Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:45:11 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa  (Đọc 15233 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #10 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2014, 10:51:06 am »

                                              ĐẠI Sự KÝ

Xác định chính xác tính liên tục của các sự kiện theo thời gian bao giờ cũng cần thiết khi các sự kiện này một số là cũ và nói chung là nhiều. Do vậy, mục đích đơn giản là trình bày và làm sáng tỏ hồ sơ.

Nhưng đối với một vấn đề pháp lý, đại sự ký phải tuân thủ một nhu cầu khác: đó là ghi ngày tháng của một số sự kiện theo cách đặt chúng trong quan hệ với nhau và  xác định sự kiện nào có trưóc. Thực vậy, tính có trưóc của một sự kiện có thể có các hậu quả pháp lý quyết định.

Cuối cùng, đối với môi sự kiện hoặc một nhóm sự kiện, việc xác định ngày tháng chính xác cũng như một trật tự kế tiếp của các sự kiện theo thời gian là cần thiết để có thể chỉ ra được các quy tắc nào của luật quốc tế có thể áp dụng được cho việc đánh giá chúng.

Tuy nhiên còn nhiều khó khăn trong việc xây dựng một đại sự ký.

Để vượt qua những khó khăn đó, trưóc hết cần lưu tâm tói việc phân biệt rõ tác giả của các sự kiện được nêu.

Một số sự kiện đó do các đại diện nhà nưóc tạo ra, nhưng trong những trường hợp phức tạp của việc chia cắt,chồng chéo lên nhau và có tranh chấp các thẩm quyền nhà nưóc thì cần phải có sự chính xác cao trong việc xác minh nhà nưóc liên quan. Các sự kiện khác là các sự kiện của xã hội phát sinh từ các tư nhân hoặc các nhóm dân cư. Chúng có thể có một giá trị nào đó trong việc minh chứng pháp lý, mặc dù chúng không bao giờ có cùng một quyền uy như các sự kiện của nhà nưóc.

Cuối cùng, một thái độ của các quốc gia thứ ba có thể và phải được xem xét đến và do đó cũng được đưa vào đại sự ký.

Đại sự ký này đã được xây dựng xung quanh hai biến cố chủ yếu không chỉ liên quan tói một trong số các bên đối kháng mà còn liên quan tói toàn bộ các quốc gia trong khu vực, đó là: sự xuất hiện chế độ thuộc địa và cuộc Chiến tranh thứ giói thứ hai.

Trước thòi kỳ thuộc địa

Trong thời kỳ này, người ta phân biệt các sự kiện phát hiện không có sự chiếm hữu hoặc chiếm đóng đi theo và các sự kiện chiếm đóng.

Việc biết đến các quần đảo chắc chắn là đã có từ rất lâu. Nó đã được chứng minh bằng rất nhiều ghi chép trong các tác phẩm lịch sử. Nhưng, sự hiểu biết về các quần đảo này - xuất phát từ sự phát hiện của những người đi biển khác nhau - đã được nêu trong các câu chuyện kể lại về những chuyến đi hoặc xuất phát từ các bản đồ, cho tói tận thế kỷ XVIII, sự biết đến này vẫn không có hoạt động nào có hậu quả pháp lý tiếp theo [39].


Những người đánh cá từ các quốc gia láng giềng khác nhau thường xuyên lui tói các đảo này trong hàng thế kỷ.

Những người đi biển có nguồn gốc xa hơn (người Ấn Độ, Ả Rập, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan) đã biết và nói về các đảo này từ lâu.

Trong số đó, có các nhà hàng hải Pháp xuống tàu từ cảng La Rochelle, ngày 7-3-1568, cùng với các nhà bác học dòng Tên, đi Viễn Đông. Họ đã đến Hoàng Sa[40]

Quần đảo trở nên nổi tiếng trong các biên niên sử hàng hải đối với vụ đắm tàu "Amphitrite" dưói thời vua Louis XIV trong khi đi từ nưóc Pháp sang trung Quốc (1698) [41] các văn bản cổ Trung Quốc từ những giai đoạn trưóc thế kỷ XVIII có nhắc tói sự tồn tại của các đảo mà các thủy thủ Trung Quốc đã biết đến từ lâu.

Nhưng cho tói thế kỷ XVIII, dường như không có các sự kiện nổi bật có tác động đến quy chế của các đảo nhỏ này.

Dưói triều Nguyễn, các chúa An Nam vào đầu thế kỷ thứ XVIII đã lập ra một Đội đi khai thác và bảo vệ các đảo này.


 Năm 1816, Hoàng đế Gia Long long trọng khẳng định chủ quyền của các vua An Nam trên các quần đảo.

Triều Minh Mạng nối ngôi Hoàng đế Gia Long tiếp tục theo đuổi sự nghiệp của ông.
-   1833-1834, Chiếu dụ xây dựng bia và lập bản đồ quần đảo.

-   1835-1836, Các công trình trên đảo được tiến hành dưói sự quản lý của nhà vua.

-1848-1849, Quản lý hành chánh các đảo được duy trì,nó có mục đích địa lý nhằm có sự hiểu biết tốt nhất các hải trình. Nó cũng có mục đích tài chính để thu thuế ngư dân trong vùng.

Thời kỳ xâm chiếm thuộc địa của Pháp cho tới cuối chiến tranh thế giới lần thứ hai

Sự thống trị của Pháp được bắt đầu bằng hiệp ưóc đầu tiên về chế độ bảo hộ ký tại Sài Gòn ngày 15-3-1874, được xác nhận bằng hiệp ưóc ấn định dứt khoát chế độ bảo hộ (Hiệp ưóc Patenôtre) ký tại Huế ngày 6-6-1884 và đã mang lại cho nưóc Pháp những thẩm quyền quan trọng trong một số lón lĩnh vực.


Về phương diện ranh giới lãnh thổ, nưóc Pháp thực hiện quyền kiểm soát của mình ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Quân đội Pháp có thể lui tói tất cả các nơi trên lãnh thô của Vương quốc.

Ngày 17-10-1887, liên hiệp Đông Dương được thành lập biến thành một chính quyền thuộc địa, nhất là dưói sự thúc đẩy của Toàn quyền Paul Doumer. Quyền lực cơ bản của Hoàng đế từ nay được chuyển vào tay Khâm sứ.

Các sự kiện liên quan đến quần đảo này hay quần đảo kia trong thời kỳ này là những sự kiện sau:

-   1881-1884. Người Đức tiến hành nghiên cứu có hệ thống tình hình thủy văn của quần đảo Hoàng Sa (như họ đã làm trên toàn bộ biển Trung Hoa) mà không có yêu sách nào về chủ quyền đi theo.

-   Ngày 26-6-1887 , Pháp và Trung Quốc ký kết Công ưóc hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc.

Văn bản này tuyên bố: "Tại Quảng Đông, hai bên đông ý rằng những điểm tranh chấp ở phía Đông và Đông Bắc Móng Cái, ở phía bên kia đường biên giới được quy thuộc vê Trung Quốc. Những hòn đảo nằm ở phía Đông đường kinh tuyến Paris 105°43' Đông, nghĩa là của đường thẳng Bắc - Nam đi qua mũi phía Đông của đảo Tch'a-Kon Ouanchan (Trà Cổ) và tạo thành biên giói, cũng thuộc về Trung Quốc. Các đảo Cô Tô và những hòn đảo khác ở phía Tây kinh tuyến này thuộc vê An nam".

-1895-1896, Hai vụ đắm tàu xảy ra tại quần đảo Hoàng Sa vào những năm đó đã gây ra sự tranh cãi. Đó là vụ đắm tàu Đức "Bellona" và vụ đắm tàu của Nhật "Imegi Maru". Hai chiếc tàu vận chuyển đồng này do các công ty Anh bảo hiểm. Không thể cứu được hàng hóa trên tàu. Hàng hóa bị bỏ lại tại chỗ. Những người đánh cá Trung Quốc đã cưóp lấy hàng hóa, và dùng thuyền buồm và xuồng vận chuyển hàng hóa đến đảo Hải Nam để bán lại cho các chủ tàu thuyền. Các công ty bảo hiểm tìm cách lên án những người phải chịu trách nhiệm, đã thúc đẩy đại diện nưóc Anh tại Bắc Kinh và lãnh sự tại Hoihow phản đối.


Các quan chức Trung Quốc ở địa phương (Tổng đốc Lưỡng Quảng) đã cãi lại bằng cách trút bỏ mọi trách nhiệm với lý do là quần đảo Hoàng Sa, theo họ là các đảo đã bị bỏ rơi, không thuộc về Trung Quốc cũng không thuộc về An Nam, và về hành chính các đảo đó không được sáp nhập vào bất cứ một huyện nào của đảo Hải Nam và không có nhà chức trách đặc biệt nào "phụ trách về an ninh trên các đảo đó" [42].

-1899, Toàn quyền Paul Doumer ra lệnh xây một hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa. Việc nghiên cứu do các cơ quan kỹ thuật của chính quyền thuộc địa tiến hành.Nhưng việc đó không được thực hiện vì thiếu ngân sách [43] .

-Ngày 6-6-1909, Phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng (gồm hai tỉnh của Trung Quốc là Quảng Đông và Quảng Tây) đã phái hai pháo thuyền nhỏ do Thủy sư Đô Đốc Lý Chuẩn chỉ huy, tiến hành một cuộc đô bộ chớp nhoáng (24 giờ) lên vài đảo của Hoàng Sa.

Pháp không có một sự phản kháng nào.

-1920- một công ty của Nhật, Mitsui-Bussan Kaisha, sau khi liên hệ hỏi nhà cầm quyền Pháp đã tiến hành khai thác phốt phác trên một số đảo .

Từ năm 1920, Pháp thực hiện việc kiểm soát trên biển và kiểm soát hải quan đối với quần đảo Hoàng Sa.

-Ngày 30-3-1921, Thống đốc quân sự Quảng Đông cho biết là Chính phủ quân sự Miền Nam đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính quần đảo Hoàng Sa vào  Nhai Huyện (đảo Hải Nam). Nưóc Pháp không phản đối.(Chính phủ Quảng Đông không được chính quyền trung ương Trung Quốc và các cường quốc công nhận).

-   Từ năm 1925, việc nghiên cứu khoa học về quần đảo Hoàng Sa do một phái đoàn đứng đầu là tiến sĩ A.Krempf, Giám đốc Viện Hải Dương học lãnh đạo thực hiện trên tàu lưói kéo De Lanessan. Sau đó tàu hải dương học này lại thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đất của nưóc Pháp.
-   1927, Tổng lãnh sự Nhật Bản, ông Kurosawa, yêu cầu các quan chức Pháp ở Đông Dương cung cấp những thông tin về quy chế lãnh thổ của quần đảo trường Sa.

-Tháng 11 năm 1928, Công ty phốt phát mới của Hoa Kỳ đã xin Thống đốc Nam Kỳ cấp phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa.

-Tháng 7 năm 1927, tàu De Lanessan thăm chính thức quần đảo Trường Sa.

-   Ngày 15 - 6- 1929, Thống đốc Nam Kỳ viết thư cho Đại Tá, Chỉ huy trưởng Hải quân tại Đông Dương, thông báo cho ông ta biết sự mong muốn của Toàn quyền phái một chuyến tàu ra đảo Trường Sa hay Bão Tố, đảo này đã được sáp nhập về mặt hành chính vào tỉnh Bà Rịa (Nam Kỳ).


-Ngày 13-4-1930, Toàn quyền Đông Dương đã phái thông báo hạm La Malicieuse tói quần đảo Trường Sa.Các thành viên của tàu đã kéo quốc kỳ Pháp trên một
điểm cao. Thông cáo ngày 23-9-1930 đã thông báo cho các cường quốc khác về sự chiếm đóng của Pháp trên quần đảo Trường Sa.

-1931, Trung Quốc cho đấu thầu việc khai thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ Pháp đã gửi thông điệp cho công sứ quán Trung Quốc tại Paris  ngày 4-12-1931 về yêu sách các đảo.

-Ngày 29-4-1932, Kháng nghị của Chính phủ Pháp nêu rõ các danh nghĩa lịch sử và các bằng chứng về sự chiếm hữu của An Nam, sau đó là của Pháp. Cùng năm này, Pháp đề nghị đưa vụ tranh chấp này ra các tòa án quốc tế và Trung Quốc đã phản đối đề nghị này.

-Ngày 13-4-1933, một hạm đội nhỏ thuộc các lực lượng Hải quân Pháp ở Viên Đông, dưói sự chỉ huy của Trung tá Hải quân De Lattre rời Sài Gòn đến đảo Trường Sa (gồm thông báo hạm La Malicieuse). Sự chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cô xưa - đó là một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản - Môi đảo  nhận một văn bản, được đóng kín vào trong một cái chai rồi được gắn trong một trụ xi măng xây trên môi đảo tại một điểm ấn định và cố định trên mặt đất, người ta kéo lên lá cờ tam tài và thổi kèn trên từng hòn đảo.

-1933, Theo Nghị định ngày 26-7, Chính phủ Pháp công bố việc chiếm hữu của Hải quân Pháp đối với quần đảo Trường Sa (Từng đảo một được ghi lần lượt). Và
theo Nghị định ngày 21-12 của cùng năm đó, Thống đốc Nam Kỳ J. Krautheimer sáp nhập chính thức quần đảo Trường Sa vào Tỉnh Bà Rịa.

-1937, Kỹ sư trưởng công chính Gauthier, nhân danh chính quyền thuộc địa Pháp, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khả năng xây dựng các công trình biển và hàng không tại quần đảo Hoàng Sa và xây dựng một hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa.

 -1938-1939, Kết quả của chuyến nghiên cứu Gauthier được mở rộng. Pháp phái các đơn vị cảnh vệ tói các đảo.Theo Nghị định ngày 15-6-1938. Jules Brévié, Toàn quyền Đông Dương, (sau khi Hoàng đế Bảo Đại ký dụ chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Nam Ngãi sang tỉnh Thừa Thiên).

-   Ngày 5-5-1939, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié, đã sửa đổi Nghị định trưóc và thành lập hai đại lý trên quần đảo Hoàng Sa. Một tấm bia được dựng lên trên đảo Hoàng Sa (Pattle) vào năm 1938 với dòng chữ "Cộng hòa Pháp - Vương quốc An Nam - Quan đảo Hoàng Sa - 1816 - Đảo Pattle 1938”. Trên quần đảo Hoàng Sa, có một hải đăng,một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến được đặt trên đảo Hoàng Sa. Các công việc đó cũng sẽ được tiến hành đối với quần đảo Trường Sa, trên đảo Ba Bình (Itu Aba).

-1939, Ngày 31-3, Chính phủ Nhật Bản (Bộ Ngoại giao) tuyên bố sự kiểm soát của họ trên quần đảo Trường Sa. Thông báo được chuyển tói Đại Sứ quán Pháp bằng một thông điệp khắng định rằng Nhật Bản là người đầu tiên thám hiểm quần đảo vào năm 1917. Nhật Bản nhận xét là ở đó không có một quyền lực hành chính địa phương nào và cho đó là một tình trạng có hại cho quyền lợi của Nhật Bản.

Ngày 4-4 năm đó, nưóc Pháp đưa ra phản kháng.

Trong số các nưóc thứ ba, phải ghi nhận lập trường của nưóc Anh, đã được xác định trong cuộc tranh luận ngày 5-4 của Hạ Nghị viện. Đại diện Bộ Ngoại giao Anh lúc đó khẳng định “chủ quyền trọn vẹn của nước Pháp”.

 -Ngày 1-12-1943, Thông cáo chung của Hội nghị Tam cường Anh - Mỹ - Trung tại Cairo khắng định ý chí buộc Nhật Bản phải trao trả lại cho Trung Hoa dân quốc các lãnh thô mà Nhật Bản đã ăn cưóp của họ (Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ).

-Ngày 9-3-1945, Đơn vị Đông Dương trên quần đảo Hoàng Sa bị hải quân Nhật bắt làm tù binh. Người Nhật chỉ rút khỏi quần đảo Hoàng Sa vào năm 1946. Họ được một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế ngay từ tháng 5, nhưng đơn vị này chỉ ở đó vài tháng.

Các toán quân của Tưởng Giói Thạch lấy có giải giáp quân đội Nhật Bản đã đổ bộ lên Hoàng Sa vào tháng 11- 1946 và lên một đảo của quần đảo Trường Sa vào tháng 12-1946.

-Ngày 2-8-1945, Tuyên ngôn Postdam.

Thời kỳ sau chiến tranh thế giói thứ hai.


-Ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng. Ngày 19-8, Việt Minh giành được chính quyền ở Hà Nội. Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh được thành lập ngày 22-8. Ngày 25-8 Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, ngày 2-9, Hồ Chí Minh tuyên bố nền độc lập của Việt Nam và lập ra nưóc Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Nưóc Pháp chủ trương giành lại quyền kiểm soát Đông Dương.

-Ngày 28-2-1946, Một Hiệp ưóc Pháp - Trung được ký ở Trùng Khánh cho phép Pháp thay thế quân đội Trung Quốc ở Bắc Kỳ.

Nhưng Chính phủ Hồ Chí Minh ký với các đại diện Pháp các Hiệp định ngày 6-3-1946. Theo Hiệp định, nưóc Pháp công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa, thành viên của Liên hiệp Pháp.

-Việc thi hành các Hiệp định ngày 6-3-1946 gặp vô vàn khó khăn. Từ tháng 12-1946, chiến sự mở rộng ra khắp nơi.

 Nhưng Pháp đã sử dụng con bài một nhà nưóc Việt Nam gọi là "Quốc gia", khuyến khích lập ra một chính phủ Việt Nam thứ hai được hợp thức hóa bởi các Hiệp định ngày 8-3-1949 và các Hiệp định 1954 đã tạo ra sự tồn tại của hai nưóc Việt Nam với việc chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhưng cuộc chiến tranh Việt Nam lại tiếp diễn cho đến khi thống nhất hai nưóc Việt Nam vào năm 1975.

-   Đến 1947, (ngày 7-1, hay 13-1 tùy theo nguồn tin), lợi dụng tình trạng các đảo không có sự chiếm đóng của các nhà chức trách Pháp, Trung Quốc cho quân đội đổ bộ một lần nữa lên đảo Phú Lâm (woody) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ Pháp đã chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp đó là gửi một phân đội lính Pháp và Việt Nam đến đặt một đồn lính ở đảo Hoàng Sa.

-Chính phủ Trung Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ 25-2 đến ngày 4-7-1947 ở  Paris. Tại đây, Chính phủ Trung Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài giải quyết do Pháp đề xuất.

Ngày 1-12-1947, Tưởng Giói Thạch ký một sắc lệnh đặt các tên Trung Quốc cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thô Trung Quốc.


---------------------------
 39   Cuộc tranh luận pháp lý từng điểm một về các danh nghĩa của sự
phát hiện do các bên đưa ra sẽ được trình bày ở chương sau.

40-Lê Thành Khê: Vụ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước pháp luật quốc tế, Viện quốc tế nghiên cứu và sưu tầm ngoại giao,1958.

41    Claudius Madrolle: La qnestion de Hainctm et des Paracels (Vẩn
đề Hải Nam và các đảo Hoàng Sa) Revue Politique Entrangère, 1939

42    . Báo cáo của Toàn quyền Đông Dương gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc
địa, ngày 20-3-1930, phụ lục số 5.
43    (Missing piece)



« Sửa lần cuối: 14 Tháng Bảy, 2014, 11:06:42 am gửi bởi vietkieu_cuuquocquan » Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #11 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2014, 11:03:50 am »

-1948, những sự kiện ở Trung Quốc làm cho người ta chú ý đến tình hình các quần đảo. Việc thiết lập chế độ cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949 đã làm thay đổi rất nhiều môi trường quốc tế của cuộc tranh chấp.

-Tháng 4-1949, Đổng lý văn phòng của Hoàng Đế Bảo Đại, Hoàng thân Bửu Lộc, tại một cuộc họp báo tại Sài Gòn đã công khai khắng định lại các quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa.

-1948, những sự kiện ở Trung Quốc làm cho người ta chú ý đến tình hình các quần đảo. Việc thiết lập chế độ cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949 đã làm thay đổi rất nhiều môi trường quốc tế của cuộc tranh chấp.

-Tháng 4-1949, Đổng lý văn phòng của Hoàng Đế Bảo Đại, Hoàng thân Bửu Lộc, tại một cuộc họp báo tại Sài Gòn đã công khai khắng định lại các quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa.

-Tháng 4-1950, Đồn lính do Trung Hoa dân quốc đặt trên đảo Phú Lâm đã được rút đi. Đơn vị lính Pháp vân được duy trì ở đảo Hoàng Sa. Ngày 14-10, Chính phủ
Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo. Tổng trấn Trung phần đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa. Lúc đó dường như không có một sự có mặt nào về mặt quân sự ở quần đảo Trường Sa.

-1951, Quần đảo Trường Sa trở thành đối tượng của các yêu sách trên lĩnh vực ngoại giao. Tổng thống Philippin, Quirino, đòi các đảo đó cho Philippin (17-5)
với lập luận về tính kế cận. Ngày 24-8, Tân Hoa xã tranh cãi về các quyền của Pháp và những tham vọng của Philippin và những kiên quyết khắng định quyền của Trung Quốc.

Từ mùa hè năm 1951 bắt đầu hình thành bản dự thảo một Hiệp ưóc hòa bình với Nhật Bản. Bản Hiệp ưóc sẽ được ký vào 8-9-1951. Trong đó, điều 2, đoạn 7 nêu:

"Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối vói các quần đảo Paracels và Spratleys".

Được thông báo về bản dự thảo Hiệp ưóc, ngày 15-8- 1951,Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nưóc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chu Ân Lai, ra bản tuyên bố công khai
khẳng định tính lâu đời của các quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo.

-Tháng 9-1951, Hội nghị San Francisco khai mạc. Trung Quốc đã không có mặt.[44]

Ông Gromyko trong buổi họp toàn thể ngày 5-9, đưa ra 13 điểm bô sung. Điểm thứ nhất dự kiến việc Nhật Bản công nhận chủ quyền của cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa “Trên các đảo Paracels và các đảo khác quá về phía Nam". Điểm này đã bị bác bỏ với 48 phiếu trên 3.

Ngày 7-9, Thủ tưóng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của chính phủ Bảo Đại trịnh trọng tuyên bố hai quần đảo thuộc lãnh thô của Việt Nam. Không có đại biểu nào bình luận về bản Tuyên bố này. Không có một sự quy thuộc rõ ràng các đảo được
thực hiện bằng thỏa thuận khi kết thúc hội nghị.

-1952, Trong một cuộc hội thảo tại Hội đồng Liên hiệp Pháp, khi được yêu cầu cho biết ý kiến về Hiệp ưóc hòa bình với Nhật Bản, có nhiều tuyên bố đã được đưa ra, song đôi khi chúng mâu thuân với nhau:

-Ông Nguyễn Khắc Sử, báo cáo viên ủy ban các quan hệ đối ngoại nhận xét rằng Nhật Bản từ bỏ tất cả mọi quyền đối với các quần đảo nhưng trong văn bản đã
chẳng có một chữ nào nói đến sự quy thuộc sau này của chúng. Ông nói thêm

"Nhưng các đảo này đã từ lâu là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi dám hy vọng rằng trong các cuộc thương lượng sau này - trong thời gian không xa lắm,việc trả lại chúng theo luật sẽ được tiên hành với một tinh thần hiểu biết hữu nghị''.

Cũng trong cuộc tranh luận này, ông Gorse nhắc lại việc bản Hiệp ưóc đã loại Nhật Bản ra ngoài các lãnh thô này nhưng lại không giải quyết vấn đề dứt khoát chuyển giao chúng về đâu. Và ông Bửu Kính nhắc lại quyền của Việt Nam sau khi Tổng thống ngoại giao Maurice Shuman đã khắng định:

"Hoàn toàn đúng là các quan đảo Paracels và Spratleys thuộc lãnh thổ của Liên hiệp Pháp".

Người ta thấy có sự mâu thuân sâu sắc giữa các luận điểm này với các điều nói ra ngày hôm sau, ngày 26-3- 1952,   của Maurice Faure, báo cáo viên về luật phê chuẩn Hiệp ưóc, ông ta coi các đảo đó trở thành terra ảereỉictae (đất đai bị bỏ).

-Tháng 10-1955, Tô chức Hàng không dân dụng quốc tế có một cuộc họp ở Manila. Trong Nghị quyết số 24, hình như các nhà chức trách Đài Loan đã được yêu cầu tăng cường các hoạt động quan sát khí tượng trên các đảo ở Nam Sa. Có lẽ đã không có phản đối hay bảo lưu gì (theo nguồn tin của Trung Quốc).

-Tháng 4-1956, Đội quân viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương. Chính quyền Nam Việt Nam đưa các lực lượng vũ trang đến thay thế các đơn vị Pháp ở đảo Hoàng Sa. Nhưng, khi đó Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho quân đổ bộ một cách kín đáo, chiếm bộ phận phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh).

Như vậy, từ năm 1956, quần đảo Hoàng Sa đã bị quân đội của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm đóng ở phía Đông, và quân đội của chính quyền Nam Việt Nam ở phía Tây là bên đã cho xúc tiến ở đó việc nghiên cứu thủy văn và cho phép khai thác phốt phát.

Còn ở Trường Sa, ngày 15-3-1956, Thomas Cloma, một công dân Philippin đã đổ bộ lên một số đảo của quần đảo Trường Sa. Vói danh nghĩa tư nhân, cùng với
một số bạn, ông có ý đồ chiếm hữu một số hòn đảo và đặt tên là "Đất tự do'' bằng lập luận về quyền phát hiện và chiếm cứ. Ngày 15-5, ông ta thông báo cho Bộ trưởng Ngoại giao Philippin.

Ông này, trong một cuộc họp báo ở Manila ngày 19-5, lại dựa vào lập luận kế cận để đưa ra ý kiến về các quyền của Philippin trên quần đảo Trường Sa. Nhưng khi
Thomas Cloma yêu cầu Chính phủ Philippin ban hành quy chế bảo hộ cho bộ máy quản lý mà ông ta dựng lên, người đại diện của Philippin tuyên bố là trừ bảy hòn đảo  với tên gọi quốc tế là Spratleys, thì các thành phần khác của quần đảo đều là res nullius (đất vô chủ).

Ngày 31-5, Chính phủ Bắc Kinh ra một Thông cáo tuyên bố sẽ không dung thứ bất kỳ một sự xâm phạm nào đến các quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
trên quần đảo Trường Sa
.
Nhưng, Đại sứ Đài Loan tại Manila, nhân danh Trung Hoa dân quốc lại khẳng định các quyền của Trung Quốc từ thế kỷ XV. Một đơn vị đồn trú của Trung Hoa dân
quốc đã được gửi đến đảo Ba Bình (Itu Aba) và nó được duy trì từ đó đến nay.

Ngày 1-6-1956, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao chính quyền Nam Việt Nam, Vũ Văn Mân, khắng định lại các quyền của Việt Nam trên hai quần đảo.

Ngày hôm sau, Pháp nhắc lại với Chính phủ Philippin các quyền mà Pháp đã có từ năm 1933.

Ngày 22-8, lực lượng Hải quân Sài Gòn đổ bộ lên đảo chính của quần đảo Trường Sa, dựng một bia và kéo cờ.

Tháng 10 năm đó, Hải quân Đài Loan can thiệp tại chỗ, chống lại Thomas Cloma.

Ngày 22-10-1956, Nghị định (thực ra là sắc lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa - ND) của Việt Nam sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Phưóc Tuy.

Tháng 2-1958, Nhiều dân chài Trung Quốc định đến đóng trên phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa nhưng không thành công.

Ngày 4-9-1958, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra một bản tuyên bố xác định bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý. Bản tuyên bố nói rõ điều khoản này được áp dụng cho các quần đảo.

Bản tin này được công bố ngày 6-9-1958 trên báo Nhân Dân, cơ quan của Ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam. Nó không bị tranh cãi.

Ngày 14-9 cùng năm, Thủ tưóng Chính phủ Việt Nam trong một công hàm gửi Thủ tưóng Trung Quốc đã khẳng định: " Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi
nhận và tán thửởng bản tuyên bô' ngày 4-9-1958 của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định vê hải phận của Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định đó”.

-Ngày 9-5-1965, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa khi phản ứng lại quy định của Chính phủ Mỹ về  "Khu vực tác chiêh" của lực lượng vũ trang Mỹ tại Việt Nam, có thể đã tuyên bố: "Tông thống Mỹ Giônxơn đã ấn định toàn bộ nước Việt Nam và các vùng kê'cận rộng khoảng 100 dặm từ bờ biển Việt Nam trở ra và một bộ phận của vùng biển nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ở quần đảo Tây Sa
là khu vực chiến đấu của lực lượng vũ trang Mỹ "(nguồn tin của Trung Quốc).

-Ngày 13-9-1969, Báo Nhân Dân của Việt Nam có lẽ đã đăng tin sau: "Ngày 10-5, một máy bay quân sự Mỹ đã xâm phạm vùng trời Trung Quốc, trên đảo Vĩnh Hưng và đảo Đông thuộc quần đảo Tây Sa tỉnh Quảng Đông Trung Quốc"(nguồn tin của Trung Quốc).

-Ngày 11-7-1971, Tổng thống Philippin cho biết quân đội Trung hoa dân quốc đã chiếm đóng và củng cố đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa) nhưng ông lại không bày tỏ bất cứ yêu sách nào của Philippin về quần đảo này mặc dù quân lính Philippin đã chiếm đóng trên một số đảo nhỏ. Một thông cáo ngày 13-7 cho thấy đang tiếp diên các cuộc đối thoại giữa Đài Loan và Philippin về vấn đề quần đảo này. Cũng trong ngày đó, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Sài Gòn, Ông Trần Văn Lắm, có mặt ở Manila,nhắc lại yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa làm cơ sở cho yêu sách đó.

Ngày 16-7 cùng năm, Tân Hoa Xã lên án Philippin chiếm đóng một số đảo của quần đảo Trường Sa và  khẳng định các yêu sách của Trung Quốc đối với quần
đảo này.

-1973, Trong khi Hội nghị quốc tế Paris đang diễn ra vào tháng 3-1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền Nam Việt Nam, trong ngày 6-9, đã sửa đổi việc sáp nhập hành chính Trường Sa (từ đây thành một bộ phận của tỉnh Phưóc Tuy) (Nghị định ngày 6-9-1973 sáp nhập các đảo trên quần đảo Trường Sa vào xã Phưóc Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phưóc Tuy - ND)

-Ngày 11-1-1974, Bắc Kinh tuyên bố đó là một việc lấn chiếm lãnh thô Trung Quốc và khắng định lại các yêu sách của Trung Quốc về hai quần đảo.

Ngày 15-1, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho quân đội đổ bộ lên các đảo phía Tây Hoàng Sa cụm Nguyệt Thiềm (Crescent) mà từ trưóc vân do Việt Nam chiếm
đóng, và trong những ngày tiếp theo họ hô trợ hành động trên bằng một cuộc triển khai hải quân mạnh mẽ.

Ngày 18-1, Đại sứ Đài Loan tại Sài Gòn bằng công hàm ngoại giao đã khắng định lại yêu sách của Trung Hoa Dân quốc.

Ngày 19-1 và 20-1, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bắn phá các đảo và cho quân đổ bộ lên sau các trận đánh ác liệt chống lại lực lượng Việt Nam.

Quan sát viên của Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc yêu cầu Hội đồng Bảo an xem xét vấn đề này.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam công bố lập trường của mình cho rằng trưóc sự phức tạp của vấn đề, cần phải xem xét nó trên cơ sở những nguyên tắc bình đắng, tôn trọng lân nhau, hữu nghị và quan hệ láng giềng tốt và giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng.

Lầu Năm Góc, được chính quyền Nam Việt Nam yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài cuộc xung đột.

Qua thông điệp ngoại giao được gửi đến tất cả các nưóc ký các Hiệp định Paris ngày 2-3-1973, chính quyền Nam Việt Nam nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thô
của Việt Nam đã được công nhận. Chính quyền Nam Việt Nam yêu cầu Hội đồng Bảo an họp một phiên đặc biệt.

Ngày 2-7, đoàn đại biểu của Nam Việt Nam ra tuyên bố tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển nhằm khắng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo. Chính quyền Sài Gòn quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, điều đó đã làm cho phía Philippin phản đối.




----------------------

44     Ông Gorse, tại Diễn đàn Hội đồng Liên hiệp Pháp, ngày 23-3-1952, khẳng định (coi là đáng tiếc) việc vắng mặt của Trung Quốc, cả hai phía Trung Quốc, ở Hội nghị này, J.O Hội đồng Liên hiệp Pháp, ngày 25-3-1952, tr.367.
Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #12 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2014, 04:36:05 pm »

- Ngày 5, 6-5-1975 - Hải quân nhân dân Việt Nam giành lại quyền kiểm soát các đảo ở quần đảo Trường Sa từ quân đội Sài Gòn.

- Ngày 10-9, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gửi một công hàm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa nhấn mạnh rằng hai quần đảo luôn luôn là một bộ phận của lãnh thô Trung Quốc.

- Ngày 24-9, nhân cuộc viếng thăm Trung Quốc của một đoàn đại biểu Việt Nam, Đặng Tiểu Bình, Phó thủ tưóng Trung Quốc tuyên bố:
“Vấn đề tất nhiên sẽ được đưa ra thảo luận trong tương lai".

-Ngày 12-5-1977, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về các vấn đề các quyền trên đảo của mình (lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa). Khoản 5 của Tuyên bố ghi các đảo và quần đảo, là bộ phận lãnh thô Việt Nam và nằm ngoài lãnh hải, đều có các vùng biển riêng của chúng.

-Ngày 2-3-1978 , lực lượng vũ trang Philippin chiếm thêm một đảo (đảo Lan Can) ở quần đảo của Trường Sa, ngoài các đảo đã chiếm từ trưóc.

-1979, Trong một sắc lệnh vào tháng 2, Tổng thống Philippin coi gần như toàn bộ quần đảo Trường Sa thuộc  chủ quyền của Philippin (ngoại trừ bản thân đảo Trường Sa).

-1982, Vào tháng 6, Tân Hoa Xã loan tin thành lập một cảng lớn ở Hoàng Sa.

- Ngày 12-11, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Tuyên bố này bao gộp các quyền đảo.

- Ngày 9-12, việc phối hợp về mặt hành chính các quần đảo ở Việt Nam có những thay đổi.

-1983, Ngày 23-2, Malaysia nêu lên vấn đề chủ quyền của Malaysia đối với ba hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Ngày 25-3, Bộ Ngoại giao Việt Nam phản kháng mọi quyền của Malaysia đối với các đảo và đảo nhỏ này.

- Tháng 6 cùng năm, quân đội Malaysia được gửi tói đảo Hoa Lau và tiến hành xây dựng các công trình quan trọng ở đó. Việt Nam đã phản đối hành động này.

-1984, Ngày 2-6, Quốc hội Trung Quốc quyết định thành lập một khu vực hành chính đặc biệt gôm đảo Hải Nam và hai quần đảo. Chính phủ Việt Nam đã phản đối.

-1988, Vào tháng 2, lần đầu tiên Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gửi quân đội tói một số đảo của quần đảo Trường Sa và thể hiện sự có mặt về quân sự ở đó.

- Ngày 14-3, một cuộc va chạm hải quân đã xảy ra xung quanh đảo Gạc Ma, đảo Cô Lin và đảo Lan Đao. Nhiều tàu Việt Nam bị hư hại. Các tàu chiến Trung Quốc đã sử dụng pháo hạng nặng, 74 thủy thủ Việt Nam được coi là mất tích. Và các
tàu Trung Quốc đã ngăn cản các tàu cứu trợ Việt Nam mang dấu hiệu chữ thập đỏ khi triển khai các hoạt động cứu nạn.

Sau các va chạm này, Hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện (Nguồn tin của Việt Nam).

Bên nào cũng phản đối, nhưng từ thời điểm đó mọi việc vân ở trong tình trạng ấy.

Cũng trong năm 1988, vào tháng 4, Chính phủ Philippin đã bầu một thị trưởng cho thị trấn được thiết lập trên các đảo nhỏ ở quần đảo Trường Sa mà họ kiểm soát (Thủ phủ là Thị Tứ), đặt một cơ sở hành chính có tô chức hơn cho yêu sách của họ đối với các đảo.

-Tháng 5-1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ.

- Tháng 8-1989, Việt Nam hoàn thành việc xây dựng một cụm dịch vụ - kinh tế - khoa học kỹ thuật trong quần đảo Trường Sa (Theo Công bố của Chính phủ Việt Nam ngày 4-7-1989, cụm dịch vụ - kinh tế kỹ thuật này được  xây dựng trên thềm lục địa Việt Nam ngoài phạm vi quần đảo Trường Sa - ND).

-Tháng 8-1990, Thủ tưóng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác chung khu vực quần đảo Trường Sa.

-1991, từ 15 đến 18-7, do sáng kiến của Indonexia, một hội nghị quốc tế đã được tổ chức tại Bandung giữa các quốc gia trong khu vực về vấn đề quần đảo Trường Sa. Bản thông cáo cuối cùng khuyến khích đối thoại và đàm phán.

-1992, ngày 25-2, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thông qua luật mới xác định lãnh hải của họ một cách quá rộng, bao gộp luôn các quần đảo, coi như lãnh thổ
Trung Quốc.

- Tháng 5, Trung Quốc cấp cho công ty Mỹ Crestone Energy đặc nhượng thăm dò dầu biển tại Nam Trung Hoa trong khu vực nằm cách bờ biển Việt Nam 300 km, khu vực mà chính phủ Hà Nội yêu sách như vùng đặc quyền về kinh tế của mình.

- Ngày 8-7, Trung Quốc chiếm thêm một số đá ngầm tại quần đảo Trường Sa.

-1994, trong nhiều dịp, Trung Quốc nhắc lại đề nghị của họ gác tranh chấp, cùng khai thác.

Tháng 4-1994, báo chí (Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, ngày 13-10) nói về một cuộc đụng độ trên biển giữa một tàu Trung Quốc đang tiến hành thăm dò địa chấn cho công ty Crestone và các tàu Việt Nam khi họ ra lệnh cho tàu Trung Quốc phải rời khỏi khu vực mà họ coi là thuộc quyền tài phán của Việt Nam. Tàu Trung Quốc có lẽ đã tuân lệnh.

-Ngày 23-6-1994, Quốc hội Việt Nam đã cho phép Chính phủ Hà Nội phê chuẩn Công ưóc của Liên hợp quốc về Luật biển.

- 1995, Ngày 9-2, Philippin phản kháng việc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm một đảo nhỏ ở quần đảo Trường Sa (đá Vành Khăn Panganaban) do Chính phủ
Manila yêu sách, và đã bắt đầu xây dựng chô neo trú cho tàu thuyền tại đó.

-Vào thời điểm này, năm quốc gia cùng chia sẻ sự chiếm cứ thực sự quần đảo Trường Sa, Trung Quốc là nưóc duy nhất chiếm đóng Hoàng Sa từ sau các vụ đụng độ quân sự năm 1974 [45].

Do đó, cần phải tiến hành phân tích pháp lý các yêu sách khác nhau đối với từng quần đảo một.

------------- 
45- Xem bản đồ, phụ lục số 6.
Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #13 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2014, 05:04:37 pm »

Chương II

VIỆC THỤ ĐẮC DANH NGHĨA BAN ĐẦU

Các quy tắc của luật theo thời điểm (droỉt intertemporel) đã được nhắc lại trong Chương I, dân đến việc xác định quan hệ qua lại giữa các thời kỳ lớn của luật pháp quốc tế (và các quy phạm chi phối việc thụ đắc lãnh thô của môi thời kỳ đó) và các sự kiện có liên quan đến các quần đảo này trong thời kỳ đó.

Chúng ta đã nói về cách thức mà một nhà nưóc cho đến nửa cuối thế kỷ XIX có thể thụ đắc chủ quyền trên một đất không có người ở bằng việc phát hiện ra vùng đất đó có kèm theo việc khẳng định chủ quyền của mình[46].

Đối với thời kỳ này, và dưói ánh sáng của quy phạm này sẽ được phân tích và nói rõ trưóc tiên (I), cần phải xem xét kiểm tra việc biết các quần đảo này trong giai
đoạn đầu tiên đã diên ra như thế nào, sự hiểu biết này không kéo theo một sự phát hiện có hiệu lực pháp lý (II).

Sau đó cần phải nghiên cứu các hành vi chủ quyền thật sự được các quốc gia khác nhau đưa ra, bằng chứng liên quan và tính có trưóc của bằng chứng này so với bằng chứng khác (III).

Bằng việc so sánh yêu sách của các bên tranh chấp, sẽ có thể nói có hay không việc tạo thành một danh nghĩa ban đầu có lợi cho bên này hoặc bên kia giữa những bên đối kháng, nghĩa là một trong số các quốc gia có "Một danh nghĩa cao hơn danh nghĩa mà các quốc gia khác có thể đưa ra đôĩ chọi với họ" [47].

Trong các phần II và III, việc phân tích sẽ được tiến hành riêng biệt đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

CÁC QUY PHẠM CỦA LUẬT PHÁP Quốc TÊ VÊ THỤ ĐẮC LÃNH THỔ CHO ĐÊN NỬA CUỐI CỦA THẾ KỶ XIX

Nội dung các quy tắc xem xét ở đây đã được rút ra từ tập quán quốc tế trong suốt nhiều thế kỷ, nhất là từ thời kỳ phát triển của hàng hải và các phát hiện lớn. Có bổ sung thêm một số kết luận của trọng tài hay công trình lý luận, nhưng cho đến khi diễn ra Hội nghị Berlin (1884), nội dung đó không có gì thay đổi lón. Ớ đây, các quy tắc được nêu lại đều là các quy tắc ngày nay được gọi là chung, xuất phát từ một quan niệm rất Châu Âu về các quan hệ quốc tế. Vì vậy, có nên xem xét đặc trưng phổ cập thật sự của chúng hay không, nghĩa là về các quy tắc hiện hành ở các thời điểm liên quan tại các bộ phận khác trên thế giói.

Trong khuôn khổ luật pháp quốc tế có nguồn gốc phương Tây, nếu đề câp đến vấn đề thụ đắc lãnh thổ, thì đó là nhằm vào hoặc một chủ quyền mới được khắng
định ở nơi chưa có một chủ quyền nào, hoặc một chủ quyền bị sửa đổi do sự thay đổi của người có danh nghĩa chủ quyền. Vụ tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa hiện nay hoặc từ nguồn gốc vân thuộc về phạm trù củng cố một chủ quyền mới. Đây chính là vấn đề cần được xem xét ở đây, còn vấn đề khả năng có thể xảy ra một sự thay đổi người có danh nghĩa này sẽ xem xét trong chương sau.

Người ta biết rằng quyền lực nhà nưóc (có chủ quyền) thường là kết quả của mối quan hệ tay ba giữa một chính phủ, một lãnh thô và một cộng đồng dân cư.

Trong các cuộc chinh phục thuộc địa (không kể trường hợp đặc biệt là chế độ bảo hộ), dân chúng bản địa đã không được đếm xỉa tói và lãnh thô được biểu đạt
một cách giả định là res nullius (vật vô chủ), thủ đoạn đó cho phép các cường quốc phương Tây tự đặt mình trong giả thuyết khắng định một chủ quyền mới.

Nhưng trong các trường hợp khác, vấn đề cụ thể lại là terra nullius (vùng đất vô chủ) do trên thực tế không có dân chúng định cư (các cuộc lui tói của một số dân hoạtđộng theo mùa không mang lại tính chất một đất có người ở). Đây là những quy tắc có liên quan đến trường hợp này (hay loạt trường hợp như thế này) cần phải được xác định rõ.

Ớ đây, nguyên tắc chung hiện nay hay đúng hơn là trưóc đây, trong thời gian dài đã được nêu ra ở đây là đối với các lãnh thô không có người ở và cho đến khi đó vẫn còn là lãnh thổ vô chủ, "một yêu sách về chủ quyền được xây dựng không phải dựa trên một chứng thư hay danh nghĩa riêng biệt nào, chẳng hạn như một hiệp ước chuyển nhượng, mà chỉ dựa trên việc thực thi quyền lực liên tục, bao hàm hai thành tô' mà sự tồn tại của mỗi thành tô'đó phải được chứng minh: ý định và ý chí hành động vói tư cách nước có chủ quyền và một vài biểu hiện hay thực hiện thật sự quyền lực đó" [48].

Như vậy, sự tồn tại của hai yếu tố đó phải được chứng minh thì việc thụ đắc chủ quyền mới được chấp nhận theo luật quốc tế. Có những yếu tố cụ thể - vật chất
(le corpus). Chúng là không đủ nếu không có một yếu tố thuộc chủ tâm (Vanimus), nghĩa là ý chí thể hiện rõ ràng tư cách người chủ.


Thế kỷ XIX đã được đánh dấu bởi những quyết định trọng tài quan trọng, qua đó các trọng tài, hay học thuyết với các bình luận về quyết định này, đã làm cho yêu cầu nói trên trở thành tinh tế hơn.
" Việc phát hiện kèm theo một sự khẳng định công khai về chủ quyền chỉ tạo ra một đanh nghĩa sơ khởi (inchoate title) có khả năng gạt những người thứ ba ra khỏi vùng lãnh thổ mà ở đó đanh nghĩa đã được áp đụng trong một khoảng thời gian can thiết nhưng không phải là vô hạn để danh nghĩa đó được phát triển bằng việc chiêm hữu, vì khoảng thời gian đó đủ để người có danh nghĩa bổ sung nó bằng việc chiêm hữu thật sự, làm cho danh nghĩa đó không thể bị thay thế. Để hoàn thiện danh nghĩa, làm cho nó thành đây đủ và chắc chắn, "phải có sự chiêm hữu thật sự kèm theo ý định chiêm lây lãnh thổ đã được phát hiện, có nghĩa là cần phải đặt vùng đất đó thuộc quyền sử dụng của mình và tiên hành các công việc tạo thành một sự xác lập" [49]

Đó là học thuyết đã được đưa ra vào giữa thế kỷ trưóc và đã được xác nhận bằng các án lệ trọng tài và thực tiên ngoại giao [50].


Cũng không thiếu những cách diễn đạt khác về việc phân tích này. Đây là một tóm tắt: "sự phát hiện vào thế kỷ XV được tiêp tục với việc khẳng định công khai chủ quyền trong thế kỷ XVII, đã cung cấp một danh nghĩa sơ khởi mà việc chiêm hữu thật sự hòn đảo, ở thế kỷ XIX, đã làm cho định nghĩa đó trở nên hoàn thiện''
[51]

Như là đã rút ra được hai loại yếu tố xen kẽ: một là yếu tố vật chất: việc phát hiện, sau đó là yếu tố chủ tâm,sự khắng định công khai cần thiết về chủ quyền; và sau hết là sự tăng cường yếu tố vật chất.



---------------
46    Xem Chương I, Tr.33

47   Max Huber, phán quyết vụ đảo Palmas, Tr. 164.

48 -Tòa án quốc tế thường trực : Ý hến tư vẩn về Đông Groenlcmd,
Tuyển tập, 1933, Tr. 45 (lãnh thổ tranh chấp giữa Đan Mạch và Na uy)

49-Engère Ortolan: Các phương pháp thụ đắc tài sản quốc tế, Paris,
1851, tr. 49.

 50-Vụ đảo Aves, Phán quyết ngày 30-6-1965 giữa Hà Lan và Venezuela. A.De la Pradelle et N. Politis, Note doctrinale, Rec.des arbitrages internationaux (ghi chép về học thuyết, Tuyển tập các vụ trọng tài quốc tế), T. II, Tr. 417, 418 . Xem thêm Beatrice orent và  patricia reinsch : chủ quyền trên các đảo ở thái bình dương . tạp chí luật quốc tế mỹ , 1941 , tr. 143 và tiếp theo .

51 -Vụ đảo Pulama - Phán quyết ngày 21-4-1870 giữa Anh và Bồ Đào Nha.

Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #14 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2014, 02:05:04 pm »

Tính vật chất của các sự việc

Như vậy, từ nhũng điều trích dân trên, các sự việc cụ thể có hai loại:

Sự hiểu biết đơn thuần về lãnh thổ

Cũng chẳng có gì nói nhiều về sự gặp gỡ đầu tiên giữa con người với mảnh đất chưa được biết đến. Nó đưa tói một loạt huyền thoại về terra incognita (Vùng đất lạ).

Sự vật thường thô thiển hơn. Ta sẽ có dịp nói lại là tại sao sự lẫn lộn thường xảy ra (và có khi chỉ vì cần thiết cho một mục đích xấu xa) giữa việc biết một lãnh thổ và việc "phát hiện" lãnh thổ đó .

Một lãnh thổ, nhất là đảo hay quần đảo, có thể trong một thời gian rất lâu đã được các thủy thủ lui tói vùng này biết đến hay các nhà địa lý biết đến vì họ muốn mở rộng việc nghiên cứu tói tất cả khu vực bất kể chủ nhân của vùng đất đó là ai, trong khi đó lãnh thổ này không phải là đối tượng của một sự "phát hiện" nào có những hiệu lực pháp lý. Sự phát hiện có hiệu lực pháp lý này chỉ có thể sinh ra từ những sự việc có một bản chất nào đó xuất phát từ những quyền lực cụ thể.

Nhưng giả sử như điều kiện này vốn thuộc chủ tâm (sẽ được nói ở đoạn sau) được đáp ứng đầy đủ, thì cũng vấn đúng là giai đoạn đầu của sự phát hiện phải được tăng cường sau đó.

Khái niệm về việc chiếm hữu

Ớ đây, không nên nhầm lẫn luật pháp của thời kỳ đang xem xét với luật pháp hiện hành từ sau Hội nghị Berlin. Không thể không biết rằng chỉ từ sau năm 1884-1885, đòi hỏi thật sự của việc chiếm cứ mới được đặt ra (điều 35, Định ưóc Berlin) và đòi hỏi đó không có hiệu lực hồi tố, nếu xem xét hiệu lực hồi tố thì sẽ là một sai lầm về luật."Vì rằng đòi hỏi cho việc thủ đắc chủ quyền bằng chiêm hữu một sự chiêm hữu thật sự, không gián đoạn và thường xuyên có nghĩa là áp dụng cho các sự kiện từ thế kỷ XVIII và đâu thế kỷ XIX một nguyên tắc luật chỉ được công bố vào năm 1885 tại Hội nghị Berlin; trong khi các tuyên bô' của Hội nghị này không thể có hiệu lực hồi tô'" [52].


Tuy nhiên, trưóc Định ưóc Berlin, điều đã được yêu cầu và chấp nhận là việc chiếm cứ phải tương ứng một cách cụ thể với những cái không phải là các hành vi tượng trưng: "Chỉ phát hiện không thôi thì không bao giờ tạo được cơ sở đảm bảo cho một yêu sách đối với đất vô chủ (terra nullius)''....

Những lễ nghi tượng trưng thường được bổ sung bằng một sô 'hoạt động thực thi quyền lực hành chính nào đó, chẳng hạn như qua việc cấp giây phép hay bằng việc cho các công dân tư nhân sinh sống tại đó” [53].


Còn có cả vấn đề quan hệ pháp lý giữa các quốc gia.

''Ớ thế kỷ XIX, khi đại bộ phận các phần trên trái đất đã thuộc chủ quyên của các quốc gia thành viên của Cộng đông các quốc gia, các lãnh thổ vô chủ đã trở nên tương đôĩ hiêm, luật pháp quốc tê' đề cao một xu hướng đã tồn tại và đặc biệt phát triển từ giữa thế kỷ XVIII và đã định ra nguyên tắc là việc chiêm hữu để có thể có quyền về chủ quyền lãnh thổ thì phải có hiệu lực, nghĩa là có một sô' bảo đảm cho các quốc gia khác và các công dân của họ"[54] .

Người ta nhận thấy:

-Một mặt, mức độ thật sự của việc chiếm hữu cần có trong thời kỳ này không có sự chặt chẽ và quy mô mà cơ chế Berlin sẽ đòi hỏi với sự chiếm hữu sau này: "Chủ quyền lãnh thổ đã có thể thụ đắc trong quá khứ vói những điêu kiện mà ngày nay không còn đây đủ nữa” . [55]

-Mặt khác, đối với mọi thời kỳ đều cần phải làm cho đòi hỏi về tính thật sự (bất kể trình độ pháp lý đã đạt được như thế nào) thích ứng với hoàn cảnh tại chô và với địa hình của lãnh thổ. . .''Một yêu sách chủ quyền xây dựng trên việc thực thi quyền lực liên tục bao gôm hai thành tố mà sự tồn tại của mỗi thành tô' đó phải được chứng minh: ý định và ý chí hành động vói tư cách nước có chủ quyền và vài biểu hiện hay việc thực thi thật sự quyền lực đó”.


Quả thật, Tòa án thường trực thừa nhận rằng, trong trường hợp các yêu sách chủ quyền trên các lãnh thổ nằm trong các mĩên thưa dân hoặc không có người ở, không phải lúc nào cũng can thiết phải đòi "nhĩêu biểu hiện của việc thực thi các quyền chủ quyền khi không có một sự cạnh tranh nào'' [56 ]

Yếu tô chủ tâm

Như vậy, tiếp theo việc phát hiện đơn giản (trong hệ thống luật theo thời điểm nêu ra ở đây) phải là các hành vi chiếm hữu đáp ứng sự bắt buộc phải có sự chiếm hữu thật sự.

Các hành vi này chỉ có thể đưa lại sự thụ đắc các quyền có thể đối kháng với các quốc gia thứ ba, với điều kiện chúng đã được thực hiện với ý định của bên có chủ quyền (animus).

Trên cơ sở đó, các hành động do các tư nhân thực hiện và không có được một sự tiếp sức tức khắc của các nhà chức trách đã bị gạt ra ngoài lập luận này.
Cuộc tranh luận về vấn đề này đã có từ lâu. Nó diễn ra giữa các bên trong vụ đảo Aves (Hà Lan chống lại Venezuela).

 Trọng tài đã kết luận "cho rằng nêu như đúng là các cư dân ở Saiĩĩt-Eustache (đất thuộc Hà Lan), đến đánh bắt rùa và thu nhặt trứng ở đảo Aves, thì sự việc đó không thể coi là chỗ dựa cho quyền làm chủ ở đây, vì nó chỉ là một sự chiêm đóng hòn đảo nhất thời và hạn chế, vì đây không phải là một đặc quyền mà là hậu quả của việc từ bỏ không đánh bắt của các dân cư vùng lân cận hay của người chủ chính thức của đảo" [57].

Yếu tố chủ tâm nảy sinh từ chính ngay bản chất của một số sự việc hoặc từ tư cách của người làm các sự việc đó.

Vấn đề này là trung tâm điểm trong vụ Minquiers và Écréhous giữa Pháp và Anh.
Trong vụ này, chẳng hạn tòa án đã xem xét đến việc các tòa án ở Jersey đã thực hiện tài phán hình sự đối với Écréhous như thế nào, thu các thuế địa phương của Jersey đối với các nhà hay túp lều đã được những người dân Jersey xây dựng trên các đảo écréhous, những dân chài sống và hành nghề ở Écréhous đã đăng ký tàu bè đánh cá ở cảng Jersey, các hợp đồng bán nhà trên các đảo
nhỏ của Écréhous đã được chuyển sang Jersey và đăng  ký vào sổ trưóc bạ của đảo này . Các sự kiện này đã góp phần chứng minh sự khắng định về chủ quyền của Anh.

Ngược lại, một số sự kiện mà Pháp đưa ra như đặt cọc tiêu xung quanh đá ngầm của nhóm đảo này "đã không thể được coi là chứng cứ đây đủ về ý định của chính phủ này thực thi vói tư cách người có chủ quyền trên các đảo nhỏ này"  [58 ].

Như vậy, điều mà Tòa yêu cầu, đó là các hành vi có bản chất có thể xem chúng như các biểu hiện quyền lực nhà nưóc riêng biệt trên lãnh thô liên quan.

Cuối cùng, yếu tố chủ quan “animus”, khác với các sự kiện vật chất, không tự mất đi do thiếu các sự kiện vật chất, đó là một yếu tố quan trọng của chế độ pháp lý có giá trị cho tói cuối thế kỷ XIX. Một lãnh thổ chỉ bị bỏ bởi người chủ của nó (và do đó không thể bị người khác yêu sách) đều thiếu cả hai yếu tố góp phần tạo nên chủ quyền. “Theo luật quốc tế, một lãnh thổ bị bỏ (đerelictio) là kết quả của hai yêu tô': trên phương diện vật chất, đó là sự vắng mặc của một sự quản lý thật sự trên lãnh thổ này; và trên phương diện tâm lý, đó là ý định bỏ lãnh thô đó" [59].

Quy tắc này đã cũ nhưng vẫn còn có hiệu lực. Người ta thấy nó được ghi và sử dụng trong nhiều vụ trọng tài.

'Tử các tiền đề này có thể rút ra kêt luận rằng đảo Clipperton đã thuộc nước Pháp một cách hợp pháp từ ngày 17-11-1858. Không có một lý đo nào để cho rằng Pháp sau đó đã mất quyền của họ do đã bỏ (đerelictio), bởi vì họ chưa bao giờ có ý định (animus) từ bỏ đảo và việc họ đã không thực thi chủ quyền của
họ ở đây một cách tích cực không bao hàm việc từ bỏ một sự thụ đắc đã hoàn thiện đứt khoát"
[60] .

Hoặc là: Để chống lại các danh nghĩa thì việc này không thật sự chiêm hữu đảo không chứng minh gì cả, bởi vì để mất chủ quyền, việc bỏ sự hưởng thụ không đủ mà còn can phải từ bỏ chủ tâm chiếm hữu (animus possiđenđi).[61]

Tình trạng luật pháp cho đến 1884 là như vậy. Danh nghĩa chủ quyền chỉ có thể sinh ra từ sự kết hợp mật thiết giữa việc phát hiện có chiếm hữu thật sự đi theo ý chí hành động với tư cách người có chủ quyền.

Do đó, hai yếu tố bổ sung cho quy phạm này là: Việc chiếm hữu thật sự phải được đánh giá tùy theo hiện trường; sự gián đoạn các biểu hiện vật chất tự nó không làm gián đoạn chủ quyền nếu như không có một sự từ bỏ chủ quyền rõ ràng nào.

Liệu tổng thể các quy phạm này vào thời kỳ đang xem xét ở đây (đến cuối thế kỷ XIX) có cùng một giá trị ở mọi nơi không? Có lẽ ở Châu Á, khái niệm trừu tượng về lãnh thổ của một quốc gia ít gắn bó với một sự xác định về không gian của các thẩm quyền hợp pháp hơn là với sự trung thành của các thần dân và sự tô chức xã hội, những yếu tố không thể áp dụng đối với các lãnh thổ khôngngười ở [63]. Tính đặc thù này cần được tính đến trong phân tích.


Chúng ta sẽ xem xét, trưóc hết thời kỳ kéo dài đến thế kỷ XVIII và được đặc trưng bởi sự hiểu biết giản đơn các đảo, sau đó là thời kỳ xuất hiện sự khẳng định chủ quyền bắt đầu từ thế kỷ XVIII.

-------------------

 52   P.Fauchille:Quộc xung đột về ranh giới giữa Braxin và Anh. Tạp
chí tổng quan về công pháp quốc tế (RGDIP), Paris, 1905, tr. 135.

 53   Bétrice Orent và Pauline Reinsch: Chủ quyền trên các đảo trong
Thái Bình Dương, American Journal of International Law (Tạp chí luật quốc tế Mv), 1941, Tr.443 và tiếp theo.

54   Max Huber: Phán quyết về vụ đảo Palmas. RGDIP, 1932, tr. 172
 
55   Paul Reuter: Công pháp quốc tế, Paris, PUF, 1968, tr. 117.

56    Tòa án pháp lý quốc tế - Tư vấn pháp lý liên quan về vấn đề
Sahara, Tuyển tập 1975, tr.42.

57  A de la Pradelle và N.Politis: Tuyển tập các phán quyết trọng tài
quốc tế, Paris, Pédone, t. II, 1923, tr.414.

58    Xem: Tòa án pháp lý quốc tế, Tuyển tập, 1953, tr.65 Sđd, tr.71
 
59   Gérard Cohen-Jonathan: Các đảo Falkland (Manduines), Niên giám
luật quốc tế Pháp (AFDI), CNRS, Paris, 1972, tr. 238.
 
60   Vụ đảo Clipperton, Phán quyết của vua Victor Emmanuel, Tạp chí
khoa học hành chánh, Paris, T. VII, Tr. 1110 và 1111.

61    Vụ đảo Aves, Hà Lan - Venezuela ngày 30-3-1865, Tuyển tập các
phán quyết trọng tài, t.II, tr. 406.

62  Xem Van Dyke và Bennett: Islands and the delimitation oỷocean
space in the South Chim Sea, (Các đảo và việc phân định biển trong biển Nam Trung Hoa) Phát biểu tại Hội nghị Bali (Indonesia) về vấn đề dầu khí ở biển Nam Trung Hoa ngày 13-3- 1989, in roneo tr.11.


Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #15 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2014, 02:43:02 pm »

Như dân chài Việt Nam đều luôn hoạt động đánh cá tại đó. Vì các điều kiện khí hậu (nóng như thiêu đốt vào một số mùa và sự hoạt động của bão) đã không có dấu vết của việc chiếm hữu thường xuyên trưóc khi thiết lập các đồn binh gần đây nhờ có hậu cần quân đội.

Trưóc hết, việc xem xét tài liệu cho phép nhận xét rằng trong thời kỳ đầu và kéo dài, hai quần đảo không được vẽ riêng rẽ. Trung Quốc cũng như Việt Nam dường
như cho rằng các chỉ dân thường liên quan đến toàn bộ các đảo.

Tuy nhiên, từ một số tư liệu của Việt Nam có thể phân biệt hai quần đảo khá chính xác. về điểm này, các  tham khảo do Trung Quốc đưa ra không thật chính xác.

Để hiểu được tình trạng lẫn lộn kéo dài này phải xét về mặt lịch sử. Các nhà hàng hải trong khu vực cũng như các nhà hàng hải đầu tiên của phương Tây (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan) đều nghĩ rằng vùng biển này chỉ có một quần đảo.Người Châu Âu gọi nó là Paracel,người Việt Nam gọi là Hoàng Sa, người Trung Quốc đặt cho nó rất nhiều tên. Thật ra, đặc tính khắc nghiệt của vùng biển từng nổi tiếng nguy hiểm này đã không khuyến khích những cuộc khảo sát ở khu vực này.

Vào thế kỷ XVIII, đoàn thám hiểm Pháp của Kergariou-Locmaria (1787-1788) đã tiến hành một cuộc khảo sát chính xác hơn để phân biệt một quần đảo vẫn
giữ tên là Paracels với "một sổ "lớn các đảo chưa từng được ghi trên bất cứ bản đồ nào, dù cũ hay mói" [63]. Do vậy, các bản đồ về sau đã chỉ rõ sự tồn tại của một quần đảo rất rộng nằm riêng biệt xa hơn về phía Nam tói 500km và gọi là
Spratleys, người Việt Nam gọi là Trường Sa và sau này người Trung Quốc gọi là Nam Sa. Ớ đây cũng cần phải nói thêm là trong hàng thế kỷ, dù biển Nam Trung Hoa đã được biết rõ, nhưng biển này nổi tiếng nguy hiểm do có nhiều đảo, bãi cạn và đá ngầm nằm rải rác khắp phần trung tâm khiến những người đi biển lúc nào cũng sử dụng tuyến đường hàng hải chạy dọc bở biển Việt Nam theo hưóng đi Singapore hoặc đi vịnh Thái Lan. Kết quả là hiểu biết về Trường Sa kém Hoàng Sa và các quần đảo này đối với các thủy thủ Trung Quốc vẫn là“các cửa của nước Champa" [64].

Các tài liệu do người Trung Quốc đưa ra

Lập luận của Trung Quốc được thể hiện trong các tài liệu của Bộ Ngoại giao nưóc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa công bố hoặc trong các ấn phẩm có nguồn gốc từ Chính phủ Trung Quốc như Tập bản tin Trung Quốc học hoặc từ các công trình khác của nhà nghiên cứu Trung Quốc. Có thể tìm thấy ở đây những lời khắng định khá chung chung kiểu như: "Một sô' lớn các sách lịch sử và các tài liệu cũng như rất nhiêu các di vật khảo cổ khai quật được đêu chứng minh rõ rằng các đảo Tây Sa và Nam Sa từ lâu đời đã là lãnh thổ của Trung Quốc”65]

Trong khi các lời khắng định là chính xác hơn thì các luận cứ đi theo hưóng của một sự hiểu biết mà các nhà hàng hải Trung Quốc dường như đã có được từ lâu đời về sự tồn tại của các quần đảo này lại bị pha trộn vào những lời quả quyết về chủ quyền của Trung Quốc .[66]


Nhận biết địa lý

Trong vài tài liệu của Trung Quốc, các đoạn trích từ các sách địa lý được đem ra để làm điểm tựa cho danh nghĩa của Trung Quốc đối với các đảo. Đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó, nhưng đây lại là các tác phẩm mô tả về các nưóc nằm ngoài Trung Quốc. Do vậy, chúng không có một giá trị chứng thực.

Giống như tất cả các nhà địa lý thu thập các thông tin phổ biến, các nhà địa lý và nhà chép sử Trung Quốc đã quan tâm mô tả về các lãnh thô nhưng việc mô tả đó không có hiệu lực để đặt chúng dưói chủ quyền của Trung Quốc.

1. Các tác phẩm đó chỉ được xếp vào số các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ích gì cho lập luật pháp lý:

-   Nam Châu dị vật chí (Những vật lạ ở phương Nam) của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưói thời triều Hán Vũ Đế. Đó là cuốn sách hưóng dân hàng hải trong biển Nam Trung Hoa. Chúng ta đọc thấy có đoạn mô tả nưóc thì nông và có nhiều "từ thạch''. Thuật ngữ thơ mộng này chắc chỉ là các đã và bãi cát, nhưng lại rất không chính xác để có thể dựa vào hình ảnh đó xác minh được quần đảo này và- hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp. Vả lại chính người Trung Quốc cũng thừa nhận là các đảo này đã có "vô sô' tên gọi hình tượng và sinh động''. Từ đó có sự hoài nghi của các tác giả không phải là người Trung Quốc về  việc cuốn sách đó lại có liên quan tói Paracels hay Spratley .[67]

-   Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ ghi trên nhận ra rằng người ta gặp trong Trướng Hải các đảo san hô, với nền là đá tảng, san hô mọc trên đó. Trong tạp chí Window số 9-1993 phát hành tại Hồng Kông có đăng một bài nghiên cứu của Phan Thạch Anh, chuyên gia của Hội Nghiên cứu quốc tế và chiến lược Bắc Kinh,có trích dân tài liệu rất chung chung này của Khang Thái
có niên đại từ những thế kỷ đầu sau công nguyên. Tác giả cho rằng đấy là mô tả các đảo Spratlys, thế nhưng đoạn trích không đưa ra được một mức độ chính xác đủ để khắng định việc xác minh này.

-   Dị vật chí của Dương Phù (đời Đông Hán, 25-220 sau CN) nói về những "điêu lạ" của các xứ nưóc ngoài.

-   Lĩnh ngoại đại pháp của Chu Khứ Phi (đời Tống,1178), Chư phiên chí (ghi chú về nưóc ngoài) của Triệu Nhữ Quát (đời Tống.1225). Đảo đi chí lược (mô tả chung các đảo) của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo (ghi chép về các biển Đông và biển Tây) của Trương Nhiếp (1618). Vũ bị chí (về bảy chuyên đi của Trịnh Hòa), 1405-1433 trong các biển Nam và Ấn Độ  Dương) của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải ngoại quốc vãn kiên lục (các điều tai nghe mắt thấy về các nưóc hải ngoại) (viết dưói đời Thanh). Hải lục (ghi chép về các chuyên đi biển) của Vương Bình Nam cùng thời kỳ (1820), Hải quốc đô chí (ghi chép về các nưóc ngoài và về hàng hải) của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược (Tổng quan địa lý hoàn cầu) của Bành Ôn Chương (1848) tạo thành một tập hợp các tác phẩm liên quân đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hàng hải liên quan tói các nưóc bên ngoài Trung Quốc. Một số là tác phẩm của chính những người đi biển hoặc các đại sứ Trung Quốc ở nưóc ngoài viết. Số khác như Đông Tây dương khảo kể lại những điều "văn kiên” (nghe và thấy), tác giả đã giải thích rằng ông đã áp dụng phương pháp hỏi những người từ phương xa trở về, thủy thủ hoặc các nhà thám hiểm, đôi khi chỉ gặp họ trên các bến cảng.

Phần lớn các sách ghi chép trên đều nói tói các đảo với rất nhiều tên gọi khác nhau, làm cho mọi xác minh không được chắc chắn. Đôi khi, cũng có một số chỉ dân về khoảng cách tính từ bờ biển. Chúng không phải lúc nào cũng được xác nhận đó đúng là các đảo Paracels, còn ít hơn nữa đối với các đảo Spratleys ở cách xa bờ biển Trung Quốc hơn rất nhiều.


Ví dụ, trong Đông Tây dương khảo nêu trên, có nói đến các đảo nằm cách huyện Văn Xương 100 dặm (50km), điều này không thể phù hợp về mặt địa lý với Paracels nằm cách đảo Hải Nam về phía Đông Nam tói 200km.Tên của các đảo rất khác nhau tùy theo sự tưởng tượng.Cửu Nhũ Loa Châu, Vạn Lý Thạch Đường, Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường, Thất Châu Dương, Thất Châu Sơn. Thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ khăng khăng cho rằng đó chính là Paracels hoặc có lẽ là Spratleys (đôi khi chính họ lại là cho rằng địa danh Vạn Lý Thạch Đường chỉ bốn quần đảo, có nghĩa là chỉ tất cả các đảo trong biển Nam Trung Hoa) hoặc khi họ rút ra từ đó kết luận về một danh nghĩa của Trung Quốc trong khi các tài liệu trên như cuốn Hải ngữ của Hoàng Trung, đời Minh (1536) lại ghi đó là các bãi cát nổi của các nưóc Man Di phía Tây-Nam, như vậy là nhấn mạnh tói tính chất ngoại quốc của các lãnh thổ này đối với Trung Quốc. Đôi khi, khắng định theo đó có lẽ tài liệu đã nói về Spratleys lại không khỏi làm sửng sốt, khi đoạn văn này lại được minh họa thêm bởi chú thích đề cập tói Paracels và xác minh rõ chúng nằm ở vĩ độ 17°10' Bắc. Đây đúng là một sự lẫn lộn nghiêm trọng ,[68]điều này tránh khỏi mọi sự mập mờ với Spratleys, nhưng chính nó đã đánh tan luận cứ này.

Sự không chắc chắn về các ý muốn của Trung Quốc

Có một số tài liệu Trung Quốc hoặc các công trình của một số tác giả về vấn đề này đã đề cập tói một số tư liệu chính xác hơn [[69].

Có những ví dụ mà người Trung Quốc đưa ra nhằm chứng minh cho một hành vi chủ quyền là việc học khắng định dưói thời Bắc Tống (thế kỷ X-XII), đã có các cuộc tuần tra quân sự được tổ chức xuất phát từ Quảng Đông đi tói tận Paracels. Vũ Kinh Tổng Yếu (Chương trình chung về quân sự có lời đề tựa của vua Tống Nhân Tông) có nói đến việc đi tuần tói các đảo đó. Nhưng đoạn trích được sử dụng kém chứng giải một khi nó được đặt trong bối cảnh của nó, vì hình như đó không phải là các cuộc tuần tra các vùng đất có thể là của Trung Quốc mà chỉ là một cuộc hành trình dò địa lý cho tói tận Ân Độ Dương.

Như vậy, ở đây xác nhận Trung Quốc có biết đến quần đảo Paracels, nhưng không minh chứng một sự chiếm hữu nào.

Cũng như vậy, vào thế kỷ XIII, việc một Hoàng đế nhà Nguyên say mê thiên văn, đã ra lệnh cho một nhà thiên văn học nổi tiếng là Quách Từ Kính đo đạc thiên văn mà một số quan điểm quan trắc đã được thực hiện từ Paracels, cũng không phải là một việc làm có giá trị chứng minh. Các quan trắc đã được tiến hành một phần trên lãnh thô Trung Quốc và phần khác ngoài lãnh thổ đó, việc một số quan trắc được thực hiện trên các đảo không đủ để cung cấp một bằng chứng về chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc đối với các đảo này.

Để chứng minh, các tác giả Trung Quốc còn dựa trên một sự kiện khác từ thế kỷ XIII (1293) và được ghi trong Nguyên sử, theo đó một cuộc viên chinh do Sử Bật dân đầu đi đánh Gia Va. Đội quân khoảng 5000 người đi thuyền vượt biển nhằm phía Nam và đã đến đóng trại trên một số đảo. Nhưng tài liệu này không cho phép xác minh rõ đường đi, cũng như các đảo đã gặp. Hơn nữa, tài liệu không thật xác đáng về việc làm chủ các vùng lãnh thô này vì nó không đưa ra được bằng chứng. Vả lại, các nhà bình luận vân còn tự hỏi liệu các đảo được  nói đến này có phải là bãi ngầm Macclesfield (Trung Sa) không? [70].

Sự do dự về điểm này được biện minh rõ hơn khi chúng ta đặt nó vào bối cảnh lịch sử hàng hải của khu vực này của thế giới. Các hải trình được ưu tiên lựa chọn là các tuyến đường ven biển cho phép ghé nghỉ, buôn bán và giao tiếp, vì trong khoảng thời gian dài trưóc đây giao thông hàng hải chưa đủ đảm bảo an toàn để tránh các vụ đắm tàu trong các vùng bãi cạn nửa nổi nửa chìm nguy hiểm như trong các vùng biển của quần đảo này.

Người Trung Quốc còn sử dụng một số các báo cáo khảo cổ để bảo vệ rằng có lẽ trên đảo Hoàng Sa đã từng có một ngôi miếu mà ngày nay đã bị phá hủy, vì thế họ không trực tiếp nhìn thấy nhưng nó đã có thể là một di  tích của Trung Quốc. Không thể có một kiểm chứng khoa học nào về khắng định này.

Cuối cùng, các tư liệu Trung Quốc nói đến một cuộc tuần biển muộn hơn bởi vì nó diên ra trong khoảng các năm 1710 và 1712 dưói triều Thanh, Ngô Thăng, Phó tưóng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi tuần biển và hành trình này được nếu với một lời bình luận theo đó Thất Châu Dương (vùng biển bảy đảo) là nơi cuộc tuần biển đi qua tương ứng với các vùng biển Paracels. Tuy nhiên, nếu thử dõi theo hành trình này trên bản đồ, chúng ta không thể không nhận xét rằng đó là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tói các biển xa. Đoạn văn nêu: "Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm". Quỳnh Châu là thủ phủ của Bắc đảo Hải Nam, Đồng Cô là một núi ở mũi Đông Bắc, Thất Châu Dương chỉ nhóm đảo  Thất Châu và Tứ Canh Sa là một bãi cát ở phía Tây đảo Hải Nam.

Ớ đây không có gì đi theo hưóng nói rằng đã có một sự kiểm soát các quần đảo. Nó thiếu các dấu hiệu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi. Từ thế kỷ XVI và XVII đã có sự phân biệt giữa phát hiện thám sát (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find), và năm 1523 (18-12) vua Charles V đã sử dụng phân biện này trong các chỉ thị mà ông đưa ra cho Đại sứ Juan de Zunigo, nhắc nhở ông này rằng một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Quốc vương Bồ Đào  Nha gặp trên đường đi của họ thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thô đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu [71]


--------------------------------------------
63    Đoạn trích từ bức thư ngày 28-4-1788 của chỉ huy tàu Kekgariou-
Locmaria (Tâu Calypso). Lưu trữ quốc gia của Hải quân. B.4.278.Phụ lục 7.
 
64      Marwyn, s.Samuels: Tranh chấp biển Nam Trung Hoa, Mathuen, New
York, London, 1982, tr. 23-24.

65   Bản tin Trung Quốc học, năm 1988, số 7, ngày 20-4-1988.
    
66    Bản tin Trung Quốc học, năm 1988, sô 8, đã đăng lại tài liệu của Bộ
Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 30-1-1980 có tên: "Chủ quỳên không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với các đảo Tây Sa và Nam Sa".

67  Xem Marwyn s.Samuels: Tranh chấp biển Nam Trung Hoa, Mathuen,New York, London, 1982, trang 10.

68 Chu Kiện: Các biên giới của Trung Quôc, Luận án Tiến sĩ trường Đạihọc Paris X, 1991, tr.330. Tác giả khẳng định "Năm 1873, Quách Tông Đào, đại sứ đầu tiên của Trung Quốc được cử sang Tây phương,trong các nhật ký hành trình của ông đã nhắc đến các đảo Nam Sa (Spratleys) thuộc về Trung Quốc". Theo ghi chú số 18 thì đoạn trích trên nói về Paracels và có chỉ rõ vĩ độ của nó, điều này tránh khỏi mọi sự mập mờ với Spratleys, nhưng chính nó đã đánh tan luận cứ này.

69 Xem Tao Cheng: The dispute over the South China sea Island (Tranh chấp các đảo ở Nam Trung Hoa), Texas International Law Journal, 1975, tr.232.

70  Đây là quan điểm của Greennevelt, người dịch Sử Bật truyện, theo ông, từ Thất Châu (vùng biên có bảy đảo) là chỉ Paracels và Vạn Lý Thạch Đường để chỉ các bãi Macclesfield (Trung Sa). Nhưng Pierre Yves Manguin trong một cuốn sách do Viện Viễn Đông Bác Cổ xuất bản (Những người Bồ Đào Nha trên bờ biển Việt Nam và Champa,Paris, 1972) đã không chia sẽ với quan điểm của Greennevelt và nghĩ rằng Thất Châu chỉ là Taya và Vạn Lý Thạch Đường chỉ Paracels. Về  sự không xác định được các đảo được nhắc đến trong các chuyện kể này thuộc giai đoạn từ thế kỷ XIII, xem M.S.Samuels: Tranh chấp biển nam Trung Hoa, tr.18 và 19 và ông kết luận: "Mặc dù, sự tiếp xúc với biển tăng đáng kể trong thế kỷ 14, và mặc dù hải quân nhà Nguyên có sức mạnh, các đảo trong biên Nam Trung Hoa rõ ràng không được nhập vào Thiên triều hoặc các nước chư hầu", tr.20

71  Friedrich. A.F. Von Der Heydte: Phát hiện, sáp nhập tượng trưng và nguyên tắc thật sự trong luật pháp quốc tế, Tạp chí Luật quốc tế Mỹ,1935, tr.449 và tiếp theo.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Bảy, 2014, 02:53:31 pm gửi bởi vietkieu_cuuquocquan » Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #16 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2014, 09:05:15 am »

Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuân bởi chính các nguồn tư liệu khác của Trung Quốc. Thật vậy, có nhiều tài liệu địa lý cô mô tả và phân định rõ lãnh thổ của đế chế Trung Hoa. Khá trùng hợp nhau, các mô tả này đều định rõ lãnh thô Trung Hoa có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam.

Theo hưóng này, trong số các cuốn sách ở thế kỷ XII,rồi thế kỷ XVII và XVIII, trong đó các cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731, cuốn sách dâng nộp vua Thanh năm thứ 9 đời Văn Chính (1731). Bản đồ tình Quảng Đông không nói gì đến hai quần đảo.

Như vậy, qua việc xem xét kỹ lưỡng các tư liệu do người Trung Quốc nếu ra thì thấy rằng các tài liệu tham khảo này chứng minh sự hiểu biết từ lâu về sự hiện diện của nhiều đảo nhỏ nằm rải rác đó đây trong biển Nam Trung Hoa. Nhưng, chúng không cho phép đi xa hơn và không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng Trung Quốc có lẽ là nưóc đầu tiên phát hiện, khai phá,khai thác vàquản hạt hai quần đảo này .(72)


Câu chuyện cũ năm 1754, các thủy thủ Việt Nam bị đắm thuyền gần quần đảo Hoàng Sa và trôi dạt tói bờ biển Trung Quốc, sau khi nhà chức trách Trung Quốc
điều tra và đưa họ về quê hương mà không có sự phản kháng nào của Trung quốc, dân tói ý nghĩ rằng lập luận này không có cơ sở . (73)

Đúng là do những nguyên nhân liên quan tói việc bành trướng thương mại của mình, Trung Quốc đã tiến hành, qua các triều đại của Trung Quốc cho đến thế kỷ XV, một chính sách biển tương đối tích cực. Vì thế các sách Trung Quốc có thể đã nói tói các đảo cho dù chúng không đưa ra được các luận cứ có tính chất thuyết phục cho lời khắng định một danh nghĩa chủ quyền của Trung Quốc.


Ngược lại, từ thế kỷ XV... "sự hiện điện của Trung Quốc và việc kiểm soát các tuyên đường hàng hải trên biển Nam Trung Hoa đã rơi vào ký ức”. Do vậy, có lý do để ngạc nhiên khi có rất nhiều tác giả từng viết về đề tài này trong các ấn phẩm khác nhau thường kết luận về tính vững vàng của danh nghĩa lịch sử từ rất lâu đời của Trung Quốc. Nhưng cũng có nhận xét rằng "phần lớn các nghiên cứu đêu được tiên hành bởi các Hoa kiêu hải ngoại,những người không nhất thiết thoái khỏi sự thiên vị khi lựa chọn các thông tin để xem xét; các luận cứ của Chính phủ Nam Việt Nam thường hay bị gạt bỏ mà không được xem xét thật kỹ càng" .(74)


Một số tài liệu nghiên cứu tinh tế hơn đã đưa ra ý tưởng cho rằng qua các giai đoạn lịch sử này, Trung Quốc có lẽ mới chỉ đạt được một inchoate title (danh nghĩa sơ khởi) nghĩa là một danh nghĩa đang hình thành. Trong luật quốc tế, khái niệm này được chấp nhận. Còn phải dựa trên các cơ sở thực tế đầy đủ.

Vào thế kỷ XIX, khi Mehico yêu sách chống lại đòi hỏi của Pháp rằng đảo clipperton đã thuộc họ từ trưóc khi Pháp thể hiện các quyền ở đó, trọng tài được chọn để giải quyết vụ án đã không tìm ra quyền nào có thể đã được hình thành trên đảo này bởi các nhà hàng hải Tây Ban Nha: "Nói rằng họ đã biêỉ đến các đảo này trước khi nhật ký hàng hải của các tàu Pháp La Princesse và La Découverte năm 1711 xác định và mô tả hòn đảo, là một sự phỏng đoán ít nhĩêu có thể có, nhưng từ đó không thể rút ra bất kỳ luận cứ nào có tính quyết định''. Và trọng tài nói tiếp: "bằng chứng về một quyền lịch sử của Mehico không dựa vào bất kỳ một biểu hiện chủ quyền nào của họ đối vói đảo này" .(75)

Đó là kết luận cho phép gạt bỏ những lời khắng định rườm rà trong nhiều sách hay bài viết khi xem xét các yếu tố được đưa ra để ủng hộ một danh nghĩa lâu đời có lợi cho Trung Quốc. Liệu trong giai đoạn đầu này (đang được xem xét cho
tói thế kỷ XVIII) còn có những biểu hiện có thể có nào của các dân tộc khác quan tâm đến các quần đảo này hay không?

Các tài liệu do người Việt Nam đưa ra
Các tài liệu này cũng khẳng định sự hiểu biết từ lâu đời đến hai quần đảo. Sự hiểu biết này đã chuyển hóa thành sự chiếm hữu thực sự từ thế kỷ XVIII.

Sự hiếm hoi các tài liệu chính thức của Việt Nam là do phần lớn chúng đã bị cưóp đi, đốt cháy hay phá hủy trong suốt các cuộc chiến tranh từ xa xưa, cho nên nay không thể đi ngược lên xa hơn.

Từ những tài liệu hiện có (ít nhất là được nhắc tói) thấy được, giống như trong các sách Trung Quốc, các đảo và quần đảo đã được đề cập từ rất lâu đời. Như các bản đồ có lẽ được lập từ cuối thế kỷ XV (thời vua Lê Trang Tông) và có nói đến quần đảo Hoàng Sa đã được Viện Nghiên cứu lịch sử in lại (Hồng Đức bản đồ- Sài Gòn,1962, tr 218), tấm bản đồ như vậy cũng có trong các tập Hồng Đức bản đồ được lưu trữ tại Nhật Bản có niên đại từ thế kỷ XVII.

Những dấu vết đầu tiên khẳng định về một quyền đã xuất hiện trong cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, điều này đánh dấu niên đại của những dấu hiệu pháp lý chắc chắn đầu tiên từ thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm của nhà bách khoa với chức vụ Hiệp trấn, các quần đảo đã được mô tả (phải đi ba ngày đêm mới đến được, các quần đảo đã được xác định khá chính xác) và nói đến hoạt động khai thác có tổ chức của các chúa An Nam. Người ra tìm thấy ở đây bản kê khai các tài nguyên thu lượm được việc khai thác này sau khi đã tham khảo các sổ đăng ký của nhà Chúa có ghi ngày: "Tổ/ từng tra khảo sô' biên của cai đội Thuyên Đức Hầu ngày trước như sau:

-Năm Nhâm Ngọ (1702), Đội Hoàng Sa thu lượm được 30 thỏi bạc.
-Năm Giáp Thân (1704), thu lượm được 5.100 tân thiếc.
-Năm ất Dậu (1705), thu lượm được 126 thỏi bạc. Còn từ năm Kỷ Sửu (1709) đêh năm Quý Tỵ (1713), tức là trong khoảng 5 năm, thỉnh thoảng họ cũng lượm được mấy cân đồi mồi và hải sâm.Cũng có lần chỉ lượm được mấy cái bátsànhvà hai khẩu súng đồng""
(76). Cũng tác giả này đã thuật lại những sự kiện trưóc kia đã từng được các nhà sử học biết đến như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan và thủy binh của các chúa Nguyễn 1643-1644. Các sự kiện này chứng tỏ các chúa An Nam đã có một lực lượng hải quân có hiệu quả và rất chú ý tói việc kiểm soát trên biển. Điều này liệu có đưa đến việc nghĩ rằng việc khai thác có tổ chức có lẽ đã có từ lâu mà các cuốn sô ghi chép chính xác nàykhông nói đến? Không thể bảo vệ điều này vì không có đủ các bằng chứng trưóc đó.

Ngược lại, từ đầu thế kỷ XVIII, các bằng chứng về việc cai quản của chúa An Nam đã được xác lập tốt. Như vậy, khi ông Le Fol, Khâm sứ Pháp tại Trung Kỳ viết cho Toàn quyền Đông Dương ngày 22-1-1929, “quần đảo (Paracels) dường như vẫn còn là res nullius (đất vô chủ) cho đến đầu thế kỷ trước" và cho biết trong văn kiện này các chỉ dân về hành vi cai quản các đảo được các triều đại trưóc đây thực hiện từ đầu thế kỷ XIX, luận điểm này là của một con người đang đảm nhiệm chức vụ trong một miền của Việt Nam trực tiếp liên quan đến khía cạnh lịch sử của các vấn đề đó, chắc hắn là dựa trên sự hiểu biết nhất định về các hồ sơ. Tuy nhiên, ông ta không biết đủ để xác định ngày tháng của các hành vi cai quản của An Nam với tất cả các mức độ chính xác mà việc xem xét đầy đủ hồ sơ cho phép .

Đặt mình vào thế kỷ XVIII, người ta có thể bảo vệ được rằng cho tói thời điểm đó, sự tồn tại của các đảo Paracels đã được biết đến một cách rộng rãi, rằng Trung Quốc không thể viện dân bất kỳ sự chiếm hữu nào phù hợp với các tiêu chuẩn đã được nêu ở trên, rằng cuốn sách của Lê Quý Đôn ở Việt Nam là tư liệu đầu tiên nêu lên các hành vi tương ứng với một sự quản lý nhất định quần đảo, đó là sự quản lý có niên đại từ những năm đầu của thế kỷ XVIII.

Đối với các đảo Trường Sa, sự tồn tại của chúng chắc chắn đã được biết đến cho dù còn chưa xác lập rõ sự khác biệt của chúng với quần đảo Hoàng Sa (trong xác tài liệu được tiếp xúc). Không có gì cho phép khẳng định rằng Trung Quốc đã chiếm hữu các đảo này. Việc quản lý các đảo Trường Sa (Spratleys) đồng thời với các đảo Paracels  của các chúa Nguyễn từ thế kỷ XVIII là một giả thuyết có thể thừa nhận. Trong hồ sơ không có dấu hiệu về mối quan tâm của Indonesia, Malaisia hay của Philippin đối với quần đảo này trong thời kỳ đó.

----------------------------------
 72   Bản tin Trung Quốc học, năm 1988, số 8, tr.5
 73   Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, q.2
 74    Lỗ Chí Kiên: Lập trường của Trung Quốc về các lãnh thổ tranh chấp,
trường hợp các đảo ở biển Nam Trung Hoa, London, Rontledge, 1989,tr.14

75     Quyết định Trọng tài về đảo Clipperton, Tuyển  tập các quyết định trọng tài, t.VII, tr.1109

76   Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục








« Sửa lần cuối: 17 Tháng Bảy, 2014, 09:14:41 am gửi bởi vietkieu_cuuquocquan » Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #17 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2014, 09:31:07 am »

VIỆC KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYÊN (THÊ KỶ XVIII-XIX)

Phần trên đã đưa ra ánh sáng sự hiện diện của một yếu tố đầu tiên. Nó xuất xứ từ một tài liệu năm 1776 (Phủ biên tạp lục), trong đó tác giả- khi đó đảm nhiệm
chức vụ Hiệp trấn hai tỉnh, đã kể lại, có sử dụng các báo cáo có từ đầu thế kỷ XVIII, rằng các chúa Nguyên đã thành lập ra đội Hoàng Sa, đi tói các đảo vào tháng hai âm lịch và từ đó trở về vào tháng tám âm lịch, để khai thác các sản vật biển và thu lượm hàng hóa từ các tàu bị đắm.

Ớ đây cần phải nghiêm túc liệu dấu hiệu này tiếp sau đó có được khẳng định không, liệu lúc đó có tạo nên được một quyền trên các đảo có thể đối khác với các quốc gia khác không và phạm vi của nó đến đâu, cuối cùng liệu các quyền cạnh tranh có được thể hiện hay không?

Các tài liệu Việt Nam thế kỷ XVIII và XIX Chúng rất nhiều, nói chung là ăn khớp với nhau và được bổ sung bằng các ghi chép của nưóc ngoài đáng tin cậy và theo chiều hưóng khắng định một danh nghĩa chủ quyền.

Nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý Việt Nam chỉ rõ các quần đảo như một bộ phận của Việt Nam, cụ thể là:

Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774
Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838
Đại Nam Nhất Thống chí, 1882 .(77)

Sự quản lý thật sự các quần đảo xuất hiện trong nhiều tài liệu khác có sẵn tại Việt Nam. Những tài liệu quan trọng nhất là:

Đại Nam thực lục viết từ 1821, Đại Nam thực lục tiền biên, liên quan đến thời kỳ 1600-1775 và Đại Nam thực lục chính biên về thời kỳ sau;

Đại Nam nhất thống chí viết từ 1865-1882;
Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, 1843-1851

Cũng như một số báo cáo tại cơ quan lưu trữ ở thành phố Hồ Chí Minh.

Một số tài liệu này mang dấu ấn của nhà vua hoặc có những lời phê bằng mực son, chứng tỏ đó là bút tích của nhà vua. Từ đó có thể thấy với độ chính xác cao rằng các hoàng đế Việt Nam đã luôn theo đuổi việc tổ chức (đã được nói đến trong cuốn sách năm 1776) một đội khai thác kinh tế biển và thăm dò các quần đảo. Các biện pháp này thuộc một chính sách quốc gia chú trọng tói các lợi ích biển.

Do sự khắc nghiệt của khí hậu nhiệt đói, các đảo nhỏ không thích hợp cho nông nghiệp. Một số đảo có phân chim bao phủ nhưng việc sử dụng nguồn phân này chỉ bắt đầu từ thế kỷ 20. Các nhà biên niên sử của thế kỷ XIX cho biết các tài nguyên là hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, ba ba và các hàng hóa đồ vật của các tàu bị đắm (Đại Nam nhất thống chí).

Ngay từ đầu thế kỷ XVIII, các chúa Nguyên đã thành lập các đội đi biển có tính nhà nưóc. Tô chức và hoạt động của chúng đã được mô tả chi tiết trong cuốn sách của Lê Quý Đôn năm 1776. Các đội này có nhiệm vụ đặc biệt, một số để thu lượm các hải sản tại các đảo gần bờ, số khác để thu lượm các đồ vật hoặc các hóa vật từ các xác tàu đắm trên các đảo ngoài khơi.

Lê Quý Đôn còn mô tả các hóa vật thu lượm được như súng trường, kiếm, đại bác, vàng, bạc, chì, thiếc, ngà voi, đồ sứ, vải len, vải bố, sáp ong...Ông cũng mô tả các đội có nhiệm vụ đo đạc hải trình, lập bản đồ dâng lên trình lên các Chúa. Có những chỉ dân rất chính xác cho phép biết rằng môi đội gồm có 70 người được tuyển mộ tại phủ Bình Sơn, những người tình nguyện được miên thuế sưu và tiền tuần, đò. Các hình phạt cũng được trù định cho trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ. Ngược lại, hoàn thành nhiệm vụ xong được lĩnh bằng, hay thưởng vật chất. Thời gian hoạt động từ tháng hai đến tháng tám hàng năm. Đi năm chiếc thuyền và mang theo sáu tháng lương thực . (78)

Giữa năm 1771 và năm 1802, lịch sử Việt Nam được đánh dấu bằng sự đối đầu của các triều đại phong kiến. Khi nhà Nguyên được khôi phục lại, vua Gia Long đã tiến hành thống kê tất cả đất đai của đất nưóc. Các đội thủy binh đóng một vai trò quan trọng trong việc thống kê các quần đảo. Các đội này do bốn quan chức lãnh đạo. Năm 1815, vua cử Phạm Quang Ánh chỉ huy đơn vị hải quân có nhiệm vụ thăm dò các quần đảo và vẽ bản đồ thủy trình tại đó.

Theo một số sách chép lại, vào năm 1816, hoàng đế Gia Long có lẽ muốn đích thân ra quần đảo (79) để chiếm hữu chúng và gắn “nhánh hoa lên vương miện của Ngài", nhưng thông tin này không được xác nhận vì nhà vua không thể đi xa mà không có nhiều ngàn người đi theo xa giá, điều này gây tranh cãi về chuyến đi của hoàng đế tói các đảo. Đúng hơn là vua đã cử Phạm Quang Ánh ra
đó. Đại Nam thực lục chính biên kể lại năm 1815 và sau đó một lần nữa vào năm 1816, nhà vua đã ra lệnh cho Hoàng Sa ra các đảo để xem xét đo đạc thủy trình và vẽ bản đồ trình lên nhà vua.

Vua Minh Mạng, người kế nghiệp ông, vào năm 1833, đã ra chỉ thị cho Bộ chủ quản phái người tói dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối: "Ngày sau, cây cối to lớn, xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nhiều mắc cạn”.
Chỉ thị trên đã được nhắc lại vào năm 1835 vì kế hoạch đã bị hoãn lại do gió và sóng dữ dội. Lúc đó công việc mới được tiến hành và nhà vua đã ra lệnh trọng
thưởng cho những người thi hành.

Năm 1836, vua Minh Mạng tiếp tục kế hoạch của người tiền nhiệm thực hiện làm địa bạ toàn quốc. Nhiều chỉ thị chính xác hơn cho việc đo đạc đã được đưa ra.
"Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ chiếu chỗ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước bốn bên xung quanh nông hay cạn, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thể hiểm trở bình dị thế nào, phải xem xét đo đạc rõ ràng, vẽ thành bản đồ”. Cùng năm đó
(1836), vua lệnh cho thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đưa bình thuyền đi và chuẩn bị mang theo các bài gỗ đến các nơi thanh tra dựng làm dấu. Trên môi bài gỗ đều khắc chữ: Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ.

Vào năm 1837, Thượng thư Bộ Lại làm một bản tường trình nhà vua về các khoản chi tiêu của đội. Năm 1838, quan tuần phủ tỉnh Quảng Hà đề nghị vua cho bãi các thuế khóa đánh vào các tàu của đội và được vua chấp thuận. Cùng năm đó, Thượng thư Bộ Công làm một bản báo cáo lên nhà vua về các hoạt động của đội. Các đảo Hoàng Sa đã được ghi trong đó.

Năm 1847, dưói triều vua Thiệu Trị, Thượng thu Bộ Công đã tâu với vua về việc cần thiết phải hoãn lại các chuyến đi của Đội vì lý do thiếu ngân sách.

Năm 1867, năm Tự Đức thứ 20, đối với các thủy binh đã tử vong trong quá trình ra các quần đảo đều được nhà vua tôn vinh là anh hùng.

Tất cả các thông tin nói trên đều lấy từ các tư liệu lịch sử của Việt Nam và tính chất chính thức của chúng đã từng được nhiều tác giả nưóc ngoài thừa nhận. Đó là trường hợp của Chaigneau (Viết về Cochinchine) và của Gutzlaff, (1849, Tạp chí của Hội Địa lý Hoàng gia về Vương quốc Cochinchine). Như vậy, có thể cho phép nghĩ rằng vương quốc An Nam với tư cách là một quốc gia trưóc thời thuộc địa đã thể hiện mối quan tâm cụ thể tói các quần đảo và đã phát triển các hành vi cai quản ở đó vào thời điểm không có một quốc gia nào có mối quan tâm tói chúng như một quốc gia có chủ quyền .(80)


----------------------

77 Các dữ liệu này có trong các tài liệu do Bộ Ngoại giao Việt Nam
phát hành năm 1981 và có thể tham khảo tại Hà Nội, nhất là tại Viện
Lịch sử quốc gia.

 78   Lưu Văn Lợi, Phân tích tác phẩm: Phủ biên tạp lục của Lê Quý
Đôn, Hà Nội, 1994, in Roneo.

79    Xem, Nguyễn Khắc Viện: Việt Nam lịch sử lâu đời, NXB Ngoại
Văn, Hà Nội, 1987

80 Xem, Dieter Heinzig: Các đảo bị tranh chấp trong biển Nam Trung
Hoa, Viện các vấn đề về Châu Á tại Hamburg, Wiesbaden, 1976
Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #18 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2014, 09:51:19 am »

Việc hình thành một quyền đối với các đảo và phạm vi của nó


Các tài liệu đưa ra cho thấy sự hoạt động có tính chất nhà nưóc của Việt Nam đối với các quần đảo và điều đó đã được lịch sử xác lập. Vấn đề còn lại là vạch ra khu vực hoạt động một cách thận trọng và xác định rõ ràng ngày tháng, cường độ và phạm vi địa lý.

Văn bản đầu tiên có giá trị là tác phẩm của Lê Quý Đôn năm 1776. Ông ta đã mô tả tỉ mỉ việc khai thác các quần đảo này từ năm 1702. Như vậy, ý chí về chủ quyền của nhà nưóc phải chăng là chắc chắn từ đầu thế kỷ XVIII.

Các nhà chức trách Việt Nam khắng định rằng các đội Hoàng Sa đã hoạt động liên tục từ triều đại đầu tiên của Nhà Nguyễn (1558-1786) .(81)

 Đội Hoàng Sa có thể đã tồn tại từ trưóc năm 1702. Đó là một giả thuyết có thể chấp nhận. Tuy nhiên,các dữ kiện dựa trên các tài liệu lịch sử có thể kiểm tra được không vượt quá những năm đầu của thế kỷ XVIII và không thể ngoại suy một cách chắc chắn được.

Dù sao đi nữa, và bắt đầu từ thời điểm này, đã có một ý định thật sự khắng định chủ quyền đối với các đảo bởi vì đã tìm thấy các loại hành vi được án lệ quốc tế nêu ra để thể hiện ý định này .(82)

Đặc biệt, vấn đề sẽ không dừng lại ở các cuộc thám hiểm nhằm lập các bản đồ hay đo đạc các đường hàng hải. Đó có thể là những công việc của các nhà địa lý, các nhà hàng hải để góp phần vào hiểu biết chung và phổ biến một vùng đất hay biển (tuy rằng Trung Quốc cho  rằng đã chấm dứt các công cuộc thám sát do người Đức thực hiện trên các đảo này vào năm 1883 với lý do Trung Quốc muốn "chấm dứt các hoạt động này" là để tỏ rõ quyền lực của họ) .(83)

Đã có nhiều hoạt động khác thuộc về cách ứng xử của nhà nưóc: lập một đội thủy binh riêng, trợ cấp về tài chính cho nó, khai thác nó, quản lý nó, thưởng cho nó, quyết định các công trình xây dựng trên lãnh thổ, muốn làm cho các công trình đó có tính chất tượng trưng như căm một cái bia hay một cái mốc chủ quyền: đó chính là những hành động mà ta không có gì nhầm lẫn.

CÁc nhà chức trách Vương quốc An Nam đã triển khai trên các đảo những hoạt động đó. Ngay cả khi không tính đến cuộc thân chinh trịnh trọng của vua Gia Long năm 1816 do các tác giả Pháp nói đến, thì cũng còn khá đủ các sự kiện trùng hợp và liên kết với nhau để có thể khắng định rằng các nhà cầm quyền Việt Nam từ thế kỷ XVIII đến đầu thời kỳ thuộc địa, đã thụ đắc các quyền chủ quyền đối với các quần đảo theo đúng các quy tắc của pháp luật quốc tế áp dụng vào thời điểm đó.

Các sự việc đó là thật sự, một tính thật sự thích hợp với yêu cầu của thời đại và với điều kiện địa hình và hình thể các địa điểm không cho phép thực hiện một sự chiếm đóng toàn bộ và thường trực. Đó là những hành vi theo mùa do các đặc điểm địa lý và khí hậu của các đảo.  Trong phán quyết trọng tài này 28-1-1931 về các đảo Clipperton giữa Pháp và Mehico, vua Italia, Victor Emmanuuel II đã công nhận hiệu lực của việc chiếm cứ dựa trên các hành vi giám sát .(84)

Đó là những sự kiện được các nhà chức trách nhà nưóc ở cao nhất đưa ra. Chúng không gây ra một chút nghi ngờ gì về ý định của một sự khắng định     chủ quyền.Trong khi chúng không bị bất cứ ai phản đối, các sự kiện đó làm thành cái mà người ta có thể gọi là một sự quản lý lãnh thô một cách hòa bình và không gián đoạn.

Điều này cũng phù hợp với lời khắng định trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ 1843-1851: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta rất là hiểu yếu.

Tuy nhiên, phạm vi địa lý của các quyền đã từng được khắng định phải được xác định. Chúng ta sẽ kiểm tra ở đây tất cả thời kỳ từ thời kỳ cổ xưa cho tói thời kỳ
bảo hộ của Pháp mà thời điểm củng cố (1884) cũng là thời điểm Hội nghị Berlin mở ra một chương mới của lịch sử luật pháp quốc tế.

Sự khắng định chủ quyền do người Việt Nam đưa ra dường như liên quan tói một vùng rộng lớn hơn vùng chỉ có các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Có hai yếu tố đi theo hưóng này. Các nhà địa lý Việt Nam thế kỷ thứ XIX đã thống kê được 130 đảo, có nghĩa là các vùng đất nổi (84). Thế mà con số 130 không đúng với quần đảo này hay quần đảo kia trong số hai quần đảo nếu chúng ta xem xét tách chúng ra. Ngược lại, nó phù hợp khá chính xác với tổng số đảo của cả hai quần đảo (85). Mặt khác, các biên niên sử An Nam chỉ rõ rằng đã có nhiều đội được phái đến những hưóng địa lý khác nhau.


"Các đảo Hoàng Sa nằm ở phía Đông đảo Lý, từ bờ biển Sa Kỳ chạy ra khơi, thuận gió ba, bốn ngày đêm có thể đến. Trên đảo có nhĩêu núi la liệt tất cả hơn 130 ngọn, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài canh giờ. Giữa đảo có bãi cát vàng bề dài không biết mây ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa, trên  bãi có giếng nước ngọt, hải đlều tụ tập nhiều, không biết bao nhiêu mà kể, sản xuất nhĩêu hải sâm, đôi mồi, ốc hoa, ba ba, các thuyền bị phong nạn cũng tụ tập ở đó...Đầu trìêu Nguyễn, đặt đội Hoàng Sa gôm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở vê cảng Tư Hỉên nộp lại.Lại có đội Bắc Hải đo đội Hoàng Sa cai quản đi thu lượm hóa vật ở các đảo Côn Lôn ở Bắc Hải.(86)

Phía Đông, các đảo giáp vói quận Quỳnh Châu của đảo Hải Nam thuộc vương trìêii Trung Hoa" .



Một trong các đội được thành lập vào thế kỷ XIX có tên là Bắc Hải, theo tên mà người Việt Nam cũng như người Trung Quốc đặt cho quần đảo Trường Sa.

Các chỉ dân trên có thể nhằm chứng minh rằng các hoàng đế có quan tâm đến việc khai thác hai quần đảo đã giải quyết vấn đề bằng cách đặt hai đội hoạt động ở các địa điểm khác nhau nhưng dưói một sự chỉ đạo chung. Giả thuyết này được bảo vệ bởi một tấm bản đồ xuất hiện vào năm thứ 14 triều Minh Mạng (87). Bản đồ này đã thể hiện rõ một nhóm đảo tách hắn với các đảo gần bờ.

Các đảo này đã được ghi bằng hai tên gọi khác nhau, đó chính là sự phân biệt hai quần đảo.

-----------------------

81   Liên hợp quốc, A/43/346, ngày 2-3-1988. Thư ngày 2-5-1988 của Quyền
Đại biện lâm thời phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên họp quốc gửi tổng thư ký Liên họp quốc.

82   Xem các tranh trên đây, các ví dụ rút ra từ vụ Minquiers và Écréhous.

83      Đây là một luận điểm không có tham chiếu cụ thê, Bản tin Trung Quốc học, 1988, số 8, tr.76

84      Nhất là trong Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, 1821 và Đại
Nam nhất thống chí từ 1865 đến 1882

85    Xem phụ lục tên các đảo.
86     Biên niên sử An Nam, do P.A. Lapieque trích đoạn
87    Xem bản đồ này tại Phụ lục 9.
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Bảy, 2014, 11:13:00 am gửi bởi vietkieu_cuuquocquan » Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
vietkieu_cuuquocquan
Thành viên
*
Bài viết: 332



« Trả lời #19 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2014, 10:22:03 am »

Sự thể hiện có thể có của các quyền mang tính cạnh tranh

Một quyền chỉ hình thành nếu sau khi được khắng định nó vân được duy trì trong một số điều kiện nhất định. Đó cũng là điều mà cơ chế luật theo thời điểm mong muốn. Mọi khiếu nại đặt ra từ khi khắng định quyền, mọi trở ngại cho việc thực hiện quyền đó, đều làm cho quyền này yếu đi và có thể bị bàn cãi.

Do vậy, cần phải kiểm tra các thái độ của từng bên tranh chấp có thể có.

Trường hợp của Trung Quốc

Trường hợp của Trung Quốc cần được nghiên cứu trên cơ sở hai câu hỏi: Có phải Trung Quốc tự họ đã giành được các quyền, cùng cạnh tranh với các quyền của Việt Nam trong thời kỳ này không? Và, có phải Trung Quốc đã giành được các quyền, thông qua các quyền của Việt Nam, theo cơ chế của chế độ chư hầu gần hai nhà nưóc với nhau hay không?

a)   Không có một danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc trên các quần đảo

Như đã thấy ở phần trên, các tài liệu của Trung Quốc không cho phép xác định là đã có sự thụ đắc chủ quyền lãnh thô cho đến đầu thế kỷ thứ XVIII. Từ thời điểm đó, đã có các sự kiện mới xác lập các quyền có lợi cho phía  Trung Quốc không?

Một cuốn sách do Trung Quốc xuất bản đã kể lại điều này:

"Dưới trìêu Thanh, Quách Tông Đào, Công sứ Trung Quốc được ủy nhiệm ở Anh, trên đường đêh nhiệm sở để nhậm chức vào năm 1876, đã viết trong Sứ Tây kỷ trinh (notes sur mon voyage de mission à l'Ouest- Những điêu ghi về cuộc hành trình sang phương Tây) như sau: "Con tàu, sau khi đã vượt 813 dặm, đến giữa trưa ngày 24 (tháng 10, năm thứ hai đời Quảng Tự), đã tới một điểm ở 17°.30' Bắc xích đạo, cách phía Nam Quỳnh Châu 200 đêh 300 dặm. Các thủy thủ gọi nơi này là biển Trung Hoa (China sea), nghĩa là biển Trung Quốc...Cách đó không xa, ở bên trái, là các đảo Paracels (các đảo Tây Sa) sản xuất ra hải sâm và cả san hô nhưng không phải là loại tôĩ. Các đảo này thuộc Trung Quốc".

Tài liệu nói trên không ghi rõ ngày tháng và lời trích dẫn cũng không ghi. Cứ giả thử như nó là xác thực và đã được dịch một cách chính xác, thì đó là một ghi chép của một chuyến đi. Tác giả đã không đứng trên lập trường chính thức và ngay cả khi ông ta là một nhà ngoại giao trên đường đến nhiệm sở tại châu Âu, lời mà ông ta đã ghi thoáng qua về việc các đảo thuộc về Trung Quốc, dù có thú vị thế nào chăng nữa, thì cũng không phải là một căn cứ đủ để cho một vài tác giả khẳng định đã từng có một yêu sách của Trung Quốc trong thời kỳ xa xưa .(88)

Trong tất cả các tài liệu Trung Quốc đều nhắc lại rằng các ngư dân Trung Quốc đã đến các đảo vào mọi thời .(89)

Nhưng, như đã biết (xem phần I), đó chỉ là những hành vi cá nhân, không có đặc quyền, không phù hợp với một sự chiếm hữu cũng như với ý định khắng định chủ
quyền bởi vì việc chiếm cứ "do các tư nhân không hành động nhân danh chính phủ của họ mà thực hiện vì một lợi ích cá nhân không tạo thành một sự chiêm hữu" .

Hơn nữa, trong cùng những thời kỳ này, chính các quần đảo đó cùng thường được các dân chài Việt Nam lui tói.

Trên thực tế, đã không có một chút dấu vết gì là Trung Quốc đã từng phản kháng lại sự khắng định chủ quyền của Hoàng đế GiaLong và các người kế nhiệm ông trong suốt cả thế kỷ XVIII cũng như thế kỷ XIX, khi các chúa Việt Nam tổ chức việc khai thác các đảo nằm dưói quyền tài phán của họ một cách hành chính hơn.

Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn tập lịch sử Trung Quốc những lời xác nhận sự không tồn tại tham vọng của Trung Quốc trong lịch sử. Ví như trong Hải lục,có viết: "Vạn Lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên đậu của An Nam” ,(91) điều đó cho phép kết luận rằng "...ở đây, không có bằng chứng nào cho thây nhà Thanh đã sáp nhập các đảo này vào lãnh thổ của đê' chê' ” (92).

Từ đó ta thấy rằng Trung Quốc không có các hành vi thực thi chủ quyền mà còn im lặng, họ hình như đã đồng tình với sự chiếm hữu của Việt Nam.


Một số sử gia đã đưa ra lời giải thích: “...Từ thời Gia Long xa xưa, những người láng giềng duy nhất có thể chiếm các đảo Hoàng Sa (Paracels) là người Trung Quốc thì đã ở quá xa; việc chiếm đóng Hải Nam lúc đó chỉ là trên danh nghĩa.Cho đến những năm gần đây, người Trung Quốc chỉ chiếm đóng có một vùng hẹp dọc bờ biển phía Bắc đảo và một hay hai cảng ở bờ biển Nam " (93)


Như vậy, có thể thừa nhận rằng Trung Quốc đã không tha thiết đối với các quần đảo suốt trong thế kỷ XVIII (vả lại Trung Quốc cũng chứng tỏ điều ấy trong những năm cuối thế kỷ này). Sự thờ ơ của Trung Qốc đối với các quần đảo trong thời kỳ này đã được hai tài liệu xác nhận: bản đồ Trung Hoa của đế chế thống nhất Hoàng triều nhất thống Dư địa tông đô, phát hành vào năm 1894, Lãnh thổ Trung Quốc trong đó chỉ mở rộng tói đảo Hải Nam. Ngoài ra, quyển sách "Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư", phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng "điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18°13'Bắc".

Các tài liệu có từ cuối thời kỳ đang xem xét ở đây, xác nhận rằng cho đến khi đó (cuối thế kỷ XIX), Trung Quốc chưa thể hiện tham vọng rõ ràng đối với bất kỳ quần đảo nào trong hai quần đảo. Trong luận án bảo vệ tại Đại học Tổng hợp Pháp, Chu Kiện đã ghi trong đại sử ký của ông  ta vào thời điểm 1902: "Sự khảo sát đâu tiên của Trung Quốc vẽ các vùng biển quần đảo Tây Sa(Paracels)'' .(94) Điều này cho thấy rõ là không có "sự khảo sát" từ trưóc thì càng không có sự quản hạt. Tác giả cũng tự mâu thuẫn với chính mình vì ông ta đâ bảo vệ điều đó trong luận văn này và không chỉ rõ xuất xứ rằng "Chính phủ Trung Quốc của các trìêu đại liên tiếp đã sáp nhập về mặt hành chính các đảo và đặt chúng dưới quyền tài phán của các nhà chức trách tỉnh Quảng Đông" (tr.265)

Vì thế một số nhà bình luận không tự bằng lòng việc xác nhận các quan điểm đã làm sẵn đó, mà do sự lo lắng về tính khách quan đã buộc phải xem xét từng yếu tố lập luận về tính khách quan đã buộc phải xem xét từng yếu tố lập luận, họ đã đi đến kết luận là không có một danh nghĩa lịch sử lâu đời của Trung Quốc đối với các quần đảo Paracels và Spratleys. Giả thuyết này chỉ có thể đứng vững trên cơ sở các tài liệu chưa công bố so với tất cả những tài liệu mà công trình nghiêncứu này đã dựa vào.Chỉ duy sự có mặt của các ngư dân Trung Quốc theo thời vụ là không bàn cãi. Nhưng cũng có cả những ngư dân từ các vùng khác tói. Và trong luật quốc tế điều này không phải là cơ sở cho một danh nghĩa pháp lý (95). Bởi vì
chỉ đơn thuần khẳng định các quyền chủ quyền hoặc ý định thể hiện mong muốn làm cho một sự chiêm hữu thành thật sự là chưa đủ" (96).



-----------------


 88   Xem Jeannete Greenfield: Thực tiễn của Trung Quốc về luật biển,Clarendon Press, Oxford, 1992, tr.154-155. Tác giả trích dẫn các tài liệu Trung Quốc đã phân tích ở trên mà tên tài liệu đã bộc lộ  nghĩa (như: "Chư Phiên Chí") trong đó mô tả các đảo nhỏ như là những đảo không phải của Trung Quốc đối với các quần đảo này.

89    Nhất là Tạp chí Window, tr.25

90   Phán quyết ngày 30-6-1865, vụ đảo Aves, Tuyển tập các vụ án trọng
tài quốc tế, A.de le Pradelle và N.Politis, quyển 11, tr.413

 91   Trích dẫn trong 1.13, tờ 4, tr.2 của Hải quốc đồ chí viết năm 22 Đạo quang
nhà Thanh (1730). In lại trong lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp. Hộp AS 1840, Trung Quốc 797.

92   M.s. Samuels: Tranh chấp biển Nam Trung Hoa, tr.4

93   P.A. Lapieque: Biên niên sử An Nam, tr.4

94 Chu Kiện: Các biên giới biển của Trung Quôc, luận án làm dưới sự
hướng dẫn của GS Hubert Thierry, Đại học Paris X, Nanterre, tr.562

95    Xem Micheál Bennet: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và việc sử dụng luật quốc tế trong tranh chấp các đảo Spratleys, Stanford Journal of International Law, 1992, tr.434, 435, 436.

96    Phán quyết trọng tài ngày 6-6-1904 của Vua Italia Victor Emmanuel
III trong vụ kiện giữa Brazil và Anh: Tạp chí Tổng quan Công pháp quốc tế, 1904, tr.19



Logged

ngày căm thù 21 tháng 3 năm 1946
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM