Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:11:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cách mạng văn hoá liệt truyện - Tập 2  (Đọc 56688 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:07:11 pm »

Tên sách: Cách mạng văn hoá liệt truyện-Tập 2
Tác giả: Thiên Đảo Hồ
Người dịch: Nguyễn Duy Chiếm
Nhà xuất bản: Mũi Cà Mau
Năm xuất bản: 2003
Số hoá: ptlinh, chuongxedap




Chương I
OAN  HỒN CỦA CÔNG THẦN


1
Tiếng súng đầu tiên của cách mạng văn hóa vừa nổ
Bành Đại tướng quân cũng gục đổ theo ngay


1. Án của người khác có thể sửa lại, còn án của Bành Đức Hoài thì không thể sửa được

Trong Hội nghị Lưu Sơn, vì một bức “Vạn ngôn thư” đã làm Bành Đức Hoài thua sạch. Bị giam lỏng ở vườn hoa Ngô Gia. Sau này khi Mao Trạch Đông đã nhận ra sai lầm của đại nhảy vọt, thái độ đối với Bành Đức Hoài có phần thay đổi. Nhưng vở kịch Hải Thụy mở màn cách mạng văn hóa lại đẩy Bành Đức Hoài vào vực sâu tai họa, một Bành Đại tướng quân dọc ngang yên ngựa năm xưa bị tiếng pháo đầu tiên của cách mạng văn hóa bắn gục.

Ngô Hàm viết kịch Hải Thụy, Mao Trạch Đông biết, Hồ Kiều Mộc đã nói với ông, ông còn bảo Hồ Kiều Mộc cố gắng động viên Ngô Hàm, để Ngô Hàm nói cho được tinh thần cùng dân đồng cam cộng khổ của Hải Thụy. Nhưng hôm nay, sau khi xem xong “Hải Thụy bãi quan”, Mao Trạch Đông lại có chút không vui. Cái chữ “bãi quan” quá nhức mắt, ngoài ra sao lại viết vào kịch bản sự việc “về vườn”, ở đây có chút mùi vị của “tam tự nhất bao” (câu nói tắt của “Tự chịu lỗ lãi, thị trường tự do, đất phần trăm và khoán sản phẩm đến hộ - Tự phụ doanh khuynh, tự do thị trường, tự lưu địa hòa bao sản đáo hộ - N.D). Cái án của Bành Đức Hoài do có vở kịch “Hải Thụy bãi quan” nên tính chất càng nghiêm trọng. Trong thời gian Hội nghị Bắc Đới Hà họp, vì phải chủ trì viết bài luận chiến giữa hai đảng Trung Xô nên Khang Sinh đã mấy lần đến gặp Mao Trạch Đông, trong khi trò chuyện cũng đã nhắc đến “Hải Thụy bãi quan”, Khang Sinh đề nghị tổ chức viết bài phê phán vở kịch này, Mao Trạch Đông lắc đầu một cách sâu xa khó hiểu. Khang Sinh lo lắng hỏi: “Tôi thấy có tình hình là một số người không bằng lòng với việc chống phái hữu ở Hội nghị Lư Sơn, muốn xử lại án Lư Sơn, hiện nay cơn gió xử lại án, cơn gió làm ăn riêng lẻ thổi rất gấp. Trước khi Đặng Tử Khôi đến Bắc Đới Hà, đã đến Trường Đảng Trung ương giảng một hồi, rõ ràng là đã chửi Đảng không có một chỗ nào đúng, cơn gió này có quan hệ với Bành Đức Hoài”. Mao Trạch Đông gật gật đầu nói: “Án của Bành Đức Hoài không thể sửa lại được, chống phái hữu không thể như cơn gió thoảng qua, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh ở Trung Quốc cứ đổi cái tên mà hay, gọi là Chủ nghĩa xét lại Trung Quốc”.

Mao Trạch Đông nói, án của người khác có thể sửa lại, nhưng án của Bành Đức Hoài thì không được. Trên thực tế Bành Đức Hoài đã trở thành tù nhân, liên tục bị “phái tạo phản” đánh đập, đày đọa, bức cung, phê phán đấu tố, đồng thời bị giam trong nhà lao, ngăn cách hẳn với bên ngoài. Mao Trạch Đông đã từng nói vấn đề của Bành Đức Hoài “hãy để cho lịch sử kết luận”. Cuối năm 1965, Bành Đức Hoài đã kết thúc, cuộc sống bị giam lỏng 6 năm ở công viên Ngô Gia đến Tứ Xuyên chủ trì công việc xây dựng ba tuyến, ông muốn làm một chút công việc cho nhân dân trong những năm còn lại của cuộc đời. Nhưng không lâu sau, cơn sóng dữ “đại cách mạng văn hóa” phút chốc đã nhấn chìm ông vào vực sâu tai họa.

3 giờ sáng ngày 24 tháng 12 năm 1966, cơn gió lạnh buốt xương ào ào thổi trên đường phố Thành Đô, một đám khách không mời mà đến ngồi trên chiếc xe gíp bỗng phanh két, dừng trước cổng số nhà 7 ngõ Vĩnh Hưng.

Đám khách không mời mà đến này từ Bắc Kinh tới. Chúng cãi nhau với vệ binh ở cổng, khăng khăng đòi xông vào cổng. Thư ký Kỳ Khôi Anh nghe tiếng, khoác áo đi ra, nhưng không ngăn nổi đám hồng vệ binh ngang ngược vô lý, trái lại còn bị đấm đá túi bụi.

Một ông lão gày gò từ trong nhà đi ra, vẫn còn chưa hỏi rõ có chuyện gì, thì đã bị đám hồng vệ binh Bắc Kinh vây kín. Chúng từ ngàn dặm xa xôi kéo đến Thành Đô chính là để bắt ông già này - Bành Đức Hoài!
Từ sau Hội nghị Lư Sơn năm 1959, Bành Đức Hoài mai danh ẩn tích, gần như bị mọi người quên bẵng. Bài viết dài “Bình “Hải Thụy bãi quan”” của Diêu Văn Nguyên nói: “Bành Đức Hoài chính là Hải Thụy”, phút chốc đẩy Bành Đức Hoài vào dòng xoáy của cuộc đấu tranh!

Giang Thanh không những muốn phê “Hải Thụy bãi quan” của Ngô Hàm, mà còn muốn đấu “Hải Thụy” sống - Bành Đức Hoài tả tơi tan tác!

Ngày 28 tháng 12 năm 1966, tại doanh trại của một đơn vị ở Ngũ Khỏa Tùng thuộc ngoại ô phía tây Bắc Kinh. Xe hơi chạy đến cửa một gian phòng trong doanh trại. Từ trên xe bước xuống một người mặc áo khoác dài màu xanh xám, ông đi vào trong phòng cởi áo khoác ôm đầu ngủ ngay.

Chợt từ trong túi áo khoác rơi ra một cuốn “sách quý màu đỏ”, chiến sĩ cảnh vệ rón rén nhặt quyển sách, mở ra xem, trên trang bìa giả ghi ba chữ quen thuộc hiện rõ trước mắt - Bành Đức Hoài.

Chiến sĩ cảnh vệ mỗi lần lấy cơm cho ông, nếu cơm có độn ngô khoai thì ông chỉ ăn ngô, khoai, sắn còn để lại cơm. Ăn còn thừa, ông đều đổ vào chiếc ca sắt tráng men đã bị sứt mẻ, bữa sau đun nóng lại để ăn. Chiếc ca sắt vừa dùng để múc nước súc miệng, uống nước, vừa dùng để làm nồi cơm. Ông thường cầm nó và nói với các chiến sĩ: “Bữa nay tôi có cơm rồi, không phải lấy nữa”.

Một chậu nước nóng, ông thường dùng mấy lần, trước tiên là rửa mặt, sau đó rửa chân, rồi giặt vạt chiếc áo vừa cởi ra.

Các chiến sĩ hỏi ông: “Vì sao ông chỉ ăn phần độn ngô, khoai?”. “Tôi không làm việc gì, ăn chỗ độn ngô khoai là tốt lắm rồi”, ông đáp.

Một hôm, một chiến sĩ cắt tóc cho ông, đã hỏi: “Này ông già (họ gọi Bành Đức Hoài như vậy), nghe nói trước đây ông to như Lâm Phó Chủ tịch, phải không?”

Ông đáp: “Ồ, không không, tôi không so được với ông ấy. Ông ấy giỏi hơn tôi nhiều”.

“Ông vẫn rất khiêm tốn, nói thì nói chứ làm sao ông ấy giỏi bằng ông được?”

“Ông ấy hơn tôi vì biết hô muôn năm!”

Mùa hè năm 1967, Bành Đức Hoài viết cho Lôi Văn, kế toán của Văn phòng xây dựng ba tuyến ở Tứ Xuyên, nơi ông đã từng công tác: “Đồng chí kế toán, mỗi tháng 18 đồng sinh hoạt phí vừa đủ nộp tiền ăn. Số độ kính mắt của tôi không đủ nữa, đọc sách không được, cần phải thay mắt kính khác, tôi cũng cần một chút xà phòng thuốc đánh răng, liệu có thể được tăng cho tôi mỗi tháng mấy đồng?”

Lôi Văn chợt thấy cay cay ở sống mũi. Nhưng chị lại không thể giúp gì được ông. Chị chỉ là một kế toán, không có cách gì thay đổi được những quy định có liên quan từ cấp trên. Cho đến bây giờ chị vẫn thấy áy náy và đau khổ vì điều này.

Bành Đức Hoài đành phải đi nhờ người khác giúp đỡ ông xin người cảnh vệ cũ của mình là Cành Hy Trân gửi sách cho ông. Cảnh Hy Trân đã gửi sách, nhưng sách lại không đến tay Bành Đức Hoài. Cháu gái của Bành Đức Hoài là Bành Mai Khôi cũng nhận được thư nhờ giúp đỡ của ông. Chị đã gửi cho ông một bó sách to và một chiếc máy thu thanh nhưng những thứ ấy có đi mà không có đến, bặt vô âm tín.
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Hai, 2021, 09:16:06 am gửi bởi ptlinh » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:09:34 pm »


2. “Ngày mai phải lên bàn mổ. Hôm nay tôi muốn đi gặp Mao Chủ tịch!”

Mùa hè năm 1967, đại biểu cách mạng văn hóa Trung ương muốn đến thẩm vấn Bành Đức Hoài. Bành Đức Hoài nghe tin, vô cùng phấn khởi, ông sửa sang lại quần áo của mình ngay ngắn, rồi ngồi nghiêm chỉnh đợi đại biểu Trung ương đến. “Đại biểu” Trung ương mà ông mong trên thực tế là Vương Đại Tân tên cầm đầu phái tạo phản (một trong năm lãnh tụ lớn của Hồng vệ binh Bắc Kinh).

Đại biểu được Trung ương cử tới ào ào kéo đến, đẩy ngã Bành Đức Hoài vào góc tường đấm đá túi bụi. Sau khi đánh một trận, lại ra lệnh buộc ông trong một thời hạn phái thú nhận những vấn đề sau:

1. Quan hệ với Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Hạ Long.

2. Ở chiến trường Triều Tiên đã phản đối phương châm chiến lược của Mao Chủ tịch.

3. Mao Ngạn Anh rốt cuộc đã chết như thế nào?...

Bành Đức Hoài bị Hồng vệ binh “bắt” đưa từ vùng Tây Nam về Bắc Kinh, bị nhốt trong một doanh trại quân đội ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh.

Chẳng có ai bầu bạn, ông là một tù nhân, có bệnh không được chữa, khắp người vừa bẩn vừa hôi, một chiếc quần lót mặc đến gần 3 tháng.

Sau khi tết Dương lịch năm 1972 qua đi, đột nhiên Bành Đức Hoài lặng lẽ, không nói không cười, cũng chẳng mắng chửi ai. Sắc mặt ông xanh vàng, mỗi ngày đi ngoài bốn năm lần, trước khi đi ngoài ông luôn lặp lại một câu: “Bụng không tốt phải nhanh”.

Về sau chuyển đến Trường Cán bộ Hành chính pháp luật, theo chỉ thị của Chu Ân Lai, ngày 16 tháng 3 năm 1972, các bác sĩ từ các bệnh viện lớn đã đến khám kiểm tra toàn diện cho “án phạm”, Bành Đức Hoài từ chối không khám, ông nói: “Tôi không khám, bây giờ tôi không còn làm việc nữa, là phản cách mạng, là giai cấp tư sản, là phần tử xét lại, khám bệnh làm gì!”. Càng nói càng xúc động.

Ngày hôm sau, bác sĩ đến phòng số 5, thuyết phục ông cho lấy máu, xét nghiệm máu kết quả bình thường. Trên thực tế tế bào ung thư đã và đang gặm nhấm dần sinh mạng của ông.

Ít lâu sau, tay phải ông bị đau dữ dội, mọc lên một cái u nhỏ; ông đi ngoài phân nhão, mất ngủ ngày càng nặng, hằng ngày một hai giờ sáng đã tỉnh và cứ mở mắt thức cho đến sáng ngày hôm sau.

Sau đó ông thường xuyên đi ngoài ra máu, bị ngất hai lần.

16 gờ ngày 10 tháng 4 năm 1973, Bành Đức Hoài đi ngoài một lần ra khoảng từ 800 đến 1000 cc máu, qua bác sĩ giám hộ kiểm tra, phát hiện ông bị bệnh trĩ ngoại, sau đó được xử lý cầm máu. Tổ chuyên án nghĩ đến chỉ thị của Chu Ân Lai về việc án phạm có bệnh có thể được nằm viện chữa trị, đã báo cáo lên trên về bệnh tình của Bành Đức Hoài, đề nghị đưa Bành Đức Hoài đến bệnh viện khám.

Tối hôm ấy, Bành Đức Hoài lại đi ngoài ra máu. Giám hộ liên hệ với bệnh viện Phụ Ngoại, bệnh viện không nhận. Liên hệ với bệnh viện Nhất Sư khu Vệ Thú lại bị từ chối. Cho mãi đến tối ngày thứ bảy khi ra nhiều máu, Bành Đức Hoài mới được đưa đến khám tại phòng khám số 9 của Bệnh viện Giải phóng quân tức Bệnh viện 301. Qua khám ở khoa nội và khoa ngoại xác định là ông bị ung thư trực tràng, đã ở giai đoạn cuối.

Con đường vật lộn với khổ đau đang sắp kết thúc, người tù vĩ đại sắp hạ tấm màn của cuộc đời!

Trong giờ phút ấy, ai dám đến để quan tâm tới số phận của ông, đem đến cho ông niềm an ủi cuối cùng?

6 năm trước, tháng 6 năm 1967, người cháu gái gọi Bành Đức Hoài bằng bác, Bành Mai Khôi đã từng được phép đưa quần áo thức ăn cho Bành Đức Hoài, nhưng ít lâu sau, lại bắt đầu cuộc đại phê phán Bành Đức Hoài trong cả nước. Bành Mai Khôi và các em trai em gái của chị trong những bài hồi ký đã viết, lúc ấy “anh chị em chúng tôi hầu như ai cũng bị thẩm tra, bị phê phán đấu tố”, “chúng tôi tiếp tục gửi đồ đạc cho ông, một lần, lại một lần... 3 năm, 5 năm đã qua rồi, mà chúng tôi vẫn không nhận được một tin tức gì của ông”, “Trong tình cảnh không còn cách nào nữa, chúng tôi đã nghĩ đến Thủ tướng Chu Ân Lai”.

Cuối năm 1972, Bành Mai Khôi lấy hết dũng khí và can đảm viết cho Chu Ân Lai một bức thư, hỏi thăm tung tích của bác.

Thư rơi vào tay ban chuyên án. Tổ chuyên án báo cáo lên trên: Bành Đức Hoài “qua nhiều năm được Đảng giáo dục” nhưng đến nay vẫn không nhận tội,... tạm thời chưa cho gặp người thân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:10:07 pm »


Ngày 17 tháng 4 năm 1973, Bành Đức Hoài được xác nhận là bị bệnh ung thư trực tràng ở giai đoạn cuối. Ngay tối hôm ấy, tổ chuyên án trong báo cáo gửi Trung ương về tình hình bệnh tật của Bành Đức Hoài mới nói: “Theo giấy chẩn đoán bệnh tình của Bành Đức Hoài thì nguyên nhân của đi ngoài ra máu là do khối u ung thư bị vỡ, khối u ở vách sau bên trái trực tràng, cách hậu môn 6-7 cm, khối u khoảng 5 cm, ở trung tâm có một vết loét, khối u khá lớn, đã ở vào giai đoạn cuối”.

Đêm ấy, trăng sắp lặn, mờ mờ ảo ảo, sắc mặt Bành Đức Hoài bạc phếch, ông nói với người chiến sĩ ngày đêm giám sát ông: “Tạm biệt”. Từ đó, ông kết thúc cuộc sống tù tội dài tới 6 năm 3 tháng lẻ 23 ngày, ra khỏi nơi tường cao song sắt, bước vào đoạn đường cuối cùng của cuộc đời.

Ngày hôm sau, Bành Đức Hoài nằm trên chiếc giường số 5, bệnh phòng 14, Bệnh viện 301. Đây là bệnh phòng một người. Tường vôi màu trắng, ga giường màu trắng, chỉ có cửa sổ từ trên xuống dưới đều dán giấy báo kín mít, u ám, sầu não. Cửa bệnh phòng trong và ngoài đều có lính gác. Theo chỉ thị của Chu Ân Lai thì đối với Bành Đức Hoài chỉ “bảo vệ ở ngoài để ở trong chữa bệnh”, nhưng không được tuân theo.

Sáng sớm ngày 21, y tá đến quét dọn, mở cánh cửa sổ, bệnh phòng chợt bừng sáng. Bành Đức Hoài nói với y tá: “Giúp tôi bóc hết giấy dán trên cửa sổ đi”. Y tá đáp: “Ông nói với chiến sĩ cảnh vệ”. Bành Đức Hoài bỗng nổi nóng đập bàn: “Tôi không phải là “145” (để giữ bí mật trong bệnh viện, không gọi tên là Bành Đức Hoài mà dùng số bệnh phòng và số giường, giống như đối với phạm nhân vậy), mà là Bành Đức Hoài ở Lư Sơn ấy! Đã vào nằm viện rồi, các người vẫn không yên tâm sao!? Tôi không ở cái phòng nguyệt bà này (ý chỉ phòng sản phụ che kín không để gió và ánh sáng)! Tôi muốn về ở nhà tù!”. Người lính gác nói, sau này có việc gì thì nói với tổ chuyên án. Bành Đức Hoài tức giận đập bàn càng mạnh hơn. Ông nhận ra, ông vẫn là kẻ tù tội, đã vào ở một phòng giam mới.

Tối ngày 22, Bệnh viện thông báo cho ông biết, theo bệnh tình thì cần phải mổ. Bành Đức Hoài đề xuất là muốn cấp trên cử người đến nói chuyện với ông và gặp mặt người cháu gái là Bành Mai Khôi.

Chiều hôm sau, hai người trong tổ chuyên án dẫn Bành Mai Khôi vào bệnh phòng. Bành Mai Khôi nhìn thấy bác chia ly đã 7 năm, và phải sống 6 năm ở trong tù bị đày đọa đau ốm nằm trên giường bệnh, trong lòng dâng trào nỗi chua sót, miệng há ra mà không sao nói được một tiếng nào. Bành Đức Hoài chìa tay run rẩy, nắm chặt lấy Bành Mai Khôi. Vì người của tổ chuyên án đứng ngay bên cạnh, Bành Mai Khôi không thể hỏi nhiều nói nhiều. Một lúc sau, với sự thúc giục của nhân viên tổ chuyên án, Bành Mai Khôi gạt lệ từ biệt bác. Bành Đức Hoài dặn: “Cháu về đi, sau này đừng đến thăm bác nữa, kẻo lại cản trở công tác”. Bành Mai Khôi đến thăm người bệnh mà như đến thăm người tù, Bành Đức Hoài sợ liên lụy đến cháu gái.

Chu Ân Lai được biết Bành Đức Hoài bị ung thư trực tràng ở giai đoạn cuối, vô cùng sốt ruột, đã chỉ thị cho Biện Tự Cường Chủ nhiệm phòng khám ở Trung Nam Hải đem chỉ thị của ông đến Bệnh viện 301 tìm hiểu bệnh tình của Bành Đức Hoài, hỏi xem: Vì sao đi ngoài ra máu đã hơn một năm mà không phát hiện ra? Trong thời gian hơn một năm đã khám bệnh bao nhiêu lần? Bác sĩ nào khám? Đồng thời hỏi Bành Đức Hoài có đồng ý mổ không?

Ngày 24, Bệnh viện họp trước khi mổ quyết định ngày 26 sẽ mổ. Buổi tối, Bành Đức Hoài từ chối mổ. Ngày 25, người của tổ chuyên án vội vàng đi tìm BànhMai Khôi, bảo chị đến động viên Bành Đức Hoài phẫu thuật. Bành Mai Khôi vừa hay bệnh tình trầm trọng của bác, nội tạng đều suy yếu. Đến bệnh phòng, thì thấy bác đang ngồi trên giường bệnh, hai môi mím chặt nhìn chăm chú vào tường nhà. Bành Mai Khôi nức nở: “Bác ơi!” Bành Đức Hoài lúc đầu nín thinh, chầm chậm nhìn quanh một lượt mới nói: “Bác không mổ đâu”. Bành Mai Khôi vừa định khuyên, Bành Đức Hoài quay đầu nói to với người của tổ chuyên án: “Trước khi mổ tôi yêu cầu được đi gặp Mao Chủ tịch! Tôi có việc muốn gặp Mao Chủ tịch! Ngày mai mổ, hôm nay tôi muốn đi gặp Mao Chủ tịch! Tôi muốn nói rõ ý kiến của tôi đối với các vấn đề...” càng nói càng xúc động, từ giường bước xuống xỏ giày đi ra cửa. Bác sĩ khuyên: “Không nên nóng nảy, chúng ta sẽ bàn dần dần”. Bành Đức Hoài phẩy tay: “Tôi sẽ đi, đi ngay bây giờ!” “Vấn đề làm rõ rồi sẽ mổ!” “Một đời cõng chảo đen, chịu cái tội không đâu, chết cũng không cam lòng!”.

Bành Đức Hoài đề xuất muốn gặp lãnh đạo bệnh viện, Phó Giám đốc bệnh viện và Phó Chính ủy Bệnh viện 301 cùng đến. Bành Đức Hoài trịnh trọng đề xuất: “1) Lùi ngày mổ, tôi có một tài liệu cần viết về xây dựng ba tuyến và vấn đề phương châm phòng ngự chiến lược, tôi muốn nhân lúc đầu óc còn tỉnh táo trước khi mổ để viết; 2) Tối nay các anh gọi điện thoại liên hệ để Chủ tịch và Thủ tướng tiếp kiến tôi”. Những người lãnh đạo bệnh viện đồng ý thay ông phản ánh yêu cầu và kiên trì việc mổ, sau đó cùng nhân viên chuyên án cố ý ra ngoài, để lại một mình Bành Mai Khôi.

Bành Mai Khôi dắt bác ngồi vào ghế tựa, Bành Đức Hoài hỏi cô cháu gái làm bác sĩ: “Mai Khôi, bệnh của bác chỉ có thể mổ thôi ư?” “Vâng, mổ là biện pháp tốt nhất”. Bành Mai Khôi lại nói ý kiến của mình: “Bác có thể đi gặp Mao Chủ tịch được không? Bây giờ bác phải cùng với các bác sĩ, tranh thủ sống thêm ít năm nữa, chẳng có một chút gì xấu cả, bác cứ làm như vậy đi”. Bành Đức Hoài nín lặng, nghe Bành Mai Khôi nói: “Bác ạ, bác bình tĩnh lại một chút, việc gì cũng không thể giải quyết ngay trong một lúc, bệnh của bác không thể để lâu, mổ sớm sẽ có lợi!”.

Bành Đức Hoài im lặng, một lúc sau ông nhìn Bành Mai Khôi: “Vậy thì bác sẽ mổ”.

7 giờ 15 phút ngày 26, ca mổ bắt đầu. Bác sĩ Lục Duy Thiện Chủ nhiệm khoa ngoại bệnh viện 301 mổ chính. Chụp cắt lớp xác định là u ác phải cắt bỏ hoàn toàn, đồng thời kết tràng tạo lỗ sông.

1 giờ 40 chiều, ca mổ hoàn tất.

Bành Đức Hoài tỉnh dậy trên giường bệnh, câu nói đầu tiên thật thê thảm: “Tôi thành một người tàn phế rồi!”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:12:13 pm »


3. Kết thúc cuộc đời trong tiếng gào

Do suy nhược sau khi mổ, tâm trọng tồi tệ, cố gắng của các bác sĩ không ngăn được tế bào ung thư nhanh chóng lan rộng.

Tổ chuyên án nói Bành Đức Hoài “thường phóng độc”, nên không cho cháu gái thăm nom thường xuyên. Sự chăm sóc của y tá đối với Bành Đức Hoài không thể bằng các bệnh nhân khác. Bành Đức Hoài nằm trên giường bệnh đọc sách, để chống lại sự giày vò về tinh thần và thể xác.

Từ năm 1973, dọn đến Trường Cán bộ Hành chính pháp luật, “án phạm” được phép nhờ giám hộ mua giúp một chút thực phẩm, sách báo và đồ dùng. Trong số 25 người bị tù, ông là người mua đồ ăn ít nhất và mua sách báo nhiều nhất. Ông nói nếu có sách mới thì mua cho tôi. Ông đọc “Mác - Ăng-ghen tuyển tập”, đọc “Sử ký”, đọc hết “Sử ký”, lại muốn đọc “Tùy thư”, “Đường thư”, muốn mua cả Nhị Thập tứ sử về để đọc.

Đọc sách cũng không thể làm dịu yên được sự phẫn nộ trong lòng. Một lần, mua về một cuốn sách nhỏ “Chúng ta đang tiến lên”. Trong sách đã gọi tên chỉ họ mắng Bành Đức Hoài. Bành Đức Hoài lật giở xem, rồi gấp lại, bực tức nói: “Bất chấp sự thật, không điều tra viết bừa”.

Nửa năm trôi qua, vết thương của ông vẫn tấy đỏ. Ngày 24 tháng 10, chụp phim kiểm tra tế bào ung thư đã lan rộng đến phổi. Ngày 19 tháng 11, bắt đầu trị liệu bằng hóa học.

Trị liệu hóa học được hơn một tháng, phản ứng ngày càng nghiêm trọng, nôn mửa, ra mồ hôi, đi ngoài từ nhão thành nước, Bành Đức Hoài đứng ngồi không yên, tâm trạng rối loạn. Bác sĩ quyết định ngừng truyền dịch, Bành Đức Hoài bảo: “Cứ truyền đi, có thể rút ra bài học kinh nghiệm”.

Tết Dương lịch năm 1974, Bành Đức Hoài nằm trên giường bệnh. Không một người đến thăm, ông lẩm bẩm một mình: “Lại một năm nữa trôi qua”. “Đây là năm cuối cùng rồi!” Ông dự cảm rằng năm nay sẽ là điểm cuối cùng của cuộc đời ông.

Nhân dân nhật báo” số tết đưa đến tay ông, ông cầm đọc, lời chúc tết Dương lịch lại là “đại phê phán”, lại chỉ đích danh Bành Đức Hoài. Ông vứt tờ báo, tức giận thở gấp.

Tế bào ung thư nhanh chóng lan rộng ra khắp người, nên phải trị liệu hóa học lần thứ hai, Bành Đức Hoài liệt nửa người, sinh hoạt không thể tự làm được nữa. Tổ chuyên án cho phép các cháu trai cháu gái của Bành Đức Hoài được đến thăm vào ngày chủ nhật. Bành Mai Khôi, Bành Chính Tường, Bành Khang Bạch và Bành Cương, trong bài “Hồi ức đẫm nước mắt” đã viết: khi chúng tôi đến thăm ông, ông dùng hết sức lực mà cũng không ngồi dậy được, ông nằm trên giường kêu lên một cách đau đớn: “Làm sao đây? Tôi bị liệt rồi, tự mình không lo liệu được cho mình nữa rồi, nhưng án của tôi vẫn chưa được làm rõ ràng!” Bành Đức Hoài dặn dò các cháu: “Sau khi bác chết, hãy chôn tro xương của bác xuống đất, bên trên trồng một cây ăn quả, tro xương có thể làm phân bón”. Ông mãi mãi không bao giờ quên nhân dân, những người đã nuôi dưỡng ông.

Theo yêu cầu của bác sĩ, giấy dán trên cửa sổ bệnh phòng được bóc đi một nửa, Bành Đức Hoài có thể nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Theo yêu cầu của bác sĩ, họ cho phép ông ra phơi nắng, nhưng phải trong thời gian chỉ định, đến ngồi ban công nào cũng được chỉ định, ra vào vẫn phải tránh gặp mặt những bệnh nhân khác. Tóm lại, buộc ông phải cách biệt với thế gian.

Bệnh phòng 14 là bệnh phòng cán bộ cao cấp của Bệnh viện 301. Mấy vị tướng cũ nằm viện ở đây phát hiện thấy anh Bành nằm trong bệnh phòng số 5 bị canh gác phong tỏa nghiêm ngặt, trong lòng họ thấy xúc động vô cùng: Anh Bành ở đây! Anh ấy ra sao? Có đến thăm anh ấy được không? Có người từ dưới lầu lén nhìn khi ông ra ban công phơi nắng; Thượng tướng Lý Tụ Khuê đã từng cùng ông tham gia cuộc khởi nghĩa Bình Giang đã giả vờ đi nhầm chỗ xông vào phòng để được nhìn thấy ông, để được an ủi và chào ông bằng ánh mắt.

Tháng 2 năm 1974, ngón tay bên phải của Bành Đức Hoài lại bắt đầu đau nhức, tiếp đó là vết mổ bị đau rồi vai phải cũng đau, sự đau đớn dữ dội giày vò, ông lăn lộn trên giường mồ hôi vã ra như tắm.

Bị đau đớn dữ dội giày vò, đến tháng 6 năm 1974, ông gầy tọp hẳn đi, bắt đầu mê sảng. “Buổi tối không hửng sáng, ban ngày không sẩm tối”, người lính gác ghi lại, ông nói câu ấy hết lần này đến làn khác. Ông muốn bắt tay y tá, nhưng y tá không chìa tay, ông muốn bắt tay chiến sĩ, nhưng chiến sĩ cũng không chìa tay, ông nói: “Xin từ biệt!”.

Ông không còn bất cứ một ràng buộc nào nữa, trên giường bệnh ông lấy tất cả sức lực toàn thân bật ra tiếng kêu: “Tôi không thông đồng với nước ngoài!” “Hãy đem bức thư của tôi viết ra mà xem, rốt cuộc có phải là công kích hay không?”

Tháng 10 năm 1974, Bành Đức Hoài ở trong tình trạng thường xuyên bị hôn mê, chỉ dựa vào truyền dịch để duy trì sự sống.

Một hôm, ông tỉnh lại, ông nói rành rọt với Bành Mai Khôi: “Sau khi bác chết, đưa tro xương của bác về quê, đừng nói với người ta, đừng làm phiền người ta, các cháu đem chôn nó đi, trên mặt trồng một cây táo, để bác báo đáp mảnh đất quê hương lần cuối cùng, báo đáp bà con thân thuộc”. Ông chỉ vào cửa sổ bị dán kín bằng giấy đen, huơ huơ cánh tay khẳng khiu như cành củi khô gào lên: “Xé đi! Xé đi!” Nhân viên chuyên án không thèm để ý đến yêu cầu cuối cùng ấy của ông, ông thét lên giận dữ: “TM... TM...”.

Ông không giãy nổi nữa, vì toàn thân ông đã bị liệt, ông đành phải dùng hàm răng của ông cắn chặt vào góc chăn, dùng bàn tay vẫn còn hoạt động được xé chiếc chăn cho đến nát, xé đến khi hàm răng ông tóe máu, đôi môi rách toạc, xé cho đến khi tinh lực trong ông khô kiệt mới thôi.

8 năm trời, ông đơn thương độc mã chiến đấu trên một chiến trường đặc biệt, giữ vững chân lý, giữ vững diện mạo vốn có của lịch sử, với tinh thần dũng cảm không sợ hãi dám nói, dám tức giận, dám chửi, chính khí lẫm liệt, xem cái chết như không. Cá tính rõ rệt của ông đã để lại một sắc màu nồng đậm trên tấn bi kịch chính trị trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, lịch sử sẽ mãi mãi còn vang vọng tiếng thét cuối cùng của ông!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:13:57 pm »


2
Vì nhờ vả Lâm Bưu, Mao Trạch Đông nhẫn tâm biến La cao thành thấp
Bịa ra cuộc “Binh biến Tháng Hai”, Khang Sinh từ phía sau đâm chết “Thần Long”


1. Lâm Bưu gãi vào chỗ đau của Mao Trạch Đông

Từ trước khi “đại cách mạng văn hóa” bùng nổ, Lâm Bưu đã không bằng lòng với La Thụy Khanh: ông không hành sự theo màu mắt của Lâm Bưu, nhưng lại thường được Mao Trạch Đông khen ngợi. Từ cuối năm 1965, Lâm Bưu đã bí mật mưu tính với Diệp Quần và Ngô Pháp Hiến, tạo ra các loại tài liệu giả, muốn đưa La Thụy Khanh vào chỗ chết.

Bây giờ Mao Trạch Đông đã bắt đầu phát động “cuộc đại cách mạng văn hóa” nói theo lời của ông ta: “Chính trị trong giờ phút then chốt, phải dựa vào thực lực quân sự để nói chuyện”. Chính “giờ phút then chốt” ấy, Mao Trạch Đông phải nhờ vả Lâm Bưu, ngoài việc tỏ rõ lòng trung thành và quyết tâm ra, Lâm Bưu không để lỡ thời cơ nêu ra “khó khăn”.

“La Thụy Khanh, con người này...” Lâm Bưu đã suy nghĩ trù tính từ lâu, mưu kế đã vạch sẵn, nhưng lại vẫn làm ra vẻ do dự, ấm ức, “không thể bảo đảm con người này nghe lời”. Ông ta luôn muốn cướp quyền của tôi, trong quân đội làm riêng một kiểu, người mà tôi không yên tâm nhất là ông ta”.

“Ờ?” Mao Trạch Đông sau sự ngạc nhiên không tỏ thái độ ngay...

Mao Trạch Đông lim dim cặp mắt, ánh mắt mơ màng dần dần đọng lại thành một điểm, lướt qua những chữ nhỏ phía sau bài viết, đó là bài bình “Phu xe” của Phùng Mộng Long:

Từ xưa đến nay các nước cát cứ, như Lý Trì, Vương Kiến, Mạnh Tri Tường đều thừa dịp nó không làm gì được, lấy trộm miệng thịt mà ăn.

Lâm Bưu không phải là không muốn lấy trộm miếng thịt sao? Ông ta nói rất có mức độ và giới hạn, không nói La Thụy Khanh muốn cướp quyền của Mao Trạch Đông cũng không nói là Mao Trạch Đông không yên tâm về La Thụy Khanh, ông ta chỉ nói La Thụy Khanh muốn cướp quyền của ông ta, đã làm cho ông ta không yên tâm nhất.

Điều này có nghĩa là hỏi Mao Trạch Đông: Có thể vì tôi mà chịu đau cắt bỏ hay không?

Đối với Mao Trạch Đông mà nói, nếu nói ông không tin La Thụy Khanh, thì trong toàn Đảng sẽ chẳng còn một ai đáng tin nữa. Nói về quan hệ cá nhân, ông tin sự trung thành của La Thụy Khanh hơn tin Lâm Bưu, thậm chí hơn cả tin Giang Thanh; nhưng là lực lượng chính trị và quân sự đảm bảo cho “đại cách mạng văn hóa” giành thắng lợi thì ông tin Lâm Bưu hơn tin La Thụy Khanh.

“Sói tự cắn mông”. Lâm Bưu ghê gớm hơn, cái mà ông ta muốn là thịt ở trong lòng.

Phút chốc, Mao Trạch Đông đã nghĩ ngay đến “Hàn Tín”, đôi chân trần lộ ra khỏi chăn nhẹ nhàng cựa quậy, rồi như bị ai đá một cái vội rút vào trong chăn.

Lưu Bang liên tục thua trận và bị vây hãm, Hàn Tín không động binh, bảo đất Tề chưa yên bình, muốn giả danh hiệu của Tề vương để thu phục nhân tâm. Lưu Bang chửi bới, bị Trương Lương đá vào chân, phút chốc hiểu ra, nhân đó đổi giọng: Đã làm thì làm Tề vương thật, làm Tề vương giả làm gì?

Để đánh bại Hạng Vũ, Lưu Bang đã thực phong cho Hàn Tín làm Tề vương.

Ba mươi lăm năm trước Lâm Bưu đã từng được là “Hàn Tín”, lúc ấy vì mưu lược của ông ta hơn người, đánh trận rất hay, nay thực sự thành “Hàn Tín”, ông ta không giống như La Thụy Khanh ở chỗ sự cố gắng và trung thành của La Thụy Khanh không kể tiền bạc, còn sự trung thành và cố gắng của ông ta đều cần có thù lao. Nửa đời “trên lưng ngựa giành thiên hạ”, Mao Trạch Đông là thống soái thưởng phạt nghiêm minh. Lâm Bưu có công lao rất lớn, Mao Trạch Đông thưởng cho ông ta cũng khác thường. Lâm Bưu bị thương nặng ở trận Bình Hình Quan, Mao Trạch Đông cưỡi ngựa đi hơn ba mươi dặm đến thăm; Lâm Bưu từ Liên Xô chữa bệnh trở về, Mao Trạch Đông đi xa mười dặm để đón, lại tổ chức mít tinh long trọng chào đón ở lễ đường Trung ương, cho Lâm Bưu được nhận “sự đón tiếp của nhiều người đứng ở hai bên đường”. Thời Tam Quốc, Ngô vương Tôn quyền đã từng cởi áo bào trên người khoác lên người Chu Thái vì có công bảo vệ xa giá, đây là sự khen thưởng cao nhất của quân vương đối với thần tử từ xưa tới nay. Mao Trạch Đông trong Đại hội Đảng khóa 8, đã bỏ phiếu bầu chủ tịch Đảng vốn thuộc về mình cho Lâm Bưu, cử chỉ này còn hơn cả Tôn Quyền cởi long bào. Sau khi Lâm Bưu chủ trì công tác của Quân uỷ Trung ương, Mao Trạch Đông đã viết thư riêng cho Hạ Long chỉ rõ: “Công tác chính trị tư tưởng và công tác quân sự của quân giải phóng, sau khi thông qua việc đồng chí Lâm Bưu đề xuất bốn nhất, tác phong Tam Bát (ba kỷ luật lớn và tám điều chú ý - N.D), so với trước đây đã có tiến bộ rất lớn, cụ thể hóa hơn và lý luận hóa hơn. “Không còn nghi ngờ gì nữa chính là bảo với Hạ Long rằng: Lâm Bưu có mặt hay vắng mặt, công tác của Quân ủy đều không thể xa rời khuôn mẫu của Lâm Bưu. Cùng lúc viết thư cho Hạ Long, Mao Trạch Đông cũng viết thư cho Lâm Bưu, quan tâm tới ông ta, nhắc ông ta cần “có hướng dưỡng bệnh”, đồng thời viết tặng “Quy Tuy Thọ” của Tào Tháo: “Con ngựa hay tuy đã già nằm bên máng cỏ nhưng chí vẫn ở ngoài ngàn dặm, tráng sĩ về già chí khí vẫn không một chút phôi phai...”

Những niềm vinh dự đặc biệt như vậy, còn chưa nói tới việc mời Lâm Bưu tham gia Bộ Chính trị, đích thân nêu tên chọn ông ta làm Phó Chủ tịch Đảng, Phó Chủ tịch thứ nhất Quân ủy Trung ương, bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng... Nhưng, Lâm Bưu vẫn chưa thỏa mãn, còn muốn “cắn mông của nó”. Không, ông ta muốn Mao Trạch Đông phải cắt khúc ruột mình!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:15:12 pm »


2. Vì muốn trừ ma phải mượn uy Chung Quỳ

Trên thực tế, chính vào năm 1965, khi Lâm Bưu bắt đầu nhanh chóng leo lên đến đỉnh cao nhất của quyền lực chính trị Trung Quốc, ông ta đã để lại trong lòng Mao Trạch Đông một bóng đen dài khiến người ta không rét mà run. Lâm Bưu lên càng cao, thì bóng đen ấy càng dài càng đậm. Năm 1966, sau khi xem bài nói chuyện ngày 16 tháng 5 xong, Mao Trạch Đông đã viết thư cho Giang Thanh gọi Lâm Bưu là “vì muốn trừ ma, phải mượn Chung Quỳ”, bày tỏ sự “bất an, bất ổn” ẩn kín trong lòng. Năm 1967, Mao Trạch Đông lại đi thị sát ở vùng Nam Bắc Trường Giang, ông đã chỉ vào “Bốn cái vĩ đại” hỏi: “Ai phong cho tôi bốn cái chức quan này?”. Còn nói với Dương Thành Vũ quyền Tổng Tham mưu trưởng và một số người rằng: “Khỏe mạnh mãi mãi cái gì, lẽ nào lại có người không chết?” Còn “khoẻ mạnh mãi mãi” chính là món hàng chuyên dụng của Lâm Bưu.

Có rất nhiều sự thực chứng tỏ Mao Trạch Đông không vừa lòng, lo ngại và cảnh giác đề phòng đối với Lâm Bưu chính là bắt đầu từ việc Lâm Bưu yêu cầu hạ bệ La Thụy Khanh, mà không phải là Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khóa 9 họp ở Lư Sơn, Lâm Bưu muốn làm Chủ tịch Nhà nước.

Nhưng, trong vấn đề La Thụy Khanh, Mao Trạch Đông giống như Lưu Bang phải đối mặt với việc Hàn Tín xin phong làm Tề vương, không thể không làm trái với lòng mình để Lâm Bưu được vừa ý. Những người chịu khó đọc sách sử có thể phát hiện. Sức mạnh có thể buộc Mao Trạch Đông phải làm trái với lòng mình hết lần này đến lần khác không nhiều, một là “tình thế”, hai là Lâm Bưu. Hồi ấy, giây phút mà người vệ sĩ nhìn thấy mắt Mao Trạch Đông nhắm lại giận dữ vứt cuốn “Liêu trai chí dị”, làm anh ta sợ giật nảy mình. Do tâm trạng hoang mang, Mao Trạch Đông đã dùng lực rất mạnh, cuốn sách nảy lên rồi rơi xuống giường. Vệ sĩ vội nhảy một bước tới đỡ được.

Chính giờ phút ấy, số phận của La Thụy Khanh, rồi sau này đến số phận của Hạ Long đã được quyết định mà không sao cứu văn nổi... Sự vu cáo, bịa đặt và gièm pha nghiêm trọng như những chậu nước bẩn đổ vào vị tướng quân đã từng thập tử nhất sinh, thương tích đầy người trong vô số cuộc chiến đấu để sáng lập nên nước Cộng hòa. Có miệng mà khó cãi, sự oan khuất và đau đớn vì bị hãm hại ngầm mà không có cách gì đánh trả đã làm cho tướng quân khó tự kiềm chế. Trong Hội nghị Thượng Hải, Lâm Bưu đã đánh đổ được La Thụy Khanh, trong lòng rất đắc ý.

Mưu kế của Ngô Pháp Hiến là đẩy La Thụy Khanh vào cái xã hội mà đấu tố bắt bớ đã thành nếp muốn lợi dụng nếp xấu này để đầy đọa hành hạ La Thụy Khanh cho đến chết. Cứ như vậy phê đấu luân phiên, xỉ nhục về nhân cách, đày đọa về thể xác, một sự đối xử mà con người không thể nào chịu nổi.

Mưa to gió lớn, càng làm cho La Thụy Khanh kiên định lòng tin đấu tranh dẻo dai với kẻ thù mang những cuốn sổ đỏ. “Phải sống” mới có thể làm cho nhân dân “hiểu được lòng ta”, mới có thể nhìn thấy mặt trời sau khi xua tan những “đám mây che phủ bầu trời”. Đã có kẻ chờ mong ông chết nhanh, La Thụy Khanh càng phát hiện ra rằng sinh mệnh của ông có ý nghĩa.

Vì mục đích này, tháng 6 năm 1968, La Thụy Khanh yêu cầu mổ đùi. Ngày 3 tháng 8, tổ chuyên án La Thụy Khanh đã báo cáo yêu cầu này lên 5 người. Giang Thanh, Diệp Quần, Trần Bá Đạt, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến. Từng cái vòng tròn được khuyên lại, nhưng đến Diệp Quần thì tình hình đột biến. Buổi sáng ngày 4 tháng 8, Diệp Quần gọi điện thoại cho Ngô Pháp Hiến, truyền đạt bằng giọng nói hung ác: “Vấn đề mổ của La Thụy Khanh, Lâm Bưu không đồng ý, phải trì hoãn việc tiến hành. Lâm Bưu bảo, hiện nay chưa tìm ra tài liệu gì ở La Thụy Khanh nên phải nắm chắc việc thẩm vấn và đấu tranh, tìm cho ra tài liệu... Nếu sau khi phẫu thuật không tốt thì tài liệu gì cũng không thể viết ra được. Lúc nào phẫu thuật sẽ tính sau”.

Sự kêu gào của vợ chồng Lâm Bưu, Diệp Quần chứng minh La Thụy Khanh không chịu nhượng bộ bọn gian tặc một chút nào. “Chưa tìm ra tài liệu gì” trở thành nỗi lo âu của chúng.

Diệp Quần đã chuyển tới Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến tâm trạng bức bách của Lâm Bưu, Lâm Bưu nói là: “Phải nắm chắc tội trạng chủ yếu của phần tử phản cách mạng với tội ác tày trời La Thụy Khanh, muốn tổ chuyên án La Thụy Khanh nắm chắc tội trạng này để tiến hành đấu tranh thẩm vấn La Thụy Khanh. Phải chú ý La Thụy Khanh là một phần tử vô cùng xảo quyệt mấy năm qua vẫn không nhận sai, không bộc lộ tài liệu gì, cực kỳ hiểm ác. Vấn đề La Thụy Khanh yêu cầu phẫu thuật, không thể phê chuẩn, phải trì hoãn, sau này sẽ tính”.

Lâm Bưu đã nghiến răng nói những lời ấy. Không đánh đổ La Thụy Khanh thì ngôi báu của Lâm Bưu không thể không bị uy hiếp nghiêm trọng.

Thật đáng quý! Xương sát hồn trung! Trước mặt Lâm Bưu và đồng bọn, La Thụy Khanh “vẫn không nhận sai”. Tướng quân là một khúc xương cứng, chúng không gặm nổi.

Chủ nghĩa phát xít nắm chính quyền, chủ nghĩa nhân đạo không còn gì. Trì hoãn mổ là một sự đày đọa, cũng là một sự uy hiếp.

Vết thương bên chân trái của ông mưng mủ không khỏi: “Mi nói đi, mi tiếm đoạt quân đội, chống Đảng, mi tổ chức tập đoàn chống Đảng, mi câu kết với đặc vụ, nói rồi, sẽ cho ngươi chữa chân, sẽ cho ngươi dễ chịu”.

La Thụy Khanh dùng im lặng thay cho trả lời.

Một ngày 24 tiếng, lôi ông ra, kéo ông vào luân xa chiến (nhiều người thay nhau đánh - N.D), tinh thần chiến (đánh bằng tinh thần - ND) đều dùng cả. Sức khỏe ngày càng suy giảm, sốt cao, nửa đêm ông kéo lê đôi chân lần theo tường vách đi đại tiện, người trông coi bực mình vì động tác chậm chạp lại đẩy ông ngã lăn trên đống bùn làm xương đùi bị gãy.

Không thể không mổ, trên bàn mổ, xương đùi vốn có thể nối được nhưng lại bị cắt đi, thế là chân trái của La Thụy Khanh mất đi khả năng lắp chân giả. Lũ ma qủy sợ hãi ông đứng lên với tư thế của người khổng lồ biết dường nào!

Cuối năm 1973, Mao Trạch Đông đã nói một câu ngụ ý sâu xa rằng, vấn đề La Thụy Khanh, tôi đã nghe một phía ở Lâm Bưu, đã làm sai, phải xử lại án này. Về sau, án đã được xử lại, vì lịch sử luôn công bằng. Nhưng từ đó La Thụy Khanh không đứng lên được nữa. La Thụy Khanh mãi mãi chỉ có thể ngồi trên chiếc xe lăn để hoạt động.

Ngày 9 tháng 9 năm 1976, khi tin Mao Trạch Đông qua đời truyền đi, La Thụy Khanh đã khóc nức nở. Ông bất chấp mọi ngăn cản và trở ngại, vội vàng về Bắc Kinh, dùng đôi chân gãy đang còn chảy máu chảy mủ đỡ tấm thân bệnh tật, đứng nghiêm hơn một tiếng đồng hồ trước di thể của Mao Trạch Đông, khóc nức nở như đứa trẻ, khiến ma quỷ cũng phải đau buồn...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:16:01 pm »


3. Nhìn chòng chọc vào miếng “thịt rồng”

Từ cuối năm 1965 đến tháng 5 năm 1966, Mao Trạch Đông đặc biệt chú ý đến việc phòng ngừa chính biến phản cách mạng, đã dùng rất nhiều biện pháp. Sau khi vấn đề La Thụy Khanh xảy ra, Mao Trạch Đông đã nói đến vấn đề này, rồi sau khi Bành Chân đưa ra đề cương báo cáo tháng hai, Mao Trạch Đông lại tìm người để bàn vấn đề điều binh khiển tướng, phòng ngừa chính biến phản cách mạng, tiến hành bố trí lực lượng ở các trạm điện đài đài phát thanh, hệ thống quân đội, công an. Mao Trạch Đông đã tìm ai để bàn vấn đề phòng ngừa chính biến, Lâm Bưu không nói. Nhưng muốn điều binh khiển tướng, thì không thể thiếu Lâm Bưu, Lâm Bưu cũng vui mừng nhân cơ hội này, cài nhưng thân tín của mình vào các ngành quan trọng.

Để tạo nên nỗi hoảng sợ về một cuộc chính biến đang đến gần, nhằm tiến đến việc cướp quyền trong lúc loạn lạc, trong bài nói chuyện lần này, Lâm Bưu đã lần lượt điểm lại một số cuộc chính biến, nào là “Chính biến ở cửa Huyền Vũ”, “Loạn bát vương”, “Chính biến ở cầu Ngự Hà”, “Ung Chính mưu đoạt ngôi vua” v.v... và v.v…, giống hệt một kẻ theo chủ nghĩa chính biến, ý của Lâm Bưu chẳng qua là dùng chính biến để dọa Mao Trạch Đông, để ông giao nhiều quyền hơn về quân sự cho mình, đánh đổ sáu nguyên soái: Trần Nghị, Lưu Bá Thừa, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Hạ Long, Diệp Kiếm Anh.

Quỷ kế của Lâm Bưu không đến nỗi mất công không. La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, Lục Định Nhất, Bành Chân vì chia nắm quyền lớn ở bốn ngành quan trọng Bộ Tổng tham mưu. Văn phòng Trung ương, Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng và Thủ đô đã bị đánh đổ. Quỷ kế của Lâm Bưu bước đầu đạt mục đích, tiếp sau đó liền thò tay vào chỗ sáu vị nguyên soái trong Quân ủy. Nhưng sáu người này đều là khai quốc công thần, chức cao công lắm, Lâm Bưu khó có thể ra tay.

Nhưng ngày ấy, cuối cùng đã đến, đó là do Lâm Bưu sắp đặt, Diệp Quần vận dụng cụ thể những thủ đoạn độc ác, có thể nói là đã tạo nên một chương sử đặc biệt hãm hại kẻ trung thần.

Trung tuần tháng 8 năm 1966, Lâm Bưu ngồi ở phòng Chiết Giang trong Đại lễ đường Nhân dân. Buổi sáng hôm ấy, ông ta gọi Ngô Pháp Hiến đến nói chuyện về tình hình Hội nghị toàn thể Đảng ủy Không quân, mở đầu ông ta đã chấn chỉnh: “Hội nghị này của các anh, Hạ Long đã nhúng tay rồi. Chỗ nào Hạ Long cũng nhúng tay, Bộ Tổng Tham mưu, Hải Quân, Không quân, Học viện Chính trị đều nhúng tay”. Còn nói: “Không quân là một miếng thịt béo bở, ai cũng muốn ăn. Hạ Long cử người đến muốn đoạt quyền của anh, anh phải cảnh giác và đề phòng”.

Từ 1966 đến 1969, Lâm Bưu, Diệp Quần, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng phối hợp với nhau, chụp cho Hạ Long vô số mũ, còn tội danh thì kể không hết. “Đại thổ phỉ”, “Đại quân phiệt”, “Đầu hàng địch”, “Tay trong của những hoạt động cướp quyền quân sự”, “không biết đã giết trao nhiêu người”, “sợi chỉ đen do Hạ Long cầm đầu”, “bom hẹn giờ”, “thông đồng với nước ngoài”, “làm chính biến phản cách mạng”, “theo dõi Mao Chủ tịch ở Thượng Hải” v.v... và v.v... Quả là đã tìm hết cách.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:17:54 pm »


4. Mượn dao giết người

Diệp Quần núp trong góc gối chờ đợi thời cơ và phương pháp đánh đổ Hạ Long. Bà ta quyết định dùng “kế mượn dao giết người”.

Một hôm, Diệp Quần ra khỏi phòng thư ký, mắt chợt sáng lên. Bà ta nhìn thấy một người cao lớn từ sau tấm bình phong vẽ hình “chim công khai bình” đi ra.

“Anh Tống, vẫn chưa về à?” Diệp Quần niềm nở bước tới: “Anh vất vả quá, Anh làm việc như vậy rất có trách nhiệm, đồng chí Lâm Bưu và tôi rất cảm ơn anh...”.

Người đến là Trưởng phòng Cảnh vệ Văn phòng Quân ủy Tống Trị Quốc. Anh ta với tư cách là Trưởng phòng cảnh vệ, có trách nhiệm trực tiếp về sự an toàn của các thủ trưởng, đặc biệt là đối với Lâm Bưu, cho nên thường đến nơi ở của các thủ trưởng thuộc Quân ủy để xem xét, kiểm tra công tác cảnh vệ, cũng thường đến Đại lễ đường Nhân dân (Hội trường Quốc hội - N.D.) và đến trò chuyện với các cảnh vệ ở các phòng phía Tây.

Diệp Quần quả là có tài, có thể làm cho người ta sợ, cũng có thể làm cho người ta yêu, đặc biệt là cùng với những người không có quan hệ lợi hại, nhưng lại thường có sự qua lại. Bà ta có thể niềm nở sởi lởi, làm cho anh cảm động, cam lòng tận lực vì bà ta. Ví dụ như Tống Trị Quốc, mỗi lần gặp, bà ta đều niềm nở chào hỏi, có lúc còn “quan tâm” vồn vã hỏi han, làm Trưởng phòng Tống Trị Quốc rất cảm động.

Diệp Quần hiểu, “kẻ sĩ sẽ chết vì người tri kỷ”. Trong lịch sử chính trị ở Trung Quốc, ví dụ nhiều không kể xiết. Rất nhiều người là thủ trưởng nhưng rất “keo kiệt”, ngay vẻ mặt tươi cười, mấy tiếng chào hỏi cũng không chịu ban cho người dưới.

Sau sự quan tâm hỏi han ân cần, nét cười biến mất, thay vào đó là sắc mặt nghiêm nghị. Theo khuôn mẫu trò chuyện ở thời đại ấy, là nói về tình hình đấu tranh giai cấp, trước tiên là quốc tế sau đến trong nước rồi liên hệ thực tế, chuyển sang chuyện trước mắt, gợi ý Tống Trị Quốc là phải xóa bỏ sự sùng bái, nắm chắc chiều hướng mới trong đấu tranh giai cấp.

“Tư tưởng Mao Trạch Đông là kính hiển vi, chỉ cần dùng quan điểm giai cấp để quan sát xã hội, quan sát thế giới, quan sát chung quanh chúng ta thì sẽ thấy được cặn kẽ, thông qua hiện tượng bên ngoài để nắm bản chất của sự vật”. Diệp Quần nghiêm nghị nói: “Anh Tống Trị Quốc ạ, hiện nay đấu tranh giai cấp ở Thượng tầng rất gay gắt và rất phức tạp, hằng ngày anh hay đến nơi ở của các vị nguyên soái, anh có phát hiện thấy chiều hướng nào không?”. Tống Trị Quốc nghiêm trang, thậm chí có chút căng thẳng, anh ta ngẫm nghĩ nghiêm túc rồi hỏi một cách không chắc chắn: “Chủ nhiệm nói nhà ai?”.

“Nhà Hạ Long”. Diệp Quần nhìn chằm chằm vào mặt Tống Trị Quốc thốt ra ba tiếng.

Tống Trị Quốc rùng mình một chút nhưng không ai nhận ra, tất nhiên anh ta đã hiểu được tầm quan trọng của cuộc nói chuyện hôm nay. Phút chốc ngập ngừng đáp: “Không có chuyện gì...”.

“Anh cứ nghĩ kỹ đi”, Diệp Quần dùng khẩu khí không cho phép nghi ngờ, “Không có chuyện gì thì tôi đã không hỏi anh. Hạ Long hoạt động khắp nơi, ở Bộ Tổng Tham mưu lôi kéo Vương Thượng Vinh, nổ súng vào lãnh đạo Tổng Tham mưu, đó là muốn xử lại án La Thụy Khanh, muốn cướp quyền của thủ trưởng, cũng có nghĩa là thò tay tới Mao Chủ tịch”...

“Ồ, nhớ ra rồi”. Tống Trị Quốc có lẽ đã tin sự phức tạp và quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp thật, cũng có thể là có sự tính toán cá nhân trong sự lợi hại được mất, với vẻ mặt có chút thay đổi: “Nhà Hạ Long, người vào người ra quả thật là rất nhiều, chủ yếu là người thuộc Phương diện quân thứ 2. Mấy hôm trước Hoàng Lập Thanh và Phó Truyền Tác ở Không quân còn đến nhà ông ấy, mang cả trà, còn co co kéo kéo...”.

“Vậy sao anh không báo cáo? Bây giờ là tình hình gì, là giờ phút then chốt của cuộc đại cách mạng văn hóa, phải cảnh giác với kẻ địch của giai cấp, những kẻ có dã tâm của giai cấp tư sản, chó cùng dứt giậu, giãy giụa trước khi chết”.

Tống Trị Quốc gật đầu với vẻ sợ sệt: “Đúng rồi Hạ Long có một khẩu súng lục nhỏ của nước ngoài, buổi tối đi ngủ thường để dưới gối, ra ngoài thì đem theo bên mình, đặc biệt là gần đây, mỗi lần đi đâu đều đem theo...”. Diệp Quần run lẩy bẩy một cách vô thức, tình hình quan trọng này quả là lúc đầu không nghĩ tới. Bà ta vốn chỉ dọa Tống Trị Quốc để cung cấp những chứng cớ về Hạ Long, khuôn mặt sinh ra đã trắng giờ trắng bệch hơn, hốt hoảng trong chốc lát mới nói: “Tình hình mà anh cung cấp rất quan trọng, viết ngay thành tài liệu, nhanh chóng đưa cho tôi”.

Tống Trị Quốc mất hai đêm bận rộn, nhét hai bản tài liệu vào hai phong bì rồi dán kín, trực tiếp giao cho Diệp Quần.

Ngày 28 tháng 8 năm 1966, không khí nóng bức lui dần, buổi sáng ở Bắc Kinh đã có phần mát dịu.

Lâm Bưu còn chưa về Mao Gia Loan, vẫn ở Đại lễ đường Nhân dân, dọn về ở phòng Chiết Giang còn hoạt động thì ở đại sảnh phía tây.

Ông ta bước những bước không thay đổi đi vòng quanh hai tấm bình phong lớn của đại sảnh phía tây, hết vòng này đến vòng khác, chính trong những bước đi chậm rãi đó, một ý nghĩ dần dần chín muồi trong đầu sắp sửa bật ra. Đã đến lúc rồi, cần giải quyết cái tên “Long Râu” này... thư vu cáo hãm hại mà Diệp Quần mượn tay Tống Trị Quốc viết nay đã được thu giữ. Ngày nay đọc những bức thư này, có một số thư thuần túy là bịa đặt, có một số thư rất hoang đường đến mức buồn cười, để dùng làm đối chứng sau này, xin ghi lại đây mấy điều, để cùng tham khảo:

1. “Trên bàn làm việc tại nhà của La Thụy Khanh, dưới tấm kính bàn có ép một tấm ảnh chụp chung 4 người, trong đó có Hạ (Long), Tiết Minh, La (Thụy Khanh), Hách Trị Bình, ngày nào cũng xem. Nhưng không đặt ảnh của Chủ tịch”.

2. “Tôi cảm thấy Hạ (Long) và La (Thụy Khanh), Bành (Chân), Dương Thượng Côn, những phần tử chống Đảng qua lại rất mật thiết. Họ thường xuyên bí mật trò chuyện”, “thái độ của những người thường đến nhà ông ta (Hạ Long) không bình thường”.

3. “Trong phòng riêng của bản thân Hạ Long, ông ta đích thân giữ một khẩu súng ngắn rất tinh xảo, loại súng nhập khẩu, đêm đi ngủ thường để dưới gối, khi ra ngoài thì mang theo, không hiểu vì sao?”.

4. “Việc giáo dục của ông ta đối với cảnh vệ và nhân viên phục vụ không phải là chính trị hàng đầu, mà là nghiệp vụ hàng đầu. Như dạy mọi người phải luyện tay súng giỏi như thế nào, đồng thời yêu cầu mỗi cảnh vệ phải luyện tập sao cho trăm phát trăm trúng”.

5. “Nghe nói Ủy ban Thể dục đã tự động tiêu hủy 120 bộ điện đài, việc này rất khả nghi”.

6. “Nghe nói trong nhà Hạ Long đã từng gắn một máy nghe trộm điện thoại”. v.v... và v.v...

Đã mượn dao giết người lại không muốn để lại dấu vết, Diệp Quần còn dày công đạo diễn một chuyện. Tống Trị Quốc theo lời của Diệp Quần, sau khi viết xong lá thư vu cáo, liền đến chỗ Diệp Quần. Trước mắt ba thư ký trong văn phòng của Lâm Bưu, Diệp Quần giả vờ hỏi Tống Trị quốc: “Những tài liệu mà anh viết đây có phải đều là sự thật hay không? Phải thì tôi đưa mà không phải thì tôi không đưa”.

Tống Trị Quốc đáp: “Hoàn toàn là sự thực. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Hai bè đã hát xong, Diệp Quần thấy chưa đủ lại bảo ba thư ký của “Văn phòng Lâm Bưu” viết một tờ giấy “xác nhận về tình hình Tống Trị Quốc viết tài liệu”, chẳng qua chỉ là chứng minh việc này không có liên quan đến Diệp Quần, là do Tống Trị Quốc chủ động tố giác.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:35:12 pm »


5. Mao Trạch Đông đích thân thẩm vấn

Thư được đưa đến tay Mao Trạch Đông, Mao Trạch Đông gọi Hạ Long đến.

“Ngồi xuống”. Mao Trạch Đông không rời chỗ, phẩy tay ra hiệu, rồi ngồi xuống trước. Thấy Hạ Long ngồi xuống, thong thả nói: “Chẳng có chuyện gì lớn, chỉ có một bức thư, anh xem đi”.

Mao Trạch Đông cầm một bức thư, đưa cho Hạ Long: “Thư của Ngô Pháp Hiến, anh xem đi”.

Hạ Long cầm lấy thư, nheo mắt, rồi đặt thư xuống thò tay vào túi lấy kính, nói khẽ: “Ôi trời, tôi quên đem kính”.

Hạ Long mặc quần áo rất ngay ngắn, trong những năm chiến tranh ông vẫn mặc rất nghiêm chỉnh lịch sự, vừa khít, khỏe khoắn. Bình thường đến chỗ nào, mặc cái gì đều có quy luật. Quần áo ông mặc nói chung có sáu túi, áo có hai túi trên hai túi dưới, quần có hai túi mỗi túi đựng cái gì đều cố định chủ yếu là đựng xì gà, diêm, giấy tay, mùi xoa và kính. Lần này nhận được điện thoại vội vã đi ngay nên quên mất kính.

“Đừng sốt ruột”, Mao Trạch Đông thuận tay cầm kính của mình nhưng lại đặt xuống: “Kính của tôi anh đeo không hợp...”.

“Không sao”, Hạ Long đã cầm bức thư, ông hỏi sốt ruột, muốn biết ngay Ngô Pháp Hiến tố cáo “âm mưu” gì. Ông vừa nheo mắt vừa nói: “Tôi xem chầm chậm, có thể xem được”.

Trong chốc lát im lặng, Mao Trạch Đông hút hai hơi thuốc, uống một hợp nước trà, thấy Hạ Long đọc một cách khó khăn, liền nói với một giọng thoải mái: “Thôi, cũng chẳng có chuyện gì lớn, ngày mai tôi sẽ đưa cho anh một bản sao, anh sẽ xem sau”.

Hạ Long vẫn cầm bức thư, sắc mặt có một chút khó chịu, bức thư bịa đặt.

“Chủ yếu là Hoàng Lập Thanh và Phó Truyền Tác đến nhà anh, về đơn vị Không quân gây chuyện, Ngô Pháp Hiến có ý kiến...” Mao Trạch Đông nói nội dung trong thư.

“Hai người đi họp ở trại một chiêu đãi sở gần nhà tôi. Tôi cũng chỉ gặp họ một lần. Trước đó cũng không biết, họ đi dạo chơi vào buổi tối, thuận đường rẽ vào thăm tôi, cũng chẳng nói chuyện gì, chỉ nói là Hội nghị hoãn chưa họp, nên không yên tâm đối với bộ đội ở đơn vị”. Hạ Long chau mày giải thích. “Tôi có cần đến nói chuyện với Ngô Pháp Hiến không?”.

“Có cái gì mà nói?” Mao Trạch Đông chậm rãi phẩy tay, “Thôi, chẳng có chuyện gì lớn cả”.

“Nhưng những chuyện này từ đâu tới? Tôi chưa bao giờ mang súng theo người, đây chẳng phải là bịa đặt hay sao?”. Mặt Hạ Long có vẻ giận, thò tày vào túi áo lấy xì-gà, diêm, rồi cầm bao diêm giơ lên, “Tay tôi không còn linh hoạt nữa, đến máy lửa còn không dùng nổi, chỉ có thể dùng diêm. Hằng ngày mặc quần, buộc dây giày cũng phải nhờ cảnh vệ giúp. Cậu ấy biết rõ nhất có thể hỏi cậu ấy, lúc nào trên người tôi có mang súng?”

“Anh đừng sợ, tôi làm phái bảo hoàng của anh”. Mao Trạch Đông cười an ủi, vốn dĩ đối với việc mang theo súng ông cũng nửa tin nửa ngờ, nhưng sau khi gặp mặt, ông nhanh chóng nhận ra là chuyện không đâu. Huống hồ, trong thời gian không đến 10 ngày, phút chốc ấy đã nhận được mười mấy bức thư tố cáo Hạ Long, trong lòng đã hiểu rõ đôi phần. Đằng sau nếu không có người bố trí và chỉ huy thì không thể trong phút chốc tập trung nhiều thư như vậy, hơn nữa lại là hành động thống nhất từ mười mấy đơn vị. Nghĩ đến đây, ông an ủi: “Con người anh trước đây rất không dễ dàng, từ nhỏ đã giết kẻ giàu giúp người nghèo khổ, bảo vệ đất nước bảo vệ pháp luật. Danh tướng thời kỳ Bắc phạt, với hai con dao đứng lên làm cách mạng, phát triển thành một quân đoàn, dễ dàng sao? Đến cuộc khởi nghĩa Vũ Xương “Ngày 1 tháng 8”, khi cách mạng ở vào lúc thoái trào thì vào Đảng Cộng sản, không dễ dàng. Một người làrn việc tốt, nhân dân không thể quên; làm việc xấu, nhân dân cũng không thể tha. Thôi không xem nữa, không có chuyện gì đâu, ngày mai tôi sẽ gửi cho anh một bản sao”.

“Chủ tịch, Chủ tịch là người hiểu Hạ Long tôi...”

“Tôi hiểu anh”, Mao Trạch Đông gật gật đầu.

“Tôi đối với anh vẫn là ba điều trước đây: Trung thành với Đảng, trung thành với nhân dân, đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, có liên hệ với quần chúng”.

Tiếp đó, hai người đã nói chuyện Tôn Trung Sơn làm cách mạng, cùng một số chuyện đấu tranh bảo vệ đất nước, bảo vệ pháp luật, cho đến gần trưa mới thôi.

“Chủ tịch đã có thái độ rõ ràng”, Diệp Quần nói với Lâm Bưu, khẩu khí có phần chán nản, “đối với Hạ Long vẫn phải bảo vệ, có sai lầm có thể phê bình, một là phê bình hai là bảo vệ, vẫn phải bảo vệ, Chủ tịch đã nói với Thủ tướng và Đào Chú như vậy”.

“Đã báo cho tôi biết”, Lăm Bưu gật đầu.

“Làm thế nào, oán đã kết lại rồi...”

“Làm theo như Chủ tịch nói”. Lâm Bưu không chần chừ nói ngay. Có hai triển vọng, một là giữ được, một là không giữ được. Thiên hạ đại loạn, loạn là loạn kẻ địch, nhất định bọn này sẽ nhảy ra. Vương Thượng Vinh ở Bộ Tổng Tham mưu, Hoàng Lập Thanh, Phó Truyền Tác ở Không quân, chẳng phải là đã nhảy ra rồi hay sao? Đàm Hữu Lâm ở Bộ đội công trình, Hoàng Tân Đình ở Tứ Xuyên, sẽ liên tục có người nhảy ra. Chơi cờ vây có “đánh cướp”, “cướp” của ai nhiều, so hơi, hơi của ai dài thì người ấy sống, hơi không đủ thì tất cả đều chết, cho nên có hai tiền đồ là vậy”.

“Còn Ủy ban Thể dục”. Diệp Quần đã hiểu ra.

“Quần chúng ở đó sẽ tự đứng lên. Hiện nay còn xa mới loạn đủ, đại loạn sẽ đạt tới đại trị, vấn đề sớm muộn cũng sẽ bộc lộ ra, phải hướng dẫn xu hướng phát triển”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2010, 10:36:16 pm »


6. “Binh biến tháng Hai”, một nhát dao chí mạng

Ngày 8 tháng 9 năm 1966, ngày thứ 3 sau khi Mao Trạch Đông nói chuyện với Hạ Long..

Chính hôm ấy, sau khi Lâm Bưu và Diệp Quần gặp nhau, tiếp đó lại mở một cuộc họp thông báo nhỏ. Trong cuộc họp, Lâm Bưu bắt đầu nói từ Vương Thượng Vinh ở Bộ Tổng Tham mưu, nhắc đến mấy đơn vị quân sự, sau đó nói: “Tôi tuân theo chỉ thị của Chủ tịch, báo cho mọi người biết, có chứng cứ chứng tỏ Hạ Long có dã tâm, muốn thò tay cướp quyền quân sự. Bài đại tự báo của Vương Thượng Vinh đã nói rõ vấn đề này, một loạt sự kiện “nổ súng” xảy ra ở một số cơ quan quân sự, đều có liên quan đến Hạ Long. Đối với vấn đề này, mọi người đều phải cánh giác...”.

Trong cuộc họp thông báo này, các ủy viên Thường vụ Quân ủy đều tham gia, chỉ duy có Hạ Long là không được gọi đến họp, kinh nghiệm bảo cho họ về cách làm “hỏi tội vắng mặt” này sẽ đi kèm ngay theo đó là một tai nạn... Một kế không thành, lại nảy ra kế khác. Diệp Quần lại mời tay trong chuyên môn làm những trò vu cáo hãm hại là Khang Sinh đến. Khang Sinh vắt óc suy nghĩ, đã tạo ra một sự kiện “Binh biến tháng Hai”, một dạo đã làm Bắc Kinh chìm trong giông bão, đâm một nhát dao vào lưng Hạ Long.

Thiên hạ vốn vô sự, ở đâu ra cái chuyện binh biến.

Cái gọi là “Binh biến tháng Hai”, nguồn gốc từ một bài đại tự báo ở Trường Đại học Bắc Kinh.

Tháng 2 năm 1966, một trung đoàn mới được thành lập ở khu Vệ Thú Bắc Kinh không có doanh trại, nghe Phòng Vũ trang khu Hải Điện giới thiệu, có một số sinh viên đại học xuống nông thôn thực hiện tứ thanh, cho nên có nhiều phòng bỏ trống, do đó họ đã đến Đại học Bắc Kinh và Đại học Nhân Dân liên hệ mượn phòng, về sau Tư lệnh khu Vệ Thú Bắc Kinh là Phó Sùng Bích cho rằng quân đội đóng quân trong trường là không thích hợp, nên đã không ở trong trường, mà đóng tại sân tập bắn ở khu ngoại ô Nam Uyển.

Một việc rất bình thường, nhưng đã bị những học sinh có thần kinh quá mẫn cảm dùng kính phóng đại đấu tranh giai cấp chiếu vào, và đã tìm ra ngay “cuộc binh biến tháng Hai, trông thấy mà sợ”. Đại tự báo tuyên bố khu Vệ Thú Bắc Kinh muốn đóng một bộ phận quân đội ở Đại học Bắc Kinh và Đại học Nhân Dân là sự chuẩn bị mưu đồ làm binh biến của Bành Chân và Lưu Nhân. Khang Sinh căn cứ vào tờ đại tự báo này, ngay lập tức tuyên bố trong một hội nghị quần chúng: “Vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm nay, Bành Chân và đồng bọn mưu tính làm chính biến mưu tính lật đổ chuyên chính vô sản, biến thành chuyên chính tư sản của họ... Một trong những kế hoạch của họ là đóng quân ở Đại học Bắc Kinh và Đại học Nhân Dân, mỗi trường một tiểu đoàn: Lục Bình (Hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh - N.D.) và Quách Ảnh Thu (Hiệu trưởng Đại học Nhân Dân – N.D.) giúp họ xây nhà, việc này chứa đựng một âm mưu cực lớn, sự việc này là hoàn toàn có thật!”.

Thế là, “Binh biến tháng Hai” đã trở thành cái gọi là sự thực. Phát triển đến cuối năm, “Binh biến tháng Hai” dần dần được móc vào Hạ Long,... Khang Sinh lập tức nắm lấy một bài đại tự báo vồ bóng bắt gió, không qua bất cứ một sự điều tra nào, phao tin nhảm trong Tổ cách mạng văn hóa Trung ương rằng: “Hạ Long tự điều động quân đội để làm “Binh biến tháng Hai”, xây lô cốt ở ngoại ô Bắc Kinh”.

Đây là chuyện nói xằng nói bậy của Khang Sinh vào mùa hè năm 1966. Đến ngày 27 tháng 4 năm 1968, nhà bịa chuyện đang giữ chức vụ quan trọng còn nói với tổ chuyên án: “Ủy ban Thể dục là địa điểm quan trọng của Hạ Long trong hoạt động phản cách mạng hiện hành. Ông ta đã phát súng, đại bác cho Ủy ban Thể dục, pháo đặt ở Thập Sa Hải, miệng súng nhằm đúng Trung Nam Hải”.

Cái gọi là “nhằm đúng Trung Nam Hải”, chính là để hãm hại Mao Trạch Đông. Khang Sinh ngậm máu phun người, như vậy là đã dựng đứng tội danh tiến hành “binh biến” “mưu hại Mao Chủ tịch” để gán cho Hạ Long.

Phái tạo phản bao vây trước cổng, tay cầm loa chĩa vào nhà quát tháo kêu gào, cãi cọ lộn xộn. Hạ Long dùng chăn bịt kín tai như quyết tranh hơn kém với phái tạo phản để tiếp tục ngủ.

Chu Ân Lai biết Lâm Bưu, Khang Sinh có mưu đồ xấu xa, đề phòng bất trắc, đã dứt khoát đón Hạ Long đến ở phòng Tây Hoa.

Vợ chồng Hạ Long đang ăn cơm, thì Chu Ân Lai vào, hai người đứng dậy, Chu Ân Lai vội bảo họ ngồi xuống, quan tâm thăm hỏi: “Ở đây thế nào?” Hạ Long lo lắng nói: “Tốt thì tốt, nhưng chỉ sợ liên lụy đến anh”. Chu Ân Lai lắc đầu: “Ôi anh Long Râu (cách gọi thân mật vì Hạ Long để râu - N.D.), sao anh lại khách sáo với tôi như vậy”. Hai người đang trò chuyện thì thư ký đẩy cửa vội vàng vào báo cáo: “Thưa Thủ tướng, tình hình xấu rồi, việc đồng chí Hạ Long ở đây không hiểu sao bọn họ đã biết, văn phòng của Lâm Bưu gọi điện đến truy hỏi”. Hạ Long vừa nghe thấy vậy liền đứng phắt dậy: “Thủ tướng, tôi không thể ở đây với Thủ tướng, Hạ Long tôi dù có hy sinh cũng không sao, Thủ tướng, anh không thể ngã xuống được. Chỉ cần anh vẫn làm Thủ tướng thì Trung Quốc sẽ còn có hy vọng!” Chu Ân Lai, nghiêm giọng ra lệnh cho Hạ Long ngồi xuống: “Hốt hoảng cái gì, anh cứ ở đây đã. Tôi sẽ sắp xếp cho anh. Sắp xếp xong rồi đi”. Hạ Long nghe xong ngoan ngoãn ngồi xuống ghế.

Việc Hạ Long chuyển nhà, ngay lập tức Lâm Bưu đã biết, ông ta hạ lệnh bắt ngay Hạ Long và lập tổ chuyên án điều tra.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM