Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:49:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ông Đội Cấn - Hà Ân  (Đọc 22874 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:01:16 pm »

Sách tại: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn1n3nmn31n343tq83a3q3m3237nvn

Chương 1

Đội Cấn lắng nghe những tiếng động của một đêm sắp tàn. Trời còn tối nhưng tiếng gà gáy sáng đã eo óc xa xa. ở bên trại lính khố xanh Thái Nguyên, sức sống đang uể oải trỗi dậy; tiếng bàn ghế lục cục, tiếng nồi niêu va chạm, tiếng sạp giường tre rên lên cót két. Mọi tiếng động đều có vẻ bất ngờ. Hình như trong dãy nhà thấp mái tôn này mọi người e ngại làm động tới giấc ngủ hiếm hoi của trẻ thơ hoặc sợ hãi một điều gì đây sẽ làm đảo lộn cả cuộc đời mà họ đã quen chịu đựng từ lâu. Nhưng một bước chân vụng về nào đó đụng phải một đồ vật bằng kim loại gây thành một tiếng động lanh lảnh. Rồi thình lình tiếng trẻ khóc thét lên. Tiếng khóc như tiếng mèo kêu. Chắc đứa trẻ cũng gầy guộc như một nhách mèo con đói sữa. Đội Cấn nằm chìm trong mớ âm thanh quen thuộc ở nơi đã trên mười năm ông tiêu hoài tuổi trai trẻ của mình. Dãy nhà thấp mái tôn có mười mấy gian. Nhà chung tường, chung ngõ, chung bếp theo một kiểu cách gặp bất kỳ ở ven một cái đồn khố xanh, khố đỏ miền trung du và mạn ngược.

Thực ra, đội Cấn mới về đóng ở Thái Nguyên bốn năm nay, năm 1913. Nhưng những năm trước, ông đóng ở Đu, ở Chợ Chu, ở Phấn Mễ, ông cũng có một gian tương tự trong một dãy nhà mái tôn thấp giống thế này. Nó giống nhau đến nỗi ông tưởng như mình ở đây đã từ lâu. Đó là cảm giác một người mê muội trong sự tù đọng ở một cái trại "con gái"! Người ta lúc nào cũng nơm nớp chờ một cuộc chia tay, người đi người ở đều xót xa... Dưới bếp đã thấy lửa nấu cơm lom đom. Tiếng chuyện trò rì rầm chen lẫn tiếng gắt, tiếng nựng con. Và thình lình dãy nhà bừng tỉnh dậy với tất cả cái vội vã, chen chúc, nửa tối nửa sáng của một trại con gái sau tiếng kèn "la vầy". Kèn "la vầy" từ trại lanh lảnh cất lên hồi hai. Đội Cấn vẫn im lặng. ông vừa thức trắng đêm để suy nghĩ nhưng chưa bao giờ ông thấy mình tỉnh táo như lúc này. Kể cả thể xác của ông cũng vậy, ông thấy máu chảy dồn dập và biết rằng cặp mắt của mình đang sáng lên như mặt một chàng trai trẻ. Đội Cấn lắng nghe cuộc sống đang diễn ra hùng hục ở chung quanh. Rõ ràng trại con gái khác trước khá nhiều. Non một nửa số gian của dãy nhà lên đèn chứng tỏ chủ có nhà. Số còn lại im lìm, mặc dù cửa ra vào mở toang ra để lộ bên trong tăm tối, hoang vắng. Đội Cấn thương những người đang mắng mỏ, gắt gỏng vợ con, giọng gằn lại. ông hiểu họ đang lo lắng. Từ mấy năm nay, cuộc chiến tranh giữa Pháp và Đức ở Châu âu diễn ra giằng co.

Năm 1914, lính Đông Dương nghe tin âu chiến như tin hội hè. Nhưng chỉ vài tháng sau, Tây lấy lính "tình nguyện" cho mẫu quốc hết đợt này sang đợt khác. Tất cả những chuyến tàu chở lính đi Tây đều được báo Tây đăng tin lên trang nhất. Các nhà báo lĩnh "lương thêm" ở ngân sách phủ Thống sứ, viết những bài ồn ào, gọi những người lính đi Tây ấy là lính "tình nguyện". Lúc tàu nhổ neo có lính bồng súng chào theo lệnh chỉ huy của mấy viên sĩ quan to béo, bụng bằng cái thúng; có đội lính kèn chơi các bài nhạc binh huyên náo; có cả sĩ quan thay mặt võ phòng phủ Thống sứ đọc "đít cua" chúc mừng khen ngợi những người "con" bản xứ đã "tình nguyện" sang Tây, mang lồng ngực (lép kẹp) để bảo vệ nước mẹ(?). Những người "con cưng" này được chia ra làm nhiều loại mặc dù họ chả có gì hác nhau: nào là lính tập, lính có nghề, lính vô nghề nghiệp... Ngoài một số đã mặc áo lính vài ba tháng, một, đôi năm, còn phần lớn chỉ ít ngày trước đây vẫn cầm theo trâu ngoài ruộng; họ đã được "chọn" đi Tây trong những cuộc "mộ lính tình nguyện" hết sức kỳ quặc. Viên công sứ tỉnh Thái Nguyên đã làm như thế này: Ngài cho gọi các quan Nam triều đến dinh chánh sứ vào bảo các quan rằng Đức tặc đánh mẫu quốc, dân An- nam-mít là con đỏ của mẫu quốc, có bổn phận phải xả thân giúp mẫu quốc. Các quan Nam triều đứng đầu là viên bố chánh vâng dạ lia lịa. Quan công sứ bèn chia cho mỗi phủ, huyện phải nộp bằng này người "tình nguyện". Ngài bảo: "Bằng cách nào có được thì làm. Các ông cứ việc tùy đấy mà xoay xở lấy.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #1 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:03:46 pm »

Nếu làm khả thi sẽ có Long Bội Tinh, có phẩm hàm". Thế thì còn gì bằng nữa? Cái ngón xoay xở thì khỏi nói, các quan có thừa mánh khóe. Và ở cái việc mộ lính tình nguyện" cứ ngửi qua cũng thấy mùi tanh đồng. Các quan thừa sức xoay sở để vừa lòng Nhà nước bảo hộ và cũng vừa thỏa mãn túi tham mình. Sự mẫn cán của các quan truyền rất nhanh xuống các chánh tổng, lý trưởng trong tỉnh. Bọn trương tuần các làng theo lệnh của các cụ chánh và thầy lý, vác tay thước lồng lộn săn bắt những người làng nghèo khổ nhưng khỏe mạnh. Những người này không còn biết kêu cứu ở đâu, họ bị khoác ngay lên cổ cái tên "lính tình nguyện đi Tây" và bị nộp lên "trại chờ" ở tỉnh lỵ. Đề phòng họ không nhận cái tên lính "tình nguyện", ngài công sứ dùng chất ni-tơ-rát bạc đánh số lên bắp tay họ. Thế là tài trời cũng không trốn thoát cái kiếp "tình nguyện đi Tây" nữa. Sau những cuộc săn bắt thật này, đến cuộc săn bắt vờ. Bây giờ thì đến các quan phủ, huyện ra tay. Các quan cho đòi con cái những nhà có máu mặt nhưng không vào phe cánh với họ. Những người này nếu tìm cách lẩn trốn thì sẽ bị lính khố vàng đem chão đến "gô cổ nó lại". Thế là họ phải chọn một trong hai cách: hoặc là cho con cái "tình nguyện sang Tây đi đứt", hoặc là xì tiền ra. Tiền ấy chia ra, quan phủ, quan huyện được một phần, ông bố chánh được nhiều hơn, ngài công sứ lại được nhiều hơn nữa. Đấy là cách lấy "lính tình nguyện" trong dân làng.

Còn với lính khố đỏ khố xanh thì lấy "tình nguyện" dễ hơn. Nghĩa là lấy bao nhiêu thì cứ việc ra lệnh. Đầu tiên cũng lấy từng đội, từng cơ lính Tây, lính lê dương xuống tàu sang mặt trận Pháp. Rồi đến các loại lính các xứ châu Phi, lính kỵ mã, pháo thủ, khố đỏ. Cuối cùng tất nhiên phải "bắt tình nguyện" đến anh khố xanh. âu chiến thế là lan đến từng trại khố xanh Đông Dương. Lính khố xanh phải chuyển sang khố đỏ trước khi xuống tàu sang Pháp bởi vì lính khố xanh chỉ được lập theo đơn vị từng tỉnh. Các lữ khố xanh chỉ chuyên được dùng trong việc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa trong tỉnh ấy và các tỉnh lân cận. Vì vậy lương cũng được tăng lên một tí. Lon cũng đẩy lên một cấp. ở Thái Nguyên, ngài công sứ sau khi đóng số vào tay lính "tình nguyện", còn hứa nếu "trong các con có ai trở về thì sẽ được hưởng phẩm hàm, ai lỡ què chân cụt tay sẽ được Nhà nước bảo hộ cho đi làm loong toong chạy giấy cho các công sở". ấy cũng vì vậy nên các bác "khố xanh tình nguyện" sang Tây anh nào cũng ngơ ngơ ngác ngác. Tàu biển về mẫu quốc tăng thêm chuyến. Ba hôm trước đây mới có một chuyến mà không chừng chỉ tuần lễ sau đã có chuyến mới. Đội Cấn chợt mỉm cười. Một sự so sánh vừa thoáng trong tâm trí ông. Tại sao lính đi âu chiến lại lo sợ mà ông và những người bạn cùng chí hướng thì không? Bây giờ, ông thấy minh mẫn và khỏe mạnh. Ngày hôm nay ông cũng xuất trận. Sự suy tính bấy nay dẫn ông đến một thay đổi kỳ lạ. ông vừa chín chắn hơn, vừa trẻ trung hơn. Bạn cùng chí hướng với ông cũng có sự thay đổi ấy. Nhà đội Cấn cũng đã lên đèn. ánh sáng cây đèn ba dây có chao sơn trắng tỏa trong một căn nhà sung túc hơn hai bên hàng xóm. Vợ chồng đội Cấn chưa có con nên dư dật hơn bạn đồng ngũ. Mỗi sáng cô Cấn còn mua cho chồng cái bánh chưng một xu và mỗi bữa cơm tối, lưng cút rượu trắng. Cái bánh chưng quen thuộc ấy đã nằm vuông vắn trên đĩa. Cô Cấn bưng nó đặt lên bàn giữa nhà. Người thiếu phụ lưỡng lự. Cô đứng buông thõng hai tay nhìn cái giường vẫn buông màn. Cô muốn đánh thức chồng dậy nhưng cô lại thôi. Bởi vì cô biết chồng đã thức suốt đêm qua. Cô biết chắc chắn như vậy vì chính cô cũng suốt đêm không chợp mắt. Hai người đã nằm im lặng, không cử động và cố gắng không để người kia biết mình thức.

Nhưng lâu lâu, chỉ một nhịp thở khác thường cũng đủ là dấu hiệu của một người thao thức. Cô Cấn đột nhiên nhớ tới ngày đầu tiên hai người gặp nhau. ....... Cách đây mấy năm, một cô gái quê đến tỉnh lỵ Thái Nguyên vào một buổi trưa hè oi bức. Cô tên là Ngoan. Cô ngơ ngác trong một tỉnh lỵ xa lạ. Vai cô khoác chiếc tay nải nâu, đôi chân xéo lấm mỏi và bụi bám đầy gấu váy thâm bạc màu. Một người con gái lẻ loi trong một tỉnh lỵ trung du là điều hiếm thấy. Nhưng gia đình cô ta có việc ở Thái Nguyên. Và cô chỉ còn một mẹ già trên sáu mươi tuổi. Gia dĩ Ngoan là một cô gái có dòng máu họ Phùng chảy trong huyết quản. Hai anh ruột Ngoan là quốc sự phạm. Sau khi lĩnh án người mười lăm năm, người hai mươi năm khổ sai, họ bị chính quyền Pháp đày lên Thái Nguyên. Không biết họ đã làm thế nào, mà đột nhiên mẹ con Ngoan nhận được một lá thư ngắn báo tin họ ở Thái Nguyên. Và thế là cô gái quê xinh đẹp ấy một mình lên đường thăm anh. Cô đến một tỉnh xa lạ không một người thân thích, thậm chí chẳng có lấy một người quen biết. Cô khoác chiếc tay nải đi lang thang trong tỉnh lỵ vắng vẻ trưa hè. Muốn hỏi thăm đường cũng phải kín đáo chọn mặt mà hỏi. Lang thang mãi, Ngoan mới tới được cổng đề lao. Một dãy tường đá xanh, cao, ngọn tường cắm mảnh chai và những hàng dây điện đan dày. Một cổng vòm, cánh sơn hắc ín. Người lính gác thò mũi súng ở cửa sổ lầu cổng. Bên ngoài đề lao vắng vẻ lạnh lẽo. Ngoan đi qua đi lại hai ba lần trước cổng và chẳng biết làm cách nào để hỏi tin tức anh mình. Khi cô đi ngang qua cửa lần thứ tư thì người lính gác quát đuổi. Cô gái vội lảng ra đầu tường đứng vẩn vơ ở đó. Phần lo lắng, phần thương anh, phần oán giận Tây, lòng Ngoan cứ rối lên. Có lúc tủi thân, Ngoan rơm rớm nước mắt rồi cô lại kìm được vì cô thấy hổ thẹn. Thình lình Ngoan giật mình vì có người hỏi cô: "Cô tìm người quen trong kia à?". Ngoan vội ngoảnh lại nhìn người hỏi mình. Người hỏi cô là một người lính khố xanh. Bất giác Ngoan lùi lại một bước, cô thu hai tay trước ngực và cặp mắt bướng bỉnh của cô hơi nheo lại. Nhưng người lính khố xanh ấy dường như hiểu tâm trạng cô gái. Anh ta nói tiếp, giọng hấp tấp:

-Cô đừng ngại! Cô đừng ngại! Tôi thấy cô qua lại trước cổng đề lao mấy lần tôi đoán là cô tìm người nhà nên thì tôi hỏi thế thôi. Anh ta chăm chú ngắm Ngoan. Dường như hơi ngượng trước vẻ đẹp nền nã của cô gái, người lính khố xanh muốn bỏ đi nhưng rồi anh ta vẫn nói tiếp:

-Nếu cô cần gì, tôi xin giúp. Ngoan cũng chăm chú nhìn người lính khố xanh. Cô nhìn lâu hơn, vừa kinh ngạc, vừa lo lắng, vừa mừng rỡ. Xưa nay, cánh lính tráng khố xanh, khố vàng có về làng cô thì toàn hạch sách, nạt nộ dân làng. Người làng sợ họ hơn sợ giặc. Cô còn nghe ông chú kể lại những chuyện bà con ra tỉnh gặp những gỉ những gì ấy, cứ nghĩ đến mà rợn tóc mai. Đời người con gái như chỉ tơ, bóng bẩy mà dễ đứt. Ngoan nghĩ rất nhanh. Trong khi đó người lính khố xanh vẫn đứng chờ. Cuối cùng Ngoan đánh bạo:
-Nhà cháu có hai anh ruột trong đó. Bác có biết hai anh cháu không ạ. Chắc bác làm gì chẳng biết anh cháu. Bỗng nhiên người lính khố xanh bật cười. Anh ta cũng nhận ra cái cười của mình làm cho cô gái quê lúng túng. Anh ta buồn cười vì thấy vẻ mặt ngơ ngác của cô gái là cứ cười thôi.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #2 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:04:50 pm »

-Có thể tôi biết anh cô nhưng cô phải nói anh cô là ai đã chứ? Ngoan ngượng. Nếu không vì muốn tìm anh thì cô đã bỏ chạy rồi. Cô mím chặt môi, mặt cúi xuống. Người lính khố xanh thôi cười. Anh ta cũng ngượng vì sự sỗ sàng của mình và hạ thấp giọng:

-Chắc tôi biết anh cô đấy, lính tráng và tù phạm nhà lao tôi biết mặt biết tên hết. Thế... anh cô là ai?
Ngoan im lặng một lúc nữa rồi mới trả lời khe khẽ:

-Là anh Vịnh, anh Thấu.

-...Thấu, Vịnh à! Tôi biết!

-Người lính khố xanh hơi cau mày suy nghĩ trong khi Ngoan ngước nhìn há vọng.

-Thấu, Vịnh quốc sự phạm đây mà.

-Vâng, vâng phải đấy ạ. Cô gái buột mồm nhận rồi hối hận về sự lỡ lời của mình. Cô sợ người lính sẽ không dám giúp nữa. Nhưng cô đã chót nói ra rồi, tài giời cũng không vớt lại được. Trong khi đó người lính khố xanh cúi mặt băn khoăn. Một lát sau anh ta mới nói:

-Bác Thấu, bác Vịnh mới lên Thái. Tây nó còn bắt cấm cố. Thế mới khó. Thấy cô gái ngơ ngác, anh ta chợt hiểu lại tiếp luôn:

-Cấm cố là nhốt riêng, không cho ai đi đâu, ngay cả ra sân đề lao nữa. à thôi được...

-Anh ta mừng rỡ reo khẽ:

-Chiều nay lấy tù đi làm cỏ vê bên dinh chánh sứ. Số tù chẳng đủ đâu. Có khi phải lấy cả tù cấm cố đi làm thêm. Mặc cho anh ta nói đông nói tây, cô gái chưa làm quen ngay được với những tiếng lạ như "quốc sự phạm, tù cấm cố, khổ sai với cỏ vê, giấy phép với áp pen áp pung". Nhưng Ngoan hơi mừng và tin rằng anh ta cũng không đến nỗi nào, cũng muốn giúp mình thật. Cuối cùng người lính khố xanh dặn Ngoan chờ ở cuối vườn hoa Dây Thép. Anh ta chỉ chỗ cho Ngoan cẩn thận và nhắc đi nhắc lại rằng Ngoan phải có mặt ở đó lúc hai giờ chiều là lúc anh sẽ dẫn tù qua. Có thể Ngoan sẽ gặp được anh cô trong số tù đi làm ấy. Thế là đói, Ngoan cũng không dám rời cái góc vườn hoa Dây Thép đi kiếm cái gì ăn. Cô ta cứ nép sau mấy bụi hoa, mắt nhớn nhác ngược xuôi chỉ sợ gặp cu lít. Khoảng gần hai giờ, lính khố xanh áp gải tù cỏ vê đi qua. Ngoan không thể quên được cảnh một đoàn người trọc đầu đội nón rách, quần áo vải mộc bẩn thỉu, ngực in số hắc ín, đi thất thểu. Chung quanh đoàn tù khổ sai, mấy chú lính khố xanh cầm roi mây đi áp tải. Ngoan chỉ thấy anh hai, không thấy anh cả. Người lính khố xanh có lòng tốt đến gần Ngoan lúc nào không biết. Anh ta nói nhỏ với Ngoan:

-Cô cứ chờ ở đây, lát nữa anh cô sẽ quay trở lại.

Ngoan rơm rớm nước mắt đứng nép vào bụi hoa, lòng dạ nôn nao. Cô thấy xót xa thương anh, cô chợt thấy uất ức, tai cô như nghe thấy tiếng súng nổ và tiếng roi mây rít lên trong không khí. Cảnh tù hỗn độn chập chờn trước mắt Ngoan nhưng rõ nhất là những bàn chân gầy guộc, nứt nẻ lê chậm rãi trên mặt đường đá lởm chởm. Ngoan chờ lặng đi bao lâu chẳng rõ. Chỉ biết khi cô bừng tỉnh là lúc Vịnh đến bên em gái. Người quốc sự phạm nhìn em chăm chú, Ngoan khóc tấm tức.

-Nín đi. Người họ Phùng sao lại khóc. Ngoan cố nín. Ngoan nhớ đến cha; ông cụ là người nổi tiếng khắp vùng Đoài. Từ Sơn Tây đến Vĩnh Yên, Phúc Yên, hai bên bờ con sông Hồng ai là không biết đến tên tuổi cụ thủ khoa Phùng Văn Nhuận, đỗ đầu cử nhân khoa Hà Nam hợp thí, năm ông Tú Xương đỗ lại tú tài. Văn hay, chữ tốt lừng lẫy sĩ tử Bắc Hà mà ngón chầu trác lạc, điệu thơ thoát tục và con người coi thường công danh tước vị triều đình cũng lừng lẫy trong đám xử sĩ mười bốn tỉnh. Đến khi ông nghè Nguyễn Quang Bích nhận chức Sơn khê Thống lãnh coi quân thứ bên hữu sông Hồng và sông Đà thì viên tham mưu sắc sảo nhất của ông nghè Nguyễn chính là cụ thủ khoa họ Phùng.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #3 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:05:40 pm »

Cụ có sắc vua ban mang ấn Hàm Nghi. Cụ có kiếm vua ban. Từ miền núi đá hiểm trở châu Mai tới vẹn rừng đào Tu Lý bên bờ sông Đà, từ đồn Vàng qua ngàn Thục Luyện xuống thác Bờ đi phủ Thiên Quan, dấu chân vị nho tướng Phùng Văn Nhuận cứ in dài con đường đánh giặc giữ nước. Ngay đến tên quan Tây Pen-nơ-canh cũng phải kính phục mà gọi cụ là "hồn bất tử của người Việt sông Đà". Có người cha như thế sao Ngoan lại mềm yếu được... Hai anh em kể lại cho nhau về tin ở nhà, tin trong tù. Ngoan đưa cái tay nải quà bánh ít ỏi cho anh. Thình lình ông Vịnh nhớ ra điều gì. Đôi mày ông cau lại, giọng xẵng:

-Làm sao mà cô lại quen cái thằng khố xanh ấy?

-Ai cơ ạ?

-Cái thằng bảo cô chờ anh ở đây ấy mà!

-À... Ngoan sửng sốt không hiểu tại sao anh mình lại không bằng lòng việc ấy? Chẳng những thế, trong cách xưng hô, ông Vịnh còn tỏ ra thù ghét người kia. Ngoan chẳng biết trả lời anh ra sao cả.

-Nhờ vả ai thì được chứ thà chết không giao du với lũ bán dân bán nước. Ngoan vẫn cúi mặt, đứng im. Ngoan hiểu ý anh rồi. Ngay lúc sáng, Ngoan cũnng không muốn chuyện trò gì với người lính khố xanh không quen biết này. Anh mắng, Ngoan phải chịu nhưng rõ ràng người này vẫn còn tốt bụng. Anh ta chả đã giúp cho anh em Ngoan gặp mặt nhau là gì. ông Vịnh càu nhàu:

-Làm thân con gái ở đất lạ thì phải giữ mình chứ cứ buông tuồng thế thì không được...

-Anh!

-Ngoan uất ức kêu lên, ông Vịnh nể em nên im bặt. Ngoan bật khóc lên, ông Vịnh lại quay ra dỗ:

-Nín đi. Anh có thương cô anh mới nói. Rồi ông nói là bữa nay người lính khố xanh này lấy tù sang làm cỏ vê bên dinh chánh sứ. Anh ta bảo ông là có người nhà lên thăm nhưng anh ta chỉ dám lấy thêm một tù cấm cố thôi. ông Thấu, ông Vịnh bàn nhau xem ai nên đi. Hai anh em đã trái ý nhau đến đỗi suýt xảy ra to tiếng. ôngn Thấu bảo nên đi, ông Vịnh bảo không tin được quân liếm đít Tây. ông Thấu bảo đi gặp thì hay, chẳng gặp cũng chẳng mất gì, ông Vịnh thì bảo ai nhờ vả quân bán nước là đồ hèn. ông Thấu giận tái mặt, ông Vịnh biết mình lỡ lời vội xin lỗi anh. ông Thấu hầm hầm bảo ông Vịnh:

-Chú đánh Tây một mình à? ông Vịnh không dám cãi lại anh nhưng nghĩ thầm: thế Tây nó có một mình đánh ta đâu? ông Vịnh đi gặp người nhà nhưng trong lòng hết sức nghi ngờ người lính khố xanh kia. ông nói với Ngoan:

-Hắn là cai khố xanh đấy, mà nên đội cũng chỉ nay mai thôi. ông nghĩ phải thế nào thằng Tây mới thăng chức cho chứ. Và Ngoan cũng nghĩ như ông Vịnh. Tuy vậy, lòng thương anh vẫn giữ Ngoan ở lại Thái Nguyên ba ngày nữa. Lần lấy tù đi làm cỏ vê sau, Ngoan được gặp anh cả. Cũng do người lính khố xanh kia thu xếp cho. Về sau, Ngoan được biết người lính khố xanh kia là một người có gia giáo, ăn nói cư xử với bà con dân phố cũng mực thước và đối với Ngoan, anh ta giữ gìn lời ăn tiếng nói bao giờ cũng đứng đắn nhã nhặn và không quên chăm sóc cô gái một cách cẩn thận và kín đáo. Người cai khố xanh ấy là chồng Ngoan bây giờ. Chính là viên đội Trịnh Văn Cấn, người cầm đầu vụ nổi dậy đánh Tây đêm nay. Mối quan hệ giữa mấy người được giữ kín lúc đầu vì sợ liên lụy, về sau là để giữ bí mật lực lượng. Vì vậy Ngoan lưỡng lự chưa muốn đánh thức chồng mình dậy. Ngoan biết chồng mình thao thức suốt đêm qua nhưng Ngoan không biết sau một đêm suy nghĩ ấy chồng mình đã quyết đoán những gì? Bây giờ, Ngoan mới thấy cái ngày mà mình mong mỏi đã đến, nhưng khi nó đến thì Ngoan lại có nhiều lo nghĩ. Ngoan có thù nhà, đêm qua cô cũng thao thức. Nghĩ đến lúc giặc giải cụ thủ khoa về làng Vân Cốc chém đầu, bêu thủ cấp lên cây si cổng đình thì Ngoan lại giận sôi lên. Không hiểu rồi đây số phận của chồng mình, anh mình sẽ ra sao? Cả bản thân Ngoan cũng sẽ ra sao?... ......

Chính lúc Ngoan lưỡng lự không biết có nên đánh thức chồng hay không thì đội Cấn thình lình vùng dậy rất nhanh nhẹn. Quen nếp nhà binh, đội Cấn cuốn màn, gập chăn chỉ trong một thoáng. ông rửa mặt và mặc quần áo cũng rất nhanh. Lát sau, đội Cấn đã lại gần bàn, ngồi xuống đường hoàng, nâng chén trà bốc khói lên miệng, mắt sáng lên. Nhìn ông đi lại trong phòng, chả ai nghĩ rằng ông đã ngoài bốn mươi tuổi. Ngoan nhìn thấy chồng thoáng mỉm cười, cô thấy tâm hồn nhẹ thảnh đi. Cô hiểu rằng chồng mình sau khi cân nhắc, xem lại mọi chi tiết trong kế hoạch khởi nghĩa đã hết sức lạc quan tin ở sự thành công đêm nay. Ngoan vừa thấy hồi hộp vừa hứng khởi. Giờ phút cô chờ đợi đã sắp tới! Đã sắp đến lúc Ngoan trả thù nhà, nợ nước!
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #4 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:06:31 pm »

*******
   
Đội Cấn lặng lẽ ngồi ăn bánh chưng tưởng như ông mải suy nghĩ một điều gì nhưng thực ra ông để ý đến từng cử chỉ nhỏ của người vợ trẻ. Đội Cấn vốn không thâm trầm nhưng cũng đủ tinh tế để hiểu rằng giờ phút quyết liệt chờ đợi sắp đến chắc chắn đang làm cho lòng Ngoan nao nức. Từ khi ông gặp Ngoan lần đầu, tình cảm giữa hai người không ngừng nảy nở. Thoạt đầu ông chỉ vì lòng tốt sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà tìm cách để Ngoan gặp được anh. Lúc đó, đội Cấn chỉ coi Ngoan là một cô gái quê bỡ ngỡ giữa một nơi đông đúc xa lạ. Nhưng qua những lần gặp gỡ sau, ông dần dần hiểu người con gái ấy. Đó là một cô gái xuất thân trong một gia đình có nho phong sĩ khí, danh tiếng thì nhiều nhưng nghèo và thanh bạch. Người con gái ấy lớn lên trong cảnh gia đình bị giặc làm cho tan nát, tuổi non nớt đã phải nhận lấy gánh nặng gia đình và lời ăn nết ở đã làm cho bà con xóm làng thêm thương thên qúy. Người con gái ấy cũng có đầy đủ những đức tính của một người con gái Việt Nam, đảm đang, trung hậu, thùy mị, dịu dàng, sẵn sàng quên mình đi để giúp người khác. Và Ngoan có một tình yêu hết sức mãnh liệt! Phải chăng những người con gái như Ngoan đã thừa hưởng những điều tốt đẹp trong tâm hồn của những vợ hiền dâu thảo từ xưa và cả khí phách anh hùng của những bậc liệt nữ đã sáng ngời sử sách. Từ thương đến quý, từ mến tới kính trọng, kín đáo hơn là một tình yêu mỗi ngày một đằm thắm. Đội Cấn yêu Ngoan không chỉ bằng tình yêu chồng vợ mà còn bằng tình yêu với người bạn đường đời, một đời chiến đấu há sinh đầy gian khổ... ông chợt thấy thương vợ, ông biết trong tâm hồn người thiếu phụ có một vướng mắc rất riêng tư mà Ngoan chưa hề thổ lộ với bất kỳ ai, ngay cả với chính ông. Ngoan vẫn ao ước có một đứa con trai!

Đội Cấn đoán biết được điều đó vì đã một lần ông thấy vợ bế nựng một cháu nhỏ, con hàng xóm. Hai con mắt Ngoan lúc ấy sáng lên láng ướt, chứa chan tình cảm. Ngoan ao ước có một đứa con trai cho nó nghịch nó bầy biện. Căn nhà của họ tuy hẹp nhưng trống trải biết bao nhiêu. Đồ đạc trong nhà bày gọn ghẽ chứng tỏ cái đảm đang của cô Cấn nhưng nó thiếu hẳn vẻ bề bộn đáng yêu do trẻ thơ nghịch ngợm, bày ra. Nhưng nỗi riêng tư ấy Ngoan biết nén xuống đáy lòng và cô gan góc đảm nhận những công việc khó. Đầu năm nay, Ngoan nhận việc thầu cơm tù bên đề lao. Chính đội Cấn đã chạy cho vợ việc này. Việc thầu cơm tù xưa nay vốn là việc có lãi nhiều, còn nhiều hơn cả lãi thầu cơm lính. Theo lệ thường chỉ vợ con hàng đội, hàng quản mới đủ uy thế được tòa sứ nhận làm nhà thầu. Người thầu trước Ngoan là mụ Ngân, vợ bé lão phó quản Thải đã về hưu. Mụ ta mới nhận thầu có ba năm mà đã làm hai cái nhà hai tầng ở phố Chợ. Mụ kiếm ăn xem ra "mát tay" hơn cả những người thầu trước. Nhưng đến lúc việc thầu cơm tù đến tay Ngoan thì cái việc kiếm bẫm này chỉ ăn thâm vào vốn của hai vợ chồng. Đó cũng là điều mà hai người tính được từ trước. Ngoan bán cả hoa, hột, xuyến vàng đút lót lão phán đầu tòa. Sau ngày đấu thầu, Ngoan nghiễm nhiên thành người có vai vế trong tỉnh lỵ. Thực ra việc thầu cơm tù chỉ để che mắt mật thám Tây. Đội Cấn ra vào đề lao không khó khăn lắm miễn là đúng phiên ông dẫn lính canh sang bên ấy: nhưng ông thường phải đi kèm với bốn, năm người lính, có muốn nói năng gì với anh em quốc sự phạm cũng không tiện. Cho ngoan thầu cơm tù, việc thông báo tin tức giữa ông với quốc sự phạm vừa kín vừa nhanh chóng. Cho nên vợ chồng ông thầu cơm tù chỉ lỗ thêm. Tiền tòa sứ chi cho mỗi suất cơm tù rất ít, muỗi lãi thì chỉ có cách làm như mụ Ngân, là ngâm gạo vào nước vôi cho nở và chọn mua thứ cá mắm người ta đổ đi ngay đến chó ngửi thấy cũng phải cụp đuôi mà rên lên ư ử, Ngoan thường lấy tiền nhà phụ thêm vào nhưng cơm tù vẫn là cơm tù, có điều Ngoan trông coi người làm cố sao cho sạch sẽ hơn trước.

Đội Cấn ngẫm nghĩ và lấy làm lạ tại sao với tâm hồn gan góc, thông minh ấy, Ngoan lại có một vẻ bề ngoài hiền dịu mà ai kém tinh tường còn cho là mềm yếu nữa. Đội Cấn lặng lẽ xắn chiếc bánh chưng, ăn chậm rãi. ông suy nghĩ về lòng người và những nỗi niềm riêng chung ẩn náu ở mãi đáy sâu nào đấy. ông nghĩ về những người bạn chiến đấu thân thiết nhất đã cùng ông bàn bạc, góp công sức lập nên kế hoạch nổ súng khởi nghĩa đêm nay. Tất nhiên trong chiến đấu sẽ có những điều bất ngờ xảy ra nhưng ông rất tin ở sự tỉ mỉ có cân nhắc kỹ lưỡng của bản kế hoạch. Tuy vậy, cũng còn một vài điểm vẫn còn suy tính thêm cho thật thấu đáo. Ngay như cái việc đánh chiếm kho súng cho đến lúc này vẫn làm cho ông băn khoăn. Kho súng chỉ có ba người coi. Nó nằm ngay chân quả đồi nhỏ bên cạnh trại khố xanh. Trên mỏm đồi có xây nhà tên giám binh chỉ huy trại. Phải chiếm kho súng cho ngọt thì việc diệt tên giám binh và tên chánh quản mới êm thấm. Và có lấy ngọt được kho súng thì mới có đạn dược phân phát cho nghĩa quân tiến đánh trại lê dương ở cuối tỉnh lỵ. Lính khố xanh xưa nay chỉ được phát súng mà không phát đạn. Hai cái bao da đeo ngang thắt lưng bao giờ cũng lép kẹp. Anh em binh lính thường dùng để đựng gói thuốc lào, cái nhíp nhổ râu, hộp kim chỉ. Có anh còn cất trong đó cái bàn chải và hộp thuốc đánh đồng dùng để chà bóng hàng khuy áo ngoài (khuy đồng không sáng lóe như vàng diệp sẽ bị phạt giam từ hai mươi bốn tới bốn mươi tám tiếng đồng hồ mà còn ăn đá đít nữa đằng khác). Đội Cấn nghĩ tới viên đội coi kho súng. Đó là một con người được đánh giá bằng nhiều cách rất khác nhau. Đội Trường không bị ai ghét kể từ tên giám binh cho chí người lính trơn. Anh làm việc cần cù, có thể nói là mẫn cán nữa. Kho súng lúc nào cũng gọn gàng thứ tự. Các khẩu súng ký kho được lau mỡ sạch bóng. Súng gác trên các giá gỗ đúng theo số súng khắc trên nòng. Những hòm đạn, hòm lựu đạn được kê cao ráo. Các hòm có ghi rõ số lượng đạn chứa bên trong. Giờ làm việc, giờ nghỉ đúng quá định nhà binh. Cửa khóa cẩn thận và chính đội Trường thường ngủ lại trong kho.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #5 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:07:22 pm »

Đội Trường không hề to tiếng với ai bao giờ. Anh luôn luôn im lặng và chỉ nói khi cần thiết bằng những câu rất ngắn. Anh ít khi cười, nếu có cười cũng chỉ khẽ nhếch môi. Viên giám binh đối với đội Trường xem ra tin cậy anh. Viên chánh quản cũng vậy, có khi còn tỏ ra hơi nịnh theo kiểu cấp trên nịnh cấp dưới là khác. Về phía anh em binh lính thì họ xét đội Trường theo nhiều cách rất khác nhau. Có người cho rằng anh ta là tay "ngậm miệng ăn tiền". Những cũng có người lại cho rằng đội Trường rất thâm trầm. Đội Cấn đồng ý với cách đánh giá này. Đội Cấn mường tượng đến chiều sâu, vẻ buồn trong đôi mắt rất đẹp của viên suất đội rất đẹp trai này. Anh ta mà làm kép nhất trong một gánh chèo rong nào thì gái làng cứ gọi là bỏ nhà bỏ cửa đi mà theo cái con người có nước da trắng xanh lên làm nổi màu tươi của cặp môi đỏ và cái dáng cao dong dỏng thanh tú của người có học. Đội Cấn tin rằng đằng sau cái đôi mắt đẹp hơi buồn buồn ấy chắc có chứa chất một nỗi niềm riêng, một suy nghĩ riêng nào đây. Nhưng là nỗi niềm gì, suy nghĩ gì vậy?

Cần phải biết rõ điều đó. Nếu đội Trường là người tốt thì lấy kho súng sẽ không khó khăn. Nếu anh là người không tốt thì lấy kho súng tuy chẳng dễ dàng nhưng cũng không đến nỗi không làm được cho ngọt. Chỉ cần một mẹo nhỏ, đưa một người mà anh không hề nghi ngờ chi cả mang kín theo một con dao, lừa lúc anh ngoảnh mặt đi chỗ khác, chém cho một nhát chết thật êm ru là xong việc. Nhưng đội Trường tốt hay xấu? Đội Cấn nhớ lời một người mà ông kính phục như một bậc đàn anh: Đó là người quốc sự phạm đang bị giam cấm cố bên đề lao tỉnh lỵ. ông là Lương Ngọc Quyến, mỗi lời nói đều được đội Cấn xem trọng. Người tử tù đó đã dặn ông về đội Trường: "Tôi xem ra ông ta là người tốt. ở thời buổi này ai ưu tư, ai đăm chiêu là người tốt. Chỉ có quân bán nước theo Tây mới hớn hở, mới vui vẻ được". Nhưng đôi mắt hơi buồn buồn của đội Trường có biểu lộ một tâm trạng ưu thời mẫn thế không? Hay chỉ vì cái đôi mắt ấy vốn dĩ cha sinh mẹ đẻ ra nó cũng vậy? ừ, mà ngay cái thằng liếm đít Tây là cái thằng đội Hạnh nó cũng có một đôi mắt tương tự, một đôi mắt có những vành mi nặng luôn luôn sụp xuống, một đôi mắt lúc nào cũng lơ mơ, đờ đẫn nhưng đội Cấn biết rằng đằng sau cái lơ mơ, đờ đẫn ấy chứa đựng cả một tâm trạng hèn hạ, tham lam, phản trắc. Những năm tháng làm việc với hắn, đội Cấn đã thấy đầy đủ điều đó. Hãy tạm gạt đội Trường ra đã. Có sao thì đến giờ khởi nghĩa mới quyết định cũng vẫn kịp. Đội Cấn chỉ áy náy vì theo linh cảm, ông thích đội Trường và ông cho rằng đó là một con người tốt. Nhưng mới chỉ là theo linh cảm mà thôi. Đội Cấn ngẩng nhìn vợ, dặn khẽ:

-Hôm nay em sang đề lao nhớ hỏi ông ba Quyến cho anh xem nên đối xử với đội Trường thế nào nhé!
Ngoan hơi kinh ngạc:

-Anh ta làm sao cơ? Đội Cấn trầm ngâm:

-Cũng chẳng biết anh ta là người thế nào! Hơi khó hiểu. ... Im lặng. Đội Cấn liếc nhìn ra cửa rồi nghoảnh lại nói tiếp:

-Nếu anh ta tốt thì điều đó là may mắn cho chúng ta và cho cả anh ấy nữa. Nếu anh ta không tốt...

-Anh Trường mà không tốt?

-Ngoan nhíu lông mày suy nghĩ.

-Ai bảo đảm được điều ấy?

-Em!

-Thôi đi!... Đến anh cũng chẳng dám quả quyết nữa là.

-Nhưng em dám thì sao? Đội Cấn nghiêm nét mặt, đặt tay lên trán, dáng chừng đang suy nghĩ về những lời nói quả quyết của vợ. Giây lát ông mỉm cười nói với Ngoan:

-Hãy cứ hỏi ông Quyến xem sao nhé! Đội Cấn không để ý đến vẻ khó chịu của vợ. ông đứng dậy với cái mũ
cát đội lên đầu. Có tiếng người gọi từ ngoài vào:

-Bác Cấn vào trại chưa hử? Hôm nay đến phiên ông làm xếp bốt đấy nhá. Sắp đến kỳ thăng thưởng rồi đừng để "nốt" xấu mà thiệt hại to đấy.

-Vâng!

-Đội Cấn đáp lại nhưng ông chửi thầm một câu rất tục. Ngoan cũng rủa thầm: "Cái thằng lúc nào cũng nhòm ngó như cú nhòm nhà bệnh". Cô vốn ghét cái con người có bộ mặt đẹp mà bụng dạ thì rất xấu. Cả trại lính Thái Nguyên ai cũng biết tiếng đội Hạnh nịnh Tây. Cả tỉnh lỵ Thái Nguyên cũng khét tiếng đội Hạnh đĩ ra đĩ. Ngoan không dám nói với chồng chứ chính cô đã bị đội Hạnh tán tỉnh, chẳng biết bao nhiêu lần rồi. Miệng y nói cứ ngọt xớt, hai cái môi đo đỏ và hai con mắt thăm thẳm của hắn ta khi đứng trước Ngoan lại sáng lên long lanh. Ngoan thấy hắn là một gã "Sở Khanh" mặc áo lính khố xanh.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #6 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:08:18 pm »

Chương 2

Tò tò te... Tò tò te... Hồi kèn cờ-le-rông thổi bài "la vầy" vừa dứt, trại lính khố xanh Thái Nguyên đang lặng lẽ bỗng choàng tỉnh dậy. Hai dãy nhà ngủ nằm hai bên cái sân chính nề xi-măng ồn ào, nhốn nháo lên. Năm phút sau từ những cửa lớn tuôn ra hàng toán, hàng toán người. Người nào cũng đầu húi kiểu móng lừa, ngái ngủ, vận độc chiếc quần nửa xà lỏn, nửa sì líp dệt bằng sợi mộc xù xì. Tay họ ôm quần áo khăn mặt, tay xách xô sắt tây. Họ kéo nhau về hai cái bể nước lớn ở cuối sân. Chỉ một lát sau, tiếng người đã bị ngập trong tiếng nước giội ào ào. Hôm nay là ngày 30 thánh 8 năm 1917. Ngày 30 mỗi tháng là ngày trả lương cho nên lính tráng tán chuyện náo nhiệt hơn mọi ngày khác. Họ tập tành nhọc nhằn cả tháng; mỗi ngày lại một buổi làm cỏ vê. Rồi thì đêm canh, ngày gác, đi tuần đi tiễu. Lúc nào họ cũng nơm nớp lo bị giam, bị phạt cơm, lo lắng chứa chất ngày này qua ngày khác, chỉ đến ngày "tút sê"1 mới hớn hở được năm mươi phút khi đếm những tờ giấy bạc Đông Dương màu nâu nhạt, tờ nào cũng ươn ướt, nhàu nát, hăng hăng chua chua mùi mồ hôi.

Ngay họ là lính tráng cũng không dám ghé mũi ngửi những tờ giấy ố bẩn ấy nhưng nắm trong tay mấy tờ giấy bạc vẫn thấy vui vui. Những tờ giấy bẩn thỉu ấy vẫn có ma lực rất lạ. Hễ có nó trong tay là họ nghĩ ngay đến cút rượu ngang, bìa đậu nướng ở cái quán gốc đa hẻo lánh cuối tỉnh lỵ; đã có thầy cái tưởng tượng đến một canh bạc cháy túi; đã có ngài đội mơ màng đến tiếng phách ở dãy phố ngang sau nhà "ba toa"2, mơ màng một chầu chay kèm vài bát cháo gà, một chầu mặn có ngủ đêm lại cẩn thận với một ả đào béo bủng rượu say bét nhè. Và nói chung dân "khố xanh" đều nghĩ đến mẹ già, đến vợ đến con đón ngoài cổng trại chờ mấy đồng lương còm đem về chi cho hàng trăm việc to nhỏ. Nào suất sưu cho thằng em chú, nào thuốc men cho người già, người trẻ, nào giỗ chạp, nào thuế ruộng thuế thổ, nào thuốc hậu sản cho người vợ khẳng khiu như cây sậy, ôm trong tay đứa con nhỏ gầy còm. Nhưng được mấy đồng lương ít ỏi đến tay người nhà không phải chuyện dễ. Xưa nay lính tráng nợ cứ đìa; nợ ăn chịu, nợ mở bát xóc đĩa, nợ bán lương non. Đến ngày "tút sê" bọn chủ nợ bám lằng nhằng lấy cái cổng trại. Bọn này có đủ mẹo, đủ tinh ma để săn, để chặn con mồi. Ai đã nợ chúng thì khó mà thoát. Nhưng người ta cũng có đủ mánh khóe để tránh mặt bọn chủ nợ. Họ vẫn có mọt mẹo quen thuộc là đưa một người ra làm con mồi chung của cả đám chủ nợ cho bọn này bâu lấy, xâu xé. Con mồi phải vừa khất, vừa cãi cù nhầy, vừa giằng ra mà chạy cho xa cổng trại, dử cái đám chủ nợ, nặc nô ấy đi để anh em khác chuồn cho mau đem tiền về cho người nhà. Tất nhiên anh em sẽ phải có cách cư xử hợ lẽ với người làm con mồi. Cái kế dử mồi này bọn chủ nợ đứa nào cũng biết mà kỳ quái thật, lần nào bọn chúng cũng vẫn mắc. sáng nay cũng là kỳ lương. Nhiều người xoắn chặt lấy quyền Nhiêu, người tung người hứng nói nịnh anh ta. Quyền Nhiêu xoay trần xối nước ào ào, anh ta vỗ bành bạch vào ngực, vào bụng và cười rinh rích mặc cho ai nói gì thì nói. Nhiêu tắm lấy thích, hai tay kỳ cứ đỏ da ngực da bụng lên. Hai tay anh ta vẫn còn đầy chai, bả vai Nhiêu có cái u đòn gánh. Rõ ràng anh này mới ở nhà quê lên đăng lính cho nên mặt mũi, nói năng chưa ra vẻ nhà binh. Chờ anh em nói chán, Nhiêu mới giơ cái mặt vuông có hai cái gò má cao ra cười:

-Đã bảo các bác cứ mặc em mà. Hôm nay họ có lột trần em cũng chẳng có một đồng nào. Lương một tháng tám đồng thì mất bốn đồng cơm, lại còn phải trả nợ bà quản Lạp cho vay nộp sưu cho thằng em chú. Hai đồng 1. Lĩnh lương. 2. Nhà mổ thịt gia súc. một suất sưu, lãi một đồng thành ba. Thế là chưa lĩnh đã nhẵn bằng chùi rồi còn gì nữa mà phải lo. Cai Mánh, người chỉ huy cái "đờ-mi gờ-rúp" (tổ sáu người) có Nhiêu cũng đế vào một câu:

-Ừ tay này cứng đấy! Đáng mặt anh hào đấy! Cai Mánh, người chỉ huy cái "đờ-mi gờ-rúp" (tổ sáu người) có Nhiêu cũng đế vào một câu:
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #7 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:09:04 pm »

-Ừ tay này cứng đấy! Đáng mặt anh hào đấy! Mấy bác quyền, bác bếp cũng đế theo:

-Vâng thầy lính đã đến cái nước đi lính thì còn phải sợ ai nữa cơ chứ! Được cai Mánh khen, Nhiêu khoái lắm. Tất cả cai, đội trong trại Thái Nguyên đều kiêng nể con người gầy đen, héo hon này. Mỗi lần gặp chuyện gì ngang tai chướng mắt là Mánh cau đôi mày lại. Lúc ấy thì đến giời cũng bé bằng con kiến. Cả trại Thái Nguyên, Mánh chỉ phục một người là Đội Cấn. Ngoài ra Mánh thích thêm cái tính của quyền Nhiêu, Vì thế Nhiêu nói bô bô:

-Mấy khi được anh em nhờ, tôi sẵn lòng làm nhưng hình như hôm nay chưa được lĩnh lương đâu. Mọi người nhao nhao:

-Ai bảo?

-Sao chưa được lĩnh? Nhiêu nói hạ thấp giọng một chút:

-Nó phạt cánh ta, nó phạt lây cả trại. Như hồi tháng năm, tháng ba ấy mà. Nhiêu cười hì hì rồi lại nói tướng lên:

-Đằng nào tôi cũng chẳng còn một xu. Lĩnh đúng ngày cũng thế, lĩnh muộn cũng vậy, tôi đếch cần. Câu nói của Nhiêu làm mọi người bàn tán xôn xao, duy cái Mánh cau mặt nghĩ. Với đời lính tráng thì việc phạt phiếc là cơm bữa nhưng nếu hôm nay nó phạt giam bọn Mánh thì cũng phiền. Hôm nay Mánh cần rảnh tay vì người cai héo hon ấy là một trong những người cầm đầu cuộc binh biến. Mánh nghĩ thầm: Có lẽ thằng giám binh phạt thật cũng nên, mà cái phạt này nhất định dính líu đến việc coi tù đi cỏ vê trong dinh bố chánh hôm kia. Hôm ấy cai Mánh và năm người lính dẫn một số quốc sự phạm vào dinh làm cỏ, dọn vườn hoa. Mánh giao phần việc rõ ràng cho anh em tù rồi bảo họ làm, hễ cứ xong việc thì họ nghỉ. Cho nên mới xế trưa mọi việc đã làm xong, tù kiếm bóng mát, kềnh ra ngủ. Bất đồ thằng quản Lạp mò đến tận nơi mà không ai biết. Lạp quát ầm lên, Mánh ngoảnh lại. Quản Lạp bấy giờ mới biết Mánh chỉ huy toán lính này. Lạp kiềng Mánh nhưng đã trót quát thì phải giữ sĩ diện, y đe phạt cả toán lính và tốp tù. Mánh vằn con mắt lên nhưng giọng nói vẫn bình thường: "Tù đủ số, việc làm xong, không ai phạt được". Quản Lạp đi có một mình và hắn cũng biết Mánh là người thế nào nên chỉ tím mặt lại mà nói:

-Thầy lý sự giỏi lắm. Tôi thì chả kể làm gì chứ lệnh quan sứ Đác thì nghiêm lắm. Ngày mai tôi bắt buộc phải bẩm lên quan giám binh. Thầy có chịu là chịu phép Nhà nước đấy nhé. Thế rồi quản Lạp bỏ đi nhưng Mánh không quên vẻ mặt của viên chánh quản: cái miệng nói rít hai hàm răng và đôi mắt cay cú bây giờ đang hiện lên trước mắt Mánh. Kỳ này nó phạt Mánh là phạt lây cả trại đấy. Nhưng Mánh và cái "đờ-mi gờ-rúp" của Mánh thì còn ra nhẽ chứ phạt lây cả trại là làm sao? Hay nó định đánh một đòn nặng vào cân não binh lính! Nếu vậy không phải ý định của Lạp mà của bọn Tây cơ? Hay chúng muốn làm cả trại thù ghét Mánh chăng? Có thể như thế lắm, vì xưa nay Mánh hay lý sự với bọn Lạp và binh lính lại rất thích Mánh. Dù sao thì cái lão sứ Đác cũng là một tên cáo già. Y nói tiếng Việt làu làu, thuộc quyển Kiều như cháo và hễ mở mồm là toàn nói các danh ngôn cổ. Nào "sát nhất nhân vạn nhân cụ"1, nào "quân pháp vô thân"2. Và hắn có những mánh khóe tâm lý rất tinh vi. Có những vụ đáng ra phải có hình phạt nặng thì Đác lại cho gọi những người can phạm lên khuyên nhủ ngọt ngào, gọi những người ấy là "các con" cẩn thận rồi tha bổng. Trái lại có những chuyện không đâu thì Đác lại tỏ ra hung hãn một cách cố ý. Đã một lần toán lính do đội Trường chỉ huy dẫn từ đồn Đu về Thái Nguyên lĩnh lương. Lúc ấy Trường mới là cai nhất. Toán lính vừa ở phà Gia Bảy bước lên bờ thì gặp Đác chống ba toong đứng chơi ở đó. Anh em không biết mặt hắn lên không chào. Đác gọi lại bắt cả toán đứng "xắp măng" thành một hàng ngang. Đác xưng danh và dùng cái ba toong hèo vụt cho mỗi người ba cái ngang thắt lưng. Trường cũng bị đủ ba gậy như những người lính của mình. Nhưng kỳ lạ thay, cuối năm ấy, Trường được gắn lon đội ngay sau khi vợ Trường lên thăm chồng, chẳng hiểu sao lại chết đuối dưới sông Công. Có người bảo vì ông sứ Đác thương Trường mất vợ! Cái trò roi vọt, và cất nhắc rất quái gở ấy làm cho cả lính lẫn dân Thái Nguyên đâm hết vía, chẳng hiểu cái lão Tây ấy đầu óc minh mẫn hay là mất trí. Nhưng Đác càng ở Thái Nguyên lâu, người ta càng hiểu rõ hơn. Phải xét cung cách đối xử của y đối với quốc sự phạm mới hiểu được sự độc ác trong lòng y. Những người tù đói, khát, tê liệt vì cùm kẹp lâu ngày, những phòng giam ứ người, bẩn thỉu, tối tăm, những trận đòn đánh kín, đánh hở, kể cả đến việc cho uống, cho tiêm nhầm thuốc đã làm cho số quốc sự phạm mòn mỏi đi, những ngôi mả vùi nông, nấm đất bằng cái rá con đầy ra trong "khu đất làm phúc" ở nghĩa địa ta. Người ta còn nhớ một mệnh lệnh của Đác về khen thưởng lính dõng các làng như thế này: "Nộp một tai lính Đề Thám sẽ được thưởng năm đồng bạc trắng, nộp một lính Đề Thám bị bắt sống sẽ được thưởng hai đồng". Đã có lần Đác hỏi cũng quốc sự phạm, y đã dùng cả kiếm lễ đâm vào đùi người tù này thế mà thanh kiếm ấy được nhà nước Pháp trưng bày ở gian Đông Dương trong hội chợ đấu xảo thuộc địa ở Mác-xây cơ đấy. Từ 1915, có câu tục ngữ mới xuất hiện: "Nhất Đác, nhì Ke, tam Be, tứ Bít" (Darleạ, Eckert, Wintrebert, Brides). Như thế là Đác đứng đầu bốn hung thần của nhà nước "bảo hộ" khét tiếng tàn ác đã thành câu vè đầu cửa miệng của nhân dân Bắc Kỳ. Chính Đác là người đã nghĩ ra cách đánh số bằng ni-tơ-rát bạc lên tay những người "tình nguyện đi Tây" đấy! Cai Mánh lẩm bẩm:

-Làm thân thằng lính khố xanh thật không bằng con chó của Tây. Thằng lính ăn roi còn con chó thì không, thằng lính ăn cá mắm, chó nhà nó lại hốc toàn thịt bò. Cai Mánh không hề nghĩ rằng sự so sánh vừa rồi anh mới có khoảng gần một năm nay. Trước đây chính Mánh cũng đã từng bị Đác cho ba cái tạt tai ở giữa phố Chợ thế mà ngay sau khi bị đánh, Mánh vẫn đứng nghiêm chào Đác. Rồi còn cho là hôm ấy may đấy, chứ không thì còn chẳng biết còn bị cúp bao nhiêu ngày lương? Bây giờ thì khác rồi, trước Mánh chỉ bướng với bọn quản, bọn đội ta nhưng vẫn sợ Tây, đến nay Mánh đã hiểu ai là kẻ thù chính. Mánh nghiến hai hàm răng lại. Lần này mà lão giám binh Nô-en với thằng quản Lạp định giơ roi giơ gậy ra với Mánh thì coi chừng. Mánh đã có một gắp đạn ba viên giấu được từ lần tập bắn tháng trước. Cứ "phơ" chết một đứa là có vạn thằng "cụ". Mánh bật cười về ý nghĩ ấy. Mánh vừa cười nhạt vừa ghé mình cho Nhiêu giội nước lên lồng ngực gầy gò. Trên làn da xạm nâu có thích chàm một anh "Võ Tòng đả hổ". Hổ có vằn có vện cẩn thận nhưng dáng tròn thu lu như con mèo Xiêm nuôi làm cảnh, còn anh Võ Tòng thì cái mặt đã bị Mánh đốt đỏ đầu nòng súng gí vào, nay chỉ như cái vảy hạt cau khô màu nâu đen. Thì ra cái tính con người nó thay đổi cũng ghê, nhất là khi con người đã tự nguyện tham gia vào một sự kiện có quan hệ đến vận mệnh của nhiều người.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #8 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:10:01 pm »

****
     
Khi chân trời đàng đông chớm hoe hoe, đội Cấn đi đến cổng trại khố xanh Thái Nguyên. Trại này mang tên Tây là trại Bô- dông (Bauzon). Để tỏ cho dân biết rằng lính khố xanh đúng là lính của triều đình Huế, viên Toàn quyền Đông Dương đã cho xây các cổng trại củ thứ lính này na ná như cổng tam quan các chùa. Đội Cấn dừng lại ngắm cái cổng. Nó khá giống cổng chùa làng Nhan quê ông. Cũng ba cổng vòm quét vôi trắng, hai bên có câu đối đắp nổi trên tường. Bên trên cửa giữa là cái lầu vọng tiêu nhỏ. Mái vọng tiêu có hai con rồng chầu mặt nguyệt và bốn đao mái chót uốn cong, gờ chạy chữ triện. Nhưng theo ý chuyên môn của viên cố vấn về kiến trúc phương đông của trường Viễn Đông bác cổ, một số chi tiết điêu khắc và kiến trúc được làm theo phong cách Chàm, ấn Độ, Xiêm La... Trước hết, đập vào mắt người ta là chòm mái cao quá, đao mái cong quá, chúng bắt nguồn từ kiểu cách những ngôi chùa bên bờ phải con sông Cửu Long. Rồi đến cổng vòm chính có bề dày gợi nhớ đến những vòm cổng xây bằng đá tảng của những ngôi đền bên bờ Hằng Hà. Và, bao giờ cũng vậy, đội Cấn thấy lòng ông gờn gợn khi nhìn thấy đôi mắt rồng úp mái bằng thủy tinh lóng lánh. Những con mắt thú bằng thủy tinh màu tinh xảo này là sản phẩm của nền kỹ nghệ "Đại Pháp" mới mang sang xứ Đông Dương ít năm lại đây. Cuối cùng là màu vôi trắng, quá trắng của cái cổng nữa. Chính chúng, phải! Chính chúng đã làm cho cái cổng này có cái vẻ trầm mặc của tam quan chùa. Những con rồng lắp mắt thủy tinh nom hỗn hào, ngạo ngược. Và sự lai căng ấy đã chỗm chệ trên nền nếp văn hiến của một dân tộc đã từng có Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...

Như nước Đại Việt ta đây Đời đời là nước văn hiến Trích Bình Ngô đại cáo Lời Nguyễn Trãi xưa vẳng từ đáy lòng đội Cấn. Cội rễ mấy ngàn năm lập nước, giữ nước, từ tấm gương lớn của các bậc tiền bối trên mọi lĩnh vực đến từng nét nhạc, từng tập tục trong nhà, từng lời ăn tiếng nói... đã tạo cho mỗi con người sự hoàn chỉnh về ý thức và tâm hồn Việt Nam. Điều đó đã nhuần nhuyễn trong mỗi con người Việt Nam. Đội Cấn nhìn thấy, chỉ mới ở cổng trại Bô-dông, những vết tích của sự chà đạp thô bạo đối với nền văn hiến cổ truyền bốn ngàn năm... Nhờ có sự hiểu biết về cội nguồn, đội Cấn nhạy bén với những cái đang xảy ra quanh ông... Tuy vậy mỗi lần nhìn cổng trại Bô-dông, đội Cấn vẫn nhớ tới chùa Nhan, nhớ tới quê. Quê ông nằm trong vùng đồi đỏ trung du Bắc Kỳ. Đó là một thôn nhỏ có một bờ tre gai dày, một dòng sông nhỏ chảy bên cạnh làng. Cứ mỗi chiều lũ trẻ giong trâu từ bãi cỏ ven sông về làng, những con vật thở phì phò, bụng tròn căng, những đứa trẻ trật nón ra sau lưng, ngồi vắt vẻo trên lưng trâu. Đó là một làng nằm trên đường hành quân của Tây mỗi lần phát quân từ Hà Nội lên Hưng Hóa, sông Đà để tiến đánh nghĩa quân Tây Bắc của cụ Nguyễn Quang Bích và ông Đốc Ngữ. Mỗi lần chúng đi qua, bọn sĩ quan Tây lại một lần gây tội ác ở đó. Bắt gà, lợn, trâu, bò, bắt trai làng đi phu khiêng đạn và các đồ quân dụng khác. Có một lần, chúng vào làng nằm một bữa một gia đình có đám ma, bà con kéo đến đông. Bọn sĩ quan Tây đã ra lệnh cho lính bắn sả vào những người làng đến đưa đám ma làm mười bảy người chết và hơn ba chục người bị thương.

Nhớ đến ngôi làng, đội Cấn nhớ tới gia đình mình. Họ Trịnh là một họ nghèo ở làng Nhan nhưng là một dòng họ có nhiều người học hành, đỗ đạt. Đội Cấn có hai ông chú đỗ tú tài, một ông bác đỗ cử nhân. ông bác không đi làm quan mà ở nhà làm thuốc cho dân quanh vùng. Cha ông là một ông đồ đã hai lần vào được tứ trường thi hương. Nếu ông cụ không đỗ cử nhân thì cũng chỉ vì ông cụ không kìm được ngòi bút của mình và cả hai lần thi, hai lần phạm trường quá. Sau lần trượt thứ hai, ông cụ chán cảnh trường ốc, bỏ về làng làm nghề dạy trẻ. Bốn nhà nho nghèo vẫn chung sống quanh ngôi nhà thờ của dòng họ. Những năm còn ít tuổi, đội Cấn được cha chú kèm dạy nghiệt ngã để thông suốt cái đạo của người quân tử, nó chính là cái đạo làm người thời xưa. ông còn nhớ đinh ninh lời cha dặn lúc ông ra đời: "Có nhân dân, có xã tắc, hà tất phải đọc sách mới gọi là học.. Đó là lời của thầy Tử Lộ đấy con ạ!". Anh Cấn lớn lên nhằm lúc Tây đang tổ chức khai thác bóc lột xứ Bắc Kỳ. Các khoa thi hương đã bãi bỏ. Không có đường tiến thân mà ở làng thì họ Trịnh vốn là dòng họ không có ruộng nương. Đã tuyệt đường sinh sống lại gặp lúc mấy kẻ cường hào vô học trong làng được dịp bắt nạt mấy ông đồ thất thế. Kỳ đi phu nào, chúng cũng gọi đến người họ Trịnh. Đường đời xô đẩy anh Cấn vào bước quẫn bách phải bỏ làng mà đi.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #9 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2011, 03:10:44 pm »

Nhưng đi đâu làm gì để sống? Thế là sau những đêm lo nghĩ uất ức, như là một người liều thân, anh Cấn đăng lính khố xanh. Ngày anh Cấn bỏ làng ra lính là một ngày đầu mùa đông, có chút nắng hoe vàng làm cho ngôi làng nhỏ trở thành ấn tượng khó xóa bỏ trong lòng người ra đi. Hai cha con tiễn nhau ở cổng chùa làng Nhan bên ngoài cái tam quan nom rất giống cái cổng trại Bô- dông. Chúng giống nhau đến nỗi mỗi lần đứng trước cổng trại khố xanh Thái Nguyên, đội Cấn lại nhớ đến buổi chia tay với bố ở cổng chùa làng. Đội Cấn rất nhớ lời cha dặn ông hôm ấy. ông cụ trầm tư rất lâu trước khi nói: "Mày đi, cố mà giữ lấy thiên lương. Có người bảo đi lính rồi có dịp dùng súng của nó bắn lại nó. Tao không biết thế nào mà tao chỉ trách tao sao sinh ra chẳng gặp thời. Thôi mày đi và làm thế nào đừng để chú bác và mấy ông bạn già của tao trách cứ gia pháp không nghiêm!". ông cụ đã có tuổi, không còn có thể bôn ba đây đó. ông cụ là nhà nho nghèo lỡ thời, chính vì thế nỗi lòng càng u uẩn. Nhìn con ra đi, ông cụ rất băn khoăn. ông cụ nghĩ mình là bậc cha mẹ mà không vạch được cho con cái một cái hướng "xử thế" cho phải lẽ.

Ngay việc cắt đi cái búi tó vướng víu nơi gáy mà ông cụ đã dằn vặt mình mấy đêm liền mặc dù mấy ông bạn già đã làm cái việc đó trước ông cụ hàng tháng trời. Cứ mỗi năm, ông cụ lại lên chỗ con trai đăng lính, bề ngoài là thăm con nhưng thực ra để xem xem tâm tính nó có "cái gì khác" không. Đội Cấn chưa hề làm điều gì để bố phải giận nhưng ông cụ vẫn lo lắng và trước khi về quê, bao giờ cũng dặn con: "ở trong bùn mà không vương mùi tanh hôi là chuyện khó. Nhưng xưa nay những người biết nghĩ thì vẫn giữ được trọn vẹn. Ngày trước Mặc Tử đã dạy: "Làm việc nghĩa mà chưa được thì chớ làm điều gì trái đạo". Tao nghĩ rằng mày chớ nên quên lời đó!". Đội Cấn còn nhớ lần ông bị Tây đưa đi đánh nghĩa quân Đề Thám thì được tin bố chết. Sự suy nghĩ dằn vặt ông mãi. Người trong quê lên thăm đều kể chuyện với Đội Cấn rằng khi ông cụ sắp mất, ông cụ rất tỉnh. ông cụ chết vì bệnh già, và còn trối trăng là Cấn phải chăm nom giỗ chạp hai họ nội ngoại cho chu đáo. Nhưng đội Cấn rất hiểu bố, ông biết rằng cha mình khi chết còn một điều làm ông cụ chưa yên lòng: Đó là nỗi lo con hỏng! Không phải ông cụ lo lắng không có lý. Lúc ấy ông Cấn đã được đóng lon cai rồi. ông cụ thấy con được thăng chức thì rất buồn. Nỗi buồn ấy hẳn day dứt ông già khi nhìn thấy con trai quần áo nhà binh mặc chỉnh tề, cái lon cai như chữ "nhân" lộn ngược đeo ở ống tay áo bên phải. Kể ra cũng không khó cắt nghĩa về việc lên cấp này. Từ lính lên cai, đội Cấn đã làm việc nhà binh ba năm trời. ông vốn là người không muốn để ai khinh mình. Vì thế, ông lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề. ông lại giỏi chữ cho nên được dùng vào việc thảo giấy tờ với dinh bố chánh án sát trong tỉnh. Cách cư xử đĩnh đạc, biết tự trọng của ông đã khiến bọn giám binh, quản, đội phải trọng và anh em binh lính cũng kính nể ông. Bỏ làng ra đi, tưởng tìm được cái gì mới nhưng té ra ở trại lính khố xanh, đội Cấn đã chứng kiến bọn giám binh Tây đối xử với binh lính người bản xứ như thế nào? Những phiên gác bên đề lao đã giúp đội Cấn những dịp gặp gỡ với các quốc sự phạm và ông hiểu thêm về khí phách của những con người đáng kính ấy. Việc bỏ làng ra đi, tuy thế vẫn mở rộng tầm mắt của đội Cấn. ông được nghe kể lại sự tích đoàn kết, can trường của những dân quê Trung Kỳ đã kéo lên huyện, lên tỉnh rầm rập đòi bãi bỏ đi sâu, đòi giảm thuế, miễn thuế. ông được nghe kể lại chiến tích anh hùng của các nghĩa sĩ cần vương Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình, các nghĩa sĩ vùng Bãi Sậy, vùng sông Đà.... ông được nghe kể về những cuộc nổi dậy của đồng bào thiểu số vùng núi Đông Bắc....

Nói gọn lại, những năm gần đây, dân ta từ Bắc Kỳ đến Nam Kỳ, từ người già đến người trẻ đã đứng lên bằng hình thức này hoặc hình thức khác chống lại ách xâm lược của đế quốc Pháp một cách không hề biết mệt mỏi, không hề nản lòng. Những hiểu biết ấy giúp ông nhận ra rằng một khi ách xâm lược vẫn còn thì cả đất nước cũng chỉ là một nhà tù lớn mà cả dân tộc vẫn đang sôi sục tìm cách đập toang nó ra. Chính vì hiểu được điều đó nên ông vẫn giữ được thiên lương. ...Đội Cấn nhìn cổng trại Bô-dông với cảm giác khác hẳn mọi lần. Hình như cái cổng trại này không những làm cho ông man mác nhớ lại cổng chùa làng Nhan mà nó nhắc nhủ ông điều gì mới. Đêm nay, cái cổng trại này sẽ chứng kiến một cuộc khởi nghĩa. Đời ông sẽ sang một bước đường mới. Người lính gác cổng kia sẽ không phải là một tên lính khố xanh nữa. Quân khởi nghĩa sẽ từ đây tổ chức cuộc đánh chiếm và giữ tỉnh lỵ. Và lá cờ khởi nghĩa sẽ bay phấp phới kiêu hãnh trên ngọn cột cờ kia... Đội Cấn bước vào cổng. ông chào người lính gác rồi vào phòng cảnh bị ghi tên lên sổ điểm tên. Từ phòng cảnh bị, đội Cấn nhìn ra sông chính. Cảnh trại hôm nay vẫn chẳng khác gì ngày hôm qua. Tốp lính cỏ vê đang xách xô, xách chổi lếch thếch kéo nhau đi dọn nhà xí. Tốp lính vệ sinh đang quét bụi mù cái sân giữa và cổng lớn. Hai anh lính mới quần áo còn nguyên hồ đang rụt rè kéo nhau lên nhà giám binh ở quả đồi cao kia. Đó là hai phiên lính hầu, bổ củi, dọn nhà, dọn vườn, giặt quần, giặt áo cho vợ chồng Nô-en và con nó, và cả việc tắm chó, cho chó đi đái đi ỉa nữa. Từ phía bể nước tắm, tiếng cười vô tư của đám lính trẻ vẳng lại nhưng đội Cấn không thấy khó chịu như trước đây. ông nghĩ bụng: Đó là những người sẽ theo ta trong giờ hành sự. Khi họ hiểu ra họ là những người nô lệ cầm súng bắn giết những người nô lệ thì họ sẽ quay súng bắn vào đầu giặc. Bao giờ dân ta mới thoát khỏi cảnh tôi đòi, nô lệ nhục nhã này? Việc đó tùy thuộc ở nhiều người, những người thương nòi thương nước cùng chí hướng với ông. Đến giờ phút này ông mới tự trách mình đã quá dè dặt nên không giác ngộ thêm được một số binh lính nữa. Đội Cấn cởi khuy cổ áo. Tiết trời giữa thu mà sao oi bức nghẹt thở thế này. Gió đưa hơi nóng mặt đường phả vào hầm hập. Tiếng cười bên bể nước tắm vẫn vẳng lại. Đội Cấn ra khỏi phòng cảnh bị đi về phía dãy phòng dành riêng cho hạ sĩ quan. ông chào đáp lễ mấy người đồng sự như một cái máy. Dần dần đội Cấn thấy lòng mình bình thản hơn. ông đến phòng số 5, giơ tay gõ nhẹ vài tiếng. Đây là căn phòng dành cho đội Trường nhưng đội Trường chỉ ở đây ban ngày, còn anh ta lúc nào cũng ngủ đêm ngay trong kho súng. ông hỏi người bạn đồng cấp có khuôn mặt đẹp và ánh mắt rụt rè, xa cách:

-Thế nào?
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM