Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 09:11:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trật tự đen  (Đọc 67258 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #100 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 04:30:58 am »

        Anna hắng giọng.

        - Phải thừa nhận, tôi cho rằng hầu hết những lập luận cho thiết kế thông minh đều lầm. Hiểu sai Định luật thứ Hai của Nhiệt động lực học, xây dựng những mẫu thống kê mà lại không trụ được phản biện, hiểu nhầm cách tính tuổi đá qua phóng xạ. Danh sách như thế cứ dài mãi dài mãi. Chẳng thứ gì là xác đáng, nhưng lại tung ra bao nhiêu hỏa mù.

        Lisa gật đầu. Đây là một trong những lý do chính khiến cô quan tâm đến xu hướng hiện tại để trình bày thứ khoa học giả hiệu cùng với tiến hóa trong môn sinh vật học tại các lớp trung học phổ thông. Đây là một vấn đề đa hợp phức tạp đến mức mà một tiến sĩ bình thường về môn đó còn thấy khó huống hồ là một học sinh trung học phổ thông.

        Anna, mặc dầu vẫn chưa lý giải xong ý mình, nói:

        - Nói tất cả thì như vậy, song chỉ còn lại mối quan tâm duy nhất có hiệu lực từ thiết kế thông minh là cần xem xét.

        - Và đó là gì?

        - Tính ngẫu nhiên của cá thể đột biến. Một cơ may theo đúng nghĩa không tạo ra những đột biến có lợi sau một thời gian. Cô có biết đã có bao nhiêu quái thai để có được những đột biến có ích không ?

        Lisa đã nghe lý lẽ này trước rồi. Sự sống tiến hóa quá nhanh không kịp tạo ra cơ hội thuần khiết. Cô không ngả theo quan điểm này.

        - Tiến hóa thực chất không phải là một cơ hội thuần khiết.- Lisa biện minh. - Sự chọn lọc tự nhiên, còn gọi là áp lực của môi trường, gạt bỏ đi những thay đổi bất lợi và chỉ cho phép những cá thể tốt hơn thích nghi và di truyền lại gien của mình.

        - Sống sót của những cá thể tốt nhất?

        - Hay là vừa đủ tốt. Chuyển đổi không nhất thiết phải hòan thiện. Chỉ cần vừa đủ và tạo được lợi thế. Và trong phạm vi rộng của vài trăm triệu năm, những lợi thế và thay đổi dù nhỏ đóng góp vào vẻ đa dạng mà chúng ta thấy ngày nay.

        - Trên hàng triệu năm ư? Công nhận, thực sự là thời gian rất dài, nhưng có đủ dài để cho phép một sự thay đổi tiến hóa diễn ra đầy đủ không? Thế còn những bột phát tiến hóa lúc này lúc nọ thì sao, khi có những thay đổi diễn ra nhanh chóng.

        - Tôi cho rằng chị đang nhắc đến những thay đổi ồ ạt trong kỷ Cambri?

        Lisa hỏi. Đây là một trong những trụ mốc của thiết kế thông minh. Kỷ Cambri hình thành và kết thúc trong một thời gian khá ngắn. Mười lăm triệu năm. Nhưng trong thòi gian này đã bùng nổ rộng khắp bao nhiêu dạng sông mới: bọt biển, ốc sên, sứa, và bọ ba thùy. Cứ như từ trên tròi rơi xuống. Một tốc độ quá nhanh đối vói những nhà phản tiến hóa.

        - Không. Mẫu hóa thạch có rất nhiều bằng chứng cho thấy sự "xuất hiện đột ngột" của những loài không xương sống không đến nỗi đột ngột như vậy. Có rất nhiều bọt biển và đa thể dạng giun trước kỷ Cambri. Ngay cả tính đa dạng của hình dáng trong thời kì này cũng có thể được lý giải qua sự xuất hiện của mã hóa gien Hox.

        - Gien Hox ư?

        - Một tập hợp từ bốn đến sáu gien điều hành xuất hiện trong bộ mã hóa gien ngay trước kỉ Cambri. Đó hóa ra là những công tắc điều khiển sự phát triển của bào thai, xác định cho đâu là phía trên, dưới, trái, phải, đầu và chân, hình cơ thể cơ bản. Ruồi giấm, ếch, con người đều có gien Hox giống hệt nhau. Cô có thể cắt bỏ gien Hox từ con ruồi, và thay thế vào trong ADN của con ếch, nó hoạt động bình thường. Và chính vì những gien này là những công tắc chỉ huy chủ yếu cho việc phát triển của phôi, những thay đổi dù là rất nhỏ tới bất kì một trong những gien này đều có thể tạo ra những hình dạng cơ thể mới lạ hoàn toàn.

        Mặc dù không chắc việc đó sẽ dẫn đến đâu, hiểu biết sâu rộng của ngưòi phụ nữ trong lĩnh vực này khiến Lisa kinh ngạc. Nó thách đố với chính hiểu biết của cô. Nếu Anna là một đồng nghiệp trong hội thảo, Lisa nghĩ, hẳn là cô sẽ rất khoái tranh luận. Thực tế, Lisa phải luôn tự nhủ với mình về người cô đang tiếp chuyện này.

        - Vậy những gien Hox nổi trội trước kỷ Cambri có thể lý giải cho cuộc phát triển ồ ạt của những cá thể ấy. Nhưng mà, - Anna phản công, - Gien Hox không lý giải được cho những thời khắc phát triển mau lẹ khác... gần như là những tiến hóa có tính chủ định.

        - Như là gì?

        Cuộc nói chuyện mỗi lúc một hấp dẫn.

        - Như bướm đốm đen. Cô có biết câu chuyện đó không?

        Lisa gật đầu. Bây giờ Anna đang dùng những lập luận chính từ những chủ đề bên ngoài. Bướm đốm đen sống trên cây gỗ bu-lô và từng có đốm trắng, để hòa mình vào với màụ vỏ cây và tránh bị chim chóc ăn thịt. Nhưng khi mỏ than được mở ra ở vùng Manchester và bồ hóng làm đen những thân cây, lũ bướm trắng trở thành miếng mồi dễ dàng và sẵn có cho chim chóc. Chỉ trong một vài thế hệ, giống bướm này thay đổi màu trắng nổi bật thành một màu đen tuyền, để ngụy trang cùng vói những thân cây đầy bồ hóng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #101 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 04:34:35 am »

        - Nếu đột biến chỉ là ngẫu chiên, - Anna biện luận, - thật ngạc nhiên là màu đen được đem đến. Nếu đơn thuần chỉ là một sự kiện ngẫu nhiên, vậy phải lý giải ra sao với những con bướm màu đỏ, màu xanh lá cây và màu tím? Và cả những con hai đầu thì sao?

        Lisa phải cố gắng lắm mới không trợn tròn mắt.

        - Tôi có thể nói rằng những con bướm màu khác cũng đã bị ăn thịt. Và những con hai đầu chết lụi đi. Song chị đang hiểu sai ví dụ này. Những thay đổi trong sắc màu của những con bướm không phải xuất phát từ đột biến. Loài này đã có hẳn một gien quy định tính trạng màu đen. Vài con màu đen được sinh ra trong mỗi thế hệ, nhưng hầu hết bị ăn thịt, và còn lại số đông màu trắng.Nhưng một khi những thân cây bị đen đi, thì những con bướm đen có lợi thế và nhanh chóng trở thành số đông khi những con trắng bị tiêu diệt. Đấy mói là mục đích của câu chuyện. Môi trường có thể ảnh hưởng đến số lượng loài. Nhưng đó không phải là một sự kiện đột biến. Gien quy định tính trạng màu đen đã có sẵn rồi.

        Anna đang mỉm cười với cô.

        Lisa nhận thấy mình đang bị người phụ nữ kiểm tra kiến thức. Cô ngồi thẳng dậy, vừa cáu và vừa bị chọc tức

        - Tốt lắm. - Anna nói. - Vậy để tôi đưa ra một sự kiện gần đây hơn nhé. Một việc diễn ra trong điều kiện kiểm soát chặt chẽ của phòng thí nghiệm. Một nhà nghiên cứu tạo ra một số lượng khuẩn E.coli, loại không tiêu hóa được đường Lactoza. Sau đó ông rải một số lượng đang phát triển mạnh lên một đĩa chỉ có nguồn ăn là đường Lactoza. Điều gì sẽ diễn ra theo phân tích khoa học?

        Lisa nhún vai.

        - Không hấp thụ được đường Lactoza, vi khuẩn đó sẽ bị chết đói.

        - Và đó là điều đã xảy ra với chín mươi tám phần trăm số lượng vi khuẩn. Nhưng còn hai phần trăm phát triển bình thường. Chúng đã tự đột biến một gien để tiêu hóa đường Lactoza. Chỉ trong một thế hệ. Tôi thấy điều đó thật đáng ngạc nhiên, cô thấy thế không? Điều này đi ngược lại tất cả lý thuyết sác xuất của ngẫu nhiên. Trong số tất cả những gien ADN của một khuẩn E.coli và đột biến hiếm hoi, tại sao hai phần trăm số vi khuẩn đột biến một gien cần thiết để sống? Nó phủ nhận tính ngẫu nhiên.

        Lisa phải công nhận rằng điều đó thật lạ kì.

        - Có thể là do nhiễm khuẩn mới trong phòng thí nghiệm chăng?

        - Thí nghiệm đã được làm lại. Thu được những kết quả tương tự.

        Lisa vẫn còn nghi ngờ.

        - Tôi thấy hồ nghi trong mắt chị. Vậy hãy tìm ở đâu đó một ví dụ khác về bất khả dĩ có ngẫu nhiên và sự sống.

        - Ở đâu vậy?

        - Quay lại sự bắt nguồn của sự sống. Quay về thời kì hỗn độn nguyên thủy. Khi mà quá trình tiến hóa diễn ra lần đầu tiên.

        Lisa nhớ tới chuyện Anna nói lúc trước về việc Cái chuông có thể co giãn trở lại cội nguồn sự sống. Đây có phải là nơi mà Anna đang nhắc tới không? Lisa bứt tai mình thêm chút nữa, sẵn sàng tiếp nhận những gì mình sắp nghe được.

        - Hãy quay ngược lại thời gian. - Anna nói. - Trước cả khi có tế bào đầu tiên. Cô còn nhớ tới nguyên lý của Darwin: những cá thể tồn tại hẳn được tạo thành từ những thể đơn giản, ít phức tạp hơn. Vậy trước khi có tế bào đầu tiên, ở đó có gì? Chúng ta có thể giản lược sự sống đến mức nào để vẫn coi đó là sự sống? Chuỗi ADN có tồn tại không? Chuỗi nhiễm thể thì sao? Cả prôtêin và cả men tiêu hóa nữa? Đâu là ranh giới của hóa học và sự sống?

        - Được rồi, đó là một câu hỏi hay đấy.- Lisa thừa nhận.

        - Thế để tôi hỏi một câu khác. Sự sống sao có thể nhảy vọt từ thể nguyên thủy hỗn độn tới tế bào đầu tiên?

        Lisa biết đáp án cho câu này.

        - Trái đất được hình thành vối khí quyển đầy khí hyđrô, mêtan, và hơi nước. Thêm vào một chút năng lượng, như !à từ tia sét chẳng hạn, sẽ khiến những khí này tạo nên một hợp chất hữu cơ sơ khai. Những chất này sau đấy được hâm nóng trong thể nguyên thủy hỗn độn mà ta đã biết và rồi cuối cùng tạo nên một phân tử có khả năng tự tái tạo.

        - Điều đó đã được chứng minh trong phòng thí nghiệm.

        - Anna đồng ý bằng cách gật đầu. - Một lọ đầy những khí cơ bản đem lại một dạng aminô axít sền sệt, những yêu tố cơ bản của prôtêin.

        - Và sự sống bắt đầu.

        - Ô, cô vội nhảy cóc quá nhỉ. - Anna trêu cợt,- Ta chỉ mới có aminô axít. Yếu tố cơ bản. Làm sao ta lại có thể đi từ một vài ạminô axít đến một prôtêin đầu tiên có khả năng tự tái tạo đầy đủ?

        - Hòa lẫn những aminô axít với nhau và cuối cùng chúng sẽ đính kết lại thành một hợp chất đúng.

        - Bằng cơ hội ngẫu nhiên?

        Gật đầu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #102 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 04:37:11 am »

        - Đó là chúng ta đã tới căn nguyên của vấn đề, thưa bác sĩ Cummings. Tôi có thể thừa nhận với cô rằng thuyết của Darwin có một vai trò chủ chốt sau khi prôtêin với khả năng tự tái tạo đầu tiên được hình thành. Nhưng cô có biết cần bao nhiêu aminô axít nối nhau để hình thành cá thể prôtêin đầu tiên này không ?

        - Không.

        - Ít nhất là cần ba mươi hai aminô axít. Đó là mẫu prôtêin nhỏ nhất có thể tự tái tạo. Mâu prôtêin này hình thànht theo sự ngẫu nhiên có tỷ lệ vô cùng mỏng. Một phần mườỉ lũy thừa bậc bốn mươi mốt.

        Lisa nhún vai khi nghe thấy con số đó. Mặc dù có những cảm xúc khác về người đàn bà này, trong cô bắt đầu hình thành sự kính phục một cách miễn cưỡng.

        - Ta hãy đem tỷ lệ này vào lập luận. - Anna nói. - Nếu cô cho tất cả những chuỗi prôtêin tìm thấy ở tất cả những khu rừng nhiệt đới trên thê giới và hòa tan tất cả vào trong một nhiễm thể aminô axít, Chuỗi ba mươi hai aminô axít vẫn còn chưa chắc chắn đã hình thành. Thực tế, phải mất tới một lượng gấp năm nghìn lần để tạo ra những chuỗi này. Năm ngàn khu rừng nhiệt đối. Vậy ta lại lập luận thế nào từ hỗn thể aminô axít tới cá thể tự tái tạo đầu tiên, dấu hiệu đầu tiên của sự sống?

        Lisa lắc đầu.

        Anna khoanh tay, bằng lòng.

        - Đó là một khoảng trống mà ngay cả Darwin cuối cùng cũng bỏ qua.

        - Nhưng mà, - Lisa phản kháng, không chịu thừa nhận,  để lấp khoảng trống này vói vai trò của Chúa không phải là khoa học. Chỉ vì chúng ta vẫn chưa có câu trả lòi để lấp khoảng trống này, không có nghĩa nhất định cứ phải có nguyên nhân liên quan đến quyền năng siêu nhiên.

        - Tôi không nói đó là siêu nhiên. Và ai bảo rằng tôi không có câu trả lời cho khoảng trống này?

        Lisa há hốc mồm.

        - Câu trả lời nào?

        - Chúng tôi đã khám phá ra vài thập kỉ trước khi nghiên cứu Cái chuông. Điều mà những nhà nghiên cứu hiện giờ mới bắt đầu tìm kiếm một cách nghiêm túc.

        - Điều gì vậy? - Lisa ngồi thẳng dậy, không hề giấu giếm sự thích thú của mình về mọi thứ liên quan đến Cái chuông.

        - Chúng tôi gọi nó là tiến hóa lượng tử.

        Lisa nhớ lại lịch sử của Cái chuông, nghiên cứu của Đức quốc xã về lĩnh vực hạt tiểu nguyên tử kì lạ và rắc rốỉ cùng vật lý lượng tử. - Điều này có liên quan gì đến tiến hóa cơ chứ?

        - Lĩnh vực tiến hóa lượng tử mới mẻ không những đem lại những bằng chứng rõ ràng nhất chứng minh cho thiết kế thông minh. - Anna nói. - Mà nó còn trả lời cho câu hỏi cơ bản là ai đã tạo ra mẫu này.

        - Hẳn chị đang đùa. Ai cơ? Chúa á?

        - Không. - Anna nhìn chằm chằm vào mắt cô.- Chúng ta.

        Trước khi Anna có thể giải thích thêm, chiếc đài cũ có dây nốì qua tường kêu sè sè và rồi ổn định dần, một giọng nói quen thuộc réo lên. Đó là Gunther.

        - Chúng ta đã có dấu vết của kẻ phá hoại, sẵn sàng đi thôi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #103 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 04:42:06 am »


        7 giờ 37 phút sáng

        Bủren, nước Đức.


        Gray lái chiếc BMW quanh một chiếc xe tải cũ trong nông trang. Trong khoang xe chứa chất đầy cỏ khô. Anh sang số năm và phóng qua chỗ quành chữ chi. Lên đỉnh đồi, anh có thể nhìn toàn cảnh về thung lũng trước mặt.

        - Thung lũng Alme. - Monk nói bên cạnh. Cậu ta nắm chặt lấy tay vịn trên cửa xe.

        Gray lái chậm lại, xuống số.

        Monk nhìn anh.

        - Tôi thấy là Rachel hẳn đã cho anh vài buổi học lái xe kiểu Ý.

        - Nhập gia thì...

        - Ta đâu có nhập gia1...

        Rõ ràng là không. Qua dải đất hẹp hiện ra con sông rộng trải dài trước mặt, đồng cỏ xanh rì, rừng cây và cánh đồng canh tác. Bên kia thung lũng, một ngôi làng nhỏ đẹp như tranh vẽ, đông đúc trong khu đất trũng. Những vòm nhà cao lát đá đỏ và những ngôi nhà xây bằng đá, hẹp dần lại vào chính giữa. Những phố nhỏ quanh co.

        Nhưng mọi ánh mắt đều hướng về tòa lâu đài đồ sộ trên phía dải đất bên kia. Nó nép mình vào phía khu rừng, trông xuống ngôi làng. Những ngọn tháp đâm thẳng lên cao với những lá cờ đang tung bay phía trên. Thô kệch và đồ sộ như những tòa nhà khác được kiên cố hóa dọc theo sông Rhine lớn, lâu đài có màu sắc cổ tích huyền ảo, nơi ở của những nàng công chúa có sắc đẹp mê hồn và những chàng hiệp sĩ cưỡi trên những chú bạch mã chiến binh.

        - Nếu ma cà rồng Dracula là kẻ đồng tính. - Monk nói. - Hắn đó là tòa lâu đài của hắn.

        Gray hiểu ý. Chỗ đấy có điều gì đó dường như quái gở, nhưng có thể là do bầu trời nặng mây đang hạ thấp ở hướng bắc. May mắn thì họ có thể đến được vùng đồi thấp của làng trước khi cơn bão kéo đến.

        - Đến đâu bây giờ. - Gray hỏi.

        Tiếng sột soạt từ phía sau vang lên khi Fiona nhìn lại bản đồ. Cô đã làm chủ được bản đồ của Monk và tự cho mình là người chỉ đường vì cô vẫn giấu đích đến.

        Cô vươn mình tới và chỉ vào con sông.

        - Anh phải qua cái cầu đó.

        - Cô chắc chứ?

        - Chắc chắn. Em biết cách đọc bản đồ mà.

        Gray lái xe xuống thung lũng, tránh một hàng dài những người đua xe đạp mặc áo nịt sặc sỡ biểu trưng cho cuộc đua. Anh tăng tốc dọc theo con đường đầy gió tới chân thung lũng và tiến vào vùng ngoại ô ngôi làng.

        Tưởng chừng khung cảnh như của thế kỷ khác. Một ngôi làng cổ kiểu Đức. Mọi nơi hoa tuy- líp mọc đầy những ô cửa sổ, và những mái nhà nhô lên, đỡ bằng hai đầu hồi cao vút. Dọc về những phía rìa, những đường phố rải đá vươn dài từ phố chính. Họ đi qua một quảng trường nơi có dãy tiệm cà phê ngoài trời, cửa hàng bia và bục dàn nhạc trung tâm, nơi Gray chắc chắn rằng tối nào cũng có một ban nhạc Polka đến chơi.

        Họ lăn bánh qua chiếc cầu và chẳng mấy chốc thấy mình lọt vào những cánh đồng và nông trại nhỏ.

        - Rẽ bên trái tới! - Fiona hét lên.

        Gray phải thắng gấp và quay chiếc BMW quanh một khúc quành gấp.

        - Lần sau báo trước một chút nhé.

        Con đường trỏ nên hẹp dần. Hàng rào dóng song song hai bên. Từ nhựa đường chuyển sang sỏi cuội. Chiếc BMW chao đảo trên mặt đất gồ ghề. cỏ dại sớm mọc lên xuyên qua hàng sỏi cuội. Những cánh cửa sắt hiện ra trước mặt, xòe ra ôm lấy con đường nhỏ hẹp, đang mở sẵn chào đón.

        Gray chạy chậm lại.- Ta đang ở đâu thế?

        - Đây là chỗ cần tới. - Fiona nói. - Đây là nơi xuất phát cuốn Kinh thánh của Darvvin. Đồn điền Hirszfeld.

        Gray lách chiếc BMW qua cửa. Mưa bắt đầu trút xuống ào ào từ bầu trời sẫm sịt. Lúc đầu thì còn nhẹ... rồi thoáng sau đổ ầm ầm.

        - Vừa kịp lúc - Monk nói.

        Đằng sau những cánh cửa, một sân trong rộng thênh thang, được đóng khung hai mép bằng chái bên của một ngôi nhà mái rạ vùng quê cổ. Khu nhà chính, thẳng ngay trước mắt, chỉ có hai tầng nhưng mái nhà lợp đá dốc xuống tạo cho nó một chút vẻ uy nghi.

        Một tia chớp rạch một đường khúc khuỷu ngay trên đầu thu hút sự chú ý.

-------------
1. Nguyên văn “Ta đâu có ở Rôma” dịch như trên để tiếp ý câu trước, (người dịch)
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #104 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 04:47:27 am »

        Lâu đài mà họ để ý trước đó mọc ngay trên đỉnh khu rừng cây đằng sau khu điền trang. Nó dường như trùm bóng lên cả dãy nhà mái rạ.

        Này! - Một tiếng gọi vang lên tức thì.

        Gray nhìn lại.

        Một người đi xe đạp lao vọt ra từ bụi mưa và suýt bị ô tô cán phải. Một thanh niên, mặc áo nịt thể thao màu vàng và quần đua xe. Gã dùng lòng bàn tay đập bồm bộp vào mui chiếc BMW.

        - Đi xe phải nhìn đường chứ hả, thằng kia!

        Gã làm mất mặt Gray.

        Fiona đã mở sẵn cửa sau, thò đầu ra ngoài.

        - Đồ điên, biến ngay! Sao mày không nhìn đường mà chạy lông nhông cùng cái quần đùi đàn bà của mày ấy!

        Monk lắc đầu nói:

        - Có vẻ Fiona sắp có đối tượng hẹn hò rồi đây.

        Gray cho xe chạy vào trong khoảng hẹp sát căn nhà chính. Chỉ có một chiếc xe khác, nhưng Gray để ý thấy một hàng những chiếc xe đạp đua và xe đạp leo núi được khóa lại trong giá. Một đám thanh niên nam nữ vấy bùn đang đứng dưới mái hiên, để những chiếc balô bên cạnh họ trên mặt đất. Anh nghe thấy tiếng họ nói chuyện khi vừa tắt máy. Tiếng Tây Ban Nha. Chỗ này hẳn phải là một khu nhà tập thể của thanh niên. Chí ít thì bây giờ đúng như vậy. Anh gần như có thể ngửi thấy mùi hoắc hương và mùi gai dầu.

        Đây có phải đúng nơi cần đến không nhỉ?

        Cứ cho đúng đi thì Gray e rằng không biết mình có tìm được thứ gì đáng giá ở đây hay không. Nhưng họ đã đến đây rồi.

        - Đợi ở đây nhé. - Anh nói. - Monk ở lại với...

        Cửa sau bật mở ra, và Fiona trèo ra ngoài.

        - Lần sau, - Monk nói lúc với tay để mở cửa xe. - Chọn mẫu xe có khóa trẻ em ở ghế sau nhé.

        - Đi nào. - Gray bước ra ngoài sau cô gái.

        Đeo ba lô trên vai, Fiona sải bước tới cửa trước của ngôi nhà chính,

        Anh bắt kịp cô ở bậc thang hướng lên vòm trước và túm lấy khuỷu tay cô.

        - Ta phải đi cùng nhau. Không được bỏ đi.   

        Cô nhìn thẳng lại, giận không kém.

        - Chính xác đấy. Ta phải đi cùng nhau. Không được bỏ đi. Nghĩa là không được bỏ em lại ở máy bay hay trong xe.

        Gỡ khỏi tay anh, cô kéo cửa mỏ ra.

        Một tiếng chuông ngân lên báo hiệu họ đến.

        Một nhân viên thường trực ngước lên từ chỗ quầy tiếp đón được làm bằng gỗ gụ, ngay phía trong cánh cửa. Những cục than hồng trong đám lửa sớm bừng lên trong lò sưởi, xua tan đi cái lạnh rùng mình của buổi sáng. Khu tiền sảnh được lắp ráp bởi những khối xà và lát đá phiên. Tường được trang trí bởi những bức họa cô tịch dường như đã ở đó cả thế kỷ. Nhưng nơi đây đã có dấu hiệu kém bảo dưỡng, vữa tường bong lở, bụi bám trên những thanh xà, thảm lót sàn phai màu và sờn rách. Chỗ này chắc hẳn đã có những lúc khá hơn bây giò.

        Viên thường trực gật đầu tiếp đón. Một gã tráng kiện mặc áo thể thao bóng bầu dục và quần màu xanh lá cây. Trông như một gã sinh viên năm đầu ở trong quảng cáo của Abercrombie&Fitch.

        - Chúc buổi sáng tốt lành. - Viên thường trực chào Gray khi gã bước vào quầy thu tiền.

        Monk liếc nhanh phòng sảnh lúc tiếng sấm vang ầm ầm xuống thung lũng.

        - Chẳng có gì tốt trong buổi sáng nay cả. - Anh lẩm bẩm.

        - Ồ, người Mỹ à. - Viên thường trực nói, khi nghe tiếng phàn nàn của Monk. Có một chút lạnh nhạt trong giọng nói gã.

        Gray đằng hắng ra hiệu.

        - Chúng tôi đang tự hỏi liệu đây có phải là đồn điền Hirszfeld cổ không?

        Mắt của viên phụ trách mở to ra một chút.

        - Đúng rồi, nhưng... Nơi đây trở thành khách sạn Burgschlofi đã được hơn hai thập kỷ. Từ khi bố tôi Johann Hirszfeld thừa kế nơi này.

        Vậy là họ đã đến đúng chỗ. Anh nhìn về phía Fiona, cô bé đang nhíu mày nhìn lại phía anh như hỏi "Gì thế?". Cô đang bận lục lọi chiếc ba lô của mình. Anh cầu khẩn rằng Monk đã đúng: rằng không có lựu đạn sáng trong hành lý của cô.

        Gray quay lại phía viên thường trực.

        - Liệu tôi có thể nói chuyện với cha ngài không?

        - Về việc..? - Sự lạnh lùng trỏ lại, cùng với một sự cảnh giác nào đó.

        Fiona gạt anh sang một bên.

        - Về thứ này.

        Cô bé quăng một cuốn sách trông quen quen lên quầy thu tiền. Đó là cuốn Kinh thánh Darwin.

        Ôi, Chúa...Anh đã cất kỹ cuốn sách này trên máy bay cơ mà.

        Rõ ràng là chưa kỹ lắm.

        - Fiona. - Gray nói với giọng hăm dọa.

        - Của em. - Cô nói lại ngay tức thì.

        Viên thường trực cầm quyển sách lên và lật nhanh xem qua nội dung. Không có vẻ là gã nhận thấy điều gì.

        - Một quyển Kinh thánh à? Chúng tôi không chấp nhận truyền giáo trong khu lưu trú này. - Gã gập sách lại và đẩy quyển sách về hướng Fiona. - vả lại, cha tôi là người Do Thái.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #105 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 04:50:44 am »

        Đằng nào cũng lộ rồi, Gray tiếp lời một cách cụ thể hơn.

        - Quyển Kinh thánh này là của Charles Darwin. Chúng tôi tin nó đã từng là một phần của thư viện gia đình. Chúng tôi tự hỏi liệu có thể hỏi thêm cha ngài vài điều về cuốn sách.

        Viên thường trực nhìn quyển sách với con mắt ít vẻ nhạo báng đi.

        - Thư viện đã được bán đi trước khi cha tôi thừa kế khu này. - Gã chậm rãi nói. - Tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cuốn sách. Nghe láng giềng nói rằng nó đã ở trong thư viện cách đây vài thế kỷ.

        Gã bước vòng qua bàn lễ tân và dẫn đường đi qua chiếc lò sưởi tới một vòm lớn hướng vào một sảnh nhỏ gần kề. Một bức tường được lắp những cửa sổ cao và hẹp, đem đến cảm giác ẩn dật. Bức đối diện có một lò sưởi lạnh tanh, cửa rộng đến mức có thể đi thẳng người vào. Trong căn phòng, những dãy bàn và ghế được kê thẳng hàng. Căn phòng không người, ngoài một bà già mặc áo khoác ngoài đang quét sàn nhà.

        - Nơi đây từng là thư viện cũ và nơi nghiên cứu. Bây giờ nó là sảnh ăn của khu lưu trú. Cha tôi đã từ chối bán đồn điền, nhưng vẫn phải trả thuế. Tôi cho rằng đó là lý do tại sao thư viện được bán nửa thế kỷ trước. Cha tôi phải cho bán đấu giá hầu như hết cả những đồ đạc gốc. Qua mỗi thế hệ, thêm một chút lịch sử bị mất đi.

        - Đáng tiếc. - Gray nói.

        Viên thường trực gật đầu và quay đi.

        - Để tôi vào báo với cha tôi. Để xem ông ấy có muốn nói chuyện với các ngài không.

        Một lúc sau, viên thường trực vẫy chỉ đường và đưa họ tới trước một cánh cửa kép rộng. Gã mở khóa cổng và giữ lấy cánh cửa. Nó dẫn đến tư dinh của đồn điền.

        Viên thường trực tự giới thiệu mình là Ryan Hirszfeld lúc gã đưa mọi người tới phía sau căn nhà và vào trong một ngôi nhà kính trồng thực vật. Những cây dương xỉ trong chậu nhỏ và những cây dứa sặc sỡ xếp hàng trên tường. Những bậc giá được nối đến cạnh cửa sổ, đầy những mẫu thực vật khác nhau, vài mẫu trông như cỏ dại. Ở phía sau, một cây cọ mọc lên, đỉnh lá bó lại quanh trần nhà bằng kính, vài cây dương xỉ đang héo đi trong quên lãng. Không gian gợi lên một cảm giác um tùm, tĩnh mịch, bị bỏ hoang không người chăm sóc. cảm giác này còn tăng thêm với những giọt mưa chảy qua một khe kính vỡ, uốn dòng chảy vào một cái thùng.

        Phòng hướng sáng không hề có tí ánh nắng nào.

        Giữa ngôi nhà kính, một người đàn ông ốm yếu đang ngồi trên chiếc xe lăn, quấn chăn mỏng trên lòng, đang nhìn chằm chằm về phía cuối ngôi nhà. Nước mưa chảy ào ào trên mặt đất, làm cho khung cảnh càng thêm mơ hồ và hư ảo.

        Ryan đến bên người đàn ông, hầu như bẽn lẽn.

        - Thưa cha. Đây là những người có quyển Kinh thánh.

        - Nói tiếng Anh đi, Ryan.. tiếng Anh.

        Ngưòi đàn ông kéo mạnh một bên bánh để quay sang đôi diện với mọi người. Da gã mỏng như tờ giấy. Tiếng nói khò khè. Mắc chứng khí thũng, Gray đoán.

        Ryan, người con, có một vẻ mặt đau khổ. Gray tự hỏi liệu gã có nhận biết được điều đó không.

        - Tôi là Johann Hirszfeld, - người đàn ông nói. - Vậy các anh đến để hỏi về thư viện cũ. Chắc chắn gần đây có rất nhiều người quan tâm đến nó. Không có động tĩnh gì đã vài thập kỷ. Bây giò thì mỗi năm hai lần.

        Gray nhớ lại việc Fiona kể về một người đàn ông đứng tuổi bí ẩn đã ghé vào hiệu sách của bà Grette và lục soát tài liệu của họ. Hắn chắc hẳn đã tìm thấy vận đơn và lần dò đường đến đây.

        - Ryan nói các anh có một trong những quyển sách ở đây.

        - Cuốn Kinh thánh của Darwin.- Gray nói.

        Ông già giơ tay ra. Fiona bước tới và đặt quyển sách vào lòng bàn tay lão. Lão để nó vào lòng.

        - Chưa từng nhìn thấy cuốn này từ khi tôi còn bé. - Gã nói trong tiếng thở khò khè.

        Gã nhìn về phía con trai mình.

        - Được rồi, Ryan. Con nên qua coi bàn thường trực đi.

        Ryan gật đầu, miễn cưỡng bưóc lùi lại, rồi quay đầu và đi ra.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #106 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 04:54:23 am »

        Johann đợi cho tới khi người con trai đóng cánh cửa nhà kính, rồi thở dài, đôi mắt lão lại hướng về quyển Kinh thánh. Lão lật qua bìa trước, tìm cây gia phả gia đình Darwin phía trong.

        - Đây là một trong những tài sản được nâng niu nhất của gia đình tôi. Quyển Kinh thánh là quà tặng tới ông cố nội của tôi vào năm 1901 từ Hội Hoàng gia Anh. ông từng là một nhà thực vật học lỗi lạc hồi đầu thế kỉ.

        Gray nghe thấy giọng sầu muộn của lão.

        - Gia đình tôi có một truyền thống lâu năm về nghiên cứu khoa học và đạt nhiều thành tựu. Không có gì dọc theo nhánh của Herr Darwin, nhưng chúng tôi đã để lại vài dòng ghi chú ở cuối trang. - Mắt lão hướng lại về phía trời mưa và phía cơ ngơi đang sũng nước. - Thời ấy đã qua lâu lắm rồi. Bây giờ tôi chắc rằng người đời biết tới chúng tôi như là những chủ khách sạn thôi.

        - Về Kinh sách. - Gray nói. - Ngài có thể kể cho chúng tôi vài thứ về nó không? Có phải thư viện đã luôn được gìn giữ không?

        - Đúng vậy. Vài cuốn được đem ra phổ biến trong các lĩnh vực khi một hay vài người bà con của tôi ra nước ngoài nghiên cứu. Nhưng cuốn này chỉ có một lần được đem ra khỏi nhà. Tôi chỉ biết vậy vì tôi có mặt ở đây khi nó được trả lại. Được ông nội tôi gửi lại qua đường bưu chính. Khuấy động nháo cả chỗ này lên đấy.

        - Tại sao lại thế?

        - Tôi nghĩ anh sẽ hỏi. Vì thế tôi bảo Ryan ra ngoài. Tốt nhất là nó không biết.

        - Hỏi về cái gì ạ?

        - Ông nội Hugo tôi đã làm việc cho phát xít Đức quốc xã. Và cả cô tôi, Tola nữa. Hai người không rời nhau lúc đó. Tôi biết được sau này, từ những tin đồn khiếm nhã giữa những người bà con, rằng họ theo đuổi một nghiên cứu bí mật nào đó. cả hai từng là những nhà sinh học lỗi lạc đáng được ghi nhận.

        - Nghiên cứu gì vậy? - Monk hỏi.

        - Không ai từng biết, cả hai người, ông nội tôi và cô Tola, qua đời vào cuối cuộc chiến tranh. Nhưng một tháng trước đấy, một chiếc thùng được gửi đến từ chỗ ông tôi. Nó chứa phần thư viện mà ông nội đã đem đi. Có lẽ ông biết mình đã sắp tới ngày tận thế và muốn gìn giữ những quyển sách. Trên thực tế có năm quyển tất cả.

        Lão gõ nhẹ vào cuốn Kinh thánh.

        - Đây là một trong những cuốn đó. Mặc dụ, điểu ông có thể muốn làm với cuốn Kinh thánh này là để dùng như một công cụ nghiên cứu, nhưng không ai có thể nói cho tôi biết.

        - Có thể đó là một mảnh thân thuộc của gia đình chăng? - Fiona nói, giọng nhẹ nhàng.

        Johann dường như cuối cùng cũng nhận ra cô gái trẻ. Lão gật đầu chậm rãi.

        - Có thể lắm. Có lẽ mối quan hệ nào đó đến cha của ông. Một con dấu phê duyệt việc ông làm.

        Lão lắc đầu.

        - Làm việc cho Đức quốc xã. Chuyện làm ăn đáng kinh tởm.

        Gray nhớ lại điều mà Ryan vừa nói.

        - Đợi chút, ông là Người Do Thái, phải không ạ?

        - Đúng thế. Nhưng anh phải biết rằng, bà cố nội của tôi, mẹ của ông nội Hugo, là người Đức, có nguồn gốc gia đình bản địa. Bao gồm cả quan hệ trong Đảng Đức quốc xã. Ngay cả khi cuộc tàn sát người Do Thái của Hitle diễn ra, gia đình tôi được tha bổng. Chúng tôi được liệt vào loại con lai, có huyết thống pha trộn. Đủ có chủng người Đức để thoát khỏi cái chết. Nhưng để chứng minh cho lòng trung thành, ông nội và cô tôi làm việc cho Đức quốc xã. Lúc đó, họ cũng đang lùng kiếm những nhà khoa học như sóc tìm hạt dẻ.

        - Vậy là họ bị ép buộc. - Gray nói.

        Johann nhìn ra phía cơn dông.

        - Thời đó rất phức tạp. Ông nội tôi giữ vài đức tin lạ kì.

        - Như là?

        Johann dường như không nghe thấy câu hỏi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #107 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 05:00:45 am »

        Lão mở cuốn Kinh thánh và lật qua vài trang. Gray nhìn thấy vài dấu mực viết tay. Anh tiến lại gần và chỉ vào một vài dấu nguệch ngoạc vẽ bằng tay.


        - Chúng tôi tự hỏi đây là những thứ gì? - Gray nói.

        - Các anh có biết Hội kín Thule không? - Lão hỏi, dường như không nghe thấy câu hỏi của anh.

        Gray lắc đầu.

        - Họ là một hội kín của những người Đức cực đoan theo chủ nghĩa dân tộc. Ông tôi là một thành viên, được kết nạp khi ông hai mươi hai tuổi. Gia đình mẹ của ông nội có quan hệ với những ngưòi sáng lập hội. Họ rất tin tưởng vào triết học Siêu nhân.

        - Người siêu phàm. Siêu nhân.

        - Đúng. Hội được đặt theo tên của miền đất Thule thần thoại, vài dấu vết còn sót lại của vương quốc Atlantic mất tích, một vùng đất của chủng tộc siêu việt nào đó.

        Monk gây ra một tiếng động lớn.

        - Như tôi đã nói, - Johann thở khó nhọc. - ông nội tôi có vài niềm tin lập dị. Nhưng ông không ở trong số ít lúc bấy giờ. Đặc biệt là ở địa phương này. Chính ở trong những khu rừng này mà những người Đức trong bộ tộc Teuton cổ đã đánh cản những đạo quân La Mã, vạch định rõ ranh giới giữa nước Đức và đế chế La Mã. Hội kín Thule tin rằng những chiến binh Teuton là hậu duệ của chủng tộc siêu việt này.

        Gray hiểu được lời khẩn cầu của câu chuyện huyền thoại. Nếu như những chiến binh Đức thời cổ đại là những siêu nhân, thì hậu duệ của họ- những người Đức đương đại- vẫn mang trong mình những gien di truyền.

        - Đó là bắt nguồn của triết học chủng tộc Aryan.

        - Đức tin của họ là tạp lẫn của nhiều thần thoại và những cạm bẫy ẩn khuất. Tôi chưa bao giờ thấu hiểu được. Nhưng theo gia đình tôi, ông nội có tính hay tò mò một cách khác thường. Luôn luôn tìm hiểu những điều kỳ lạ, nghiên cứu tỉ mỉ những điều bí ẩn của lịch sử. Rảnh rỗi, ông chỉ thích làm cho trí tuệ mình thêm nhạy bén. Bí quyết tăng trí nhớ, trò lắp hình. Luôn luôn chơi trò lắp hình. Sau đó ông khám phá ra những câu chuyện ẩn khuất và đi tìm sự thật đằng sau chúng. Nó trở thành nỗi ám ảnh.

        Khi nói, ông già chú ý tới quyển Kinh thánh, lật nhanh những tranh sách. Cuối cùng, tới cuối quyển sách và tìm thứ gì đó bên trong bìa sau.

        - Lạ thật đấy.

        Lạ thật.

        Gray tiến đến gần hơn, nhìn qua vai của lão.

        -Gì ạ?

        Lão nhấc một ngón tay xương xẩu chỉ vào phía trong tấm bìa. Lật lại phía bìa trước, rồi quay lại bìa sau.

        - Cây gia phả gia đình Darwin. Nó không chỉ được viết ở phía trong bìa trước, mà còn cả ở phía bìa sau nữa. Tôi chỉ là một cậu bé hồi ấy, nhưng tôi nhớ rõ điều đó lắm mà.

        Johann cầm cuốn sách, giơ lên phía bìa sau.

        - Cây gia phả ở đằng sau bị mất rồi.

        - Để tôi xem nào. - Gray lấy lại cuốn sách. Anh kiểm tra phía bên trong của bìa sau kỹ càng hơn. Fiona và Monk đứng ở hai bên.

        Anh rà một ngón tay theo gáy sách, và chăm chú kiểm tra bìa sau.

        - Nhìn này. - Anh nói. - Hình như là ai đó đã cắt rời / trang trắng ỏ cuối quyển Kinh thánh và dán nó vào phía trong của bìa sau. Ngay phía trên của lần dán đầu tiên. - Gray hướng mắt về phía Fiona. - Có phải Grette đã làm thế không?

        - Không thể nào. Bà thà xé rách bức tranh nàng Mona Lisa còn hơn.

        Nếu không phải là bà Grette...

        Gray liếc nhìn Johann.

        - Tôi chắc rằng không ai trong gia đình tôi đã làm thế.

        Thư viện được bán vài năm sau chiến tranh. Sau khi được gửi về đây, tôi không tin rằng có ai đã chạm tới quyển Kinh thánh.

        Còn lại duy nhất Hugo Hirszfeld.

        - Đưa dao cho tôi. - Gray nói và bước tối một chiếc bàn nhỏ.

        Monk với tới ba lô và tháo lôi ra một con dao quân sự Thụy Sĩ. Anh mở ra và đưa cho Gray. Dùng mũi dao, Gray khía lách theo cạnh của tấm bìa cuối, rồi moi lật một góc lên. Tấm bìa dày bị nhấc lên dễ dàng. Chỉ có phía cạnh là dính lại.

        Johann xoay chiếc ghế lăn tới gần họ. Lão phải dùng tay đẩy người lên để nhìn qua phía bên kia mép bàn. Gray không giấu việc anh đang làm. Anh có thể sẽ cần đến sự hợp tác của lão với bất kì thứ gì lộ ra.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #108 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 05:07:17 am »

        Anh cắt bỏ trang trắng và để lộ ra vết dính đầu tiên của tấm bìa. Nửa sau cây gia phả gia đình Darwin được viết gọn gàng trên đó. Johann đã đúng. Nhưng đó không phải là tất cả mọi thứ trên tấm bìa lúc này.

        - Thật khinh khủng. - Johann nói. - Tại sao ông nội lại làm thế? Xóa đi Kinh thánh như vậy?

        Chồng lên cây gia phả, một biểu tượng lạ được viết bằng mực đen trên cả trang giấy, và được ấn sâu vào phía trong của quyển Kinh thánh.


        Cùng một màu mực, một dòng duy nhất tiếng Đức được viết ngay phía dưới.

        Gott, verzeihen mir. (tiếng Đức)

        Gray dịch.

        - Xin Chúa tha thứ cho con.

        Monk chỉ ngón tay vào kí hiệu.

        - Cái gì vậy? -

        - Một chữ Run. - Johann nói, cau mày khó chịu thả mình xuống ghế của lão. - Thêm một điều điên rồ nữa của ông nội.

        Gray hướng về phía gã.

        Johann giải thích.

        - Hội kín Thule tin vào phép lạ kỳ bí của chữ Run. Sức mạnh cổ xưa và những nghi lễ gắn liền với những biểu tượng xứ Bắc Âu. Bởi vì chủ nghĩa Đức quốc xã luôn khắc cốt ghi tâm triết lý siêu nhân của hội kín Thule, họ cũng hấp thụ thuyết thần bí về chữ Run ma thuật.

        Gray chẳng lạ gì biểu tượng của Đức quốc xã và mốì liên quan của nó đến ma thuật, nhưng ở đây điều này có nghĩa là gì?

        - Thế ngài có biết ý nghĩa của biểu tượng này không? - Gray hỏi.

        - Không. Đây không phải là chủ điểm mà người Do Thái gốc Đức chú ý đến. Không chú ý mãi cho đến sau chiến tranh.

        Johann quay chiếc xe lăn lại và nhìn chằm chằm vào cơn bão. Sấm nổ rền, nghe như vừa ồ xa vừa ở gần cùng một lúc.

        - Nhưng tôi biết người có thể giúp anh. Một người phụ trách bảo tàng trên kia.

        Gray gập cuốn Kinh thánh lại và tiếp lời Johann.

        - Bảo tàng gì cơ?

        Một tia chớp ngoằn ngoèo làm sáng rực căn phòng. Johann chỉ tay lên phía trên. Gray nghển cổ nhìn lên. Trong ánh sáng đang mò đi của tia chớp, ẩn nấp sau chiếc rèm mưa, tòa lâu đài đồ sộ hiện ra.

        - Bảo tàng Lịch sử của Hochstifts Paderborn. - Johann nói. - Bảo tàng mở cửa hôm nay. Bên trong lâu đài. - Lâo quắc mắt về phía tòa lâu đài. - Họ sẽ chắc chắn biết biểu tượng có ý nghĩa gì.

        - Sao lại thế? - Gray hỏi.

        Johann nhìn chằm chặp vào anh như nhìn một gã khù khờ.

        - Còn ai biết hơn họ? Đó là lâu đài Wewelsburg.

        Vì Gray không đáp lại, lão tiếp tục vừa thở dài vừa nói.

        - Lâu đài tuyệt vòi của Himmler. Thành trì của đội S.S Đức quốc xã.

        - Vậy ra đó từng là lâu đài của Dracula- ma cà rồng. - Monk lầm bầm.

        Johann tiếp tục nói:

        - Vào thế kỷ mười bảy, những vụ án xử phù thủy được tiến hành ở đó, hàng ngàn phụ nữ bị tra tấn và tử hình. Himmler chỉ làm cho món nợ máu lớn thêm mà thôi. Một nghìn hai trăm người Do Thái từ trại tập trung Niederhagen đã chết trong công trình tu sửa lâu đài này của Himmler. Một chốn bị nguyền rủa. Đáng bị đập nát.

        - Nhưng bảo tàng ở đó. - Gray hỏi, đánh lạc hướng sự giận dữ mỗi lúc một tăng lên của Johann. Hơi thở khò khè của lão có chiều hướng xấu đi. - Chắc họ sẽ biết về ma thuật chữ Run chứ?

        Lão gật đầu.

        - Heinrich Himmler từng là hội viên của Hội kín Thule, ngập mình nghiên cứu học vấn Run. Thực ra, đó là cách mà ông tôi bị đưa đẩy vào tầm chú ý của hắn. Họ đều có một nỗi ám ảnh về ma thuật.

        Gray cảm nhận được hội tụ của những mối liên hệ và sự kiện, tất cả đều tập trung vào Hội kín Thule bí ẩn. Nhưng thế thì sao? Anh cần thêm thông tin nữa. Một chuyến đi tới lâu đài bảo tàng là rất xác đáng.

        Johann lăn chiếc xe tách xa khỏi Gray, ra ý xua anh đi.

        - Chỉ tại những sở thích chung với ông tôi mà Himmler cho gia đình chúng tôi, một gia đình con lai, một lệnh tha bổng. Chúng tôi không phải đến các trại tập trung.

        Nhờ có Himmler.

        Gray thấu hiểu nguyên do làm lão tức giận... và vì sao lão lại bắt con trai mình ra khỏi căn phòng. Đó là một gánh nặng gia đình, tốt nhất không nên để lộ ra. Johann nhìn chằm chằm vào cơn bão.

        Gray thu lại quyển Kinh thánh và vẫy mọi người ra ngoài.

        - Xin cảm ơn. - Anh gọi với lại phía ông già.

        Johann không đáp lại lòi cám ơn, chìm đắm trong quá khứ.

        Gray và đồng đội sớm đi ra và lại ở trên cổng vòm trước. Mưa tiếp tục trút xuống từ bầu trồi tưởng như thấp hơn. Sân trong vắng tanh. Hẳn không có ai lại đạp xe hay đi ô tô nhờ ngày hôm nay.

        - Ta đi thôi. - Gray nói và đi về phía cơn mưa.

        - Một ngày tuyệt vời để đổ dông bão vào một tòa lâu đài. - Monk nhạo báng.

        Khi họ hối hả băng qua sân trong, Gray chú ý thấy một chiếc xe mới đỗ cạnh xe của họ. Không có người. Động cơ bốc khói trong cơn mưa. Hẳn vừa mới đến.

        Một chiếc Mercedes màu tuyết trắng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #109 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2016, 05:15:30 am »


Chương 9

Kẻ phá hoại

        12 giờ 32 phút chiều

        Himalayas


        - Tín hiệu từ đâu đến? - Anna hỏi.

        Người phụ nữ chạy vội vào phòng, đáp lại ngay lập tức cuộc gọi của Gunther. Mụ đã đến đây một mình, kêu rằng Lisa muốn ở lại sau trong thư viện để bám sát phần nghiên cứu. Painter thì cho rằng có thể là Anna vẫn muốn giữ họ tách xa nhau.

        Cũng là để Lisa tách xa khỏi con đường có hại.

        Đặc biệt nếu như họ đang thực sự trên tuyến đường rà bám theo dấu vết của kẻ phá hoại.

        Tựa sát vào màn hình vi tính, Painter xoa xoa đầu ngón tay. Cứ thấy ngứa ngứa phần sau móng. Anh thôi xoa để chỉ vào bản sơ đồ không gian ba chiều của tòa lâu đài.

        - Ước tính tốt nhất là vùng này.

        Painter nói và vỗ tay vào màn hình máy tính. Anh đã ngạc nhiên thấy mức độ trải rộng của tòa lâu đài vào ngọn núi. Nó ăn rỗng ngay qua đỉnh núi. Tín hiệu đến từ phía xa

        - Nhưng đó không phải là điểm mấu chốt. Kẻ phá hoại cần có một tầm ngắm quang đãng để sử dụng điện thoại vệ tinh của hắn.   

        Anna nói dứt khoát:

        - Bãi đậu máy bay ở kia.

        Gunther gật đầu miệng làu bàu.

        Trên màn hình máy tính, dải tín hiệu nhấp nháy đột ngột biến mất

        - Hắn đã kết thúc cuộc gọi. - Painter nói. - Chúng ta phải mau chuyển chỗ.

        Anna quay sang Gunther.

        - Liên lạc với Klaus. Đưa người của hắn chặn bãi đậu máy bay. Làm ngay bây giờ đi.

        Gunther băng mình đến một máy điện thoại mắc trên tường và bắt đầu bấm số. Kế hoạch là tìm kiếm tất cả những ai trong vùng lân cận có tín hiệu, xem ai là chủ nhân một máy điện thoại vệ tinh bất hợp pháp.

        Anna quay lại phía Painter - cảm ơn anh đã giúp đỡ. Chúng tôi sẽ tìm kiếm từ đây.

        - Tôi còn có thể giúp hơn nữa cơ.

        Painter liên tục gõ bàn phím máy tính. Anh ghi nhớ con số xuất hiện trên màn hình, sau đó tách bộ khuyếch đại cầm tay ra khỏi dây nối đất của tòa lâu đài. Anh nói dứt khoát.

        - Nhưng tôi sẽ cần một chiếc điện thoại vệ tinh cầm tay của các vị.

        - Tôi không thể để anh ở đây với một chiếc điện thoại được. - Anna nói, day day thái dương và cau mày. Nhức đầu.

        - Chị không cần để tôi lại. Tôi sẽ đi với chị đến bãi đỗ máy bay.

        Gunther bước tới, nét nhăn nhó thường kỳ trên mặt hằn sâu hơn.

        Anna vẫy tay ra hiệu cho hắn lùi lại

        - Chúng ta không có thời gian để tranh luận.

        Nhưng có gì đó im lặng thoáng qua giữa gã đàn ông to lớn và người em gái hắn. Một tín hiệu cảnh báo với người to đùng này để mắt tói Painter.

        Anna dẫn đường ra.

        Painter đi theo cô, vẫn xoa xoa các ngón tay. Các móng tay anh bắt đầu nóng như đốt. Lần đầu tiên anh để ý kỹ đến chúng, nghĩ rằng chúng sẽ sưng tấy, nhưng thay vào đó, chúng lại trắng nhợt đi quái đản, chẳng còn màu hồng của máu.

        Chứng tê cóng ư?

        Gunther chuyển cho anh một chiếc điện thoại của toà lâu đài, quan sát sự tập trung của Painter và lắc đầu. Hắn giơ một tay ra. Painter không hiểu - rồi để ý thấy người đàn ông này mất móng ở bạ ngón cuối cùng.

        Gunther hạ tay thấp xuống và bước theo Anna.

        Painter tay nắm chặt vào rồi lại buông ra. cảm giác nóng ran không phải do tê. Chứng bệnh lượng tử đang tiến triển. Anh nhớ lại danh mục của Anna về những triệu chứng suy nhược trong đề tài thí nghiệm Cái chuông: mất ngón tay, tai, và các ngón chân. Không khác gì bệnh hủi.

        Bao lâu đây?

        Họ đi về phía sườn núi xa, Painter quan sát kỹ Gunther. Người này đã sống cả cuộc đòi với lưỡi gươm luôn treo trên đầu. Điên khùng theo sau chứng suy nhược kinh niên và thần kinh. Painter nhớ tói một bài của Tập san Điểm tin có nói về tình trạng như thế. Anh không thể phủ nhận rằng nó khiến anh kinh hoàng - suy nhược không đáng lo bằng thất thần.

        Hắn đã phải chịu đựng như vậy bao lâu rồi nhỉ?

        Gunther hẳn đã cảm nhận được suy nghĩ miên man này của Painter

        - Tôi sẽ không để chuyện này xảy ra với Anna đâu nhé. Gunther nói gầm gừ qua hơi thỏ với Painter

        - Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để ngăn chặn.

        Painter tự nhủ rằng họ là anh em. Hiểu ra điều này, Painter mới nhận ra sự giống nhau .thoáng qua giữa hai ngưòi: môi cong cớn, khuôn cằm, và những nếp nhăn giống nhau. Gia đình. Nhưng những điểm giống nhau dừng ở đó. Tóc Anna đen, mắt xanh màu ngọc lục, và khác hẳn với diện mạo trơ tráo của anh trai. Chỉ có Gunther là sinh ra dưới thời Cái chuông, một đứa trẻ chịu hy sinh, một giọt máu mủ, và là đứa con cuối cùng của dòng họ Sonnekõnige.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM