngựa, dặn dò quân sĩ canh giữ Cổng Trời rồi phóng đi.

Minh giữ dây cương, ghìm cha lại:

- Thưa cha! Cụ Hoàng đã ra lệnh mà cha không tuân, con sợ sẽ mắc trọng tội, thất sủng với cụ, cụ sẽ ra lệnh chém đầu cha. Bao nhiêu tướng lĩnh đã chết dưới lưỡi kiếm của cụ rồi!

Văn ngầm nghĩ hồi lâu rồi nói với con:

- Cha đã nghĩ đến điều đó, nhưng cũng cần phải thấu hiểu ngọn ngành thì mới thi hành được! Làm người tôi trung, chính trực, không thể mù quáng làm theo lệnh mà không biết thiệt hơn, phải trái. Là người họ Mã, con phải nhớ kỹ điều đó!

Văn nói xong, quay ngựa phóng đi. Minh nhìn bóng cha khuất dần vào hàng cây rậm rạp bên đường, lòng đầy lo lắng.

Mã Học Văn phi như bay trên đường. Tiếng vó ngựa giòn giã.

Về đến phố Yên Minh, Văn vào trạm thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường.

Chiều hôm ấy, Văn đến Phố Cáo. Một thung lũng hiện ra. Cánh rừng thuốc phiện trải dài trước mắt. Những cánh hoa tím lung linh trước gió. Đàn ong bay đi bay lại. Xa xa, núi đá cao vút dẫm ánh nắng hoàng hôn, gieo vào lòng Văn cảnh hùng tráng và cô tịch.

Hết rừng thuốc phiện là những nương bắp. Những cây bắp to, mập mạp, lá múa trong nắng.

Những người đàn bà, lưng dịu quẩy tấu củi, thân hình gầy guộc, quần áo rách tả tơi, đang leo dốc về bản. Những đàn bò cổ đeo mõ lộc cộc trên đường.

Đã bắt đầu lên dốc Thảm Mạ. Văn xuống ngựa, thắt chặt thắng đái, tu thêm hơi rượu, thận trọng leo dốc.

Sáng hôm sau, Văn đã đến thung lũng Sà-Phìn. Một dinh thự nguy nga nằm dưới thung lũng xanh rờn.

Những hàng thông cao vút, thẳng đứng mọc thành vòng tròn bao quanh những nếp nhà đồ sộ, mái ngói đỏ tươi.

Từ ngoài đi vào, phải qua một cổng đá. Khỏi cổng, những bậc đá dẫn vào tiền dinh. Trước tiền dinh, bức đại tự sơn son, có hàng chữ thếp vàng “Biên chinh khả phong”(1). Hai bên là một đôi câu đối khắc vào đá. Một đôi kỳ lân đá chầu trước cổng.

Vào trong, ta gặp sân tiền dinh, làm bằng những phiến đá rộng. Những cột nhà của dinh thự được đặt trên chân đá đẽo hình lục lăng, chạm trổ tinh vi.
Ở trung dinh, ta bắt gặp một hòn non bộ, một chuồng gấu bằng sắt to như gian nhà. Những con gấu đen trũi lừng lững đi lại trong chuồng.

Cạnh dinh, người ta còn xây một bể chứa nước làm bằng đá, nước đủ cung cấp cho một tiểu đoàn dùng hàng tháng.

Những người già kể lại rằng, ngày trước, khi được phong làm bang tá, cha của Hoàng Chí Trung là Hoàng Chí Đạo, đã thuê một thày địa lý nổi tiếng người Trung Quốc đi khắp cả vùng Đồng Văn mênh mông này, xem đất lập “kinh đô” cho đất nước Đồng Văn. Thày địa lý trèo đèo lội suối, đi lang thang hết
cánh rừng này đến cánh rừng khác, triền núi này đến triền núi khác, từ Quản Bạ đến Lũng Cú, từ Bát-Đại-Sơn đến vùng Sơn-Vĩ, cuối cùng dừng lại ở đất Sà-Phìn này. Thày nói với Hoàng Chí Đạo:

- Thưa ngài, đây là một mảnh đất có địa thế tuyệt hảo. Giữa thung lũng, một vùng đất nổi lên hình mai rùa, đó là thần Kim Quy. Nếu dựng cơ nghiệp trên đó, sự nghiệp ngài sẽ vững chãi đời đời. Thưa ngài, phía trước mặt, hai ngọn núi kia, đó là hai mâm xôi. Hai mâm xôi ấy nuôi sống con cháu ngài muôn đời. Còn kia, phía sau là bức trường thành vòng cung sẽ ôm lấy dinh thự. Dựa lưng vào đó, không bao giờ họ Hoàng bị sụp đổ.

Hoàng Chí Đạo thưởng công cho thầy rất hậu rồi cho người đi chiêu tập các thợ giỏi từ khắp đất Đồng Văn, những thợ giỏi nổi tiếng từ bên Tàu sang bắt tay vào xây dựng dinh thự.

Những tấm đá nặng hàng chục tấn, không hiểu những người thợ, những người phu làm thế nào mà đưa được về để đẽo gọt thành những cột đèn, những chân cột, những tấm lát sân. Những cây thông đá hàng hai ba người ôm được xẻ ra làm cột, làm cửa.

Làm dinh đã tốn công, đến khi xây hai lô cốt bằng đá và một bức tường dày hàng thước bao kín xung quanh dinh thự còn tốn công tốn sức hơn nhiều.

Người ta đồn rằng, dinh thự xây trong 3 năm, số phu tới hàng ngàn người. Hàng ngàn người dân vì cung cấp bắp, thuốc phiện, rượu để xây dinh thự đã kiệt quệ phải chết đói.

Sau khi khánh thành dinh thự, Hoàng Chí Đạo cho mời các tay thợ đến. Ngài ân cần cám ơn và thưởng cho mỗi người 2 lạng vàng, 2 lạng thuốc phiện. Những người thợ cúi rạp mình cảm ơn lòng nhân hậu của ngài bang tá. Ngài còn không quên cho ngựa thồ thêm rượu, bắp cho những người thợ mang về nuôi vợ con.

Đoàn thợ vui mừng kéo nhau ra về, vừa đi vừa hát nghêu ngao những bài sơn ca.

Đến một hẻm núi, đoàn thợ bỗng nhiên nghe tiếng vó ngựa rộn vang, rồi một đoàn lính Mèo tủa ra, chặn đường:

- Chúng mày bỏ hết vàng, thuốc phiện ra đây!

Đám thợ sợ hãi trả hết số vàng, thuốc phiện, mong thoát thân. Nhưng khi thu đủ số hàng xong, đám lính xông vào chém giết không còn sót một người nào, chúng đem xác đám thợ ném xuống một hang sâu, rồi mang vàng, thuốc phiện về trao lại cho Hoàng Chí Đạo. Đạo vui mừng vì kế độc đã làm xong, vừa thu hồi đủ tiền bạc, vừa giữ kín những bí mật thiết kế dinh thự…

Đúng như lời thày địa lý nói, từ đó, Hoàng ngày một bành trướng, trở thành dòng họ lớn nhất ở đất Đồng Văn, tiền bạc như nước. Hoàng thiết lập triều đình với đủ các loại văn võ bá quan…

Mã Học Văn đi vào cổng. Một người nhỏ nhắn, trắng trẻo, trông như thư sinh, đội chiếc mũ cát két sụp trước mặt đang ngồi trong cổng, tay cầm một cái vòi cao su to bằng ngón tay cái, cho vào mồm rít rít. Chiếc vòi cao su luồn qua khe tường dẫn vào một dọc tẩu. Trong đó một tên lính Mèo đang tiêm thuốc phiện. Mỗi lần tiêm xong, tên lính lại giật giật cái dọc tẩu. Nhận được hiệu, người nhỏ nhắn bên ngoài lại đưa vòi cao su vào mồm rít mạnh. Hơi thuốc phiện từ trong dọc tẩu, theo ống cao su tuôn vào mồm làm hắn khoan khoái. Đó là Thào Sè Na, đội trưởng, chỉ huy đội cấm vệ của dinh Sà Phìn. Tất cả những ai muốn vào dinh đều phải qua sự kiểm soát của Na. Để tiện việc quan sát, canh gác, Na không nằm bên bàn đèn hút thuốc như mọi người mà thiết kế riêng bộ bàn đèn với chiếc vòi cao su độc đáo.

Thoáng trông thấy bóng Mã Học Văn, Thào Sè Na vội vã chạy ra, cung kính chào rồi tự tay dắt con ngựa hồng vào tàu.

Học Văn đi qua ba lần cổng vào trong dinh. Sùng Vạn Lù, võ sĩ bảo vệ Hoàng, ra vái chào Văn rồi thưa:

- Lão quan vừa mới tiếp ngài Cắm Sìn, sứ giả của quân đội Nhật, xin mời tướng quân vào!

Văn được để nguyên vũ khí, vào hậu dinh. Một cảnh tượng lộng lẫy hiện ra trước mắt. Trên tường, cạnh những bức gấm thêu, treo bức ảnh lớn. Ảnh chụp Hoàng Chí Đạo đang đi cùng hàng với toàn quyền Pa-ski-ê và vua Khải Định khi cắt băng khánh thành cầu Pôn-đu-me(1) ở Hà Nội. Đạo mặc áo gấm, đầu đội mũ cánh chuồn, ngực đeo mề đay “Bắc đầu bội tinh”. Phía tường bên kia, những bức tranh bằng gấm thêu tranh mai, lan, cúc, trúc. Trên tường, một thanh gươm bọc trong vỏ sơn son thiếp vàng…

Ở gian bên, trên sập gụ chân quỳ khảm trai, bày một bộ bàn đèn sang trọng, dọc tẩu bịt đầu rồng bằng bạc sáng loáng, xe bằng gỗ mun đen bóng, có chỉ vàng uốn quanh. Khay cũng bằng gỗ mun đen, khảm hai câu đối xà cừ. Trên khay, một chiếc đèn bầu pha lê trong suốt đựng dầu lạc vàng sánh. Chiếc bấc trắng ngoi trên ống muống được giữ bằng đồng tiền bạc. Ngọn lửa trắng hình búp nhọn thẳng đứng. Que nạo, que tiêm bằng inox. Một con dao cạo nhỏ hai lưỡi. Một tượng nhỏ “Quan Công phi ngựa trên cầu” bằng đồng đen.

Bên cạnh khay là bộ trà với chiếc ấm giỏ tích nhỏ đan bằng mây sơn dầu, bốn chén hạt mít bịt bạc.

Sập trải chăn len màu xanh. Một chiếc gối cao phủ gấm xanh, thêu con chim đại bàng đang bay lượn quanh đỉnh núi cao.

Bên bàn đèn có hai người đang nằm. Một người có nước da hơi xanh, cái mũi nhỏ không cân đối với đôi tai to. Đôi mắt xếch dưới đôi lông mày xếch, hơi nheo nheo trước ánh sáng mặt trời. Đường gân xanh ở thái dương giật giật. Sau mấy hơi thuốc phiện đôi mắt đó có vẻ tinh ranh. Trán hằn nếp nhăn, bộ mặt đanh, nghiêm, toát ra vẻ uy quyền. Người đó mặc chiếc áo va-rơi dạ đen Mông Tự, quần tây ga-ba-đin Mỹ vàng. Đôi tất len bó đôi chân. Mái tóc xanh cắt ngắn. Một bộ ria đen chạy trên mép. Đó là Hoàng Chí Trung. (Mọi người thường gọi là Hoàng). Bên cạnh một người phụ nữ Kinh lai Hoa, có thân hình tròn lẳn, mái tóc quăn làn sóng tự nhiên, cái mũi dọc dừa thanh tú, đôi mắt xanh biếc, da trắng, gò má chín hồng. Người đó có vẻ đẹp sắc sảo, rừng rực như thiêu đốt. Đó là người vợ ba của Hoàng, tên Trương Thị Mỹ Thuận. Mụ tiêm thuốc cả hai tay rất cừ. Những ngón tay vê thuốc uyển chuyển.

Trông thấy Mã Học Văn, Hoàng ngừng rít thuốc, khẽ nhổm dậy, hai tay nâng dọc tẩu, nói giọng sang sảng, tiếng Mèo pha tiếng Pháp:

- Xin chào Mờ-xi-ơ ! Mời lão tướng! Hút thuốc xong ta sẽ nói chuyện!

Không muốn cắt đứt bữa thuốc của Hoàng, Học Văn trở về góc phòng, ngồi vào bộ ghế sa lông lót gấm, đặt chân lên tấm da hổ trải trên nền nhà gỗ đánh véc-ni bóng. Tiếng Hoàng rít thuốc ro ro, khói thuốc bay ra tỏa mùi thơm ngào ngạt, say say. Hình ảnh Hoàng chập chờn, chập chờn sau khói thuốc, đưa Văn vào những suy tưởng mung lung. Mảnh đất Đồng Văn với những dòng họ, những con người thoáng chạy trước mắt Văn như những hình trên đèn kéo quân…


Hồi “Thái Bình Thiên quốc”(1), sau khi thất bại trong việc đánh lại quân Thanh, ba tướng của Thái Bình Thiên quốc là Ngô Côn, Hà Quốc Tường, Hoàng Sùng Anh dẫn một số quân sang trốn ở Đồng Văn. Người ta gọi số quân này là quân Cờ Vàng.

Hoàng Tổng Đề, một tộc trưởng người Mèo, lãnh đạo dân Đồng Văn đánh quân Cờ Vàng. Hai bên đang kịch chiến thì quân Pháp tiến lên đánh Đồng Văn.
Trước tình thế đó, coi quân Pháp là nguy hiểm hơn, Tổng Đề cho sứ giả sang thương thuyết với Hoàng Sùng Anh, liên hiệp với quân Cờ Vàng, đánh Pháp. Sùng Anh nhận lời. Hai bên hợp quân đánh Pháp kịch liệt. Pháp không chiếm được Đồng Văn.

Pháp mua chuộc các tù trưởng người Mán, người Mèo làm phản. Quân Cờ Vàng thua, Hoàng Sùng Anh bị bắt và bị giết. Pháp chiếm được phía nam Hà Giang. Quân của Tổng Đề rút về giữ núi Cắn Tỷ. Đã nhiều lần cho quân đánh lên nhưng không vượt qua được khỏi Cắn Tỷ, Pháp nghĩ mưu dùng nội phản.
Một bộ hạ Tổng Đề là Hoàng Tứ Hình phản bội chủ, phản bội người Mèo, đưa quân Pháp từ phía Bảo Lạc đánh vào sườn phía đông Đồng Văn. Tổng Đề thua. Pháp chiếm Đồng Văn, phong Hoàng Tứ Hình làm Chánh tổng. Năm 1900, một số sĩ phu yêu nước lãnh đạo các dân tộc ở rừng núi Bắc Bộ khởi nghĩa chống Pháp. Thất bại, những người này chạy lên Đồng Văn, gây cơ sở hoạt động. Tứ Hình dẫn quân Pháp tiêu diệt những người này, được phong làm bang tá, cai quản đất Đồng Văn. Mười năm sau, một nông dân Mèo là Sùng Mí Chảng, không chịu được cảnh áp bức, lãnh đạo dân Mèo khởi nghĩa chống Pháp và Hình. Lúc này, Hình đã già, sức yếu, liền cho con là Hoàng Chí Đạo chỉ huy lính dõng Mèo, cùng lính Pháp dẹp khởi nghĩa của Chảng. Nghĩa quân yếu dần và thất bại. Sùng Mí Chảng bị Đạo bắt. Đạo được Pháp thưởng mề đay “Bắc đẩu bội tinh”, phong làm bang tá, thay bố cai quản đất Đồng Văn.

Lên làm bang tá, Hoàng Chí Đạo cho xây dinh thự Sà Phìn, gả con gái là Hoàng Thị Chính cho Dương Thụ Nghĩa, một thổ ty lớn cai quản đất Mèo Vạc, rồi cùng Dương tiêu diệt dần các thổ ty nhỏ, phát huy thanh thế và áp bức dân Mèo đến tận xương tủy. Đạo còn truy tìm những bộ hạ của Sùng Mí Chảng, chu di tam tộc. Một bộ hạ tin cẩn của Sùng Mí Chảng là Vàng Sấy Hòa chạy sang Tầu làm ăn sinh sống, chờ thời cơ trả thù.

Năm 1940, Hoàng Chí Đạo già, sắp về hưu, phải chọn một trong ba con trai thay mình làm bang tá cai quản đất Đồng Văn. Thế là giữa ba anh em có những âm mưu ngấm ngầm hại nhau, tranh giành “ngôi báu”.

Về danh chính ngôn thuận, người con cả là Hoàng Xu Đô sẽ được thay cha. Nhưng Đô tính tình không giảo quyệt bằng người con thứ hai là Hoàng Chí Trung.

Năm 20 tuổi, Trung đã học thông tiếng Pháp, làm thông ngôn cho quan hai Vác-Xen chỉ huy đồn Phó Bảng. Vì khéo tâng bốc, ca ngợi, nịnh nọt. Vác - Xen liền cho gọi Chí Đạo lên đồn, tuyên bố dứt khoát là người Pháp chỉ công nhận chức bang tá của họ Hoàng nếu như chức đó về tay Hoàng Chí Trung. Thế là, Trung nghiễm nhiên thay bố làm bang tá.

Lên làm bang tá rồi, nhưng hắn vẫn lo. Biết đâu, anh và em trai chả liên kết với nhau ám hại mình. Nghĩ thế, với quyền hành trong tay, hắn liền cử Hoàng Xu Đô sang Mèo Vạc mở sòng bạc, và làm sứ giả của Hoàng bên họ Dương. Nhất cử lưỡng tiện: vừa dùng Đô làm do thám, thăm dò lực lượng, sẵn sàng tính kế tiêu diệt Dương, vừa nhờ bàn tay kẻ thù khử Đô khi cần thiết.

Còn đứa em trai là Hoàng Sinh Chủ, hắn tìm kế ám hại. Một dịp may đã đến. Sinh Chủ bị ốm. Trung cho gọi một tên thày lang châm cứu giỏi đến. Sau khi đuổi tất cả mọi người ra khỏi phòng, hắn khẽ nói với người thầy lang:

- Ta nói với ngươi một chuyện bí mật này, nếu ngươi để lộ ra, ta sẽ chém đầu ngay lập tức. Thằng Chủ ốm nặng, ta muốn nhờ bàn tay ngươi khử nó đi một cách êm thấm. Ngươi hãy vì ta mà làm việc này. Ta hậu tạ.

Tên lang tái mặt, lúc lâu mới dám thưa:

- Ác giả ác báo. Nếu ta làm nó chết đi, rồi xuống âm phủ nó sẽ oán cả ngài lẫn tôi! Chi bằng ngài cho phép tôi làm cho nó câm điếc dốt nát, nó chẳng có chí để cướp ngôi báu của ngài!

Trung gật đầu. Thế là khi châm cứu chữa bệnh cho Chủ, tên lang đã tìm huyệt hiểm châm, làm cho Chủ bị câm và điếc.

Dẹp yên được các mối đe dọa tiếm quyền trong gia đình, Hoàng bắt tay vào thu phục các tướng lĩnh, các tổng giáp, mã phài có tài và thế lực, thực hành một chính sách gia đình trị rất chặt chẽ. Các con rể hắn đều trấn ngự nơi hiểm yếu! Giàng Vạn Sùng ở Lũng Cú, Cù Máo Kẻ ở Phố Cáo. Sùng Mí Chiu ở Sà Phìn.

Sau con rể, người mà Hoàng tin cậy đầu tiên là Mã Học Văn. Tuy là khác họ, nhưng Văn là tay giang hồ mã thượng, đã từng làm tướng chỉ huy quân từ lâu năm, dưới “triều” Hoàng Chí Đạo. Trước khi làm tướng cho Đạo, Văn trấn ngự cả vùng Sủng Là, nhiều phen đánh quân Tàu trắng và phỉ vùng biên giới này. Vì dòng dõi họ Mã không được Pháp trọng dụng, lại không ăn ý với châu đoàn Nguyễn Toại, có lần Văn dã bị Pháp bỏ tù ở Hà Giang, nên Văn không được làm bang tá. Biết tài chinh chiến của Văn, Hoàng thu phục, coi Văn như phó vương, tổng chỉ huy quân đội của mình. Văn có hai con trai. Muốn con đời đời nối nghiệp mình chỉ huy quân Hoàng, Văn cho mỗi con học một thứ: Mã Chính Minh theo Nho học, Mã Chính Lâm theo Tây học. Ngay từ bé, Minh, Lâm đã được trau dồi quân sự, binh đao.

Các tướng khác, mỗi người một cách, đều được Hoàng thu phục.

Sùng Vạn Lù, võ nghệ cừ, được phong làm vệ sĩ, chỉ huy đội quân cận vệ, suốt ngày đêm túc trực bên Hoàng, bảo vệ Hoàng. Hầu Vạn Quả lãnh việc ngoại giao. Sùng Mí Chiu lãnh việc kinh tế. Giàng Vạn Sùng, chỉ huy mặt trận phía bắc ở Lũng Cú. Vàng Chỉn Cáo chỉ huy mặt trận phía nam, trấn ải ở Cổng Trời. Thào Sè Na chỉ huy quân cấm vệ dinh Sà Phìn. Các tổng giáp Giàng Sè Páo, Vàng Vạn Ly đều được Hoàng trọng dụng, cai quản các địa phương.

Hoàng ra sức củng cố quân dội. Năm nghìn quân thường trực được trang bị súng ống đầy đủ. Năm nghìn quân dõng ở các địa phương được chia ruộng đất, hàng vạn dân Mèo tự trang bị súng trường, súng kíp, tự do mua súng đạn bảo vệ làng bản của mình.
Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp ở Đồng Văn phải rút đi sang Trung Quốc, liền giao toàn bộ vũ khí và các đồn dọc biên giới cho Hoàng. Hoàng có thêm súng trang bị cho quân đội và lính dõng của mình.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:26:52 pm gửi bởi bodoibienphong » Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #3 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:30:13 pm »

2

Với một lực lượng hùng hậu như vậy, với tinh thần thượng võ của người dân Mèo như vậy, mà Hoàng chịu đầu hàng hay sao? Trong óc Văn cứ lởn vởn với ý nghĩ khó hiểu ấy.

Văn đang ngồi thì chợt có tiếng dép lê lẹp kẹp.

Một người đàn bà trạc 50 tuổi, mái tóc chải bồng, mắt xanh như mắt mèo. Đôi hoa tai vàng mặt kim cương xanh lấp lánh. Một sợi dây chuyền vàng ôm lấy cái cổ trắng xanh. Một bộ xà tích vàng xủng xoảng bên hông. Mụ mặc chiếc quần trắng, ống quần bỏ trong xà cạp, tay cầm một chiếc điếu can dài như chiếc gậy, vừa hút thuốc lào vừa làm gậy đánh con hầu.

Mụ lẹp kẹp đi đến bên Văn, vòng tay nhỏ nhẹ:

- Kính chào đại nhân!

Văn cũng cung kính chào lại.

Đó là Trần Thị Síu. Quê mụ ở mãi vùng Nam Định xa xôi. Từ hồi trẻ, mụ đi lang thang khắp đất Việt Nam, sống bằng nghề buôn bán. Qua bao tay người đàn ông, mụ thấy mệt mỏi, chán ngán, muốn sống cuộc sống gia đình có chồng có con như trăm ngàn người phụ nữ khác. Mụ lấy một người chồng ở một thị trấn hẻo lánh: Tuyên Quang. Hai vợ chồng mở một cửa hàng cà phê. Lấy chồng rồi nhưng mụ có hàng chục nhân tình, đủ các loại người, với các nghề nghiệp khác nhau. Chồng mụ là người nhu nhược. Hàng ngày, ông ta vẫn nhìn tận mắt những người nhân tình ngủ lại với vợ, nhưng không dám hé răng. Một lần, một bà hàng xóm thật thà nói cho ông ta biết vợ ông ăn nằm với một người lạ. Tưởng ông sẽ cám ơn bà về sự phát hiện và răn bảo vợ để khỏi mang tai mang tiếng. Không ngờ, ông ta tỏ ra ngạc nhiên và bực tức, nghiêm mặt nói với bà hàng xóm:

- Không bao giờ vợ tôi làm cái việc đốn mạt như thế! Tôi đã từng nhìn tận mắt, vợ tôi tát vào mặt những kẻ bờm xơm. Bà không nên gắp lửa bỏ tay người, bịa đặt chuyện xấu xa cho vợ tôi như thế. Tôi mong bà nên nghĩ lại và không được nhắc đến chuyện không thể có này. Tôi sẽ trị thẳng tay những kẻ bịa đặt nói xấu vợ tôi!

Bà hàng xóm vừa trố mắt ngạc nhiên vừa lẳng lặng rút lui, chẳng muốn làm ơn nên oán.

Ít lâu sau, hai vợ chồng lục đục. Tự nhiên người chồng lăn đùng ra chết, một cái chết bí ẩn. Mấy bà hàng xóm độc miệng bảo mụ giết chồng để theo trai.

Mụ chửi họ một trận rồi bỏ cái đất bạc bẽo, độc địa với mụ, ngược lên phía Bắc. Mụ dừng lại ở thị xã Hà Giang, mảnh đất quân sự xa xôi đầy rẫy lính Tây, nhưng lại thiếu trò giải trí.

Mụ lại mở quán cà phê, sống như một bà hoàng. Với tính tình dâm đãng, biết nói tiếng Tây bồi, mụ đi hết với quan Tây này đến quan Tây khác. Mụ có tới 8 nhân tình là quan Tây. Quan nọ ghen với quan kia, tranh giành, xâu xé nhau vì mụ. Ngày ngày các quan chỉ huy lính dàn trận, bắn nhau trên các ngả đường, làm nhiều người dân bị trúng đạn, nhà nhà đóng cửa sầm sập như có loạn. Thấy thị xã mất trật tự trị an, ngài quan tư Chánh sứ dàn xếp các quan của mình, nhưng mãi không được, liền bắt mụ, lột hết quần áo, cạo đầu bôi vôi, dắt đi bêu khắp thị xã. Tưởng rằng dùng nhục hình An-nam như thế sẽ làm mụ cạch đến già, nhưng không, mụ tiếp tục ăn nằm với các quan Tây. Không còn cách nào khác, ngài quan chánh sứ đành phải nhờ bàn tay của công lý, trục xuất mụ khỏi Hà Giang.

Mụ sang Tàu, lấy một quan ba Tưởng, sinh được hai con gái: Trương Thị Mỹ Thành và Trương Thị Mỹ Thuận. Chồng mụ phải đi chinh chiến ở phía Bắc, mụ bỏ, bồng bế hai con về Phó Bảng, huyện lỵ Đồng Văn, mở hiệu cà phê và buôn lậu.

Khách uống cà phê của mụ ngày một đông. Đó là những quan Tây ở đồn Phó Bảng, những ông xếp, ông cai khố xanh trấn ải lưu đồn biên giới, những ngài tổng giáp, mã phài(1) của Hoàng, những thương gia người Tàu, người Kinh, những tên tướng cướp lục lâm vùng biên giới. Họ đến uống cà phê thì ít, nghe lẩy Kiều, kể chuyện Tàu và tằng tịu với mụ thì nhiều.

Cứ vài ba hôm, nhất là đến các phiên chợ, Hoàng lại nằm trên kiệu, có quân lính rước từ Sà Phìn ra Phó Bảng, vào quán uống cà phê và trò chuyện với bà chủ quán thông minh và khéo léo.

Cuộc đời giang hồ tạo mụ nhiều tài lạ. Mụ có giọng như hát. Những chuyện Đông Chu Liệt quốc, Tam quốc diễn nghĩa… mụ thuộc như cháo, có thể nói hết buổi này đến buổi khác. Truyện Kiều, mụ “đọc ngược” làu làu, cần dẫn chứng câu nào là mụ đọc vanh vách. Mụ nói được cả tiếng Tây (tất nhiên là tiếng Tây bồi), tiếng Quan hỏa và chẳng bao lâu nói được cả tiếng Mèo.

Về các thủ đoạn bóc lột và tàn sát thì ông Vua Mèo này có thể vượt các bạo chúa, nhưng về chuyện tế nhị của tình yêu, ông lại là một học trò không thuộc bài của bà me Tây sành sỏi này.

Biết ông Vua Mèo chú ý đến mình, mụ dùng một vài thủ thuật nhỏ để đưa ngài vào tròng. Trước mặt người đã từng được phong “Biên chinh khả phong”, mụ tỏ ra hết mực đoan trang. Đã có lần mụ đánh tiếng để ông Vua Mèo biết là trước kia, ở quê nhà, mụ đã từng được Vua nước Nam ban hiệu “Tiết hạnh khả phong”. Nhưng vì cuộc đời ghen ghét, sa cơ, mụ mới phải bỏ tổ ấm, ra đi, lưu lạc về đây. Một lần, Hoàng đến quán. Lúc này khách đang đông. Có ông mang cả một bộ nhung để định tặng bà chủ quán. Hoàng vừa ngồi một tí thì cô hầu của mụ ra nói với đám khách: “Hôm nay bà tôi khó ở xin phép các ngài vào hôm khác”, rồi cô đến nói nhỏ với Hoàng: “Xin mời Lão quan ở lại”.

Những ngày sau, mụ chủ quán tiếp hắn ở phòng riêng kín đáo. Có lần mụ khóc lóc, nỉ non kể về quãng đời lênh đênh của mình. Hắn cảm động, thương cảm lắm. Có nhiều đêm, chuyện trò say sưa hắn không về Sà Phìn, nán lại ngả lưng đêm ở ngay quán.

Cả dân phố Phó Bảng này cứ đinh ninh rằng chỉ vào phiên chợ sau, mụ Síu sẽ bước lên kiệu hoa, có đoàn người ngựa và lính tráng rước về làm “ái phi” của Hoàng. Nhiều người xưa nay vốn khinh bỉ, hay chửi mụ là đĩ thõa thì nay bắt đầu thay đổi thái độ, kính nể, tìm cách làm thân, hết lời ca ngợi mụ là chính chuyên, độ lượng. Còn những người hàng xóm trước kia mụ có vay chai rượu, lít dầu cũng không cho, thì nay đem biếu mụ đủ thứ, xun xoe nịnh nọt, một điều, “bà chị tôn kính”, hai điều “bà chị tôn kính”.

Nhưng bỗng dưng họ ngã ngửa người ra.

Một buổi tối, sau khi khách hàng về hết, mụ gọi Mỹ Thành vào phòng mình, vừa vuốt mái tóc dài chấm gót của con mụ vừa dịu dàng, âu yếm:

- Con gái quý của mẹ ơi! Mẹ thấy “ông” (bà không gọi là “cụ” như mọi khi) Hoàng là vua ở đất này, cai quản cả một vùng rộng lớn, giàu có, quyền hành trong tay không ai bì, muốn ai sống được sống, bắt ai chết phải chết. Ông hô một tiếng là hàng trăm đầu người dân rụng xuống, đến các quan Tây, quan Kinh cũng phải kiêng nể. Hàng ngày, hàng trăm lính phục dịch. Tiền của như nước, vung bạc già như cho gà ăn thóc. Toàn dân hàng năm nộp thuế cho ông. Trong nhà hàng chục tấn thuốc phiện. Dinh thự Sà Phìn có khác gì cung vua nước Nam. Mẹ nghĩ, nếu con nghe theo lời khuyên của mẹ, làm bạn trăm năm với ông ta thì cả đời con sung sướng mà cả đời mẹ cũng được thơm lây, mát mặt, rửa cái nhục bọn dân phố cứ khinh bỉ, xóa được cái đời lận đận…

Mỹ Thành tròn xoe mắt, ấp úng:

- Con cứ tưởng mẹ… mẹ với cụ ta!

Người mẹ nhân hậu nói như van:

- Con ơi, mẹ đã già rồi, còn sống được bao năm? Lấy ông ta chỉ ăn ở được dăm mười năm, rồi khi mẹ đã thành thân tàn ma dại, ông ta sẽ bỏ mẹ, chạy theo người khác. Cái gia tài to lớn kia lại về tay kẻ khác mất thôi!

- Cụ ta hơn cả tuổi mẹ, lại hai người vợ Mèo, hàng trăm phi tần, con, con không…

Người mẹ nghiêm giọng:

- Những chuyện ấy thì đã sao? Người đàn bà ta cần nhất là sự nhàn nhã. Lấy ông ta con sẽ nhàn nhã suốt đời. Còn già ư? Mươi năm nữa, một vài lần sinh đẻ, con lại không già hơn ông ta sao? Mẹ van con, con nghe lời mẹ! Con chí hiếu của mẹ!

Người con gái bậm môi, tự dưng những giọt nước mắt trào ra, cô nén tiếng khóc:

- Con không đời nào!

Người mẹ không thể kiên tâm được nữa, thay đổi thái độ, nét mặt đanh sắt lại, nghiến răng ken két:

- “Cá không ăn muối cá ươn”! Tao khuyên bảo mày những điều phải, mày lại không nghe, bao năm tao lặn lội, gian truân để nuôi nấng mày khôn lớn. Giờ mày lại đền đáp công ơn tao thế à? Tao truyền lệnh cho mày, nghe đây, tao đã nhận lời gả mày cho ông ta rồi. Mày từ chối thì tao từ mày. Từ ngày mai, mày đi đâu ở thì đi, theo thằng tù đâm nào thì theo, không được ở đây nữa!

Thuyết phục con cả đêm không được, sáng hôm sau mụ lột hết quần áo, lấy roi cá đuối đánh một trận nhừ tử, rồi đuổi Mỹ Thành ra khỏi nhà.

Không chịu được cảnh nhục nhã, Mỹ Thành uống thuốc phiện tự tử. Người mẹ không hề rơi nước mắt, lẳng lặng chôn con và tiếp tục những âm mưu mới.
Mấy hôm sau, Hoàng ra Phó Bảng. Nghe tin Mỹ Thành chết, hắn buồn, tiếc món tiền đã trao trước cho người nhân tình già. Mụ Síu an ủi, khuyên hắn yên tâm, mụ sẽ trả nghĩa. Từ đó, người bưng cà phê hầu hắn là cô em gái: Mỹ Thuận.

Mỹ Thuận năm ấy mới 16 tuổi, xinh như một bông hoa. Mái tóc thề lơ lửng trên vai như một nữ sinh. Đôi mắt sáng rực, tình tứ, đôi môi đỏ chót, quyến rũ.
Sắc đẹp của cô gái non tơ này thu hút ngay đôi mắt hau háu của Vua Mèo.

Một buổi tối, sau một tuần rượu say chuếnh choáng, Hoàng bỗng thấy Mỹ Thuận đi vào. Bên ngoài, mụ Síu khẽ đóng cửa phòng lại…

Nửa giờ sau, mụ Síu bước tới. Chỉ còn lại tiếng khóc tấm tức của Thuận, tiếng đay nghiến của mụ Síu và tiếng phều phào của Hoàng:

- Thì biết làm sao? Cái đầu óc nó lú lẫn mà!

Mụ Síu lau nước mắt:

- Bây giờ lộ chuyện ra, cả dân ở cái đất Đồng Văn khốn nạn này của cụ sẽ kháo ầm lên, chê cười tôi, chê cười cụ, rồi ngài quan Chánh sứ công minh lại khiển trách cụ.

Hoàng hoảng hốt:

- Thế thì bà muốn lấy bao tiền, tôi xin đền bà?

Mụ Síu giẫy nẩy như đỉa phải vôi:

- Xưa nay tôi chỉ sống bằng tình nghĩa thôi, tôi không thèm tiền, cụ đừng khinh tôi ra mặt. Cụ đã cướp đi cái quý giá nhất của con tôi thì cụ … phải lấy nó! Nếu không tôi sẽ làm ra nhẽ cho nhà xem!

Mấy hôm sau, lễ cưới được tổ chức rất linh đình theo đúng phong tục người Mèo.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:51:25 pm gửi bởi bodoibienphong » Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #4 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:34:25 pm »

Những chiếc kiệu hoa sơn son thiếp vàng; những lá phướn, cờ rực rỡ màu sắc thêu hai chữ “Hoàng”, “Trương”, những hàng ngựa hồng, ngựa bạch đeo ngù đỏ, những tên lính ăn mặc đồng phục, hàng ngũ chỉnh tề, những đám trai gái ăn mặc sặc sỡ rước Mỹ Thuận về làm vợ ba Hoàng. Những người già đã chứng kiến hai lần cưới vợ trước đây của Hoàng đều bảo đám cưới Mỹ Thuận to hơn đám cưới người vợ cả của hắn ngày nào nhiều.

Mỹ Thuận trong bộ quần áo trắng - biểu hiện cho sự trinh bạch của cô dâu - bước lên kiệu hoa. Một hồi khèn nổi lên, hai họ và dân chúng hát bài “đưa dâu”.

Phiên chợ sau người ta thấy quán cà phê của mụ Síu đóng cửa. Mụ thu xếp nhà cửa, gia tài, theo con gái về Sà Phìn. Để kỷ niệm nơi mẹ con mình đã sống, mụ bàn với con rể xây biệt thự ở Phó Bảng. Hoàng nhận lời ngay.

Khác với dinh thự xây dựng ở Sà Phìn theo đúng kiểu Tàu, biệt thự ở Phó Bảng xây theo kiểu Tây.

Những đoàn ngựa thồ gạch và xi măng từ thị xã Hà Giang lên. Những thanh sắt mua từ bên Tàu về. Ròng rã hàng năm trời, ngôi nhà hai tầng bằng gạch và bê tông cốt sắt được dựng lên sừng sững giữa mảnh đất rừng núi xa xôi, hẻo lánh, bới không ra một viên gạch, một thanh sắt. Ngôi nhà nổi lên giữa rừng xanh, núi đỏ, được mệnh danh là ngôi “nhà trắng”.

Thỉnh thoảng mụ Síu, Hoàng, Mỹ Thuận ra thăm nhà, nghỉ ngơi, đón khách từ Hà Giang lên. Còn ngày ngày mẹ con mụ vẫn ở Sà Phìn.

Mụ Síu được ông con rể trọng vọng, thán phục về tài giao dịch, coi như một “Thái hậu”, vì mụ không những có tài dẹp yên mọi mối bất hòa trong gia đình, giao thiệp với các khách quý, mà còn biết binh thư, có thuật dùng người.

Về phía mình, mụ Síu tự biết lượng sức và phát huy sở trường. Mụ nghĩ: về quân sự, ta không thể so với Mã Học Văn, chỉ huy quân đội chiến chinh ngoài vạn dặm. Về tiền tài, ta không thể bằng Sùng Mí Chiu, tiền của như nước. Về tài ngoại giao, ta không thể bằng Hầu Vạn Quả, trở đi trở lại từ Đồng Văn sang Tàu, từ họ Hoàng sang họ Dương như đi chợ, uốn ba tấc lưỡi xoay chuyển cả tình thế. Về trấn ải ở những nơi đầu sóng ngọn gió, ta không thể bì với Giàng Vạn Sùng ở phía Bắc, Vàng Chỉn Cáo ở phía Nam… Nhưng, việc ngồi sau bức màn trướng, dùng những lời lẽ ngọt ngào, dùng khóe thu ba của con gái làm cho Hoàng ngây ngất, dùng các mánh khóe để mua chuộc, thu phục, gây chia rẽ con người thì bọn kia không bằng ta. Ta sẽ có tất cả chỉ cần thủ đoạn khéo léo, chỉ cần lung lạc được một vị chúa của bọn chúng, chỉ cần lung lạc từng người. Ta sẽ có tài Mã Học Văn, Sùng Mí Chiu, Hầu Vạn Quả, Giàng Vạn Sùng, Vàng Chỉn Cáo… cộng lại.

Từ đó, mụ lao vào cuộc vật lộn, thâu tóm quyền bính cả cái “Vương Triều Đồng Văn”này vào tay mình.

Trận tuyến đầu tiên mụ phải dẹp yên là hai người vợ cả với những đứa con trai, con rể của họ. Mụ biết rằng, hai người vợ Mèo của Hoàng đã già, thật thà, không có mãnh lực thu hút tâm trí Hoàng như con mụ; nhưng đứa con trai của người vợ cả là mối nguy cơ đáng lo ngại nhất.

Hoàng Đình Phủ, con trai cả của Hoàng và người vợ cả, về danh chính ngôn thuận sẽ thay cha làm bang tá cai quản mảnh đất này. Cả dân Mèo cũng nghĩ và đón chờ Phủ thay cha. Phải tìm cách ám hại Phủ thôi. Ngày đêm mụ rắp tâm thực hiện mưu đồ đó. Đầu tiên mụ lôi kéo các tướng lĩnh, các con rể của Hoàng về phía mình, xa lánh Phủ. Mỗi tướng một cách, mụ dần dần tung các ngón mua chuộc. Mã Học Văn thì mụ tỏ ra tôn sùng, quý trọng, lúc nào cũng tâng bốc: “Nói dại, giá như ông Hoàng có sao, chỉ họ Mã mới thay thế được họ Hoàng nắm quyền dắt dìu trăm họ ở cái đất Đồng Văn này”. Đối với Sùng Mí Chiu, mụ hết nhận là “người cùng chung số phận từ Tàu trôi dạt sang”, lại tung những nguồn vàng, thuốc phiện, gạ Chiu hùn vốn cùng nhau buôn lậu. Với Hầu Vạn Quả, anh rể Hoàng, mụ chỉ cần biếu xén những quà quý, sâm nhung, rượu ngon. Đối với Giàng Vạn Sùng, Vàng Chỉn Cáo, mỗi khi họ về Sà Phìn, mụ lại đón tiếp thân mật, úp úp mở mở tiết lộ những cuộc họp bàn, những nguồn tin cơ mật giữa Hoàng và các tướng lĩnh. Khi họ ra đi mụ không quên rỉ tai, nói là sẽ kể công của họ với Hoàng. Bằng cách đó, mụ đã thu phục được tất cả các tướng dưới tầm tay của mụ. Nhưng vẫn chưa đủ...

Bây giờ, mụ Síu mong có cháu trai. Nỗi khao khát ấy dày vò ngày đêm, làm mụ mất ăn mất ngủ. Đứa cháu trai sẽ là một hòn núi chặn không cho Hoàng Đình Phủ ngồi lên ngai vàng. Và như thế mọi quyền lực tài sản của cái giang sơn này sẽ thu về tay mẹ con mụ.

Mụ sướng đến điên người khi thấy Thuận có mang. Mụ cầu Trời khấn Phật, mong ngày mong đêm cho con chóng đến ngày khai hoa kết quả. Nhưng niềm vui chưa hết thì nỗi lo lại ập đến. Nhỡ Thuận đẻ con gái thì sao?

Gần đến ngày Thuận sinh nở, mụ cử Sùng Mí Chiu về Hà Nội, tìm một nhà hộ sinh tư kín đáo, rồi đưa con về sinh ở đó.

Hôm Thuận về Hà Nội, mụ đi theo, chỉ đưa vài người hầu thân tín cùng đi.

Hàng ngày, chiếc xe Xi-tờ-rô-en chạy từ Hà Nội về thị xã Hà Giang. Đoàn lính phiêu kỵ Mèo phóng ngựa tưởng đến đứt ruột từ thị xã Hà Giang về Sà Phìn chỉ để báo tin. Bà Ba khỏe hay khó ở với Hoàng.

Ngày mong đợi của mẹ con mụ đã tới. Tiếng trẻ khóc oe oe báo hiệu một hạt máu Kinh - Hán - Mèo ra đời. Mụ Síu chạy ngay vào phòng đẻ của con. Mỹ Thuận đang ôm đứa trẻ trên chiếc giường đuya-ra lò xo. Đứa trẻ đỏ hon hỏn bọc trong chiếc tã lụa. Chưa cần hỏi han về sức khỏe của con, mụ vạch ngay đám tã quấn quanh đứa bé ra xem. Mụ tái mặt như phải cảm: đứa bé là con gái!

Mụ đau đớn nhìn con, đôi mắt buồn thiu, bàn tay uể oải rút điếu thuốc “Con cú”, mệt mỏi châm lửa hút.

Mỹ Thuận lo lắng nhìn mẹ, đôi mắt rớm lệ:

- Làm thế nào hở mẹ! Mẹ cứu con với, mẹ ơi!

Mụ Síu lạnh lùng, bộ mặt đanh sắt lại:

- Phải đánh tráo thôi. Không còn cách nào khác cả. Nếu không thì mất hết!

Một bà đỡ được gọi đến. Mụ Síu nhỏ to bàn bạc. Mỹ Thuận hồi hộp nghe ngóng. Tiếng hai người thì thào. Bà đỡ nói:

- Chuyện này kể ra cũng khó đấy, tìm sao ra cho bà đứa bé lai Mèo? Vả lại, làm thế thì thất đức quá. Người mẹ kia họ biết, họ kiện thì chúng tôi vào tù.

Mụ Síu biết ngay đây là giọng lưỡi của kẻ vòi tiền. Chả nhân đức gì, cứ tiền vào, bảo họ bóp chết những đứa trẻ mới sinh, họ cũng bóp. Gớm, lại đạo đức giả. Lõi đời như mình mà con mẹ này còn bịp hay sao? Nghĩ thế mụ thẽ thọt:

- Tôi biết các bà chẳng muốn làm cái việc bất nhân này. Nhưng bà thương cho cháu, nó sinh ba lượt toàn con gái, giờ muốn có tý trai, cho có nếp có tẻ. Tôi xin hậu tạ!

Vừa nói, mụ vừa xỉa ra xếp tiền dày cộm. Bà đỡ khoái lắm rồi, nhưng vẫn ra bề đăm chiêu, chẹp miệng:

- Cũng là kiếp má hồng gặp chuân chuyên cả! Làm bà, làm mẹ, ai chả thích con trai!

- Chính thế, bà nhanh tay cho, không có hỏng việc!

- Được, bà cứ yên tâm. Vừa có một con mẹ nhà quê, mấy lần hữu sinh vô dưỡng, lần này sinh được đứa con trai, sợ lại “bỏ đi”, nên cố xoay tiền vào đây đẻ. Đứa bé cứng đáo để, những trên 3 ký. Chúng tôi chưa cho nó xem mặt con.

Bà đỡ bế đứa bé khỏi tay Thuận, nhanh nhẹn chạy đi. Một lúc sau, bà mang về một đứa bé đỏ hỏn bọc trong tấm áo rách. Bà đỡ thay tã, cố hé cho mụ Síu nhìn rõ chim đứa bé rồi trao cho Thuận. Hai mẹ con bà Síu mừng vui khôn xiết, ôm đứa bé vào lòng. Tin Thuận sinh con trai bay về Sà Phìn. Các văn võ bá quan họp lại đặt tên cho “thái tử” là Hoàng Đình Công.

Hai tháng sau, chờ cho Mỹ Thuận thật khỏe, mụ Síu mới cho người đến đón về Sà Phìn.

Hoàng mở đại tiệc để toàn thể quân lính, dân chúng đón mừng một giọt máu dòng dõi họ Hoàng ra đời.

Những ngọn đình liệu được đốt lên sáng trưng cả một vùng rừng núi. Những người Hán nấu nướng giỏi được trưng dụng đến nấu những món ăn theo kiểu Tàu. Những bàn đèn thuốc phiện được ngả ra… Một loạt súng thần công gầm lên rung chuyển khu rừng núi yên tĩnh, để chúc mừng một tráng sĩ Mèo.
Những đoàn trai Mèo thổi kèn nhảy múa, quấn quanh các cô gái mặc sặc sỡ với những chiếc váy lanh trắng xấp nếp, những chiếc “đa so” chín vòng, những thắt lưng thêu kim tuyến.

Những người lính Mèo uống rượu, hút thuốc phiện vô tội vạ, giả say xông bừa vào đám con gái, trêu ghẹo, cấu béo, cười khoái trá.

Khi ấy, trong một buồng kín, người vợ cả của Hoàng, lo cho số phận con trai là Hoàng Đình Phủ, ngồi khóc một mình. Hoàng Đình Phủ còn bé, thấy người ta mở tiệc, được ăn thì hớn hở, cười nói nô đùa. Người mẹ đau đớn nói với con:

- Rồi nay mai người ta giết mất con thôi. Con có biết lòng dạ bọn người độc ác như con hổ này đâu?

Hoàng Đình Công lớn lên trong sự chăm sóc, nâng giấc từng li từng tí của bà và cha mẹ. Mụ Síu về xuôi, đi hết chùa này đến chùa khác, đền này đến đền khác khấn bái, xin Mẫu cho Cháu làm con cầu tự. Trên cổ Công có đến chục cái bùa hộ mệnh và vuốt hổ. Tám tuổi, Công được đưa ngay sang Côn Minh học. Hàng tháng Hoàng cử người mang tiền sang cho con ăn tiêu thỏa chí. Cậy mình là con vua Mèo, Công chẳng chịu học chỉ ăn chơi, lêu lổng.

Mấy năm sau, khi Phủ đã lớn, lấy vợ đẻ con, nghe ngóng thấy các tướng bàn nhau đưa Phủ lên thay Hoàng, cai quản đất Đồng Văn, mẹ con mụ Síu lo lắng, vời các tay chân thân tín đến bàn định.

Một buổi, tự dưng Hoàng Đình Phủ lăn đùng ra chết. Chả ai hiểu nguyên nhân vì sao. Có người bảo Phủ bị ốm đột ngột, có người bảo Phủ đi rừng gặp ma, có người cả quyết như đinh đóng cột rằng mẹ con Síu đã đầu độc Phủ. Nhưng không ai nói chuyện ấy ra, sợ mụ thù thì mất đầu như chơi.

Người mẹ Phủ buồn, vật vã thương khóc con. Còn mẹ con mụ Síu thì mừng thầm trong bụng mặc dù vẫn ảo não chia buồn cùng người vợ cả xấu số. Cái
chức “Thái hậu” chắc chắn sẽ về tay Mỹ Thuận.

Thế là Hoàng chỉ còn độc một đứa con trai là Hoàng Đình Công. Từ bấy, Thuận cũng không sinh đẻ thêm được nữa. Mấy lần Hoàng định lấy vợ tư, nhưng mẹ con mụ Síu quyết không cho lấy.

Công càng được nuông chiều, càng ăn chơi đàng điếm. Nhưng rồi, phúc bất trùng lai, năm Hoàng Đình Công 15 tuổi, từ Côn Minh về Sà Phìn chờ nhậm chức thay cha thì bỗng lăn đùng ra chết. Có người bảo là do người vợ cả và những người thân tín của Hoàng Đình Phủ ám hại. Còn những người bị gán tội này thì tìm thấy một con chó, bảo là chó điên, cắn Công.

Hoàng lập tức cho trói con chó lại, treo lên một chiếc giá như một tội nhân ngoài pháp trường, lập tòa án, luận tội, rồi sai Sùng Vạn Lù chĩa súng bắn vào đầu chó.

Hai mẹ con Síu đau đớn tưởng phát điên phát dại.

Những người Mèo thì vui thầm, cho là ông trời có mắt.

Từ ngày Công chết đi, mẹ con mụ Síu càng khắc nghiệt, càng oán thù những người xung quanh, càng thâu tóm quyền hành vào trong tay. Còn Mỹ Thuận lại có một sự thu hút khác trong tình yêu. 

Trong khi Mã Học Văn và mụ Síu đang ngồi uống trà chờ đợi buổi họp bàn với Hoàng thì Cắm Sìn phi ngựa trên con đường rẽ vào dinh Sà Phìn.

Đó là một người Cao Ly làm sĩ quan tình báo cho quân đội Nhật. Thân hình hắn to lớn. Mặt vuông chữ điền. Bộ ria đen xì vắt ngang qua mép. Hắn mặc bộ quần áo sĩ quan Nhật bằng dạ, màu cứt ngựa. Chân đi ủng da, gót có cựa của lính phiêu kỵ. Chiếc mũ lưỡi trai có tấm lá sen phủ gáy chụp trên đầu. Một bên hông đeo khẩu “Chiêu hòa” nhỏ. Một thanh kiếm dài dắt trên lưng ngựa. Tên Ô-Ka, sĩ quan Nhật đi theo bảo vệ.

Năm 1941, dưới danh nghĩa đại diện hãng buôn Chiêu Hòa, Cắm Sìn lên Đồng Văn, lập hai chi nhánh buôn bán ở phố Đồng Văn và Phó Bảng. Sìn cho Hoàng lập một cửa hàng đại lý ở thị xã Hà Giang, một dãy nhà ở Hà Nội, một chiếc xe Xì-tờ-rô-en để Hoàng đi lại buôn bán với người Nhật từ Hà Nội về Hà Giang.

Hắn còn xin với quân Nhật cho Hoàng được độc quyền buôn muối, gạo, dầu hỏa của Nhật về Đồng Văn. Nhờ đó, Hoàng đã giầu lại giầu thêm. Mối quan hệ giữa Cắm Sìn và Hoàng càng thêm khăng khít.

Hoàng cử Mỹ Thuận đứng ra cai quản những cửa hàng đại lý, buôn bán với người Nhật, có Sùng Mí Chiu trợ lý.

Mỹ Thuận gặp gỡ Cắm Sìn nhiều lần ở thị xã Hà Giang và Hà Nội.

Trước mắt Thuận, Cắm Sìn nổi lên với vẻ đẹp của một võ sĩ đạo, cường tráng và có phần hung hãn, táo bạo.

Cắm Sìn rất khôn ngoan trong cách chiều chuộng con người.

Khi thấy có món lợi lớn hắn lao theo ngay, dù lợi lâu dài hay trong khoảnh khắc. Sìn ngông cuồng trong mọi cám dỗ, sẵn sàng lao vào những cuộc thử thách súng đạn, tiền tài như con thiêu thân lao vào đống lửa. Vì thế, hắn mang cái tên Cắm Sìn (Kim Tiền = Tiền vàng).

Khi có những món lợi hiện ra trong tầm tay với, hắn coi thường mọi nguy hiểm, sử dụng cả hai sức mạnh, sức mạnh quân sự của một dũng sĩ đất Phù Tang và sức mạnh kinh tế của một tên tài phú. Vì thế, với tư cách một sĩ quan tình báo, hắn được chọn lựa đưa vào nắm một tên vua Mèo có nhiều quyền lực, đang ở thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến, ở vùng đất xa lạ, hẻo lánh này.

Gặp Mỹ Thuận, Cắm Sìn thăm dò ngay những sở thích, những say mê của thị.
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #5 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:38:07 pm »

Với quyền hành của quân đội Nhật, với những miếng mồi về kinh tế, với những âm mưu được tính toán kỹ, hắn đã thành công dễ dàng sau vài lần gặp gỡ Thuận ở Hà Nội, Hà Giang, Phó Bảng và Sà Phìn.

Từ ngày gặp gỡ và thân với Cắm Sìn, Mỹ Thuận mới biết thế nào là tình yêu thật sự. Thị lao vào tình yêu say mê kỳ lạ, quên cả sợ hãi.

Mụ Síu biết rõ điều đó nên vẫn khuyên con phải kín đáo để tránh sự tấn công của kẻ thù vây quanh mẹ con mụ. Mụ thường kể lại quãng đời đau đớn, bất hạnh của mình trước kia do những mối tình bất chính gây nên, hòng rút cho con những kinh nghiệm xương máu, ngăn được con chút nào hay chút ấy.

Giờ đây, quân đội của Thiên Hoàng đã thắng lợi rực rỡ, quân Pháp rút đi không kèn không trống. Quân Nhật cướp lại mảnh đất Việt Nam trong tay Pháp một cách dễ dàng. Chỉ còn mảnh đất tận cùng phía Bắc đất nước này chưa chịu đón tiếp quân đội hắn, đem quân chống cự kịch liệt.

Sau khi cho toán quân đánh lên Cổng Trời, bộ chỉ huy quân đội Nhật ở Việt Nam và Cắm Sìn chờ đợi tin thắng trận, chờ đợi quân Hoàng đầu hàng không điều kiện và Sìn sẽ kéo quân lên trong tư thế một người chiến thắng, Hoàng sẽ phải sụp lạy dưới vó ngựa của hắn. Nhưng chờ mãi nửa tháng trời, sau bao đợt tấn công, quân Nhật vẫn không vượt qua được Cổng Trời. Không còn cách nào tốt hơn là đàm phán. Cắm Sìn được lệnh đi vòng phía đường Bảo Lạc (Cao Bằng) về Sà Phìn điều đình với Hoàng.

Lần này lên đây, hắn không còn phải ẩn dưới danh nghĩa một hãng buôn nữa mà đường hoàng là một đại diện của quân đội Thiên Hoàng, điều đình với Hoàng về sự hợp tác giữa quân đội Nhật và quân Mèo giữ vững đất Đồng Văn chống lại cuộc xâm lăng của bất kỳ nước nào, dẹp những cuộc nổi dậy của quần chúng và phong trào Cộng sản. Hắn lên đây với tư cách một sứ giả.

Hai hôm nay hắn đã đàm phán với Hoàng. Hoàng đã thuận mở Cổng Trời cho quân Nhật vào Đồng Văn. Thế là yêu cầu lớn nhất của hắn đã đạt được. Giờ hắn ở lại đây chỉ huy cuộc tiến quân của quân đội Nhật, vạch cho Hoàng những đường hướng chính trị trong tình hình mới.

Vừa thấy bóng dáng oai vệ, to lớn của Cắm Sìn, Mỹ Thuận đon đả chạy ra trước cửa dinh, nhanh nhẹn đón dây cương trong tay Sìn. Cắm Sìn nhẩy xuống ngựa bằng một động tác đẹp, giậm giầy có cựa cồm cộp. Liếc mắt nhìn xung quanh không có ai, hắn hỏi nhỏ:

- Lão già đang làm gì đó em?

- Lão đang hút thuốc và chờ đàm luận với Mã Học Văn. Suốt ngày hắn chỉ hút thuốc phiện. Công việc quốc gia đại sự mẹ em phải lo!

Từ trong lô cốt, Thào Sè Na bỏ ống cao su khỏi miệng. Hơi thuốc phiện nhả ra thơm thơm. Na khinh bỉ nhìn Thuận và Sìn, toan sai lính ra mở rộng cổng, nhưng sợ Mỹ Thuận phật ý, hắn liền tự mình chạy ra, vui vẻ chào Sìn rồi dắt cương ngựa giao cho Vù Mí Kẻ, mã phu của Hoàng, đưa vào tàu.

- Ta vào trung dinh gặp mẹ em đã!

Hai người vào gác hai của trung dinh. Mụ Síu đang ngồi đọc quyển “Tam quốc” bằng chữ nho, nhỏ li ti. Bên cạnh, một em bé gái trạc 10 tuổi, nhúm tóc đuôi chuột buông sau lưng, người mảnh dẻ, mặt trái xoan, da trắng, cười núm đồng tiền. Cô bé mặc áo hoa, quần lụa đen, đang thổi lò than hầu mụ Síu. Đó là bé Hội, con nuôi của Síu.

Cắm Sìn lễ độ, gập người chào cung kính:

- Xin chào lão bà!

Mụ Síu mấp máy đôi môi mỏng, bôi son đỏ chót, nhìn Sìn, bỏ sách, vòng tay trước ngực như người tế:

- Xin chào đại nhân!

Ba người ngồi quanh chiếc bàn tròn. Mỹ Thuận bổ đào bày vào một đĩa giang tây đặt lên bàn. Bé Hội rót nước pha trà. Mụ Síu đẩy chén trà Tàu ướp hoa nhài thơm nức đến trước mặt Cắm Sìn:

- Có tin gì thêm về cuộc hành quân của quân đội ngài tiến vào Đồng Văn này không?

Sìn bực bội:

- Cụ Hoàng đã ký giấy cho quân đội chúng tôi vào Đồng Văn. Thế mà khi quân đội chúng tôi từ Bảo Lạc sang đến phố Đồng Văn, bọn dân dám tự động đánh lại. Chúng vây quanh phố, dùng súng kíp, súng trường bắn tỉa chúng tôi. Tôi phải dùng súng cối mới đuổi được chúng đi. Bọn dân Mèo thật là nguy hiểm, man dại, không coi ai ra gì. Còn bọn ở Cổng Trời, cho đến chiều qua vẫn chưa chịu mở cổng.

Mụ Síu thủng thẳng:

- Cũng tại Mã Học Văn thôi. Ông ta vừa mới về đây, chắc là để hỏi lại Hoàng về chuyện mở Cổng Trời!

Sìn khẩn khoản:

- Nhờ lão bà nói với Mã Học Văn hộ, bảo ông ta đừng gây khó khăn cho công việc của chúng tôi!

- Ngài cứ yên tâm, đâu sẽ vào đấy!

Mụ cười mỉm. Cắm Sìn vui vẻ báo tin:

- Tôi vừa mới được ngài Tổng chỉ huy quân đội Nhật ở Việt Nam trao lệnh phong cụ Hoàng làm “Tri Châu”.

Mụ Síu lơ đãng, cười:

- Chà, tri trâu, tri bò, cũng như chức bang tá của Pháp phong chứ gì? Chức với tước, chẳng làm cái thá gì, có tiếng mà chẳng có miếng!

Đến đây mụ lẹp kẹp đi ra, để cho con và Cắm Sìn trò chuyện với nhau.

Tâm sự một hồi với Thuận, Sìn vào hậu cung báo tin Nhật vừa phong Hoàng chức “Tri Châu”. Hoàng mừng lắm, hết lời ca ngợi người Nhật, Nhật Hoàng. Sìn đi ra. Văn được mời họp bàn với Hoàng, Síu và Thuận.

Hoàng rít xong điếu thuốc phiện, vớ lấy chiếc ấm tích nhỏ, chiêu một hớp nước chè Lũng Phìn đặc quánh rồi mới ngồi thẳng người lên, quay sang phía Mã Học Văn, thủng thẳng hỏi:

- Mã tướng quân đã mở Cổng Trời chưa?

Học Văn cố nén bực dọc, ấm ức trong lòng, ôn tồn thưa:

- Kẻ tôi tớ này muốn hỏi Lão Quan: Lão Quan đã ra lệnh cho quân ta canh giữ Cổng Trời, không cho quân Nhật lên, tại sao quân ta đang đánh thắng, Lão Quan lại lệnh mở Cổng? Hay là Lão Quan cho chúng tôi hèn yếu không giữ được Cổng Trời, chịu thua quân giặc?

Hoàng xua tay, nói nhanh:

- Không, không, ta biết tướng quân đang chiến thắng. Thám tử cho ta biết! Nhưng chuyện mở Cổng Trời, ta đã ngẫm kỹ rồi. Mã tướng quân cứ yên tâm. Ta sẽ nói rõ để tướng quân hiểu thấu lòng ta!

Hoàng nhón tay lấy một khẩu mía lùi bọc trong tấm khăn bông trắng tinh. Nhai xong, Hoàng lè bã. Bé Hội chạy đến nhặt bã mía trên miệng Hoàng, chạy đến góc phòng, bỏ vào ống. Hoàng lau tay, bắt đầu nói:

- Ngài Cắm Sìn, sứ giả của quân đội Nhật từ Hà Nội lên đây, xin ta cho mượn đường đưa quân lên biên giới đánh quân Tàu. Ta nghĩ, người Nhật mạnh, súng đạn như rừng, quân đội thiện chiến. Người Pháp tinh nhuệ, hùng hậu như thế mà còn bị thua. Ta có chống cự cũng khó bề giữ nổi mảnh đất Đồng Văn này. Nhưng giá như chỉ có việc chống quân Nhật ta cũng có thể làm được vì địa thế ta hiểm trở, núi cao, vực sâu, rừng ta trùng trùng điệp điệp, quân ta hăng hái, dân Mèo có tinh thần cao, quyết chí đánh giặc. Nhưng khốn nỗi bọn Dương Thụ Nghĩa chó má, nhân cơ hội này lại muốn khiêu khích ta. Ta muốn quét sạch họ Dương đã lâu, thu đất Mèo Vạc về tay ta. Nhân cơ hội này, mượn tay người Nhật giúp, ta có thể đánh chiếm đất, thôn tính họ Dương, bờ cõi thu về một mối. Vì thế, ta muốn hòa với Nhật, dồn sức đánh quân họ Dương. Mã tướng quân thấy kế đó thế nào?

Học Văn im lặng, suy nghĩ hồi lâu mới nói:

- Dù sao họ Dương cũng là người Mèo ta. Dương Thụ Nghĩa lại là em rể Lão quan, ta có thể thu xếp được, còn người Nhật không biết bụng dạ họ thế nào? Họ dùng cớ mượn đường để chiếm bờ cõi nước ta thôi!

Nghe Văn nói thế, Mỹ Thuận phật ý lắm. Cố bình tĩnh, thị gõ gõ móng tay hồng tỉa nhọn lên chiếc quạt ngà lợp lông chim trắng:

- Chắc Mã tướng quân chưa hiểu người Nhật đó thôi. Người Nhật cùng da vàng với ta, cùng người Châu Á với ta, không như người Pháp đâu, họ tốt lắm.

Từ khi vào Việt Nam, họ chẳng đã giúp ta xây dựng cơ nghiệp là gì? Chỉ cần qua ông Cắm Sìn là tôi biết tất cả thiện chí của người Nhật. Tướng quân đừng lo!

Hoàng gật gù đồng tình với vợ, tiếp:

- Người Nhật như thế, ta không lo, còn họ Dương, kẻ thù không đội trời chung của ta, phải diệt chúng. Ta đã cử Giàng Vạn Sùng và Hầu Vạn Quả ra nơi biên ải. Giàng Vạn Sùng sẽ đánh bọn chúng, chiếm một số nơi mở đường để ta tập trung quân quét sạch họ Dương. Hầu Vạn Quả đi theo, nếu bọn Tàu Trắng kéo vào giúp Dương thì sẽ đàm phán. Quân Tàu Trắng là hai mặt, ai có lợi là nó giúp. Ta phải cho Quả mua chuộc chúng. Bây giờ ta muốn cử tướng quân cùng tráng sĩ đem quân lên phía Bắc, hợp với Giàng Vạn Sùng đánh quân Dương cho ta!

Mã Học Văn thấy Hoàng cả quyết, liền thưa:

- Lão quan đã quyết, kẻ bày tôi này xin tuân lệnh!

Hoàng dặn thêm:

- Tướng quân gặp Sùng Mí Chiu lấy thêm vũ khí, bạc già, thuốc phiện để chống Dương và dàn xếp với quân Tàu Trắng.

Lúc này mụ Síu mới nói với Văn:

- Nếu như các tướng và dân chúng có hỏi, tướng quân giảng giải cho họ hiểu rằng: ta cho quân Nhật vào là để dân yên ổn, hòa bình, thu hoạch thuốc phiện. Cụ Hoàng đã cứu trăm họ khỏi cơn binh lửa bạo tàn đó!
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #6 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:44:55 pm »

3

Giàng Vạn Sùng cùng Hầu Vạn Quả cho ngựa chạy nước kiệu dọc theo con đường biên giới. Chiếc khăn nhiễu Tam Giang quấn nhiều vòng trên đầu. Mắt đỏ những tia máu dưới đôi lông mày lưỡi mác. Trông Sùng đằng đằng sát khí.

Ánh hoàng hôn le lói chiếu xuống mặt sông Nho Quế. Dòng sông uốn ngoằn ngoèo, trườn qua các hẽm núi, hắt lên ánh sáng đỏ nâu, lấp loáng. Dãy núi cao kéo dài đen lại như bức thành. Những đỉnh núi nhọn hoắt như những mũi mác đâm vào bầu trời tím sẫm. Một rừng cây dày đặc kéo dài sau sườn núi dốc, làm thành vệt xanh sẫm.

Bên kia sông là đất Tàu rồi. Nhìn những đỉnh núi, những cánh rừng trùng điệp, Sùng bỗng suy nghĩ về mảnh đất Lũng Cú, nơi tận cùng phía bắc của đất nước này.

Sùng được nghe các cụ già kể rằng, ngày xưa, người Tày khai khẩn mảnh đất Lũng Cú này, làm ăn rất phát đạt, giàu có. Người Lồ Lố ở Mu Ngao (Trung Quốc) vượt sông Nho Quế sang săn bắn. Họ đem gừng vùi xuống đất. Mùa săn bắn năm sau, gừng mọc tốt um. Biết đất tốt, người Lô Lố nghĩ mưu chiếm đất Lũng Cú.

Nhiều đứa trẻ người Tày ở Lũng Cú tự dưng bị mất tích. Những thày bói người Lô Lố được cử sang Lũng Cú.

Không hiểu nguyên nhân con cái của mình mất tích, người Tày nhờ thày bói xem. Thày bói người Lô Lố gieo quẻ nói rằng, người Tày có nhiều cung tên, giáo mác phạm vào long thần thổ địa, các thần nổi giận bắt hết trẻ con. Phải đốt hết cung tên, gươm giáo thì trẻ con mới không bị bắt nữa.

Người Tày làm theo lời thày bói dạy, chất cung tên, giáo mác thành đống đốt đi. Khi người Tày không còn vũ khí, người Lô Lố đem quân sang đánh. Không chống cự nổi, người Tày thua. Người Lô Lố chiếm Lũng Cú.

Ít lâu sau, người Mèo di cư từ Vân Nam xuống Lũng Cú trú ngụ làm ăn. Người Lô Lố áp bức, đánh đập người Mèo rất tàn bạo. Không chịu nổi, người Mèo theo Sùng Chí Đà vùng lên chống lại. Thắng lợi, người Mèo cử người của mình làm Tổng binh cai quản đất Lũng Cú. Người Lô Lố chạy về Mu Ngao (Trung Quốc).

Người Mèo ở được ít lâu thì nạn châu chấu nổi lên làm mất mùa màng. Người Lô Lố lại cho thày bói sang nói người Mèo không biết cúng trời nên có nạn châu chấu. Nếu cho người Lô Lố ở chung, họ cúng trời, sẽ hết hạn này. Người mèo nhận lời. Người Lô Lố di cư sang ở với người Mèo.

Thế là Lũng Cú có ba dân tộc chính: Tày, Mèo, Lô Lố.

Pháp chiếm Đồng Văn, cử một đội dõng họ Lương, người Tày, đến cai trị Lũng Cú.

Đoàn Trưởng Nhị, người Trung Quốc từ Vân Nam mang quân vào đánh Lũng Cú. Lương đội dõng bị thua, bị Pháp cách chức. Lương Huy Bảo lên thay làm Tổng giáp ở Lũng Cú.

Giàng Sè Cha, một canh điền của Lương Huy Bảo, là người Mèo, không phục chủ, tập họp dân Mèo, định nổi lên đánh lại.

Bố Bảo chết, chôn ở Lũng Cú. Tự dưng xác bị đào lên, chặt mất đầu, chỉ còn thân vất trên ruộng.

Bảo cho là Sè Cha làm việc đó, bắt Cha giao cho Pháp. Sè Cha bị Pháp tra tấn, đòi tiền chuộc. Không có tiền chuộc, Sè Cha chết trong tù.

Giàng Vạn Sùng - con Giàng Sè Cha - là người khỏe mạnh, tinh khôn, ngay từ bé đã rèn luyện võ nghệ, lại làm thợ rèn, rèn đúc vũ khí giỏi. Sùng đứng lên chiêu tập người Mèo nổi lên đánh Huy Bảo trả thù cho cha.

Người Mèo bị Bảo áp bức, căm tức, theo Sùng, đánh Bảo, rất mãnh liệt. Bảo thua, chạy về phố Đồng Văn.

Giàng Vạn Sùng được bầu làm người chỉ huy, cai quản Lũng Cú.

Lên chức chỉ huy rồi, Sùng trở thành người tàn ác, phản bội dân Mèo, cướp ruộng đất về tay mình.

Gia đình Vàng Chú Sâu có nhiều nương tốt. Sùng bắt Sâu nộp nương cho mình. Sâu tập họp tay chân đánh lại, bị Sùng chặt đầu, cắm cọc, bêu giữa chợ, làm gương cho kẻ khác. Sâu chết đi, để lại đứa con trai nhỏ là Vàng Mí Sính. Sính nuôi chí trả thù cho cha.

Hoàng thấy Sùng chiếm được Lũng Cú, có quyền lực, muốn thâu phục Sùng trấn ải phía bắc Đồng Văn, liền gả con gái là Hoàng Thị May cho Sùng, phong Sùng làm Tổng giáp Lũng Cú, kiêm tướng trấn ải phía bắc.

Từ ngày làm con rể và tướng của Hoàng, Sùng đem hết thủ đoạn, mưu mẹo, giữ vững mảnh đất Lũng Cú, thành một chúa tể ở nơi đầu sóng ngọn gió này.
Sùng đã nhiều lần đánh bại quân Tàu Trắng và bọn phỉ Trung Quốc tràn vào Lũng Cú…

Giờ đây, nhận lệnh của Hoàng, Sùng đem quân đến bờ sông Nho Quế chờ lệnh nghênh chiến với quân Dương. Nhớ lại câu chuyện người Lô Lố lừa người Tày và người Mèo, Sùng ngày đêm canh gác, không rời trận địa.

Ngắm nghía địa thế xong, Giàng Vạn Sùng chỉ tay về phía trước, quay sang phía Hầu Vạn Quả:

- Được lệnh, ta sẽ tiến quân theo phía kia, bác thấy thế nào?

Hầu Vạn Quả nhìn theo tay Sùng, ngập ngừng:

- Chuyện binh đao, toàn quyền cháu quyết định. Khi nào cần đến ba tấc lưỡi, bác xin xuất trận!

Giàng Vạn Sùng ngẫm nghĩ một hồi rồi cùng Quả về bản doanh.

Trên một thung lũng rộng, lính Mèo cắm trại san sát. Những chiếc lều vải màu đất. Những lá cờ sặc sỡ có thêu chữ “Hoàng”, những cành phướn dài bay lòa xòa theo chiều gió. Tiếng ngựa hí vang. Những vò rượu đầy ắp, những chảo thịt bò bốc khói. Ánh hoàng hôn đổ xuống soi rõ những bộ mặt lính Mèo đỏ gay. Súng máy, súng trường, súng gióp 5, gióp 3 được tháo từ Mả Páo(1) xuống, dựng ngổn ngang.

Một hồi tù và lảnh lót vang lên. Quân lính tập họp.

Giàng Vạn Sùng đứng trước hàng quân, cất giọng ra lệnh binh lính nghiêm mật đề phòng địch quân đánh úp cướp trại.

Bỗng từ xa tiến lại một đội quân, cờ xí ngợp trời, đi đầu là một lão tướng, cưỡi con ngựa hồng; phía sau là một tướng trẻ, cưỡi con ngựa bạch, oai phong lẫm lẫm. Nhận ra cha con Mã Học Văn, Sùng vui mừng vượt lên nghênh tiếp.

- Xin chào tướng quân! Sao tướng quân lại dẫn quân lên đây? Cổng Trời ai trấn ngự?

Mã Học Văn lạnh lùng trả lời, biểu lộ nỗi buồn:

- Quân Nhật cho Cắm Sìn lên điều đình với Lão Quan. Lão Quan ưng thuận cho chúng vào Đồng Văn để tập trung binh lực đánh Mèo Vạc. Tôi lên đây cùng ngài đánh quân họ Dương

- À, ra thế!

Sùng đưa Văn về bản doanh. Văn vào một chiếc lều lợp da thú xung quanh có quân lính canh gác nghiêm ngặt, nghỉ đêm cùng Hầu Vạn Quả. Sùng ra trước hàng quân, chuẩn bị binh mã cho cuộc xuất quân sang đất họ Dương hôm sau.

Đêm đã khuya, ngoài trời tối đen, thỉnh thoảng vọng về tiếng thú rừng hoang dại, tiếng gió gào trên đỉnh núi, tiếng nước sông Nho Quế chảy ào ào. Mã Học Văn trằn trọc không sao ngủ được. Hầu Vạn Quả sau một giấc ngủ choàng dậy, vẫn thấy Văn trở mình, liền hỏi:

- Tướng quân ngẫm nghĩ gì mà cứ trằn trọc mãi thế?

Văn mệt nhọc trả lời:

- Lão Quan lệnh mở Cổng Trời, tôi phải tuân lệnh nhưng vẫn thấy lo ngại. Không thi hành lệnh là bất trung mà tuân lệnh thì bờ cõi rồi sẽ ra sao?
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #7 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:47:20 pm »

Hầu Vạn Quả cười thầm, trước sự trung thành một cách mù quáng, không thức thời của Văn, trước sự suy nghĩ thẳng thắn, tôn sùng Hoàng một chiều của Văn.

Là người họ Hầu, cũng như họ Mã, không cùng dòng họ với Hoàng, ngay từ đầu khi làm bầy tôi cho Hoàng, Quả đã suy nghĩ về vai trò của mình. Tuy gần Hoàng hơn Văn về máu thịt (Quả là anh rể Hoàng) nhưng Quả suy nghĩ khác Văn. Là người đi Tầu nhiều, lại luôn được cử làm sứ giả sang liên lạc với các họ ở Mèo Vạc, Yên Minh, Quả thấy không thể đem hết tâm trí phục vụ cho Hoàng mà trước hết phải nghĩ đến lợi cho mình. Ai có lợi thì Quả theo, dù đó là chủ mình hay kẻ thù của chủ. Mỗi lần được cử sang Tầu, sang Mèo Vạc, Quả nghĩ ngay đến những món lợi do chuyến đi đem lại. Nào là chịu nhân nhượng một vài điều kiện không có lợi cho Hoàng để đối phương đút lót, hậu tạ mình. Nào là bàn cách buôn lậu giữa hai “vương quốc”. Tất cả những điều đó, Quả làm rất khéo léo, đến nỗi Hoàng cũng không hề nghi ngờ, vẫn tin cẩn Quả.

Đối với vợ, Quả thấy đó là cái máy cào của cải nhà Hoàng về cho mình. Quả tận dụng vợ trong những mánh khóe bòn rút họ Hoàng. Thấy tiền bạc, Quả lao theo không từ những hành động tàn bạo.

Quả có một người con nuôi tên là Hầu Mí Cảy.

Một hôm, được vợ báo cho biết Hoàng giấu 100 lạng thuốc phiện ở căn hầm dưới nhà, chưa cho vào kho, Hầu Vạn Quả gọi Mí Cảy vào buồng riêng, thân mật nói:

- Cảy con, con biết đấy, từ ngày nhận con làm con nuôi, ta coi con như con đẻ, cho con lấy họ Hầu, tin cậy con. Từ đó ta chưa nhờ vả con việc gì lớn cả, có đúng không?

- Dạ, con mang ơn cha!

- Đến nay ta muốn nhờ con một việc, không biết con có sẵn lòng làm cho cha không?

- Dạ, việc gì con cũng có thể làm để đền đáp công lao nuôi dạy của cha!

Quả mang ra sơ đồ căn hầm của Hoàng, chỉ và căn dặn:

- Đây, 100 lạng thuốc phiện của Hoàng để ở đây, đêm nay con hãy vào lấy cho ta!

Mí Cảy lo lắng:

- Con lọt sao được hai lần cổng, nhất là cổng Thào Sè Na gác?

- Cứ yên tâm, ta đã nghĩ đến điều đó rồi. Tối nay con cứ đến cửa, mẹ con (chỉ vợ Quả), đang ở đó thăm Hoàng, sẽ ra mở cửa và dẫn con vào.

Đêm đó Mí Cảy cùng vợ Quả lấy xong 100 lạng thuốc phiện mang về nộp cho Quả.

Ngày hôm sau, thấy mất thuốc phiện, Hoàng bực mình lắm, giao cho Sùng Vạn Lù, Thào Sè Na truy tìm, nếu phát hiện ra kẻ gian sẽ chém đầu.

Quả lo lắng, gọi Cảy đến, giao thuốc phiện cho Cảy mang giấu vào một hang kín.

Mấy ngày liền nghe ngóng, Quả biết Sùng Vạn Lù nghi cho Mí Cảy, vì đêm qua Cảy lọt vào dinh. Thào Sè Na nghi cho vợ Quả. Nhưng sợ vợ Quả là chị Hoàng, chẳng may bà ta nổi giận, năn nỉ với em, Hoàng nể chị chém đầu mình, Na, Lù né tránh vợ chồng Quả, xoáy mũi điều tra vào Mí Cảy.

Quả biết rằng nếu phát hiện ra Quả lấy, bất chấp cả tình anh em, Hoàng sẵn sàng chém đầu Quả trước quần thần, nêu gương cho kẻ khác. Hắn cùng vợ bàn bạc tìm kế thoát thân. Quả nghĩ ngay đến Cảy. Hắn nói với vợ:

- Chỉ còn cách khử thằng Cảy đi, bịt đầu mối thôi!

Vợ Quả, với tính nhút nhát và thương người của đàn bà, lo lắng:

- Nó là con nuôi, nó vì ta mà làm, ta giết nó thì nhẫn tâm quá! Con ma, thánh thần không dung tha cho ta.

Quả nổi nóng:

- Mình không giết nó, nó bị bắt, khai ra, mình chết. Ma quái, thần thánh chưa thấy đâu, lưỡi gươm kề cổ, còn danh tiếng của bà, của tôi, phải làm thôi!

Thế là Quả sai Giàng Ly Páo giết Cảy.

Páo vác súng vào hang, nơi Cảy cất giấu thuốc phiện. Páo bắn Cảy chết ngay bên đống thuốc phiện, Máu thấm đỏ cái bao bọc thuốc. Páo được Quả thưởng cho 5 lạng thuốc. Mất đối tượng truy tìm, Quả còn giấu thuốc, nhưng vì sợ vợ Quả, nên Na, Lù không dám khai với Hoàng.

Quả có số thuốc, có tiền sống ung dung. Từ đó, hắn càng đắc ý, củng cố quan niệm sống của mình: trung thành với một người là dại dột, máy móc và không hợp lẽ đời…

Chờ Văn hút xong một điếu thuốc phiện, Quả quay sang, chậm rãi:

- Việc gì mà tướng quân phải cả nghĩ? Ai thì cũng nghĩ những mối lợi cho mình cả. Ông Hoàng cũng thế thôi. Hòa Nhật, diệt Dương là kế hay của ông ấy. Còn ta, cái gì lợi thì ta làm, việc gì mà cả nghĩ! Sự đời là thế!

- Nhưng tôi thấy có nhiều uẩn khúc, một đằng là ngoại bang, một đằng là nước láng giềng, cùng dân tộc Mèo ta!

- Chỉ huy quân ngoài biên ải, tôi không dám bì với tướng quân, nhưng chuyện nội vụ Sà Phìn, có nhiều điều tướng quân chưa tỏ tường bằng tôi. Tôi khuyên tướng quân không nên nghĩ nhiều, mệt óc, việc ta ta cứ làm! Sự đời là thế mà!
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #8 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:50:22 pm »

4

Trong khi ấy, bên Mèo Vạc, họ Dương cũng động binh. Dương Thụ Nghĩa (tên Mèo là Giàng Xu Dì) là một họ lớn nhất Mèo Vạc. Trước kia, Dương Thụ Nghĩa cũng được Pháp phong làm Tổng giáp Mèo Vạc, chuẩn bị phong làm Bang tá. Nhưng sau khi thấy Hoàng thanh thế lớn hơn, lại ở xa Cao Bằng, khó với tay hơn, Pháp liền phong Bang tá cho Hoàng. Dương giữ nguyên chức Tổng giáp. Vùng phía Bắc này chia thành 7 xã: Quản Bạ, Phú Lúng, Sủng Là, Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Sà Phìn. Hoàng chiếm 6 xã gọi là “lục xã” Dương có một xã Mèo Vạc. Lòng tham vô đáy, Hoàng muốn thôn tính nốt Mèo Vạc.

Dương ức lắm. Từ đó hai họ đều bành trướng thế lực, lăm le tiêu diệt lẫn nhau.

Để có thời gian yên ổn chiêu mộ tướng tài, quân tốt, hai bên bắt tay giao hảo với nhau. Dương Thụ Nghĩa cầu hôn xin làm “phò mã” Chí Đạo. Chí Đạo liền gả con gái là Hoàng Thị Chính cho Nghĩa, vừa xoa dịu hiềm khích bề ngoài, vừa dùng con làm nội ứng, lung lạc Nghĩa, thu thập binh tình họ Dương. Sau đó, Hoàng còn cử thêm Hoàng Xú Đô sang mở sòng bạc và cầu hôn lại họ Dương.

Dương Thụ Nghĩa gả em gái cho Xú Đô làm vợ hai. Thế là hai người thành hai anh em chéo cánh sẻ: Xú Đô là anh vợ Nghĩa, Nghĩa là anh vợ Xú Đô.

Bên ngoài hai bên kết thân, tình máu mủ, tưởng như hai họ sẽ ăn đời ở kiếp với nhau. Hàng năm, hai bên vẫn cử sứ giả mang báu vật cống nộp cho nhau. Những ngày giỗ Hoàng Tú Hình, Nghĩa cử người mang lễ vật - Nghĩa sợ sang bị ám hại - sang góp giỗ. Nhưng bên trong, chỉ chờ thời cơ tiêu diệt nhau.

Mối thâm thù càng tăng lên khi Xu Đô chết. Đô chết, số ruộng, của hồi môn của vợ Đô còn lại, Hoàng, Dương đều muốn chiếm. Thụ Nghĩa nói, đó là số ruộng của em mình, Đô chết, mình phải chiếm lại. Hoàng nói Đô là anh mình, quyền sở hữu phải thuộc về họ Hoàng.

Hoàng muốn cất quân sang Mèo Vạc, nhưng thấy mình chưa mạnh, quân Dương thế thủ, thông thuộc địa thế, muốn tấn công thắng lợi, lực lượng Hoàng phải gấp ba, binh lương phải nhiều. Vì thế Hoàng vẫn tỏ ra có thiện chí, “nhường” số ruộng đó cho Dương, chờ thời cơ.

Pháp rút khỏi Đồng Văn, để lại nhiều vũ khí cho Hoàng. Hoàng thấy lực lượng đã mạnh hơn hẳn Dương, toan cất quân sang Mèo Vạc, nhưng mụ Síu khuyên nên tìm cái cớ để tranh thủ lòng dân. Hoàng nghe lời, bãi binh, ngày đêm luyện tập binh sĩ chờ tìm cớ.

Thế rồi dịp may đã đến. Tự dưng Hoàng Thị Chính ăn lá ngón tự tử. Người thì bảo Dương Thụ Nghĩa có nhiều vợ, hắt hủi làm Chính ức. Người thì bảo vì ghét Hoàng, muốn gây sự với Hoàng, Thụ Nghĩa xỉ vả vợ. Người ta chỉ thấy rằng Thụ Nghĩa không để xác Chính trong nhà mà để ngoài cửa, không làm ma to cho vợ tỏ ý khinh ghét họ Hoàng.

Tin đó bay về Sà Phìn, Hoàng tức tốc tập họp quân định ngày động binh sang hỏi tội em rể.

Dương cũng sai người sang Quảng Tây cầu viện quân Tàu Trắng.

Dương Thụ Nghĩa có ba con trai: Dương Trung Nhân (tên Mèo là Giàng Mí Nô), Dương Mí Chính và Dương Mí Sàng. Mí Chính bị cha ghét đuổi đi ở riêng, còn Trung Nhân và Mí Sàng cùng Nghĩa xây dựng cơ đồ, bàn luận chính sự. Thụ Nghĩa sai con trai thứ ba là Dương Mí Sàng mang thuốc phiện, vàng nén sang Quế Lâm gặp Vòoong Diu Số, tỉnh trưởng.

Diu Số nhìn các tướng một lượt, động viên chí khí rồi nói:

- Họ Dương đã cho người sang cầu cứu ta. Tình nghĩa bang giao, họ lại là nước yếu nhỏ, ta phải cứu họ, xứng đáng là đại quốc!

Vi Cao Chấn băn khoăn, đánh bạo hỏi:

- Thưa ngài Tỉnh trưởng! Tôi mạn phép được nói một điều thất thố: Từ trước đến nay ta vẫn giúp Hoàng; hai bên vẫn giao hảo với nhau, hàng năm, Hoàng vẫn mang cống vật nạp cho ta, giờ ta giúp Dương, tôi e không tiện!

Vũ Phụng Tường, Lương Cảnh Xuân cười mỉm. Diu Số gật gù giải thích:

- Lâu nay họ Hoàng quy thuận ta. Đúng thế! Nhưng bên nào có lợi hơn thì ta giúp. Ta cứ buộc đuôi ngựa cho nó đá nhau. Chỉ có lợi cho ta thôi. Đối với các nước lân bang, phải thế thì biên cương mới giữ được! Đường lối ngoại giao của ta là thế!

Diu Số cười tự đắc!

Đoàn quân Tàu trắng mặc quần rộng ống, dưới quấn xà cạp, đội mũ quả dưa, trên đính sao trắng, gầy gò ốm yếu, lốc nhốc kéo vào vùng biên giới. Đi đầu là một phường bát âm. Tiếng nạo bạt loảng xoảng, tiếng nhị, hồ ồ ề, buồn thảm như sẩm kêu đường. Tiếp theo là đoàn lính mang súng trường dài lê thê, súng cối nặng nề, mệt nhọc bước đi. Chỉ thấy cờ xí là nhiều. Những chùm cờ đủ màu sắc, thêu chữ “Vòong” đỏ chói, xen lẫn với màu vàng khè, lật phật kéo đi.

Đến biên giới, Vi, Lương, Vũ cho quân hạ trại, họp bàn.

Tướng Vi nói:

- Ta chưa biết quân Dương, quân Hoàng mạnh yếu ra sao? Các chiến tướng thấy nên thế nào?

Lương tướng quân hăng hái:

- Ta mang tiếng là quân của đại quốc sang tiểu quốc, phải tỏ rõ chí khí, tinh thần nghĩa hiệp của ta, đặng mang tiếng thơm về cho Tổ quốc. Theo tại hạ thì ta nên xuất quân trước, đem hết tinh binh, quét địch quân một trận, tỏ rõ thanh thế cho họ Hoàng vỡ mật!

Vi tướng quân cả cười mà rằng:

- Đấy là một ý, Vũ tướng quân thấy thế nào?

Vũ Phụng Tường ôn tồn thưa:

- Thưa chủ soái và Lương tướng quân, theo thiển kiến đệ thì làm như thế là thất sách. Ta chưa biết binh lực họ Hoàng thế nào. Nếu ta xuất quân trước, đánh được thì chỉ lợi cho họ Dương, thù oán họ Hoàng và ta càng khơi sâu, mất những món lợi lớn. Mà rồi trách nhiệm đè lên đầu ta. Họ Hoàng quấy rối biên giới, ta trấn ải ở đây phải chịu gánh nặng. Nếu ta đánh thua thì còn gì là thanh danh. Chi bằng ta cứ ở phía sau, hò hét làm uy cho quân Dương đánh trước. Nếu Dương thắng ta ùa theo, nếu Dương thua, ta rút quân, rồi nói cho họ Hoàng biết ta đem quân đến đây là để giữ biên giới của ta chứ không phải để giúp Dương. Nhất cử lưỡng tiện!

Vi Cao Chấn vỗ đùi:

- Thật là cao kiến!

Lương tướng quân bực, toan đập bàn mắng lại Vũ tướng quân, nhưng thấy Vi chủ soái khen, lại thấy hợp lẽ phải, tránh được giao tranh có thể động đến tính mạng của mình, nên nén giận, tuân theo.

Theo đúng kế hoạch đã bàn định, quân Tàu Trắng chỉ dàn trận ra oai, hò hét ầm ĩ phía sau chờ quân Dương đánh trước. Ngay khi đó, Dương Thụ Nghĩa cắt đặt quân tướng, động binh.

Dương Trung Nhân làm tổng tư lệnh chỉ huy quân đội, Dương Mí Sàng, Ma Chu Páo, Vàng Dúng Mỉ chỉ huy ba cánh quân bố trí chiến địa dọc theo sông Nho Quế, chờ địch.

Nhận tin của thám tử phi báo quân Tàu Trắng và quân Dương đã đến biên giới, Mã Học Văn họp các tướng bàn định. Hầu Vạn Quả được cử làm sứ giả, bí mật sang bản doanh Vi Cao Chấn điều đình. Quả phô trương thanh thế quân Hoàng, biếu Chấn vàng nén, thuốc phiện. Chấn nhận lời sẽ án binh bất động, không tham chiến giúp Dương.

Sáng hôm sau, trời mới tờ mờ, sương mù còn bao phủ trên thung lũng, các triền núi, quân Hoàng đã bí mật vượt sông, kéo sang tấn công quân Dương.
Sau ba ngày huyết chiến, quân Dương núng thế phải rút về chân núi Mã Pí Lèng, xây thành đắp lũy chống cự. Quân Tàu trắng thấy quân Dương thua, liền nhổ trại rút về.

Dương Thụ Nghĩa thấy tình thế nguy ngập, liền mang thêm vàng bạc, thuốc phiện cử sứ giả sang nhờ Diu Số cứu vớt, dàn hòa với Hoàng. Diu Số cho người gặp Hầu Vạn Quả đàm phán. Hai bên đàm luận hồi lâu, cuối cùng Diu Số bắt Dương nhận bồi thường đất cho Hoàng, Hoàng ngừng cuộc tiến công.

Mã Học Văn, Giàng Vạn Sùng mở tiệc khao quân rồi kéo về Sà Phìn báo tin chiến thắng.

Hoàng thẫn thờ đi đi lại lại trong hậu cung. Lúc lúc đứng sững lại, dí dí chân trên tấm thảm nhung trải trên sàn gỗ. Trên sập, mụ Síu hút thuốc bào bằng điếu can dài, thỉnh thoảng ngước nhìn Hoàng đang nổi giận.

Hoàng dừng lại bên bức tường, đấm bàn tay khô khốc trên mặt đá nhẵn bóng, làm rung chuyển bức ảnh Hoàng Chí Đạo.

- Bọn người Kinh các người miệng thì ngọt nhưng bụng thì đắng! Lừa lọc như con rắn độc!

Mụ Síu không tỏ ra bực bội, hết sức nhẹ nhàng:

- Ông nên bớt giận làm lành, chắc ông lại nghe người ta dèm pha, nói xấu nó thôi. Ông còn lạ gì ở cái dinh thự này, thiếu gì kẻ ghen ghét muốn hại mẹ con tôi!

- Hừ, chính mắt ta trông thấy, chính mắt ta! Chúng đú đởn với nhau. Ta sẽ giết, giết tên Cao Ly dâm đãng và con Tầu lai phản bội!

Người mẹ vợ tưng hửng, hơi bối rối, nhưng lập tức trấn tĩnh được ngay, khẽ gật gù, húng hắng như ho khan:

- Giả dụ như có chuyện đó thật thì… bây giờ ông nên ngẫm kỹ xem sao. Tôi thiển nghĩ, những người đàn bà đi ngoại tình là do người chồng… Ông ngẫm xem, ông đáng tuổi ông nó, còn nó thì non tơ, phây phây. Được cái nọ, mất cái kia, âu cũng là luật bù trừ của tạo hóa. Ông gieo gió thì ông gặp bão. Trước kia ông cưỡng bức, lừa nó cả cuộc đời, chứ nó mới lừa ông một tí chứ mấy!

Ngừng lại, uống cốc nước nho tươi, thấy Hoàng im lặng lắng nghe, mụ tiếp:

- Ông nên bình tâm nghĩ lại, một câu nhịn chín câu lành. Ông mà giết chúng thì hỏng hết đại nghiệp. Ai cho ông được độc quyền buôn bán vải, muối, dầu hỏa ở cái đất Đồng Văn này? Ai phong ông làm Tri Châu? Ai đuổi thằng Tây ở cái đất Đồng Văn này cho ông tự do thu thuế dân Mèo? Người Nhật có quân đội hùng mạnh, súng ống tối tân như thế, giờ đã đóng quân trên đất này, ông đuổi làm sao được họ? Người Pháp mạnh như thế còn thua nữa là ông? Ông giết ông ta, mà chưa chắc ông giết hay người ta giết ông? Mọi người biết chuyện, cười ông ta một thì cười ông mười. Ông làm vua mà còn để vợ như thế, rồi các tổng giáp, mã phài, các tướng lính, quân sĩ còn nghe theo ông nữa không?

Mụ nhón tay lấy điếu thuốc lá “con cú” châm lửa hút. Hoàng nằm xuống bên bàn đèn rít liền mấy điếu cho lại sức, nhìn tượng Quan Công, nhăn nhó, đau đớn.

- Người Nhật người ta khôn khéo lắm. Ông giết người của họ, họ vu cho ông là làm phản, gì mà họ chả làm cỏ cái đất Đồng Văn này? Họ dại gì mà chẳng giúp họ Dương? Cái cơ nghiệp của ông sẽ ra sao đây? Liệu ông có vui lòng nhìn Dương Thụ Nghĩa kéo quân sang đuổi ông khỏi nơi này?

Ông cậy ông có tiền rừng bạc bể, quyền hành. Những thứ đó đối với chúng tôi chẳng nghĩa lý gì đâu. Ông ràng buộc trăm họ, chứ làm sao ràng buộc được chúng tôi? Ông làm to chuyện, chúng nó dắt nhau đi. Chúng tôi coi ngai vàng của ông như ghế gỗ. Tôi phải theo con tôi, tôi đi, rồi ai khuya sớm tính mưu, bàn kế với ông?
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #9 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2017, 11:54:13 pm »

Hoàng nghe nói, không biết cãi vào đâu. Toàn những lý lẽ xác đáng quá, phù hợp với suy nghĩ của Hoàng quá. Hắn chỉ biết nuốt nước bọt, nén cơn ghen nghèn nghẹn trong lòng.

Giữa lúc ấy, Thào Sè Na chạy vào chắp hai tay trước ngực:

- Thưa lão quan! Mã Học Văn về báo tin thắng trận!

Hoàng nhìn mụ Síu rồi quay về phía Na, ra lệnh:

- Bảo Mã tướng quân chờ ta ở trung dinh!

Thào Sè Na ra đi. Mụ Síu nhìn Hoàng sau làn khói thuốc lá:

- Chà! Danh tiếng ông sẽ tràn đi như nước lũ. Cứ đà này, chẳng mấy chốc toàn bộ thiên hạ về tay ông, giang sơn thu về một mối… Chẳng phải vì bênh con tôi khuyên ông thế, mà vì tình xưa nghĩa cũ. Tôi xin ông, có chuyện gì nên bàn bạc với già này?

Mụ Síu đi đến bàn đèn, quàng tay qua người Hoàng, vuốt ve, an ủi thêm mấy câu rồi lẹp kẹp đi ra. Hoàng gục đầu xuống chiếc gối thêu chim đại bàng. Hình ảnh Cắm Sìn và Mỹ Thuận ôm nhau, và hình ảnh đoàn quân chiến thắng cứ chập chờn, chập chờn diễu qua trước mắt. Hoàng muốn vùng dậy, ra lệnh cho Sùng Vạn Lù lôi hai đứa gian phu dâm phụ chém đầu cho hả giận, nhưng hắn lại run sợ trước thân hình lực lưỡng, cây kiếm dài quét đất của Cắm Sìn, và bên tai cứ văng vẳng lời bà mẹ vợ biết nhìn ra trông rộng: “Thiên hạ sẽ thu về một mối”.

Cái tin bà Ba, Cắm Sìn ăn nằm với nhau rồi cũng lan ra trong dinh. Mọi người bàn tán xì xào. Hoàng ra lệnh: “bà Hoàng không có chuyện xấu, kẻ nào bịa đặt bôi nhọ thanh danh bà sẽ bị chém đầu”. Những người trong dinh sợ hãi không dám bàn tán nữa.

Hoàng cố quên đi những chuyện uất ức trong lòng, mời Cắm Sìn cùng các tướng họp bàn, củng cố và mở mang bờ cõi, chia quân giữ đất Đồng Văn.

Giữa sảnh đường, có đầy đủ các tướng lĩnh, Hoàng tuyên bố: “Cắm Sìn sẽ là quân sư cho ta, toàn quyền chỉ huy các tướng lĩnh ta!”

Sau một hồi nói thao thao bất tuyệt, cố phô trương thanh thế lực lượng hùng hậu của quân đội Nhật, khoe khoang tài chỉ huy quân sự của mình, Cắm Sìn trình bày kế hoạch bố phòng Đồng Văn, cử các tướng đóng giữ các đồn biên giới.

Sau khi phiên chế các đội quân, Cắm Sìn bước vào huấn luyện. Với kinh nghiệm xây dựng đội quân phát xít, Cắm Sìn cố gò đội quân ô hợp, vô tổ chức, thích uống rượu và ve gái hơn là tập luyện này vào quy tắc nhà binh như quân đội Thiên Hoàng.

Nhiều tên lính bị phạt rất nặng. Đứa thì bị dìm trong bể nước giữa trời rét. Đứa thì bị quỳ trên đá sỏi. Chúng căm tức và chửi ngầm tên Cao Ly.

Mấy tháng sau, Cắm Sìn đã rèn cho quân Hoàng một quân kỷ khắc nghiệt, một tinh thần hiếu chiến và phát xít khác thường.

Chúng hống hách, ngày ngày ra phố, vào bản đập phá hạch sách dân chúng. Từng đoàn lính rủ nhau ra chợ ăn quỵt, uống rượu, đánh nhau chí mạng. Dân chúng thấy lính của Hoàng, sợ hãi, chạy như chạy giặc.

Trong lớp huấn luyện, Cắm Sìn đặc biệt chú ý đến một tiểu tướng trẻ là Hoàng Chí Song. Năm đó, Song mới hai mươi tuổi, to béo, mắt một mí, má phị, tóc luôn chải lệch, thường mặc quần áo dạ Trung Quốc, đi giày cao cổ. Song luôn tỏ ra là con nhà trâm anh thế phiệt. Đó là cháu gọi Hoàng là “ông chú”.
Khi đi sang Mèo Vạc mở sòng bạc, thăm dò lực lượng họ Dương, thấy tình hình nguy hiểm như ngàn cân treo sợi tóc, Hoàng Xu Đô gửi lại đứa con trai duy nhất của mình là Hoàng Chúng Dịp cho Hoàng. Lớn lên, Dịp được chú lấy cho một người vợ tên là Sùng Thị Hỷ. Hai vợ chồng Dịp sinh được một con trai là Hoàng Chí Song.

Chẳng bao lâu, Dịp bị chết. Không muốn cháu dâu của mình lọt vào tay kẻ khác, mang đi số của hồi môn khá lớn, Hoàng cho con là Hoàng Đình Phủ lấy người chị dâu Sùng Thị Hỷ này. Chí Song thành con Phủ. Vừa là cháu gọi Hoàng là ông chú, vừa là con của Phủ, Chí Song gắn bó mật thiết với Hoàng, được Hoàng quý. Phủ, Công lần lượt chết. Cái “ngai vàng” của Hoàng chờ đợi Chí Song.

Được Hoàng chiều chuộng cho học ở Hà Nội, Hà Giang, Đồng Văn, ngay từ bé, Song đã tỏ ra trịch thượng, hống hách, khinh miệt mọi người.

Song thu hút được nhiều bạn bè, toàn các vương tôn anh hùng, các tiểu tráng sĩ. Khi chơi với bạn, Song đóng một bộ mặt giả rất tuyệt. Trong bụng ghét cay ghét đắng, muốn xỏ bạn nhưng ngoài mặt cứ vui vẻ, tâng bốc bạn lên mây xanh.

Cũng ngay từ 15, 16 tuổi, Song đã là tên si tình, hám gái và dâm đãng. Hắn thường lừa đảo các cô gái người Hoa, con các tổng giáp, mã phài.
Một buổi, sau khi huấn luyện ở quân trường Sà Phìn về, Sìn gặp Mỹ Thuận khen:

- Song sau này sẽ thành một chỉ huy tài ba của lão già. Nó có nhiều khả năng khiếu quân sự lắm!

Thuận vốn ghét đứa cháu trai của Hoàng, bĩu môi:

- Tài cán gì thằng nhãi ấy, chỉ được cái hung hãn, suốt ngày uống rượu và ve gái!

Sìn cười nhạt phản đối người yêu:

- Tất cả những kẻ làm tướng phải hung hãn như thế! Anh sẽ huấn luyện cho nó thành một chỉ huy theo đúng kiểu các sĩ quan quân đội Thiên Hoàng.

Thuận mếch lòng, dè bỉu:

- Đấy rồi anh xem, anh sẽ nuôi ong tay áo. Tin chắc rồi nó sẽ thành tên phản chủ, phản anh cho mà xem!

Giữa lúc đó, Chí Song dắt tay một thanh niên trạc tuổi hắn đi qua. Khác với Song thấp lùn, to béo, người thanh niên này cao, ria mép lớt phớt, mũi dọc dừa, mắt sắc sảo.

Song chỉ người bạn, giới thiệu với Sìn, đôi mắt híp nhấp nháy:

- Đây là bạn Hoàng Chí Ân, vừa bỏ Mèo Vạc chạy sang ta!

Mỹ Thuận cùng Cắm Sìn dẫn Song, Ân vào thăm mụ Síu. Síu pha cà phê cho ba người uống, rồi hỏi Ân:

- Vì sao cháu bỏ nhà chạy sang đây? Dương Thụ Nghĩa là bác cháu kia mà?

Ân nói giọng đầy uất ức:

- Cháu không thể chịu được cái nhà họ Dương khốn nạn ấy!

Nói rồi, Ân kể cho mọi người nghe vì sao hắn bỏ Mèo Vạc sang Đồng Văn.

Một người Mèo Trung Quốc tên Vàng Sính Và di cư sang Mèo Vạc làm ăn sinh sống. Sính Và sinh được hai con trai là Vàng Dúng Sình và Vàng Dúng Sà thì người vợ chết. Sính Và lấy em gái Dương Thụ Nghĩa làm vợ hai. Người vợ này sinh được hai con: một trai là Vàng Giàng Đáo và một gái là Vàng Thị Mai.

Năm 1933, Sính Và được Pháp phong làm Tổng giáp cai quản Mèo Vạc. Lúc này Nghĩa chưa có chức vụ gì, muốn tranh chức Tổng giáp của em rể. Như con hổ rình mồi, Nghĩa chờ thời cơ ám hại Và, giành lấy chức Tổng giáp và ruộng đất.

Dúng Sà là một người phá gia chi tử, chuyên đánh cắp vàng bạc và thuốc phiện của gia đình, đi uống rượu, đánh bạc. Sính Và dạy bảo con mãi không được liền sai Dúng Sình đem em đi chôn sống. Biết chuyện, Thụ Nghĩa liền tung ngay tay chân đi rình mò. Tìm ra nơi chôn xác Dúng Sà, Nghĩa phát đơn tố giác lên quan Pháp, đồng thời dâng lễ nhờ tên quan này phong chức Tổng giáp cho mình.

Vin vào tội giết người của cha con Sính Và, muốn gia ơn cho Thụ Nghĩa, tên quan Pháp liền bắt Sính Và về giam ở tỉnh. Bị hành hạ, đánh đập tàn ác, Sính Và chết trong nhà giam.

Tên quan Pháp đưa ngay Thụ Nghĩa lên làm Tổng giáp Mèo Vạc thay Sính Và.

Thụ Nghĩa có chức có quyền trong tay liền cướp hết ruộng đất nhà Sính Và. Cửa nhà sa sút, Dúng Sình ôm mối thù Nghĩa. Sình thấy rằng chỉ có cách đăng lính cho Pháp mới có uy quyền, thời cơ trả thù.

Đăng lính xong, Dúng Sình xin ngay về trấn ải biên giới Mèo Vạc, gần quê hương để có dịp trả thù. Thỉnh thoảng, Dúng Sình lại dẫn lính khố xanh về hạch sách, mắng chửi, xỉ nhục Nghĩa.

Thụ Nghĩa ức lắm nhưng không làm gì được Sình. Nhân cơ hội Sình đi đánh nhau ở xa, Thụ Nghĩa cho con trai là Dương Trung Nhân đến cưỡng hiếp vợ Sình. Vợ Sình không chịu được nhục nhã liền uống lá ngón tự tử.

Dúng Sình trở về nhà, biết chuyện, dẫn lính khố xanh về phá nhà Nghĩa và kiện Nhân.

Quan Pháp lại được dịp moi tiền cả hai bên. Nghĩa, Nhân phải đem bạc già đút lót quan Pháp, thoát tù nhưng gia tài khánh kiệt.

Chờ cho Dúng Sình đổi đi xa, Trung Nhân đem lính dõng đến nhà Dúng Sình, cướp hết của cải, phá tan nhà cửa, đưa cô ruột (vợ Sính Và) và em là Vàng Giàng Đáo về nuôi, đổi họ em là Giàng Vạn Đáo (Giàng tức là Dương), lấy vợ cho Đáo.

Dúng Sình về thăm nhà, lặng người trước nhà cửa bị phá tan hoang liền cho người nhắn Giàng Đáo gặp mình, nói:

- Cha sinh được ba anh em trai ta. Anh thứ hai coi như người bỏ đi, còn anh và em. Tuy anh em khác mẹ nhưng cũng dòng máu họ Vàng của cha. Vì cha con thằng Dương mà cha phải chết trong tù, chị phải tự tử, nhà cửa tan nát. Anh giờ đã yếu, sức kiệt, không trả thù được cho cha, anh muốn em nghĩ đến mối thù này. Em đừng vì họ hàng đằng mẹ mà quên thù. Em hãy sang ở với ông Hoàng. Họ cũng thù Dương. May nhờ bàn tay họ mà trả thù được cho cha.

- Nhưng Dương đã lấy vợ cho em ở đây rồi. Vợ em là em Ma Chu Páo đó!

Dúng Sình thở dài:

- Chả lẽ vì vợ mà em quên thù cha hay sao?

Nghe anh than thở, nhớ đến thù cha, Giàng Đáo quyết thực hiện lời anh. Một đêm mưa, Giàng Đáo bỏ nhà Dương, bỏ mẹ và vợ lại Mèo Vạc, chỉ mặc một bộ quần áo lót chạy sang Sà Phìn, xin vào ở với Hoàng, chờ dịp về giết bác ngoại.

Được Giàng Đáo thông thuộc địa thế Mèo Vạc, lại mang mối thù sâu với họ Dương, Hoàng mừng lắm, nhận ngay làm cháu nuôi, đổi họ tên thành Hoàng Chí Ân, cho kết nghĩa anh em với Song, chờ dịp dùng bàn tay của Ân tiêu diệt họ Dương, mở mang bờ cõi cho cái đất Đồng Văn này.
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM