Trong này đã nói vè tiến trình thay thế B40 thành B41.
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1136.msg13795#msg13795Đến lúc tớ ở lính thì chỉ có những sư đoàn bộ binh cơ giới mới đầy đủ B41, còn những sư đoàn bộ binh đi bộ như 325 thì B41 vẫn rất ít, cỡ có một nửa. Có thể hình dung tiến trình thay thế như sau:
Năm 1964, B40 đã là vũ khí tiểu đội trong những sư đoàn chủ lực ở miền Bắc. Cũng không hiểu B40 lên đường vào Nam từ bao giờ, B40 có được trang bị cho những lực lượng không phải bộ binh chủ lực không. Khi đã là vũ khí tiểu đội, mỗi đại đội bộ binh có 9 khẩu.
Năm 1965-1966: B41 đã vào Việt Nam số lượng ít, đến năm 1966 những sư đoàn mạnh đã có mỗi đại đội 1-2 khẩu. Không hiểu các đơn vị biên chế số B41 đó thế nào
?? rất có thể, B41 lúc đó nằm trong tiểu đội hỏa lực mạnh của đại đội. Một khả năng ít xảy ra là, các súng B41 trong trung đoàn tập hợp thành một trung dội hay đại đội mạnh, 3 người 2 khẩu hay 2 người một khẩu, cũng có thể là 3 người 1 khẩu. Trong khi đó, B40 vẫn là vũ khí chủ lực đại đội, mỗi đại đội 9 khẩu. Giai đoạn trung gian này hơi phức tạp, không biết bố trí B41 ở đâu.
Đến năm 1971 thì các đại đội chủ lực đều có B41.
Đến năm 1979, đánh hai chiến tranh biên giới thì B40 vẫn phổ biến.
Việc thay thế hoàn toàn B40 chỉ có thể kết thúc vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20,
thập niên 1990.
Như vậy, việc chúng ta thay thế B40 diễn ra hết sức chậm. Súng chóng tăng cấp tiểu đội của chúng ta luôn ở trạng thái hết sức lạc hậu.
Chúng ta tiến hành nghiên cứu sản xuất B40 rất sớm, trước cả RPK hay AK hiệu TUL năm 1969. Tuy nhiên, B40 hiệu CT-62 có vẻ như quá đen đủi. Nó sinh ra trong thời kỳ bên tầu đang "cách mạng văn hóa", mà mục tiêu chủ yếu của cách mạng này là đàn áp lớp trí thức mới nổi, công nghiệp mới nổi. Chúng ta từng tự chế rất nhiều súng chống tăng trong Kháng chiến đánh Tây, nhưng truyền thống đó không được tiếp tục với B40. Và cũng không tiếp tục với B41. Thật đáng tiếc, truyền thống đó thui quá sớm. Các nhà kỹ thuật thì thừa kiến thức và quyết tâm.
Đến giờ bác Đoành vưỡn nợ cái giai đoạn B40 vào Việt Nam. Theo em biết thì P-27, một kiểu súng chống tăng do Tiệp chế tạo đã có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, không hiểu cụ thể từ bao giờ. Năm 1954, khi ta bắt đầu trang bị lại hàng loạt súng ống thì B40 ở Liên Xô đã nhiều. Năm 1959, Liên Xô dừng trang bị B40 thay bằng B41, tất nhiên dư thừa rất nhiều. Tại sao từ lúc đó B40 không phổ biến
?
Chúng ta không có "học thuyết quân sự" lúc đó. Nhưng Quân Đội ta được xây dựng từ kinh nghiệm chiến trường, dĩ nhiên hiểu được tầm quan trọng của súng chống tăng cá nhân. Như vậy, bản thân Quân Đội dĩ nhiên có nhu cầu nghiên cứu cách áp dụng B40, và dĩ nhiên cũng tham khảo cách biên chế của Liên Xô và Tầu.
Trận Ấp Bắc diễn ra hết sức khó khăn. Kỳ thật, trận đánh chỉ có xe M113 mà thôi. Nhưng bộ đội không hề có vũ khí nào đối phó với xe bọc thép nhẹ này đúng nghĩa. Trận đánh thắng lợi chỉ bằng khả năng phi thường của các chiến sĩ, và thật sự đã phải dùng những phương pháp của ngày đầu đánh Pháp 1945-1946. M113 không dám tiến mạnh vì quân ta bắn hạ các xạ thủ 12,7mm. Ta cử một tổ bọc hậu cảm tử đánh chặn xe, ném lựu đạn diệt xe, tổ này không rút được, mất hết.
Một câu hỏi lớn, 9 năm sau 1954, 4 năm sau khi Liên Xô chấp nhận dừng trang bị B40, tại sao ở Ấp Bắc quân ta vẫn thiếu thốn B40 như vậy
?