Bác MinhTrang ơi, ở hải ngoại thì các ca sỹ hát đủ tất cả các ca khúc mới sau 1975, không phân biệt xuất xứ, miễn là có nghệ thuật là được...
Yta đồng tình với đại ý của bài báo mà bác trungsy1 post lên, rất có nhân bản, yta cũng xin vỗ tay theo: xin đừng nhuộm màu các ca khúc không có màu!
****************************88
Svailo tôi ,nhất trí 2 tay : Đừng nhuộm màu các ca khúc không có màu !
Nhìn chung tình hình quản lý văn hóa nghệ thuật hiện nay cũng đã đổi mới , thông thoáng hơn rồi, các bác không phải ngại khi ca nhưng bài ca " không có màu " về tình yêu đôi lứa, tình quê huơng đất nước, tình mẹ , tình cảm của người lính nói chung...không căn cứ theo xuất xứ nặng nề , cứng nhắc như trước .
Quả thật có 1 giai đoạn dài, vấn đề " chủ truơng : Nghệ thuật vị nhân sinh " bị hiểu quá tả , vận dụng máy móc ,gây ra những căng thẳng nặng nề cho các văn nghệ sĩ, và cả giới yêu văn hóa nghệ thuật chân chính đích thực . Đã có hẳn 1 vụ án Nhân văn-Giai phẩm (1955-1958), về những bài thơ,bài văn , bài hát yêu đuơng bị cho là ủy mị,tiểu tư sản, thủ tiêu tính chiến đấu , ảnh hưởng tư tưởng cán bộ chiến sỹ,và quần chúng...đã và đang ngày đêm gian khổ hy sinh đánh Pháp và chống Diệm - Mỹ xâm lược
Điển hình là bài thơ MÀU TÍM HOA SIM , bài thơ cho tới giờ đã được coi là : Bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20- Viêtnam,( VITEK VTB mua bản quyền bài thơ này năm 2006 - 100 triệu đồng) Nhưng cũng là bài thơ đã làm cho cuộc đời và sự nghiệp của Hữu Loan chìm ngập trong bi thuơng suốt mấy chục năm ròng rã.
Nhà thơ viết MÀU TÍM HOA SIM năm 1949. Khi đang trên đường hành quân thì được tin người vợ yêu bé bỏng 17 tuổi , vừa mới cưới của ông đã chết, khi ra sông của điền trang gần nhà giặt giũ . Bài thơ đớn đau khóc vợ của chàng lính chiến 32 tuổi , là tiếng khóc thầm tan nát cõi lòng , cùng bao hoài niệm xót thuơng ,không chỉ của 1 người chồng mà còn là của 1 người anh với cô em gái thơ ngây , bé nhỏ . Ông viết chỉ trong 1 buổi trưa, liền mạch .
Giai đoạn này Ông đang là CTV. D ,đại đoàn 304 của Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn,( cha của chị HATUYENHA) liên khu 3- Thanh hóa .
Khi bài thơ xuất hiện trên văn đàn - 1955 (tạp chí Trăm hoa của Nguyễn Bính) , đã tạo nên tiếng vang lớn trong cán bộ chiến sỹ, dân công ,văn nghệ sỹ và quần chúng không chỉ ngoài vùng kháng chiến mà cả trong các thành tạm chiếm, từ Bắc vào Nam . Lập tức được các nhạc sỹ Dzũng Chinh, Phạm Duy , Anh Bằng , Duy Khánh lấy ý phổ nhạc , rất phổ biến và được hâm mộ nồng nhiệt ngay từ những năm 195x .Trong đó, bản NHỮNG ĐỒI HOA SIM của Dzũng Chinh (viết theo thể Slow rumba, và cũng thường chơi theo thể Bolero)được nhà thơ yêu thích nhất vì chuyển tải được xúc cảm , và gần với dư âm sâu kín của tâm hồn ông nhất : Đớn đau mà không gục ngã , tha thiết xót xa mà không bi lụy, tuyệt vọng.
Chính nhờ những bài hát này mà bài thơ tình " mang án " ấy càng phổ biến và say mê lòng người trong suốt các thập kỷ 50 , 60 , 70 ở miền nam VN , không chỉ trong giới văn nghệ sỹ, sinh viên , công chức mà cả trong giới sĩ quan binh lính , trong 1 cuộc chiến ngày càng khốc liệt : " Lỡ khi mình đi mãi - Sợ khi mình không về - Thương người vợ chờ - Bé bỏng chiều quê ... "
4/1975 con trai nhạc sỹ trong đoàn quân giải phóng và dừng chân quân quản ở Vũng tàu , được 1 cô nữ sinh con 1 công chức chính quyền cấp tỉnh Ngụy ,cảm mến và rồi yêu nhau . Mẹ cô gái biết . Kiên quyết phá,không cho lấy Cộng sản Bắc Việt, mặc con gái khóc lóc, bỏ ăn , dọa đi tu , dọa tự tử .Bà thề độc nếu cô lấy , bà sẽ quyên sinh. Không ai hy vọng lay chuyển được bà .
Bẵng đi 1 thời gian lâu lâu, nhà thơ từ Thanh hóa vào thăm con . thấy con có vẻ buồn bã, nhà thơ hỏi và biết chuyện. Ông bảo con dẫn đến thăm cha mẹ cô gái
Bà mẹ không thèm tiếp chuyện, chỉ ngồi theo phép lịch sự .Nhưng khi ông tự giới thiệu : Tôi , Hữu Loan nhà thơ 1949 .
Bà như nhảy dựng lên : Hữu Loan 1949- MÀU TÍM HOA SIM ?
Ông gật đầu , và lặng lẽ nghẹn ngào đọc nguyên bản MÀU TÍM HOA SIM với những xúc cảm đớn đau xưa cũ , âm thầm chôn chặt bao năm trong lòng, hối hả, truyền cảm ào ạt tràn về .Ông nấc nghẹn, chìm về trong dĩ vãng khi bài thơ chấm dứt . Thật bất ngờ , mẹ cô gái nhào đến vịn lấy vai ông và ... khóc như muốn ngất : Trời ơi , trời ơi ...
Rồi vào lục tìm , mang ra 1 cuốn sổ cũ kỹ, sờn rách theo tháng năm, giở ra cho ông xem : Bài thơ đã chép và vội sửa lại những từ sai lạc.Bà vốn là sinh viên Văn khoa Saigon 1956
3 hôm sau, hôn lễ được cử hành trong sự ngỡ ngàng của bè bạn, họ mạc. Nhìn bà hớn hở vào ra tiếp khách, ai cũng bảo bà trẻ ra 20 tuổi
Văn hóa đấy ,Âm nhạc đấy, Nghệ thuật đấy. Ai dám bảo rằng không vị nhân sinh ?