Sau Na-pô-lê-ông, một vài quốc gia phong kiến sống sót đã tồn tại được một thời gian nữa ở Tây Âu, nhưng, trừ một vài ngoại lệ thì chúng giống như một xác chết tráng men. Cuộc cách mạng năm 1830 ở Pháp, cuộc cách mạng năm 1848 ở Đức và ở Áo đã đẩy mạnh công cuộc quét dọn những thây ma lịch sử
Nước Nga, đến năm 1861, mới cất bước đầu tiên quan trọng trên con đường ấy (con đường thủ tiêu chế độ nông nô); bị miễn cưỡng và căm giận, đa số trong giai cấp quý tộc Nga đã công khai nuôi hy vọng đoạt lại những cái mà hoàn cảnh đã buộc chúng phải nhượng bộ, hoặc ít ra trong khi đợi chờ tuyệt vọng, chúng cố gắng giảm sự nhượng bộ, và trong việc này, bọn chúng đã thành công mỹ mãn.
Tuy nhiên, nên nhận thấy rằng Na-pô-lê-ông đã tạo điều kiện to lớn cho châu Âu phong kiến dễ dàng chống lại ông và chiến thắng ông. Hình ảnh viên tướng cũ của cách mạng càng chìm biến trong hình ảnh của vị hoàng đế Pháp và hình ảnh của vị hoàng đế Pháp càng chìm biến trong hình ảnh của một vị chúa tể toàn cầu thì Na-pô-lê-ông càng tỏ ra do dự trong việc giải phóng các dân tộc thoát khỏi ách phong kiến (như ở Ba Lan vào năm 1807 - 1812, Na-pô-lê-ông đã giải phóng cho nông dân, song không chia ruộng đất cho họ, như vậy thực tế là vẫn để cho chế độ nông nô tồn tại; ở Nga vào năm 1812), và Na-pô-lê-ông càng tỏ ra ngang ngạnh, kiên quyết bao nhiêu trong việc buộc các dân tộc và các chính phủ phải tuyệt đối phục tùng quyền lực vũ đoán của ông thì châu Âu càng kiên quyết nổi dậy chống lại kẻ áp bức toàn thế giới.
Bởi vậy năm 1813- 1814, không phải chỉ bọn quý tộc cặn bã của giai cấp phong kiến mới thấy rằng con đường thoát duy nhất là vùng ra khỏi ách Na-pô-lê-ông - Giai cấp tư sản ở các nước bị chinh phục cũng khát khao san phẳng những chướng ngại do Na-pô-lê-ông đã đặt ra, kìm hãm sự phát triển của nó. Giai cấp tư sản thấy rõ và không chịu nổi phương thức bóc lột thậm tệ mà Na-pô-lê-ông đã dùng ở những nước ấy để phục vụ quyền lợi độc quyền của giai cấp tư sản Pháp. Đúng là khi cuộc khởi nghĩa giải phóng dân tộc đã cho phép các dân tộc vứt bỏ ách thống trị của Na-pô-lê-ông thì thành quả trực tiếp của thắng lợi ấy đã không rơi vào tay giai cấp tư sản, mà lại rơi vào tay bọn phản động phong kiến tổ chức của giai cấp tư sản ở châu Âu hồi đó.
Chính vì vậy mà vào những năm 1813, 1814, 1815, người ta đã thấy trong hàng ngũ chống lại Na-pô-lê-ông có cả các giai cấp của xã hội châu Âu trước kia đã từng hết lời ca ngợi Na-pô-lê-ông là "vị tổng tài công dân số một" hoặc ít ra thì cũng là "người bảo vệ những tư tưởng tự do của cách mạng" như một số đông người vẫn còn lầm tưởng trong khoảng thời gian từ ngày 18 Tháng Sương mù đến ngày tuyên bố thành lập Đế chế.
Chính sách kinh tế của Na-pô-lê-ông ở các nước bị chinh phục không thể đem lại một kết quả cuối cùng nào khác. Cho đến khi chết, Na-pô-lê-ông cũng vẫn không muốn hiểu điều đó và thực chất cũng không thể hiểu hết được. Tượng hoàng đế bằng đồng đen, đầu đội vòng hoa chiến thắng, một tay cầm gươm báu, một tay cầm quả địa cầu, đứng sừng sững ở trung tâm Pa-ri, trên đỉnh cột Văng-đom đúc bằng đại bác chiến lợi phẩm, dường như làm sống lại một phần con người Na-pô-lê-ông lúc sinh thời đang miệt mài trong giấc mơ cuồng nhiệt: thâu tóm châu Âu và, nếu có thể, cả châu Á và, với bàn tay cũng cương nghị như trong pho tượng, ông ta nắm chặt quả địa cầu. Nhưng nền chuyên chính hoàn cầu đã xụp đổ, và trong sự nghiệp của Na-pô-lê-ông, chỉ còn sống vĩnh viễn những phần nào do sức tác động quyết định của những nguyên nhân sâu xa về kinh tế và xã hội đẻ ra ngay từ trước khi ông lên ngôi. Hình ảnh Na-pô-lê-ông mãi mãi in sâu trong tấm trí loài người; nó gợi cho người này thì bóng của Át-ti-la, Ta-mét-lan, Thành Cát Tư Hãn, người khác thì lại A-lếch-xan, Ma-xe-đoan và Giuyn-Xê-da; nhưng với sự tiến bộ của khoa nghiên cứu lịch sử, hình ảnh ấy luôn luôn hiện ra ngày càng rõ nét trong tính độc đáo có một không hai và trong sự phức tạp kỳ lạ của cá nhân con người ấy.
Hết!