Đại tá Lê Tâm (tên thật: Nguyễn Hy Hiền, 1921), nguyên Trưởng phòng Quân giới Nam Bộ. Ông là một trong 7 sĩ quan đầu tiên ở Nam Bộ được phong quân hàm Đại tá (1949). Ông được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng giải thưởng nhà nước Hồ Chí Minh năm 1996. Đại tá Lê Tâm quê tại làng Niêm Phò, Xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế cùng xã với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Làng quê mà nhà thơ Tố Hữu đã mấy câu thơ viết về:
''Như quê bạn, Niêm Phò trơ trụi
Đạn bom cày cả nương sắn, đồng khoai...''
Bố của của Nguyễn Hy Hiền là cụ Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại từng phụng chiếu Hoàng đế Thành Thái "sung phó chủ khảo" khoa thi hội năm Tân Sửu-1901, cùng cụ chánh chủ khảo Cao Xuân Dục, hiệp biện đại học sĩ, phó tổng tài Quốc sử quán, chấm bài làm của các vị cử nhân "lai kinh hội thí", để lấy đỗ tiến sĩ, phó bảng. Hai cụ Nguyễn Sinh Huy (còn gọi là Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh chủ tịch Hồ Chí Minh) và cụ Phan Châu Trinh cùng đỗ phó bảng trong khoa thi năm 1901 ấy.
Người xưa từng nói: "Sĩ học hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên". Nghĩa là: Kẻ sĩ học tập với niềm mong ước trở thành người hiền, người hiền mong ước trở thành bậc thánh, còn bậc thánh thì mong ước trở nên anh minh, khoan thứ như lồng lộng trời cao! Cụ Tiểu Cao chọn đặt tên Hy Hiền cho con trai thứ là nhằm gửi gắm ở anh chút kỳ vọng.
Từ nhỏ, ông đã học rất giỏi. Năm 1939, ông đỗ đầu tú tài Tây, cả ban toán lẫn ban triết ở Huế. Lúc bấy giờ Hội Như Tây du học (một tổ chức khuyến học của Nam triều) mỗi năm cấp một suất học bổng cho học sinh nào xuất sắc nhất trong cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam. Nguyễn Hy Hiền được nhận suất học bổng đó. Rời Sài Gòn lênh đênh mấy tháng trời trên cùng một chuyến tàu thủy với Lê Văn Thiêm sang Pháp học. Từ đấy hai người trở thành đôi bạn chí thân.
Sau khi bổ túc kiến thức tại Trường Saint Luis, ông thi đỗ vào Trường Quốc gia Cầu - Ðường, một trong mấy "trường lớn" của nước Pháp. Trước đó mấy năm, Phạm Quang Lễ (Thiếu tướng Trần Ðại Nghĩa) cũng theo học trường này. Căng-tin của trường nằm trong khu la-tinh, cách Trường Ðại học Sư phạm Paris-nơi Lê Văn Thiêm và Trần Ðức Thảo theo học-chỉ vài trăm mét. Hằng ngày, ba người này và Phạm Quang Lễ thường cùng ăn cơm ở căng-tin. Tại Paris hình thành một nhóm trí thức trẻ người Việt hăng hái hướng về cách mạng.
Năm 1946, Ðoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do ông Phạm Văn Ðồng dẫn đầu, sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleu. Các trí thức trẻ Lê Văn Thiêm, Phạm Huy Thông, Nguyễn Hy Hiền tình nguyện giúp việc không lương cho Ðoàn.
Khi nghe kỹ sư Hiền tỏ ý muốn về nước tham gia cách mạng, ông Phạm Văn Ðồng tin cậy viết thư giới thiệu để đến khi trở về, nếu bị kẹt lại tại Sài Gòn, thì kỹ sư Hiền có thể liên hệ với cơ sở bí mật ở trong đó. Ðêm 19-12-1946, chiếc tàu thủy chở kỹ sư Hiền ghé cảng Tân Gia Ba (Singapore), đúng vào lúc ở trong nước, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 23-12, tàu cập bến Sài Gòn. Ông tìm đến nhà bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, lúc đó đang công khai giữ chức giám đốc Viện Pasteur, đưa thư giới thiệu.
Một tháng sau, ông thay bộ đồ Tây sang trọng thường mặc bằng bộ áo quần bà ba đen, lên một chiếc xe thổ mộ lóc cóc chạy về phía Củ Chi. Ðến chỗ vắng, ông xuống xe, lặng lẽ len lỏi qua đồn bốt Pháp, rồi được một chú liên lạc đón, đưa ra bưng biền. Cùng ra bưng biền với ông hôm ấy còn có giáo sư Hoàng Xuân Nhị.
Ngay sau đó, Hoàng Xuân Nhị sáng lập và làm chủ bút tờ báo L'Appel du Maquis (Tiếng gọi Bưng biền) in bằng tiếng Pháp để phát hành vào vùng tạm bị địch chiếm đóng. Còn ông được ông Nguyễn Bình giao phụ trách ngành quân giới, và vào năm 1949, trở thành một trong bảy sĩ quan đầu tiên ở Nam Bộ được phong quân hàm đại tá. Ngay sau khi ra bưng biền tham gia kháng chiến, ông đổi tên Lê Tâm để bảo vệ cho dòng tộc và gia đình trong vùng bị Pháp chiếm đóng.
Mặc dù quân giới không phải là chuyên ngành của ông, nhưng được tướng Nguyễn Bình tin tưởng giao cho công việc hết sức quan trọng này. Ông đã phải tự học rất nhiều và đã có những đóng góp to lớn cho ngành quân giới Nam Bộ thời kì Kháng chiến chống Pháp.
Chiến trường Nam Bộ không có nơi nào địa hình hiểm trở để có thể xây dựng thành An toàn khu (ATK) như vùng rừng núi Thái Nguyên-Tuyên Quang-Bắc Cạn. Các xưởng quân giới phải đổi chỗ luôn, lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười, lúc chuyển đến chiến khu Ð, lúc lui về vùng rừng ngập mặn Bà Rịa - Vũng Tàu. Khu rừng này có loài cây sác chịu mặn, nên gọi là rừng sác. Pháp đến, ta chôn máy xuống đất. Pháp rút, ta lại đào máy lên! Khó khăn là vậy nhưng vẫn xây dựng được những xưởng quân giới lớn, như xưởng của Bộ Tư lệnh Nam Bộ có gần 1.000 cán bộ, công nhân, xưởng của quân khu 8 có 300. Lực lượng quân giới Nam Bộ đông tới 8.000 người. Sống trong rừng lầy lội, đầy muỗi, vắt, thế mà cán bộ và chiến sĩ vẫn chế được súng cối, bộc lôi, địa lôi, đạn súng trường, đạn súng lục, sửa chữa súng, và về sau, còn chế cả SS...
Liên lạc giữa Việt Bắc và Nam Bộ vô cùng khó khăn, thường chỉ bằng điện tín mật mã, ngắn gọn. Năm 1949, mới có một đoàn cán bộ quân giới do kỹ sư Trần Ðại Nghĩa cử vào, mang theo một ít tài liệu về ba-dô-ca và SKZ. Nhưng điều kiện ở rừng sác không giống ở Việt Bắc.
Kỹ sư Lê Tâm nghĩ tới một loại súng có sức công phá bằng cỗ đại bác nặng hàng tấn thép, nhưng chỉ nhẹ khoảng 5-10 kg để anh vệ quốc có thể vác trên vai. Muốn vậy, phải tự chế tạo được đạn lõm, loại đạn mới xuất hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi bị kích nổ, đạn lõm chỉ tập trung năng lượng vào một luồng, đủ tạo ra sức nóng tới 3.000 độ C, áp suất hàng trăm át-mốt-phe, chọc thủng vỏ thép xe tăng dễ như chiếc đũa xuyên qua... cục bơ! Lính Pháp ngồi trong xe cháy thành than! Loại súng này không đòi hỏi thuốc đẩy tốt như thuốc con bài, mà có thể dùng thuốc đẩy thông thường của súng cối. Viên đạn lõm to hơn nòng súng, chỉ có chuôi đạn nằm trong nòng. Thuốc đẩy viên đạn bay ra phía trước và, cùng một lúc, đẩy khối lùi (có thể tiện bằng gỗ) bay lại phía sau, do đó triệt tiêu lực giật. Kỹ sư Lê Tâm đặt tên cho loại vũ khí mới này là SS, nghĩa là Súng Rừng Sác.
Lúc bấy giờ, binh lính Pháp thường ngồi trong xe tăng, xe bọc thép, tàu chiến, nghênh ngang càn quét vùng căn cứ kháng chiến. Súng trường, súng máy, lựu đạn của ta không thể làm gì được! Nhưng bỗng xuất hiện SS-AT bắn cháy xe tăng! Dòng kênh Nam Bộ bề ngang chỉ rộng chừng 80 mét. Từ trên bờ kênh, các chiến sĩ du kích nấp trong rừng Sác, kẹp khẩu SS-B, SS-L hay SS-88 (cỡ lớn hơn SS-AT) phụt một quả đạn lõm, đạn chỉ cần bay khoảng 40 mét là đã có thể va vào thành tàu, nổ tung, vỏ tàu thủng, nước ùa vào, tàu chìm nghỉm! Ta chỉ mới dùng SS đánh mấy trận, Pháp đã chùn bước, không còn dám ngông cuồng như trước!
Năm 1952, được Trung ương điều động, kỹ sư Lê Tâm "tháp tùng" ông Lê Duẩn, đi bộ một mạch sáu tháng rưỡi từ Nam Bộ ra Việt Bắc, dọc theo con đường mòn sau này sẽ được mở rộng thành đường Hồ Chí Minh. Ðể có thể tiếp nhận vũ khí hạng nặng từ Trung Quốc chở sang, phía Trung Quốc đề nghị ta mở đường mới rộng 8 mét, rộng hơn mặt đường quốc lộ ở Ðông Dương thời ấy (6,5 mét), với độ dốc, độ cua thấp hơn. Ðó chính là con "đường ta rộng thênh thang tám thước/đường Bắc Sơn - Ðình Cả - Thái Nguyên" mà Tố Hữu ngợi ca trong bài thơ nổi tiếng Ta đi tới. Thật ra, con đường này bắt đầu từ Mục Nam Quan, qua Ðồng Ðăng, rồi mới đến Bắc Sơn, và chạy tiếp về Ðình Cả, Thái Nguyên, dài 150 km, chỉ làm trong sáu tháng, bằng sức người và cuốc xẻng. Tốt nghiệp ngành cầu - đường tại Paris, kỹ sư Lê Tâm được điều từ Nam Bộ ra đây để tham gia chỉ đạo mở đường, chuẩn bị cho Chiến dịch Ðiện Biên Phủ...
Hòa bình trở lại trên nửa nước. Ông về Hà Nội, giữ chức Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật đường sắt tham gia chỉ đạo phục hồi các tuyến đường Hà Nội-Mục Nam Quan, Hà Nội-Vinh, rồi làm chủ nhiệm Khoa Xây dựng Trường đại học Bách khoa, Cục trưởng Cục Ðo lường, Ủy viên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), tổng biên tập tạp chí Hoạt động khoa học, v.v.
Năm 1986, Nhà nước ta phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình Một số vũ khí đặc biệt trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954) trong đó có vũ khí SS do ông và các cộng tác viên nghiên cứu, chế tạo thành công trong rừng Sác Nam Bộ.
Kĩ sư Lê Tâm là con rể của Giáo sư Nguyễn Xiển, một trong những trí thức lớn của Việt Nam.
Theo Báo Nhân dân