Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:36:23 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch tiến công Đường số 9 - Khe Sanh - Xuân - Hè 1968  (Đọc 11163 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 19 Tháng Tám, 2016, 08:42:26 pm »

        
        - Tên sách: Chiến dịch tiến công Đường số 9 - Khe Sanh - Xuân - Hè 1968
        - Năm xuất bản: 1987
        - Số hoá: ptlinh
        - Hiệu đính: Giangtvx

LỜI NÓI ĐẦU

        Chiến dịch Đường số 9 - Khe Sanh trong Xuân- Hè 1968 là một chiến dịch Bộ đã tập trung nhiều sư đoàn binh chủng hợp thành và các trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật, trong đó có các tiểu đoàn xe tăng lần đầu tiên tham gia chiến đấu. Và cũng là lần đầu trong kháng chiến chống Mỹ, bộ đội ta mở chiến dịch tiến công đột phá trực tiếp vào tuyến phòng ngự vững chắc chủ yếu của quân Mỹ ở nam giới tuyến quân sự tạm thời, trực tiếp tác chiến với các sư đoàn mạnh của quân Mỹ (thuỷ quân lục chiến và kỵ binh không vận).

        Qua 177 ngày đêm chiến đấu liên tục, chiến dịch Đường số 9- Khe Sanh đã kết thúc thắng lợi, hoàn thành nhiệm vụ của Bộ giao cho: tiêu diệt và bắt sống nhiều sinh lực địch (chủ yếu là Mỹ), phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh; phá vỡ một mảng lớn tuyến phòng ngự của địch ở phía tây Đường 9; nhất là thu hút kìm giữ một bộ phận sinh lực quan trọng và một khối lượng lớn bom đạn của Mỹ vào khu vực Đường số 9- Khe Sanh trong một thời gian dài, tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền, trước hết cho Trị- Thiên- Huế tiến công địch.

        Bản tổng kết này được viết theo kết luận của Hội nghị khoa học tổng kết chiến dịch đợt III (tháng 3-1986), còn những tư liệu cụ thể chúng tôi căn cứ vào các bản dự thảo tổng kế chiến dịch Đường số 9- Khe Sanh của Bộ Tổng tham mưu và của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, cùng những ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy sư đoàn, trung đoàn tham gia chiến dịch.

        Tài liệu tổng kết này nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về nghệ thuật chiến dịch của toàn quân, và công trình “Lịch sử hình thành và phát triển nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng”.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Tám, 2016, 07:03:16 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 06:30:44 am »

PHẦN THỨ NHẤT

BỐI CẢNH LỊCH SỬ

        Cuối năm 1966 đầu năm 1967, mặc dù quân Mỹ được tăng cường thêm lực lượng, nhưng Mỹ- nguỵ cũng chỉ có thể tập trung đánh trên một hướng là miền Đông Nam Bộ, trọng điểm là chiến khu Dương Minh Châu, hòng diệt cơ quan đầu não của ta, còn các hướng khác chúng thực hiện kiềm chế, riêng Đường số 9 địch tích cực phòng ngự.

        Cuộc phản công chiến lược lần thứ 2 của chúng bắt đầu từ tháng 10 năm 1966 đến tháng 4 năm 1967, trong đó có cuộc hành quân Gian- xơn- xi- ti với lực lượng 26 tiểu đoàn (có 22 tiểu đoàn Mỹ) là cuộc hành quân lớn nhất và chủ yếu nhất. Mỹ hy vọng giành được những thắng quân sự có ý nghĩa chiến lược, tạo ra bước ngoặt quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho chúng. Nhưng hơn 14.000 tên địch bị loại (trong đó có 2 tiểu đoàn và 18 đại đội bộ binh, 2 tiểu đoàn và 5 đại đội pháo binh, 9 chi đoàn thiết giáp bị diệt gọn); trên 1.000 xe quân sự (có 881 xe thiết giáp) và 90 khẩu pháo bị phá huỷ, 167 máy bay các loại bị bắn rơi và bắn cháy.

        Địch bị thất bại to lớn trong mùa khô 1966- 1967 và đặc biệt trong cuọc hành quân Gian-xơn-xi-ty. Mặc dù quân Mỹ còn gần 480.000 tên nhưng lực lượng bị dàn mỏng để đối phó với ta trên các chiến trường, không còn đủ sức “tìm diệt”; còn gọng kìm “bình định” của quân nguỵ cũng bất lực. Mỹ-nguỵ ngày càng lún sâu vào thế bị động, chiến lược 2 gọng kìm “tìm diệt và bình định” đang đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.

        Cùng với việc đẩy mạnh “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, địch ra sức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm hạn chế vận chuyển tiếp tế của ta vào miền Nam và sang Lào, phá hoại tiềm lực của miền Bắc, làm suy yếu hậu phương chiến lược của cả nước. Về biện pháp chiến lược, ngoài việc sử dụng không quân vẫn là chủ yếu, địch còn mở rộng pháo kích của hải quân đến vĩ tuyến 20 và thả thuỷ lôi phong toả một số vùng chọn lọc (Cửa Nam Triệu, cửa Ba Lạt, cửa sông Mã, sông Cả, sông Gianh và sông Kiến Giang).

        Năm 1967, địch đã thực hiện 122.960 lần máy bay xuất kích ném 270.000 tấn bom, từ các tàu chiến bắn vào vùng biển miền Bắc- chỉ tính từ ngày 25 tháng 10 năm 1967 đến ngày 1 tháng 1 năm 1968 là 484.000 viên.

        Trong cuộc đọ sức với quân và dân miền Bắc, đế quốc Mỹ không những không thực hiện được ý đồ chiến lược đã đề ra, mà còn gánh chịu một thất bại to lớn với 1.062 máy bay bị bắn rơi, 65 tầu chiến bị bắn cháy và bắn chìm, hàng trăm giặc lái sừng sỏ bị chết hoặc bị bắt sống. Thất bại to lớn hơn cả là sự dao động trong bọn hiếu chiến Mỹ đã bắt đầu xuất hiện, lòng tin của chúng ở biện pháp chiến lược dùng không quân đánh phá miền Bắc đã giảm sút. Ngày 27 tháng 8 năm 1967 Mác-na-ma-ra, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ đã phải công khai thú nhận: “Những cuộc ném bom mới, dù kết quả thế nào, Mỹ cũng không thể thắng và rút ngắn được cuộc chiến tranh. Tôi chưa bao giờ nhận được bằng chứng nào chứng minh nếu cứ tăng cường oanh tạc thì giảm được số thiệt hại của lính Mỹ ở Nam Việt Nam, trái lại tôi thấy bằng chứng ngược lại”… (Theo tin AFP ngày 28- 8- 1967)

        Thắng lợi to lớn của quân và dân ta ở cả hai miền Nam- Bắc trong 2 năm 1966- 1967 đã đẩy Mỹ- nguỵ lún sâu vào thế bị động chiến lược, lực lượng vũ trang của ta trên cả hai miền đều được thử thách và trưởng thành. Trên chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang giải phóng, đặc biệt là khối chủ lực lớn mạnh vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu, giữ vững thế chủ động tiến công, giành thắng lợi lớn ở Quế Sơn, Thăng Bình, Lộc Ninh, Đắc Tô… Quy mô trận chiến đấu cũng nâng cao dần lên cấp trung đoàn, sư đoàn, hình thức chiến đấu hiệp đồng bộ binh với pháo binh đã xuất hiện và đang trở thành hình thức chủ yếu trong các loại hoạt động chiến đấu của khối chủ lực tập trung. Bên cạnh đó, phương pháp chiến đấu của từng binh chủng như đặc công, pháo binh, công binh… cũng được phát huy rộng rãi, gây cho địch nhiều thiệt hại to lớn.

        Thực tế chiến trường đã buộc bọn hiếu chiến Mỹ phải nhìn thẳng vào sự thật là không thể thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu này. Nhưng do bản chất ngoan cố và mù quáng, dựa trên cơ sở quan điểm ỷ vào sức mạnh vũ khí, số lượng quân đông, nên đế quốc Mỹ vẫn tăng thêm quân số và phương tiện chiến tranh vào miền Nam, dự dịnh mở cuộc phản công lớn lần thứ 3 vào mùa khô 1967-1968, nhằm phá kế hoạch tiến công lớn của ta, giành thế chủ động trên chiến trường, phục vụ đắc lực cho cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ vào tháng 11 năm 1968, đồng thời để gây vốn chính trị khi buộc phải thương lượng với ta.

        Cuối năm 1967, trước sự uy hiếp ngày càng mạnh của lực lượng vũ trang ta trên toàn chiến trường không chỉ ở ngoại tuyến mà ngay cả trong các thành phố và thị xã, lại đồng thời phát hiện sự điều quân của ta, Mỹ- nguỵ phải tạm ngừng cuộc phản công chiến lược lần thứ 3, đưa quân về giữ các vùng trọng điểm (trọng yếu), tăng quân cho vùng chiến thuật I, củng cố tuyến phòng thủ Đường số 9, thiết lập “hàng rào điện tử Mác-na-ma-ra” ở phía nam khu phi quân sự. Thực chất địch đã phải chuyển vào phòng ngự một cách bị dộng, rõ nét nhất là ở chiến trường Trị-Thiên và Đường số 9.

        Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp đã phân tích thất bại của đế quốc Mỹ trong những mục tiêu chiến lược của chúng trên cả hai miền Nam-Bắc nước ta, đó là thất bại cả về quân sự và chính trị - chủ yếu là quân sự - là thất bại lớn về chiến lược. Trong Nghị quyết của Bộ Chính trị (sau được Trung ương thông qua và coi là Nghị quyết Trung ương 14) viết: “Đã đến lúc cần động viên những cố gắng lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển mới, thực hiện tiến công và nổi dậy đồng loạt để giành thắng lợi quyết định".

        … “Những diễn biến cơ bản của tình hình là ta đang ở trên thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở trong thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của ta sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định" (trích).

        Đó là bối cảnh chiến lược của chiến dịch tiến công Đường số 9 - Khe Sanh ra đời do Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp tổ chức và chỉ huy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 06:35:47 am »


PHẦN THỨ HAI

TỔ CHỨC CHIẾN DỊCH

        I. Ý ĐỊNH CHIẾN LƯỢC

        Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh đã xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược Xuân- Hè 1968, trong đó nêu rõ:

        “Cùng với đòn tập kích chiến lược quy mô trên toàn Miền đánh vào các thành phố, thị xã, kết hợp với nổi dậy của quyết chiến ở nông thôn và đô thị- trọng điểm là Sài Gòn- Huế, thì còn có một đòn tiến công chiến lược của bộ đội chủ lực nhằm tiêu diệt, phân tán lực lượng chủ lực của địch mà chiến trường chính là hướng Đường số 9, tạo điều kiện cho các chiến trường khác hoàn thành nhiệm vụ tiến công và nổi dậy đồng loạt, trước hết cho Trị- Thiên- Huế”.

        “Thời cơ phát động tiến công và nổi dậy đồng loạt là lúc địch sơ hở nhân ngày Tết Mậu Thân, dùng lực lượng tinh nhuệ tập kích vào các thành phố, thị xã, trụ bám giữ vững thế làm chủ, phát động quyết chiến, đưa cao trào lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân".

        KẾ HOẠCH TÁC CHIẾN CHIẾN LƯỢC CHIA LÀM 3 BƯỚC

        Bước 1: Tiến hành trong mùa đông năm 1967, và đầu tháng 1 năm 1968 vừa tác chiến vừa tạo thế kéo địch ra vùng rừng núi, tạo điều kiện thuận lợi cho tổng công kích và tổng khởi nghĩa ở các đô thị.

        Bước 2: Tiến hành cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa ở các thành phố, thị xã.

        Bước 3: Phát triển củng cố các vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích, lập chính quyền mới.

        VỀ PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC

        - Hai chiến trường trọng điểm là miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn- Chợ Lớn (chiến trường quyết định thứ nhất), chiến trường Đường số 9-Trị-Thiên-Quảng Đà (chiến trường quyết định thứ hai).

        - Ba trọng điểm tổng công kích và tổng khởi nghĩa là Sài Gòn-Chợ Lớn (chủ yếu 1), Huế (chủ yếu 2), Đà Nẵng (chủ yếu 3).

        - Chiến trường rừng núi Tây Nguyên, Đường số 9-Khe Sanh (đặc biệt Khe Sanh) là chiến trường thu hút kiềm chế, tiêu diệt lực lượng cơ động của Mỹ càng nhiều càng tốt, để cho các trọng điểm thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa.

        ĐỊA BÀN MỞ CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG SỐ 9-KHE SANH

        Địa bàn mở chiến dịch được xác định từ Cửa Việt- Đông Hà (phía đông) đến biên giới Việt- Lào (phía tây) tiếp giáp phía bắc đến Cồn Tiên, Dốc Miếu.

        Hướng tây (khu vực Khe Sanh) được xác định là hướng chính của chiến dịch, hướng đông là hướng quan trọng. Trong quá trình diễn biến chiến dịch, tuỳ tình hình, có thể khu vực phía đông sẽ chuyển thành hướng chính.

        NHIỆM VỤ CỦA CHIẾN DịCH ĐƯỜNG SỐ 9-KHE SANH

        - Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện thì phá vỡ một phần hệ thống phòng ngự của địch ở Đường số 9, phát triển vào Trị-Thiên.

        - Hiệp đồng chặt chẽ với các chiến trường toàn Miền, nhất là với Trị-Thiên-Huế.

        - Qua chiến đấu, rèn luyện bộ đội, bồi dưỡng cán bộ, để đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh.

        Trong 4 nhiệm vụ trên, nhiệm vụ tiêu diệt địch, phối hợp chiến trường là cơ bản nhất,

        Yêu cầu đợt Xuân- Hè 1968:

        - Diệt 2- 3 vạn địch, trong đó diệt gọn 5-7 tiểu đoàn Mỹ, 2-3 tiểu đoàn nguỵ.

        - Kéo được 2-3 sư đoàn quân địch ra Đường số 9, trong đó có 2 sư đoàn Mỹ, giữ chân chúng lại tiếp tục tiêu diệt.

        - Trường hợp địch rút lui một bộ phận hoặc xuống thế thì thừa thắng tiến vào giải phóng một phần Đường số 9, mạnh bạo phát triển vào Quảng Trị-Thừa Thiên.

        Đợt mùa Xuân là đợt quan trọng nhất trong kế hoạch hoạt động Xuân- Hè 1968, phần lớn yêu cầu của kế hoạch phải thực hiện đầy đủ trong mùa Xuân, cụ thể: phải tiêu diệt trên dưới 2 vạn tên địch, trong đó diệt cho được một số vị trí và một số đơn vị từ 3- 5 tiểu đoàn Mỹ, 2- 3 tiểu đoàn cơ động nguỵ, phối hợp có hiệu quả với toàn Miền, đánh dồn dập, liên tục thực hiện tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn, chiến đoàn địch, bảo đảm dúng thời gian quy định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 06:39:15 am »


        PHƯƠNG CHÂM TÁC CHIẾN

        Lấy đánh địch ngoài công sự làm chính, đánh địch trong công sự khi cần thiết và chắc thắng; kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh liên tục, rộng khắp, tạo điều kiện cho đánh lớn; phối hợp chặt chẽ 3 thứ quân, kết hợp nhịp nhàng quân sự, chính trị và địch vận.

        LỰC LƯỢNG TÁC CHIẾN CỦA CHIẾN DỊCH

        Bao gồm lực lượng thuộc B5 đang hoạt động ở khu vực Đường số 9 và lực lượng mới được điều và tham gia chiến dịch.

        - Lực lượng đang hoạt động có: sư đoàn bộ binh 325; 3 trung đoàn bộ binh 1, 2, 3 thuộc sư đoàn 324 cũ; trung đoàn bộ binh 270 (của Vĩnh Linh); 2 tiểu đoàn địa phương Quảng Trị; các đại đội địa phương huyện; 1 đoàn đặc công; 3 trung đoàn pháo binh (84, 164, 204); 2 trung đoàn cao xạ (128, 282) cùng các lực lượng bảo đảm khác…

        Những đơn vị kể trên, đã có kinh nghiệm đánh Mỹ và quen thuộc chiến trường Đường số 9.

        - Lực lượng điều động mới để tham gia chiến dịch gồm có: 2 sư đoàn bộ binh (304, 320) 5 đại đội đặc công; 4 đại đội xe tăng; 2 trung đoàn pháo binh (675, 45); 1 trung đoàn pháo cao xạ (241).

        Các đơn vị mới vào chiến trường nói chung đã được huấn luyện cơ bản, hệ thống; được trang bị đầy đủ (loại sư đoàn bộ binh nhẹ). Nhưng chưa có kinh nghiệm trực tiếp đánh Mỹ, chưa quen thuộc địa hình, thời tiết trong khu vực tác chiến1 (Các lực lượng tham gia chiến dịch nói trên, trong quá trình diễn biến chiến dịch, Bộ có điều một số đơn vị vào tăng cường cho chiến trường phía trong; việc đó có ảnh hưởng đến yêu cầu tập trung lực lượng của chiến dịch).

        TỔ CHỨC CHỈ HUY

        Ngày 6 tháng 12 năm 1967, theo quyết định của Thường trực Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường số 9-Khe Sanh được thành lập, do đồng chí Thiếu tướng - Phó Tổng tham mưu trưởng Trần Quý Hai làm Tư lệnh, đồng chí Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính uỷ chiến dịch.

        Các lực lượng đang hoạt động ở khu vực Đường số 9 - Khe Sanh thuộc quyền chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường số 9 - Khe Sanh.

        THỜI GIAN NỔ SÚNG

        Bộ yêu cầu chiến dịch Đường số 9 - Khe Sanh phải tích cực nổ súng trước khi thực hiện đòn tiến công chiến lược (Tết Mậu Thân 1968). Ngày “N” của toàn Miền không phổ biến cho cấp chiến dịch.

        II. TÌNH HÌNH ĐỊCH, ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÀ TÌNH HÌNH NHÂN DÂN Ở KHU VỰC ĐƯỜNG SỐ 9

        1. Địch

        Cuối năm 1967, trên tuyến Đường số 9, địch có 45.000 tên, trong đó có 28.000 tên Mỹ gồm 3 trung đoàn thuỷ quân lục chiến tăng cường (10 tiểu đoàn bộ binh), 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới.

        Lực lượng trên được bố trí thành 3 khu vực:

        - Khu phía đông là khu vực phòng ngự chủ yếu bao gồm các cứ điểm: 31, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Gio Linh, Quán Ngang, miếu Bái Sơn. Ở phía sau có Đông Hà, Cam Lộ và Quảng Trị hình thành phòng ngự có chiều sâu.

        - Khu giữa gồm các cứ điểm: Tân Lâm, Cà Lu, 241, tác dụng nối liền giữa khu đông và khu tây, đồng thời án ngữ, ngăn chặn lực lượng của ta thâm nhập vào hướng Ba Lòng - Quảng Trị.

        - Khu phía tây gồm các cứ điểm: Hương Hoá, Làng Vây, Huội San (trên Đường số 9); các cứ điểm ngoại vi Tà Cơn gồm có: Đông Tri, 832, 845… Cụm cứ điểm Tà Cơn bố trí dọc theo thung lũng Tà Cơn có diện tích chừng 2km2, lực lượng trong cụ cứ điểm có: trung đoàn 26 thuỷ quân lục chiến Mỹ và tiểu đoàn 37 biệt động nguỵ; 24 khẩu pháo và 2 trung đội xe tăng. Khi bộ đội ta tiến công chúng được cụm pháo binh căn cứ 241 trực tiếp chi viện và hoả lực không quân yểm trợ.

        Nói chung, lực lượng của địch ở khu vực Đường số 9 chỉ đủ phòng ngự tại chỗ, thiếu lực lượng cơ động.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 06:40:40 am »


        2. Địa hình

        Từ Cửa Việt đến biên giới Việt- Lào, địa hình chia làm 3 khu vực rõ rệt:

        - Khu đông từ mép biển đến Tân Lâm là địa hình đồng bằng và mấp mô trung bình, tiện cho các loại xe cơ giới hoạt động. Có nhiều đường sá, ngoài Đường số 1 và Đường số 9, còn có Đường 75, 76 ở phía bắc Đường số 9, từ Cam Lộ đi Mai Lộc- Ái Tử và thị xã Quảng Trị có đường tỉnh lộ.

        - Khu giữa từ Tân Lâm đến Rào Quán là địa hình đồi núi, xe cơ giới khó qua lại, đồi trọc nhiều, khó che giấu bộ đội, tiện cho địch quan sát từ trên không và mặt đất…

        - Khu tây từ Rào Quan trở lên biên giới Việt- Lào là địa hình rừng núi, tiện che giấu bộ đội; đường sá hầu như độc đạo, ngoài Đường số 9 chỉ có thêm một vài đoạn đường nhánh (3- 5km) lên phía bắc hoặc xuống phía nam.

        3. Tình hình nhân dân

        Lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của nhân dân trong khu vực Đường số 9 trong thời gian cuối năm 1967 có nét phát triển mới so với năm 1966, có thể hỗ trợ cho hoạt động quân sự:

        - Vùng giải phóng nông thôn đồng bằng được củng cố và mở rộng, ta đã chiếm lĩnh một số vùng xung yếu đông dân, tạo ra nhiều bàn đạp xung quanh thị xã, thị trấn và các căn cứ lớn của địch, làm cho chúng thường xuyên bị uy hiếp. So với năm 1966, số xã làm chủ đã cở trình độ cao hơn, có chính quyền tự quản, có lực lượng du kích, lực lượng nòng cốt đấu tranh chính trị và quần chúng đều tham gia các đoàn thể cách mạng. Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ngày càng cao, có nhiều cuộc đấu tranh nổ ra quyết liệt, quần chúng đã chăn từng đoàn (chi đoàn) xe bọc thép Mỹ, không cho chúng vào càn phá xóm làng, có cuộc đấu tranh đã giải thoát được hàng chục cán bộ, du kích bị địch bao vây.

        - Ở các thị xã, thị trấn, phong trào cũng phát triển tốt. Hoạt động quân sự của ta trong thị xã ngày càng tăng (7 lần đánh vào thị xã Quảng Trị). Phong trào đấu tranh của quần chúng đòi quyền dân sinh, dân chủ và lực lượng chính trị, vũ trang của quần chúng phát triển mạnh hơn trước.

        - Ở miền núi, trải qua một thời gian khó khăn, nay đã được củng cố. Các mặt công tác đều thu được kết quả, nhất là đã ổn định được tư tưởng của quần chúng, củng cố lại tổ chức, phát động được phong trào bắn máy bay, diệt biệt kích, động viên được khí thế sản xuất, nhờ đó đã hạn chế được nạn đói.

        Qua thực tiễn trên, ta thấy:

        Về phía địch, ở Đường số 9 có cả quân Mỹ và quân nguỵ, nhưng lúc này quân Mỹ đã ngày càng đông, nếu ta đánh mạnh, địch bị diệt nhiều, chắc chắn sẽ thu hút được lực lượng lớn quân Mỹ đến ứng cứu. Tuy chúng phòng ngự trên cả hai hướng đông- tây, nhưng do nhiều nguyên nhân, địch tập trung lực lượng ở hướng đông là chủ yếu, trái lại ở hướng tây chúng chỉ đủ sức phòng ngự tại chỗ, khi bị ta cắt đoạn Đường số 9 từ Tân Lâm đến Cà Lu thì Khe Sanh sẽ bị cô lập về đường bộ, càng tăng thêm khả năng thu hút quân Mỹ.

        Về phía ta, lực lượng lớn tham gia chiến dịch là các sư đoàn chủ lực của Bộ; các sư đoàn này tuy đã qua huấn luyện cơ bản nhưng khả năng đánh địch trong công sự vững chắc còn có hạn, nên việc đánh điểm phải cân nhắc và có chuẩn bị chu đáo. Với điều kiện địa hình rất khác nhau giữa hướng đông và hướng tây, rõ ràng hướng tây hạn chế được chỗ mạnh của địch, lại phát huy được sở trường của ta…

        Đó là những cơ sở thực tiễn để Bộ Tư lệnh hạ quyết định chiến dịch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 06:44:20 am »

         
        III. QUYẾT TÂM CỦA BỘ TƯ LỆNH CHIẾN DỊCH

        Ngày 28 tháng 12 năm 1967, Đảng uỷ chiến dịch họp phiên đầu tiên thảo luận và thông qua quyết tâm chiến dịch:

        1. Ý định tác chiến

        a. Hướng tây là hướng chủ yếu, hướng đông là hướng quan trọng, trong quá trình diễn biến chiến dịch, tuỳ tình hình có thể hướng đông sẽ trở thành hướng chủ yếu.

        b. Phương pháp và thứ tự tiêu diệt địch: diệt 1, 2 điểm và bao vây uy hiếp một số điểm khác, buộc địch phải tăng viện ứng cứu, tập trung lực lượng để giam chân và tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch tăng viện ứng cứu.

        Cụ thể:

        - Hướng tây, diệt quận lỵ Hương Hoá, Huội San, điểm cao 832; bao vây cứ điểm Làng Vây để đánh viện lớn ở khu vực tây và tây nam Tà Cơn.

        - Hướng đông, diệt 1, 2 điểm trong 4 điểm của địch phòng ngự trên Đường 75; bao vây Cồn Tiên, Dốc Miếu; cắt giao thông ở đoạn Cam Lộ- Cà Lu; đánh địch tăng viện ở khu vực Quán Ngang, Dốc Miếu và ở tây, tây nam Đông Hà; cắt đường sông Cửa Việt; đánh phá kho tàng, sân bay địch…

        Trong ý dịnh có 2 dự kiến tình huống khác:

        - Nếu địch không tăng viện (phản kích), phía tây phải diệt Làng Vây và vây hãm Tà Cơn (lúc này xác định là vây hãm, chưa phải là vây lấn); triệt tiếp tế kéo địch lên; có điều kiện thì công kích giải phóng Khe Sanh. Phía đông, cắt Đường số 9 ở đoạn Cam Lộ- Tân Lâm, uy hiếp vận chuyển trên đoạn sông Cửa Việt- Đông Hà buộc địch phải tăng viện.

        - Nếu địch bị thua lớn ở các chiến trường khác, nhất là ở các đô thị thì tuỳ tình hình phát triển có thể đánh chiếm một đoạn Đường số 9 và đưa lực lượng phát triển vào Trị- Thiên- Huế.

       2. Sử dụng lực lượng

        -  Hướng tây, 2 sư đoàn bộ binh (304 và 325), 1 tiểu đoàn và 1 đại đội địa phương, 2 trung đoàn pháo binh (675 và 45), 1 trung đoàn pháo cao xạ (241), 1 tiểu đoàn xe tăng lội nước (PT- 76) thiếu 1 đại đội, 1 trung đoàn và 1 đại đội công binh, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 đại đội súng phun lửa nhẹ, 6 tiểu đoàn vận tải…

        - Hướng đông, sư đoàn sư đoàn bộ binh 320, 2 trung đoàn bộ binh (1 và 3) thuộc sư đoàn 324 cũ, trung đoàn bộ binh 270 độc lập của Vĩnh Linh, 1 tiểu đoàn và 2 đại đội địa phương Gio Linh, đoàn đặc công B5 và 2 đại đội đặc công hải quân, 3 trung đoàn pháo binh (84, 164 và 204), 1 tiểu đoàn A72, 2 trung đoàn cao xạ (128 và 282), 1 tiểu đoàn xe tăng (PT- 76) thiếu 1 đại đội, các phân đội trinh sát và thông tin B5…

        3. Nhiệm vụ của các đơn vị

        a. Ngày 9 tháng 1 năm 1968, Bộ Tư lệnh chiến dịch giao nhiệm vụ cho hướng tây như sau:

        - Sư đoàn bộ binh 304 bố trí ở phía nam Đường số 9, trước mắt tập trung lực lượng đánh chiếm quận lỵ Hương Hoá (cả Ku Bốc nếu có địch). Sẵn sàng đánh quân tăng viện trên đường bộ từ Tân Lâm, Cà Lu lên hoặc địch đổ bộ đường không xuống khu vực Hương Hoá; nếu địch không tăng viện thì diệt Huội San, Làng Vây và đưa lực lượng vào bao vây uy hiếp Tà Cơn để kéo viện binh địch.

        - Sư đoàn bộ binh 325 (325 C) bố trí ở tây bắc Tà ơn, tiến công tiêu diệt địch ở điểm cao 832, bao vây đường không xuống bắc và tây bắc Tà Cơn.

        - Trung đoàn 7 công binh bảo đảm đường trục chiến dịch và các đường nhánh phục vụ vận chuyển tiếp tế, cơ động của pháo binh, xe tăng; mở thông Đường số 9 từ Bản Đông đến Hương Hoá.

        b. Ngày 10 tháng 1 năm 1968, Bộ Tư lệnh chiến dịch giao nhiệm vụ cho các đơn vị hướng đông như sau:

        - Sư đoàn bộ binh 320 (thiếu trung đoàn 52) cùng các lực lượng địa phương tiêu diệt địch ở trong khu vực Phú An, Cam Lộ, Tân Lâm (gồm điểm cao 241) và Đông Hà. Cắt giao thông đoạn Cam Lộ- Tân Lâm, phá vỡ thế phòng ngự của địch trên Đường 76; diệt 1, 2 cứ điểm trong số 4 điểm phòng ngự của địch trên Đường 75 (cuối cùng xác định tiến công Cam Lộ); đưa một bộ phận lực lượng vào kháng chiến Thọ Xuân, An Bình, Trúc Khê, hiệp đồng với tiểu đoàn 27 và trung đoàn 270 địa phương đánh địch ở Quán Ngang.

        - Trung đoàn bộ binh 3 (thuộc sư đoàn 324 cũ) có nhiệm vụ cắt giao thông ở đoạn Tân Lâm- Cà Lu; tổ chức một bộ phận hiệp đồng với sư đoàn 320 thọc sâu vào Cùa, đánh địch ở tây và tây nam Đông Hà.

        - Trung đoàn 270 (thiếu 1 tiểu đoàn) cùng đại đội đặc công hải quân, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh địch trong khu vực đông- tây Đường 1 (đoạn Dốc Miếu- Quán Ngang và cảng Cửa Việt, sông Cửa Việt đi Đông Hà).

        - Trung đoàn bộ binh 1 (thuộc sư đoàn 324 cũ) bao vây đánh lấn cứ điểm Cồn Tiên, Dốc Miếu, tạo điều kiện diệt một trong hai cứ điểm này.

        - Đoàn đặc công B5 đánh phá kho tàng, sân bay, hậu cứ địch ở Đông Hà, Nhan Biểu; phối hợp với sư đoàn 320 diệt trận địa pháo địch ở điểm cao 241.

        - Đặc công hải quân phong toả triệt để đường sông Cửa Việt đánh phá cảng Cửa Việt, Đông Hà, diệt các phương tiện vận chuyển trên sông; nếu điều kiện thuận lợi thì hiệp đồng với đoàn đặc công B5 và pháo binh tiêu diệt hậu cứ Cửa Việt.

        - Trung đoàn bộ binh 52, làm dự bị trực tiếp cho sư đoàn 320 và dự bị cho cả hướng đông. Sẵn sàng bước vào chiến đấu trên 3 hướng: Cam Lộ- Đông Hà, bắc và tây bắc Tân Lâm, Cùa. Khu vực triển khai đánh địch: Đông Phát, Tiền An, Tân Linh, Bến Quan và điểm cao 74.

        c. Pháo binh chiến dịch Ngoài các nhiệm vụ đánh độc lập như trước (đánh các cứ điểm, căn cứ, trận địa pháo và sân bay), lần này nổi lên hai nhiệm vụ mới là: chi viện cho bộ binh, xe tăng tiến công tiêu diệt địch trong các cứ điểm, đánh địch ứng cứy giải toả và chi viện cho bộ binh vây hãm căn cứ địch trong thời gian nhất định…

        d. Pháo cao xạ chiến dịch Lúc đầu chủ yếu bảo vệ căn cứ hậu phương, các tuyến giao thông và trận địa pháo. Về sau có bổ sung thêm nhiệm vụ đi cùng bộ binh vây hãm địch ở Tà Cơn.

        e. Xe tăng chiến dịch Lực lượng xe tăng được chia đều trên 2 hướng (mỗi hướng 1 tiểu đoàn thiếu 1 đại đội), do chiến dịch nắm để sử dụng vào mục tiêu quan trọng hoặc thời cơ quyết định…

        j. Chiến dịch không tổ chức lực lượng dự bị chung


        4. Các mặt công tác bảo đảm

        Cuối tháng 10 năm 1967, lực lượng B5 và lực lượng của Bộ có chuẩn bị một bước cho chiến dịch nhưng làm đường, tổ chức các kho dự trữ ở cuối các đường cơ giới… Nhưng thời gian trực tiếp chuẩn bị của các sư đoàn rất gấp. Có đơn vị đến ngày nổ súng vẫn chưa xác định được mục tiêu định diệt (sư đoàn 320); có đơn vị không kịp chuyển gạo đạn vào lót ổ mà chỉ mang theo trên vai 7- 10 ngày ăn, 0,25 cơ số đạn. Ngay sở chỉ huy mặt trận cũng như các sở chỉ huy cấp sư đoàn đều chưa chuẩn bị xong, mang thông tin hữu tuyến cũng chưa triển khai đầy đủ.

        5. Sở chỉ huy chiến dịch chiến dịch

        Bố trí tại Sap- lit (62- 66) (Bản đồ tỷ lệ: 1/100.000 do Cục Bản đồ BTTM- in lần thứ 2 năm 1964).

        Chiến dịch không tổ chức sở chỉ huy tiền phương chung hoặc trên từng hướng. Bộ Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ huy tới các sư đoàn và các binh chủng trực thuộc.

       6. Thời gian nổ súng (mở màn chiến dịch)

        Quy định từ ngày 20 đến cuối tháng 01 năm 1968.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2016, 06:51:09 am »


PHẦN THỨ BA

DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH

       
ĐỢT I- TIÊU DIỆT CÁC CỨ ĐIỂM PHÍA TÂY, MỞ THÔNG ĐƯỜNG 9, ĐƯA LỰC LƯỢNG VÂY HÃM TÀ CƠN
(20/1 - 7/2/1968)

        I. HƯỚNG TÂY

        Chấp hành lệnh của Bộ, hướng tây nổ súng trước. Mở màn chiến dịch bằng 2 trận tiến công của trung đoàn bộ binh 66/304 và trung đoàn bộ binh 2/325 vào quận lỵ Hương Hoá và điểm cao 832 ngoại vi cụm cứ điểm Tà Cơn.

        Quận lỵ Hương Hoá do 1 đại đội bảo an phòng giữ, có cơ quan hành chính nguỵ quyền và dân trong huyện bị dồn về đây chừng 10.000. Điểm cao 832 ở ngoại vi phía tây bắc Tà Cơn (khoảng 3- 4 km) có 1 đại đội thuỷ quân lục chiến Mỹ phòng ngự, có hoả lực của cụm pháo binh ở Tà Cơn trực tiếp chi viện.

        Đêm 20 tháng 1 năm 1968, được pháo binh chiến dịch chi viện, tiểu đoàn 7/trung đoàn 66/304 nổ súng tiến công quận lỵ Hương Hoá. Trận mở đầu diễn ra tương đối thuận lợi, phần lớn quân địch bị tiêu diệt, một số chạy thoát vào cụm cứ điểm Tà Cơn, ta chiếm được mục tiêu. Cùng đêm, tiểu đoàn 6/trung đoàn 2/325 tiến công điểm cao 832 nhưng không thành công, phải chuyển vào bao vây kiềm chế địch. Ngày 21 tháng 1 năm 1968, địch điều 1 đại đội bảo an từ Quảng Trị đổ bộ xuống ngã ba Ku Bốc liền bị ta tiêu diệt gọn.

        Đến trưa ngày 22 tháng 1, ta hoàn toàn làm chủ phía nam cụm cứ điểm Tà Cơn, tổ chức chốt giữ quận lỵ Hương Hoá, điểm cao 471 và ngã ba Ku Bốc, giải phóng 8.000 dân, lập bàn đạp vây hãm Tà Cơn ở phía nam và sẵn sàng đánh địch phản kích tăng viện…

        Về phía địch, sau khi quận lỵ Hương Hoá bị mất, Tà Cơn bị uy hiếp trực tiếp từ phía nam, điểm cao 832 ở phía tây bắc bị bao vây, địch đối phó chủ yếu bằng hoả lực phi pháo, nhằm ngăn chặn lực lượng ta và nghe ngóng tình hình; không tổ chức phản kích tại chỗ và cũng không phản kích từ xa tới.

        Ngày 23 tháng 1 năm 1968, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm tiêu diệt cứ điểm Huội San ở sát biên giới Việt- Lào do 1 tiểu đoàn nguỵ Lào phòng giữ, để tăng thêm áp lực ở hướng tây, mở đường tiếp cận Làng Vây, bức địch phải tăng viện.

        Huội San là một cụm cứ điểm nằm án ngữ ở biên giới Việt- Lào (trên Đường số 9) gồm 12 cứ điểm nhỏ, mà trung tâm là cứ điểm Tà-Mây, do tiểu đoàn 33 quân nguỵ Lào phòng giữ. Tiểu đoàn 1/trung đoàn 24/304 được tăng cường 1 đại đội xe tăng lội nước (8 chiếc PT-76) tiến công Huội San. Cách đánh là bao vây toàn cụm, dùng lực lượng mạnh gồm bộ binh và xe tăng đánh thẳng vào trung tâm Tà Mây, rồi từ đó tỏa ra tiêu diệt toàn cụm cứ điểm. Do ta bao vây không kín nên địch chạy thoát về Làng Vây cũ gần 400 tên, ta làm chủ cụm cứ điểm Huội San.

        Sau 3 ngày chiến đấu, địch vẫn không tăng viện. Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây, giải phóng đoạn Đường số 9 từ Khe Sanh ra tới biên giới Việt- Lào, đưa thêm lực lượng vào bao vây Tà Cơn, buộc địch phải phản ứng mạnh và sớm hơn.

        Việc tổ chức tiêu diệt cứ điểm Làng Vây, Bộ Tư lệnh giao cho đồng chí Lê Ngọc Hiền phụ trách, nhưng sau đó lại giao cho Bộ chỉ huy sư đoàn 304 đảm nhiệm có cán bộ sư đoàn 325 tham gia (đồng chí Trần Văn Ân và đồng chí Dương Bá Nuôi).

        Nhưng do công tác chuẩn bị không kịp, phải kéo dài thời gian, mãi đến thượng tuần tháng 2 năm 1968, sư đoàn 304 mới chuyển vào tiến công cứ điểm Làng Vây.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2016, 08:07:01 am »


        II. HƯỚNG ĐÔNG

        Đêm 19 tháng 1 năm 1968, trung đoàn 270 vào chốt ở Lâm Xuân, Bạch Cầu và Hoàng Hà, phối hợp với đặc công hải quân phong toả đường sông Cửa Việt đi Đông Hà, buộc địch phải đưa quân giải toả. Trong 3 ngày liền, tiểu đoàn 47/trung đoàn 270 đánh lui nhiều đợt tiến công của địch có pháo binh, không quân và xe tăng yểm trợ. Kết quả ta diệt 347 tên (trong đó có 110 tên Mỹ), phá huỷ 7 xe tăng và M113, bắn hỏng 3 tàu trên sông, giữ vững chốt Bạch Cầu.

        Ngày 24 tháng 1 năm 1968, tiểu đoàn 3/trung đoàn 1 thuỷ quân lục chiến Mỹ đánh vào chốt Hoàng Hà, bị ta diệt 200 tên. Trong tuần cuối tháng 1 năm 1968, địch chiếm được chốt Lâm Xuân và Bạch Cầu.

        Đêm 31 tháng 1 năm 1968 trung đoàn 48/320 tiến công quận lỵ Cam Lộ không thành công.

        III. TIẾN CÔNG TIẾP

        Ngày 2 tháng 2 năm 1968, đồng chí Văn Tiến Dũng- Tổng Tham mưu trưởng điện hỏi Bộ Tư lệnh chiến dịch: “Bộ Chính trị rất không yên tâm vấn đề Đường số 9, Lý do gì, vì sao, có khó khăn gì mà không đánh mạnh phối hợp để địch rút lực lượng từ Đường số 9 (hướng đông) vào Trị- Thiên, gây khó khăn cho Trị- Thiên”.

        Để chấp hành mệnh lệnh của Bộ, Bộ Tư lệnh chiến dịch đôn đốc sư đoàn 304 khẩn trương chuyển vào tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây càng sớm càng tốt.

        Làng Vây là một cứ điểm mạnh bố trí trên bình độ 320m, công sự gỗ đất xen kẽ lô cốt xi măng đúc sẵn, xung quanh có hàng rào kẽm gai và mìn. Vị trí địch chia thành nhiều khu vực, mỗi khu vực do 1 đại đội biệt kích nguỵ phòng ngự; tổng số có khoảng 600 tên (trong đó có một số cố vấn Mỹ); vũ khí có: 16 súng cối 60mm, 278 súng M79, 4 súng cối 81mm, 4 súng cối 106,7mm, 1 ĐKZ 75, 1 ĐKZ 57, khoảng 300 tiểu liên AR- 15 và các bin; khi bị ta tiến công, vị trí Làng Vây được cụm pháo binh Tà Cơn, 241 và được không quân trực tiếp chi viện.

        Để tiêu diệt cứ điểm Làng Vây, sư đoàn 304 sử dụng: trung đoàn bộ binh 24 (thiếu 1 tiểu đoàn) được tăng cường thêm: tiểu đoàn bộ binh 3/sư đoàn 325, tiểu đoàn xe tăng 198 (thiếu 1 đại đội, gồm 16 hiếc PT- 76), 1 đại đội đặc công của mặt trận, 1 đại đội đặc công/304, 1 đại đội AM- 14,5 mm; 1 trung đội súng phun lửa; có nhiệm vụ: tiêu diệt toàn bộ lực lượng biệt kích nguỵ trong cứ điểm Làng Vây, khai thông đoạn Đường số 9 từ Khe Sanh trở ra biên giới Việt- Lào; tăng thêm áp lực vây hãm Tà Cơn buộc địch phải tăng viện.

        Khi trung đoàn 24 tiến công sẽ được tiểu đoàn pháo binh 122 mm nòng dài/trung đoàn pháo binh 675 trực tiếp chi viện chiến đấu; và được tiểu đoàn công binh mặt trận và tiểu đoàn công binh/304 bảo đảm cho xe tăng cơ động tiếp cận địch trên các hướng tiến công.

        Kế hoạch tác chiến của sư đoàn 304 xác định tiêu diệt Làng Vây vào đêm 5 tháng 2 năm 1968, nhưng vì điều kiện chuẩn bị của trung đoàn 24 chưa tốt nên phải hoãn lại…

        23 giờ 30 phút ngày 6 tháng 2 năm 1968, trung đoàn 24 chuyển vào tiến công địch trong hành tiến, đột phá cứ điểm Làng Vây bằng 3 hướng (trừ hướng đông bắc, còn hướng nam và hướng tây có xe tăng tham gia đột phá). Trận đánh kéo dài đến 8 giờ sáng ngày 7 tháng 2 ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm. Kết quả: ta tiêu diệt tại chỗ 400 tên, bắt sống 253 tên (trong đó có 5 tên Mỹ), thu toàn bộ vũ khí và quân trang, quân dụng. Cùng ngày trung đoàn 66 đánh địch ở Làng Vây cũ phía bắc cứ điểm Làng Vây khoảng 1000 m; do bao vây không kín, số lớn địch ở đây chạy thoát về Tà Cơn.

        Cứ điểm Làng Vây bị diệt, ta làm chủ đoạn Đường số 9 từ Cà Lu đến biên giới Việt Lào mở rộng bàn đạp vây hãm Tà Cơn và đánh quân địch phản kích tăng viện. Đến đây, đợt 1 của chiến dịch kết thúc. Cả 2 hướng của chiến dịch ta đã diệt và bắt sống 1.600 tên (có 200 tên Mỹ), bắn rơi và bắn cháy 19 máy bay các loại, phá huỷ 11 khẩu pháo và cối, phá huỷ 11 xe cơ giới, thu nhiều vũ khí và quân dụng…

        Qua 19 ngày chiến đấu (20/1 – 7/ 2/1968) ta thu được một số thắng lợi, nhưng rất ít trận tiêu diệt gọn quân địch (trừ trận Làng Vây), thậm chí có trận không thành công (trận điểm cao 832 của sư đoàn 325 và trận Cam Lộ của sư đoàn 320), phối hợp giữa 2 hướng đông-tây của chiến dịch không chặt, yêu cầu chiến dịch Đường số 9-Khe Sanh phải đánh mạnh, tiêu diệt lớn, buộc địch phải tăng viện, hỗ trọ cho Trị-Thiên- Huế chưa thực hiện được.

        Bộ Tư lệnh chiến dịch không được biết ngày “N” của cấp chiến lược, do đó trong kế hoạch tác chiến chỉ nói chung là phải ra sức đẩy mạnh các hoạt động phối hợp với các chiến trường trong toàn Miền, không xác định được mục tiêu nào, trận đánh nào cụ thể vào ngày “N”. Yêu cầu đánh mạnh, đánh dồn dập đánh trước ngày “N” để thu hút địch không làm được đúng mức cần thiết.

        Đặc biệt, đêm 31 tháng 1 năm 1968- đêm giao thừa Tết Mậu Thân, ta tiến công mạnh vào các đô thị toàn Miền. Ở Thừa Thiên ta làm chủ được thành nội Huế nên phần lớn lực lượng địch phải lo đi giải toả các đô thị, khả năng địch tăng viện ra Khe Sanh càng hạn chế.

        Sau khi ta đánh Làng Vây vẫn không kéo được viện binh địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương vây hãm Tà Cơn để ép địch phải đưa viện binh lên giải toả, kiên quyết thực hiện yêu cầu của chiến lược trong khả năng thực tiễn của địa bàn chiến dịch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2016, 08:10:22 am »


        ĐỢT II- VÂY HÃM TÀ CƠN (10- 2- 31- 3- 1968)

        Đầu tháng năm 1968, Mỹ tổ chức Bộ Tư lệnh nhẹ do tên tướng A- bờ- ram phụ trách (A- bờ- ram là Phó tư lệnh đội quân xâm lược Mỹ ở miền Nam Việt Nam), điều sư đoàn 1 kỵ bị không vận và chiến đoàn 3 dù nguỵ ra Quảng Trị để sẵn sàng ứng phó với ta trên chiến trường Đường số 9. Nhưng ở chiến trường Trị- Thiên- Huế địch đang bị uy hiếp mạnh nên chúng chưa thể đưa quân ra giải toả cho Đường số 9 mà chủ yếu dựa vào hoả lực phi pháo đánh vào các trận địa vây lấn của ta, đồng thời đưa quân ra chiếm giữ thêm điểm cao 550 ở phía Bắc, 595 và 573 ở phía tây để hoàn chỉnh trận địa cố thủ Tà Cơn.

        Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định: phải đẩy mạnh vây lấn Tà Cơn, tích cực tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh; triệt tiếp tế đường không, cắt tiếp tế đường bộ; hãm địch vào thế khốn quẫn hơn nữa, bức chúng phải đưa quân ra ứng cứu giải toả càng sớm càng tốt. Chừng nào địch chưa đưa quân ra ứng cứu thì ta vẫn giữ chặt vòng vây, tích cực đánh lấn, đánh địch ra phản kích, tiêu diệt và đánh mẻ từng phần căn cứ Tà Cơn.

        Kế hoạch cũ vây hãm Tà Cơn được điều chỉnh với quyết tâm đánh địch cao hơn: (từ vây hãm phát triển lên vây lấn); các đơn vị vây lấn phải xây dựng công sự trận địa vững chắc, dùng ít lực lượng nhưng có hoả lực mạnh; lực lượng phía sau ở vị trí cơ động sẵn sàng đánh địch phản kích hoặc đổ bộ đường không; pháo binh chi viện trực tiếp cho các đơn vị vây lấn, đồng thời bắn phá sở chỉ huy, khu thông tin và sân bay, kho tàng trong căn cứ, làm cho địch ở Tà Cơn ngày càng hoang mang, kiệt quệ phải đưa quân ra giải toả.

        HOẠT ĐỘNG CỤ THỂ CỦA CÁC ĐƠN VỊ

        I. HƯỚNG TÂY

        Sư đoàn 325 vây đánh địch ở bắc và tây bắc Tà Cơn, tổ chức kiềm chế địch ở các điểm cao 845, 832 và Động Trì, cố gắng nhằm tiêu diệt 1- 2 điểm phòng ngự của địch, mở đường vào vây sát hơn nữa. Lực lượng cơ động của sư đoàn sẵn sàng đánh quân địch ra ứng cứu giải toả.

        Sư đoàn 304 vây đánh địch ở nam Tà Cơn; trung đoàn 9 tổ chức luân phiên các tiểu đoàn vào vây lấn; trung đoàn 24 và 66 sẵn sàng đánh địch ứng cứu giải toả ở phía nam và tây nam Tà Cơn. Lực lượng chiến đấu ở các trận địa vây lấn dùng các phân đội nhỏ (trên dưới 40 người) được tăng cường súng cối 82 mm, 60 mm, súng máy cao xạ 12,7 mm và súng chống tăng B41, nên sức mạnh đánh địch tăng lên, khuyết điểm vây hãm lúc đầu được khắc phục (Lúc đầu ta chủ trương vây hãm, chưa chủ trương đánh lấn nên trận địa bao vây còn xa địch, chủ yếu dùng hoả lực cối 82 mm và súng máy 12,7 để kiềm chế địch).

        Giữa tháng 2 năm 1968, trung đoàn 66 vào thay thế cho sư đoàn 325 (Sư đoàn 325 được điều vào Tây Nguyên). Trung đoàn 66 chỉ để lực lượng nhỏ kiềm chế 832 và 845, đưa lực lượng chính vào trực tiếp vây lấn phía tây Tà Cơn. Trận địa vây lấn đã đưa vào sát hàng rào địch; dùng mìn định hướng phá huỷ vật cản và bắn tỉa tiêu diệt những tên lính Mỹ đi lại trong căn cứ…

        Ở phía nam Tà Cơn, 3 mũi vây lấn của trung đoàn 9, đến cuối tháng 2 năm 1968 đã vào cắt được hàng rào địch; trận địa ở phía sân bay Tà Cơn đã lấn đến giữa hàng rào địch, cách tiền duyên phòng ngự địch chừng 40- 50m. Các đêm 29 tháng 2 và 1, 2 tháng 3 năm 1968 ta tổ chức xung phong đánh chiếm một số đoạn chiến hào nhưng không thành công.

        Pháo binh ta kiềm chế sân bay, làm cản trở địch tiếp tế cho Tà Cơn. Thời kỳ này ta mới ngăn chặn được máy bay có cánh (như C123, C130) còn với máy bay lên thẳng và địch thả dù tiếp thì ta chưa khống chế được. Ở hướng bắc và đông Tà Cơn ta không có lực lượng uy hiếp địch (do địa hình ở 2 hướng này quá hiểm trở).

        So với lúc đầu, địch ở cụm cứ điểm Tà Cơn đã phải chịu sức uy hiếp mạnh hơn, chúng tiếp tế chủ yếu vào ban đêm; chúng sinh hoạt trong căn cứ gặp nhiều khó khăn; tinh thần binh lính chúng căng thẳng… Địch cố gắng phản kích tại chỗ nhằm đẩy lực lượng ta ra xa. Ngày 25 tháng 2 năm 1968, địch dùng 2 đại đội thuỷ quân lục chiến Mỹ từ Tà Cơn tiến hành 2 mũi đánh vào chốt 4 (Châu Lang Chánh) do một phân đội của trung đoàn 66 chiếm giữ, trận đánh diễn ra từ 8 giờ đến 14 giờ 45 phút, bị ta tiêu diệt gần 200 tên, số còn lại bỏ chạy. Ngày 8 tháng 3 năm 1968, địch dùng 1 đại đội biệt kích nguỵ mang tên “Lôi hổ” đánh vào chốt 1 ở đông nam Tà Cơn do một phân đội của trung đoàn 9 chiếm giữ; chốt này ở vị trí có địa thế cao, gần sân bay, khống chế rộng… nên phát hiện sớm địch, do đó, khi lọt vào tầm hoả lực ta thì đại đội biệt kích này bị ta tiêu diệt hoàn toàn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2016, 08:14:30 am »


        Những ngày cuối tháng 3 năm 1968, bọn thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Tà Cơn dựa vào hoả lực chi viện lại thực hành phản kích ra phía tây Tà Cơn: ngày 28 tháng 3, 1 đại đội Mỹ đánh ra chốt 3 (Châu Lang Chánh) bị bộ đội ta đẩy lùi, ngày 30 tháng 3, 2 đại đội Mỹ, 2 đại đội nguỵ có xe tăng và pháo binh yểm hộ đánh vào chốt 3 lần thứ 2, trận đánh diễn ra từ 7 giờ đến 12 giờ 40 phút, ta diệt 300 tên, số còn lại bỏ chạy vào Tà Cơn.

        Qua 4 lần phản kích đều bị thất bại nặng nề, địch lại dùng hoả lực không quân và pháo binh đánh phá ác liệt vào trận địa vây lấn của ta. Chúng dùng máy bay B52 rải bom cách tiền duyên phòng ngự của chúng dưới 1.000 m (khu vực Khe Sanh rộng khoảng 32 km2 mà địch đã sử dụng từ 15- 18 lần chiếc B52/ngày đánh 3.300 tấn bom nhằm huỷ diệt trận địa và đội hình vây lấn của ta).

        Trong tháng 3 năm 1968, mặc dù địch phản ứng điên cuồng, đánh phá ác liệt, nhưng quân ta không chùn bước. Các khẩu hiệu hành động như: “Địch phá ta sửa”, “Phải gây ác liệt đối với quân Mỹ", “Phải biến Tà Cơn thành địa ngục trần gian, thành lò thiêu quân Mỹ trên đường số 9”;… được thực hiện triệt để. Hàng ngày bộ đội ta phải sửa chữa tói 40%- 50% công sự, có nơi phải sửa chữa tới 70%, nhưng vẫn không ngừng đánh địch. Ta dùng pháo binh, súng cối, ĐKZ đánh phá sân bay; bộ binh áp sát bãi thả dù, dùng súng bắn tỉa tiêu diệt binh lính địch, gây cho địch căng thẳng về tinh thần, khó khăn về tiếp tế… buộc chúng sớm muộn cũng phải đưa quân giải toả Tà Cơn.

        II. HƯỚNG ĐÔNG

        Đầu tháng 3 năm 1968, sư đoàn 320, dùng một bộ phận tiếp tục bao vây Cồn Tiên (thay trung đoàn 1 thuộc sư đoàn 324 cũ được lệnh chuyển vào Thừa Thiên), tổ chức uy hiếp giao thông trên đoạn Cam Lộ- Tân Lâm buộc địch phải tăng cường giải toả. Các đơn vị này chỉ thực hiện một số trận đánh nhỏ. Sư đoàn 320 chuẩn bị tiến công Quán Ngang, nhưng không đánh vì địch đã tăng cường lực lượng ở đây.

        Ở đông đường số 1, trung đoàn 270, sau tăng thêm một bộ phận của trung đoàn 52 cũng chỉ đánh được một số trận nhỏ.

        Trung tuần tháng 3 năm 1968, lực lượng hướng đông tiếp tục rút bớt vào tăng cường cho Thừa Thiên- Huế, sư đoàn 320 được lệnh rút ra củng cố, chuẩn bị cho đợt hoạt động tháng 5 năm 1968.

        Do lực lượng hướng đông giảm đi, cường độ hoạt động không mạnh, nên địch có điều kiện điều lực lượng tăng cường cho Huế và đánh phá khu vực Khe Sanh bằng hoả lực.

        Kết quả 50 ngày đêm vây lấn Tà Cơn, ta đã tiêu hao tiêu, diệt thêm một bộ phận sinh lực địch (chủ yếu là Mỹ); thu hút phần lớn hoả lực của không quân và pháo binh của Mỹ ra Đường số 9- Khe Sanh. Trong đợt vây lấn Tà Cơn, địch đã sử dụng 110.000 tấn bom và 100.000 quả đạn 175 mm đánh vào khu vực Khe Sanh.

        ĐỢT III- ĐÁNH ĐỊCH ỨNG CỨU GIẢI TOẢ (1/ 4 – 7/5/1968)

        Đầu tháng 4 năm 1968, cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam đã kéo dài 2 tháng , Huế và Sài Gòn đã chuyển sang hoạt động bình thường và chuẩn bị cho đợt tiến công mới.

        Tình hình mặt trận Đường số 9- Khe Sanh cũng có sự thay đổi, hướng đông được tách ra đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh. Phạm vi chiến dịch tập trung vào khu vực Khe Sanh (hướng tây) đối với khu vực phía đông từ đây chỉ có quan hệ hiệp đồng.
        Lực lượng chiến đấu của chiến dịch Đường số 9- Khe Sanh lúc này còn: Sư đoàn 304 (thiếu 1 tiểu đoàn), tiểu đoàn bộ binh 8 độc lập, 1 tiểu đoàn pháo 122 mm, 1 trung đoàn pháo ĐKB và 1 trung đoàn pháo cao xạ. Các đơn vị đều chưa được bổ sung quân, sức khoẻ giảm sút.

        Thời gian này, địch ở Tà Cơn ra sức củng cố công sự, lùng sục thăm dò. Tiếp tế của chúng vẫn gặp nhiều khó khăn. Trên tuyến Đường số 9, các hoạt động trinh sát của địch tăng lên. Không quân và pháo binh tăng cường đánh phá dọc hai ven Đường số 9 từ Tân Lâm đến Rào Quán; một số điểm cao có lợi đã xuất hiện trận địa pháo binh và điểm chốt bộ binh. Đồng thời một bộ phận công binh địch thăm dò, sửa chữa đường từ Cà Lu đi Hương Hoá (lực lượng và hành động giải toả Khe Sanh của Mỹ- nguỵ, xem phụ lục II).

        Trước những hoạt động trên đây của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã kịp thời nhận định: Hiện tượng tương đối rõ là địch đang chuẩn bị cho một cuộc hành quân lớn lên hướng Khe Sanh. Nhưng về tính chất cuộc hành quân chưa rõ là để giải vây rồi bỏ chạy hay là để thay quân rồi cố giữ Khe Sanh? Bộ Tư lệnh cho rằng cả 2 khả năng đó đều tồn tại, nhưng khả năng thay quân để giữ Khe Sanh có nhiều hơn. Dù khả năng nào, địch đã phải đưa quân ra Đường số 9 là thời cơ rất thuận lợi để ta tiêu diệt chúng ngoài công sự. Tuy nhiên ta cũng có những khó khăn lớn do lực lượng chiến dịch còn quá mỏng.

        Để giành thắng lợi lớn nhất, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm: động viên bộ đội, tận dụng mọi lực lượng hiện có, nắm vững thời cơ địch thoát ly công sự để tiêu diệt chúng. Trước mắt cần điều chỉnh gấp một số lực lượng ra chốt chặn dọc Đường số 9; điều tiểu đoàn 8 (thiếu 1 đại đội) xuống tây Cà Lu đánh địch nhằm tiêu hao và làm chậm bước tiến của địch trên Đường số 9; bộ phận vây lấn cụm cứ điểm Tà Cơn phải giữ vững trận địa, lấn sâu về phía địch, tích cực đánh địch phản kích và khống chế chúng ở trong căn cứ; lực lượng cơ động sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không xuống sát cụm cứ điểm hoặc phía sau đội hình chiến đấu của ta, triệt để cô lập cụm cứ điểm Tà Cơn.

        Phương châm chỉ đạo là kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, hiệp đồng chặt chẽ giữa các binh chủng, tiêu diệt từng toán đổ bộ đường không, đánh chặn từng mũi tiến công đường bộ, chia cắt đội hình địch, vao vây tiêu diệt từng bộ phận lực lượng hành quân của chúng. Vận dụng linh hoạt các phương pháo tiến công nhằm đánh vào sườn và sau lưng địch, tích cực chia cắt không để chúng co cụm. Khi địch đổ bộ hoặc tạm dừng, đứng chân chưa vững thì phải vận động tập kích. Các đơn vị cố gắng giữ nguyên đội hình, tránh xáo trộn không cần thiết; phải tranh thủ củng cố đơn vị sau mỗi đợt chiến đấu để đủ sức đánh liên tục, không bỏ lỡ thời cơ diệt địch.
Logged

Trang: 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM