Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:23:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ức của một binh nhì  (Đọc 23031 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« vào lúc: 13 Tháng Mười, 2009, 09:08:11 pm »

(Vnthuquan.net)

Hồi ấy, nghĩa là cách đây tròn hai mươi năm, tôi, hai mươi tuổi cùng các "chiến hữu" của tôi đang huấn luyện ở vùng trung du Vĩnh Phú, cách thị xã Vĩnh Yên 7 km về phía núi Tam Đảo. Chúng tôi thuộc số quân trung đoàn 207 xe tăng thiết giáp. Mới nghe đến đây thôi, hẳn có bạn thắc mắc sao đã gọi là "xe tăng" lại còn "thiết giáp"? Xin thưa đó là hai danh từ khác nhau để gọi hai loại xe khác nhau. Xin cung cấp với các bạn một định nghĩa rút gọn của xe tăng: "Là một loại xe chiến đấu chạy bằng xích có tháp pháo quay tròn 360 độ". Thế nghĩa là nó khác với thiết giáp là có pháo, lại không giống với pháo tự hành là pháo của nó có thể quay 360 độ trên xe. Câu chuyện của chúng tôi hai mươi năm trước trên vùng đồi trung du Vĩnh Phú có liên quan đến cái "tháp pháo quay tròn 360 độ" ấy. Thế là chúng tôi thuộc trung đoàn 207. Tiểu đoàn và đại đội mấy thì không nhớ nữa. Đơn vị huấn luyện mà lính đến rồi đi không mấy gắn bó - chỉ nhớ rằng tham mưu trưởng trung đoàn là ông Phùng Minh, một đại úy có phong độ rất "hắc xì dầu". Và ngay tại đây, trong mùa hè nóng bỏng năm 1972 khi tiếng nổ của đại pháo ở cổ thành Quảng Trị đang âm âm vọng về réo gọi, thì chúng tôi, trên những ngọn đồi trung du đầy bóng bạch đàn đã làm nên những chuyện tày đình, để lại những kỷ niệm "ác liệt" không kém gì trận mạc.

Chúng tôi đóng quân trong làng, tất nhiên rồi "quân với dân như cá với nước", cá mà rời nước thì có mà ngáp. Nhưng có một điều thuộc về quân lệnh là cấm léng phéng với con gái chủ nhà. Vả lại, chúng tôi học lái suốt ngày, về đến nhà là mệt lử, đêm phải gác xe. Bãi xe lại là xe tăng, tất nhiên không thể để trong làng mà ở trên đồi. Đơn vị tôi chọn được một địa điểm rất hay. Số là, quả đồi bạch đàn ấy trước đó đã có một hàng rào kẽm gai. Hôm tìm địa điểm, ông đại đội phó bảo thằng Bá Hùng đi trinh sát. Trở về, hắn thì thầm với bọn tôi rằng bên kia hàng rào có rất nhiều "ami xinh tươi" mặc quân phục. "Mẹ kiếp! đóng bãi xe ở đấy thôi chớ đi đâu nữa". Sau đó, chúng tôi làm mặt lạnh kéo tới gặp đại đội phó, giơ tay chào theo kiểu quân sự và báo cáo rằng, đây là một địa điểm đóng quân mang tính chất chiến lược, chiến thuật, rằng có thể tiến công phòng thủ đều tiện lợi v.v... và v.v... Khi đại đội phó hỏi: Bên kia hàng rào là đơn vị nào thì thằng Hùng báo cáo mập mờ rằng: đó là đơn vị chiến thuật, kỷ luật nghiêm, có thể là hậu phương vững chắc cho đơn vị ta. Chao ôi! Chúng tôi đâu có biết rằng bên hàng rào kẽm gai kia là cả một thế giới riêng, một đơn vị cơ yếu đặc nhiệm của Bộ Quốc phòng có vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc chiến tranh của cả nước và những bóng "ami mặc quân phục" kia chính là những chiến sĩ báo vụ cơ yếu được bảo vệ hết sức nghiêm ngặt.

Có lẽ đây là một trong ít lần ông đại đội phó được cái đám "giặc đầu bò" là chúng tôi đối xử nghiêm túc và kính cẩn, nên ông có phần cảm động mà chấp nhận đóng bãi xe ngay trên nửa quả đồi tai ương ấy. Và với quyết định đó, ban chỉ huy đại đội bắt đầu phải chịu đựng và trả giá cho những trò ba trợ của tụi tôi. Có lẽ cái lam sơn chướng khí của đất tổ Hùng Vương được tích lũy từ thời khai thiên lập địa đến năm 1972 đã xì hơi nhập vào chúng tôi mà sinh ra các chuyện nghịch ngợm ấy chăng.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Ba, 2021, 12:56:31 pm gửi bởi ptlinh » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #1 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2009, 09:09:42 pm »

Ban ngày chúng tôi phải đi tập lái xe. Lái đủ các khoa mục: Hạn chế thẳng, hạn chế chữ Z, vách hụt, vách đứng, sống trâu, cầu vệt... Đã qua các thời kỳ tậm tọe: sang số, tăng ga, xuống số, vù ga... với cái bảng cầu chì dài dằng dặc: đuôi (cầu chì đèn đuôi), hồng (hồng ngoại), hông, còi, quạt-nhờn-đồng khởi-mù pha. Tóm lại, chúng tôi có vẻ là những chú chim ra ràng đang tập bay. Chiều chiều chúng tôi xin trợ giáo được tự lái xe ra bãi, cố ý đỗ sát hàng rào, vù ga thật mạnh, ngõ hầu gây được sự chú ý của "phía bên kia". Mất hơn mười ngày như thế mà chẳng nước non gì cả. Những bóng áo binh phục mầu nhạt bó sát những eo lưng tròn lẳn vẫn chỉ thấp thoáng sau bóng cây bạch đàn đằng xa. Một lần chúng tôi đến sát hàng rào đánh bạo gọi với vào:

- Này! Các đồng chí ơi!

... Và mừng rơn khi thấy có người đi tới. Nhưng té ra là hai gã đàn ông có súng, mặt lạnh như tiền, hỏi:

- Các đồng chí cần gì?

- À, ờ... chúng tôi xin một tý xà phòng, à quên xin ngụm nước uống, khát quá.

- Ở đây không có xà phòng và cũng chẳng có nước uống đâu nhé.

Nói xong, hai gã đàn ông có súng quay đi. Chà thật là "phí rượu" mấy cha hách gớm! Nói thật chứ bọn tôi đâu có sợ mấy khẩu AK báng xếp nơi tay bọn hắn. Gì chứ súng thì bọn tôi cũng có, có điều là hơi to một chút. Khẩu pháo 100ly trên xe đó, tôi mà khạc một cái thì... Nhưng chúng tôi cũng thừa biết là không thể tấn công bằng cách ấy được, phải tìm mẹo khác, nhất định phải "móc nối" cho bằng được một số "ami" mới nghe.

May thay, thằng Tuấn lại có một cái đàn ghi ta. Bọn tôi tất thảy đều qua vài năm ở trường đại học nên chơi đàn cũng khơ khớ, hát cũng đúng thanh nhạc, riêng tôi lại có cả cái giọng "ôpêrêt" tàm tạm. Vậy là, trăng trung tuần vằng vặc, đồi trung du lộng gió, lá bạch đàn xao xác rụng, chúng tôi ôm đàn ngồi trên tháp pháo xe tăng thả theo làn gió nam mát rượi qua bên kia hàng rào bài tình ca Nga rất "ác chiến". "Giờ này anh về đâu hỡi người lính cũ binh đoàn... Nếu giờ này bạn hiền còn thiếu một gia đình... Có nhiều cô đẹp như ca khúc ban chiều". Mất ba đêm như thế mà không thấy động tĩnh, chúng tôi nản quá. Ban đêm không nước non gì nên ban ngày chúng tôi vặc nhau luôn luôn. Mùa trăng đang qua, khóa huấn luyện sắp kết thúc, chúng tôi biết ngày lên đường vào Nam chiến đấu không còn xa nữa. Vậy mà! Ban đầu chúng tôi chỉ chơi đàn theo kiểu "gọi tình". Ai ngờ đến đêm thứ năm, tiếng đàn thằng Hùng nghe khác hẳn, cả cái giọng "ôpêrêt" của tôi cũng rà đi lúc nào không biết.

Từ trên đỉnh núi Chi-ta xa vời, mưa tuyết vẫn rơi tuyết đầy trời. Chợt nghe tin đến chân tay rụng rời.

Người lính em yêu ngã ngựa rồi. Không may gãy tay rồi còn đâu lấy taylành vuốt tóc em dài...

Tất cả chúng tôi gục đầu xuống, mơ màng nghĩ đến một điều gì rất xa, về một kỵ sĩ nào đó ngã ngựa, về khoa văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mà tôi mới kịp gửi thân theo học hai năm, về ngày nhập ngũ, về chiến trường Quảng Trị đang đỏ lửa mùa hè, đêm trăng vàng, sương buông đồi trung du ớn lạnh. Bỗng có tiếng vọng nghe thảng thốt.

- Hát nữa đi các anh!

Lập tức chúng tôi ngẩng đầu lên, thằng Hùng buông rơi cây đàn xuống cỏ: Sát hàng rào bên kia tập hợp đủ một tiểu đội chiến sĩ gái thấp thoáng dưới trăng, huyền ảo như những nàng tiên vừa bay từ trên trời xuống...

... Các bạn cựu chiến binh thân mến! Tôi nói điều này chỉ các bạn mới hiểu và tin chúng tôi, rằng: Ngay trong đêm đó, cái đêm huyền thoại, khi tiếng đàn nức nở lặng đi và những cái bóng eo lưng mặc quân phục mầu cỏ úa nhạt hiện ra bên hàng rào. Chúng tôi đã đến, đã nói chuyện và dường như đã quen nhau từ lâu lắm rồi, đã tìm nhau lâu lắm rồi, dường như chúng tôi đã yêu nhau. Hai đội binh đều áp sát hàng rào kẽm gai, từng đôi một xoắn xuýt tâm sự - như chúng ta thường nói là không biết mệt mỏi. Tôi mạnh dạn cầm tay "người chiến sĩ gái" dành cho tôi. Mãi đến cuối buổi, tôi mới biết được tên thật của nàng là Nụ. Lạ lùng thay, Nụ không có ý định rụt tay lại. Cổ tay Nụ tròn và mát. Tôi nhìn rất lâu vào cái cổ tay ấy rồi ngước lên thấy Nụ cười, một nét cười hiền lành và say đắm, mà sau này suốt hai mươi năm qua tôi không hề tìm thấy bất cứ ở đâu dưới gầm trời này. Bên cạnh tôi lúc đó cũng đầy tiếng thì thào khe khẽ và cảm động của bọn thằng Bá Hùng, Hoàng Sâm, Quốc Tuấn. Trong ánh trăng vằng vặc diễn ra một cảnh tượng hết sức kỳ dị trông như một vũ điệu huyền ảo: Tám đôi trai gái cầm tay nhau qua hàng rào kẽm gai mắt cáo mà cứ trân trân nhìn nhau, không thể nhúc nhích được vì các vòng kẽm gai sắc nhọn như những chiếc vòng khóa chặt các đôi tay.

Đêm ấy, khuya lắm chúng tôi mới rời nhau ra, không phải vì buồn ngủ hay mệt mỏi mà vì trời đang rạng dần. Cũng phải mười năm sau tôi mới hiểu vì sao các cô gái cơ yếu đó có thể chấp nhận tình cảm nhanh chóng và nồng nàn đến thế.

Các bạn có tin được không, cái cảnh cầm tay nhau như chuẩn bị khiêu vũ ấy tái diễn đến bảy đêm. Bọn chúng tôi, ban đầu do nghịch ngợm, đến thời gian sau nghe các cô kể chuyện mới thấy thương thương và mủi lòng thực sự. Chúng tôi hôn nhau qua hàng rào. Nụ của tôi nước mắt chứa chan. Tôi loay hoay xoay xở mãi mà không có cách gì ôm được nàng. Nụ cho biết, các cô phải làm việc dưới một chế độ kỷ luật rất nghiêm, vì như tôi nói từ đầu, đấy là một công việc cực kỳ quan trọng và tuyệt mật. Mỗi tháng các cô mới được ra khỏi hàng rào một lần và phải đi cùng nhau, hạn chế tiếp xúc với người ngoài, phải về trước giờ điểm danh buổi tối. Thường thì khi xuất ngũ hay phục viên các cô được giải quyết đồng loạt và ngay sau đó Bộ Quốc phòng thay mã khóa cơ yếu để đề phòng bị lộ.

Đấy, tình yêu của bọn chúng tôi nằm trong tình thế nghiệt ngã như vậy đấy.

Tôi thì không tin rằng sẽ còn đóng quân tại đó cho đến cái buổi mà Nụ của tôi được ra ngoài hàng rào. Tình hình chiến trường đang nóng như cơn sốt. ở Quảng Trị giặc đã phản công tái chiếm thành cổ. Bộ binh chiến đấu thiếu hỏa lực đột kích nên rất gian nan. Đơn vị hối hả hoàn thành các khoa mục cuối cùng. Đến những ngày cuối cùng tôi cuống lên. Tôi khao khát được một lần, một lần thôi ôm Nụ vào lòng, quàng tay vòng qua cái eo lưng mặc quân phục nổi lên đường cong đẹp như một thiếu nữ trong hội họa Phục Hưng. Tôi giống như chú nghé con bị nhốt trong chuồng vươn cái cổ khát khao với tới đám cỏ mới nhú lên sau những đêm mưa.

Một lần thôi rồi chết cũng được. Tôi quyết định đột nhập doanh trại đơn vị cơ yếu đặc nhiệm. Nghe tin này thằng Hoàng Sâm và Bá Hùng xúm lại can, các hắn vẫn chưa quên được bộ mặt băng giá của hai gã đàn ông khoác súng dạo nọ. Nhưng chí tôi đã quyết, không ai có thể ngăn cản được. Chiều hôm ấy, tôi đánh xe về đậu sát hàng rào húc đổ một cây bạch đàn. Mặc, tôi không sợ, có húc đổ một cây chứ mười cây tôi cũng húc. Tôi hồi hộp chờ trời tối: Thằng Sâm và thằng Hùng hứa giúp tôi. Phần tôi, tôi tranh thủ xác định lại hướng tiến đến cái "ki ốt" mà đêm đêm Nụ vẫn trực ca từ 20 đến 21 giờ.

Màn đêm buông xuống, lạy trời, đêm hạ tuần trời tối đen. Tôi đang đứng bên hàng rào dõi mắt về phía sâu trong doanh trại đến chỗ có mấy ánh đèn thắp ắc quy rồi. Trong đêm tối, cái tháp pháo quay chầm chậm nửa vòng trên xe rồi lặng lẽ gác cái nòng 100 ly đen trũi, lạnh buốt ngang qua hàng rào. Tôi lẩy bẩy ôm cái ống thép dài ngoằng ấy bò lên, vượt qua trên đầu hàng rào, rồi thả tay rơi xuống. Mọi việc đang tiến triển tốt đẹp. Tôi đang ở phía trong bờ rào, thuộc vùng cấm địa. Thằng Sâm đang quay cái nòng pháo trở ra. Chỉ ba phút nữa Nụ sẽ ngả vào vòng tay tôi, mềm mại như một thiên thần bé nhỏ. Thú thực trong giờ phút nghiêm trọng nhất cuộc đời ấy, tôi có thoáng nhớ đến gia đình, đến kỷ luật quân đội, đến tòa án binh, nhưng tất cả đều nhanh chóng mịt mờ đi: Chỉ ba phút nữa thôi, tôi sẽ ôm đầy vòng tay một cơ thể ấm nóng và hôn nàng mà không sợ bị thép gai cào cấu.

... Em ơi rất có thể

Anh chết giữa chiến trường

Đôi môi tươi đạn xé

Chưa một lần biết hôn

Tiến lên, hỡi hiệp sĩ Tankistơ! Tôi thì thầm hô khẩu hiệu. Sau lưng tôi, cả hai thằng Sâm và Hùng đều áp người vào hàng rào giục: "Nhanh lên". Và tôi tiến lên đến gần chỗ có ánh đèn hắt ra. Trong đêm cái ki ốt trông rất kỳ lạ, ma quái. Tôi ghé mắt nhìn qua kẽ hở và chợt bàng hoàng: Nụ đang ngồi nhận mật mã giữa một vầng sáng trắng ánh điện và vô số những máy móc rất lạ mắt.

Em ngồi đó như thiên thần mất ngủ!

Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #2 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2009, 09:11:22 pm »

Tôi thì thầm nhẩm một câu thơ không biết của ai hay là tôi mới nghĩ ra, rồi thu hết can đảm gõ vào cánh cửa. Mọi việc diễn ra sau đó tôi không đảm bảo là nhớ hết, nhưng cái cảm giác thì bây giờ đã hai mươi năm trôi qua tôi vẫn còn nhớ, và mỗi lần nhớ đến tôi lại ớn lạnh. Đèn vụt tắt cánh cửa sắt bật mở nhanh và mạnh hơn tôi tưởng. Nụ xuất hiện trong bóng tối với bộ mặt đen thui cùng với khẩu súng nhỏ chĩa thẳng vào mặt tôi:

- Ai? đứng im, giọng hô sắc nhọn như một mũi kim.

Tôi cứng người hoảng hồn:

- A... Anh đây... Tư... ờng.

- Trời ơi, anh Tường. Chết mất thôi, anh chạy nhanh đi không người ta bắn chết bây giờ!

Tôi lắp bắp:

- Nụ, anh yêu em, cho anh...

- Biết rồi, anh chạy nhanh đi, anh vào đây bằng lối nào, mẹ ơi, cứu anh ấy với!

Tôi hoảng cả hồn, sợ gần chết, không biết trời đất là gì nữa. Nụ đút súng vào lưng quân phục dùng cả hai tay xô mạnh vào vai tôi, nhưng đã muộn: "Báo động". Phía đằng sau vang lên những tiếng thét giật giọng, tiếng AK lên đạn, tiếng con chó béc giê gầm lên. Tôi chạy cuống cả chân tay. Đây rồi hàng rào kẽm gai, cái nòng pháo đang quay rất chậm. Đã nghe tiếng bước chân rào rào, ánh điện đèn pin loáng thoáng. Tôi cuống cà kê định lao đầu vào hàng rào nhưng lập tức dừng ngay lại, hàng rào mắt cáo rất dày và là một thứ kẽm gai rất sắc. May thay, cái nòng pháo đã hạ xuống, tôi bật người đu lên nhưng lại buột tay. Đêm, sương xuống ướt đẫm khối thép, cái chỗ tôi đu tay vào lại dính một tý mỡ trơn nhẫy. Tôi nhảy hai lần và thở phào co người lên.

- Đứng lại, giơ tay lên! - một ánh đèn pin chiếu thẳng vào lưng tôi, thốt nhiên cái "cần trục" ngưng lại. Tôi thét:

- Quay nhanh lên Sâm.

- Pằng!

Tôi lạng người, mắt hoa đom đóm, trong tia chớp hiểm nghèo vừa vượt qua, tôi còn kịp nghĩ rằng mình đã chết và buông tay cho người rơi xuống ngay sát hàng rào.

*
**
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #3 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2009, 09:12:24 pm »

Nếu không có lệnh cấp tốc lên đường chiến đấu ngay sáng hôm sau, chắc chắn tôi đã phải ra tòa án quân sự và lãnh vài năm tù giam. Chỉ huy đã bảo vệ tôi và ký vào tờ cam kết với đơn vị bạn rằng, đó chỉ là trò trai gái thông thường. Mặc dầu vậy, trong vòng hai tiếng đồng hồ, quân báo đã lục tung cái sơ yếu lý lịch ba đời ăn củ chuối của gia đình tôi rồi mới tạm yên tâm cho tôi lái xe tăng vào Nam. Giây phút cuối cùng khi chuẩn bị lên đường, không cầm lòng được chúng tôi đã đến bám vào hàng rào gọi toáng lên, và các em đã đến. Cơn choáng "vượt rào" còn chưa qua, nghe chúng tôi thông báo lệnh đi chiến trường, các em bàng hoàng. Nụ, nước mắt đầm đìa cầm tay tôi khóc mãi điệp khúc:

- Tha lỗi cho em, tha lỗi cho em...

Giây phút ấy tôi có nhìn thấy những chiến sĩ cảnh vệ ban đầu. Họ ý tứ đứng xa nhìn lại. Mãi sau mới đến gần chào chúng tôi và nói lời thông cảm với vẻ mặt hết sức thân thiện. Thế là chúng tôi đi, khi lái xe lên tàu ở ga Vĩnh Yên chúng tôi mới nhớ ra rằng, chưa hề biết quê hương các em ở đâu và hòm thư của đơn vị các em. Cả một lời hẹn ngày về cũng không thằng nào kịp nói - thật là "ngu lâu" cả một bọn!

... Rồi, chiến trường đẫm máu cuốn chúng tôi đi...

*
**

Hỡi các em Nụ, Quang, Lài, Bích, Lâm... hiện giờ các em ở đâu? Đang là một phụ nữ nông dân lo toan miếng cơm, manh áo cho chồng con, vui vầy với khói lam chiều, giàn mướp, mái gianh, đang là một chủ sạp hàng chợ Châu Long, Đồng Xuân nào đó hay đã trở thành mệnh phụ, phu nhân một bộ trưởng, thứ trưởng, cục, vụ, viện nào đó? Dù các em đang là ai, phục vụ đức ông chồng nào cũng xin các em một phút - một phút thôi như buổi chia tay năm nào lên đường vào Nam đánh giặc - nhớ đến chúng tôi, những chú lính lái xe tăng nghịch ngợm nhất dưới gầm trời này. Những người lính thuộc trung đoàn huấn luyện 207 đã cùng các em làm nên những chuyện động trời mùa hè năm 1972 trên đồi bạch đàn Vĩnh Phú. Chúng tôi, hai mươi năm qua như Hoa Xuân Toàn, Phùng Anh Dũng, Nguyễn Tự Chính đã ngã xuống ở chiến trường như những hiệp sĩ chết vì quê hương và người đẹp. Có người bị thương cháy hết mặt mày đã lui về làm vườn, vào hội chiến binh vùng sơn cước. May thay chưa có ai chết vì trụy lạc xa hoa. Chúng tôi vẫn là những Hoàng Sâm, Quốc Tuấn, Mạnh Tường, Bá Hùng tuyệt diệu của các em. Tuy đuôi mắt có nhiều nếp nhăn, râu ria có mọc ra rậm rạp, nhưng trái tim chúng tôi vẫn trẻ trung, vẫn nguyên vẹn đến hoang sơ những kỷ niệm ngọt ngào với các em, cả mùa hè đầy lo âu khi là Tankistơ trên đồi Vĩnh Phú.

Vĩnh biệt những người bạn gái tốt nhất trên đời, hẹn gặp lại sau hai mươi năm nữa, như thể hai mươi năm qua chúng ta đã không thể gặp nhau.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #4 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 02:01:15 am »

Trận đánh cuối cùng

Tất cả đều nghĩ rằng đó là trận đánh cuối cùng, kết thúc hai cuộc kháng chiến kéo dài đã non ba mươi năm. Đến bảy giờ sáng ngày mai 28 tháng Giêng năm 1973 ở miền Bắc, miền Nam bọn trẻ đến trường như thường lệ và nghe cô giáo công bố : Từ hôm nay, hai nhăm tháng chạp, bắt đầu kỳ nghỉ tết Quý Sửu. Chúng sẽ a lên sung sướng. Bản tin thời sự sáu giờ sáng của cả hai đài Hà Nội và Sài Gòn sẽ công bố tin sốt dẻo : Một giờ nữa (đầu giờ thìn - 7 giờ sáng) hiệp định Pari có hiệu lực. Súng sẽ không nổ nữa, người sẽ không chết nữa.
Vâng! Hiệp định Pari về lập lại hoà bình ở Đông Dương được thông báo rành rẽ trên tất cả các kênh thông tin đại chúng. Tất cả các đội viên của đại đội tăng thiết giáp chốt giữ cảng Cửa Việt đều biết. Rằng, chỉ còn 15 giờ nữa, ai ngã xuống thì chết hẳn, ai còn sống thì sống mãi. Lúc ấy mọi người đều yên trí là sẽ còn sống lâu lắm. Vì thực ra, đa số họ, mỗi người mới đội trên đầu có hai mươi cái xuân xanh.
   Còn bấy giờ là 16 giờ ngày 27 tháng Giêng năm 1973 trên bãi cát nam Cửa Việt.
   Uỳnh! Một phát nổ ở đâu đó hơi gần.
   - Nghe như ĐKB - Thằng Hòa nhận xét.
   - Bê bê cái cục cứt.. pháo hạm đấy, ngồi mà chờ ĐKB.
   - Nghe giống lắm, có ĐKB chi viện thì mình đỡ, hỏi anh Hoán xem.
   
Hoán là thiếu úy đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy xe tăng 704 K3B chủ công. Anh không nghe cuộc đối thoại vì đang bận theo dõi một "con nòng nọc" bay dọc bờ biển rất khả nghi. Nghe nói đêm nay, tàu há mồm của chúng sẽ cho xe tăng ... đổ bộ để "nuốt" cảng Cửa Việt trước khi ngừng bắn.
   Pháo địch vẫn đều đặn từ chiến hạm ngoài biển dội vào bãi cát Triệu Vân, quanh trận địa của đại đội số 1 trung đoàn 202 tăng thiết giáp. Đáp lại, toàn tuyến mặt trận nam Cửa Việt đều im lặng. Sự im lặng điềm tĩnh và quyết liệt trước một trận đánh lớn.
   Ván bài "tiến lên" dưới gầm xe tăng 704 đang căng thẳng : đôi "2 đen" của Toàn - Tú - Tài vừa chặt đứt đôi Át của Hòa, giam thối con 3 Bích trên tay : Hòa mất đứt ba điếu thuốc lá Tam Đảo cho cả hội.
   Hòa cáu :
   - Đếch... đánh nữa, các cha ăn gian. Thủ trưởng Hoán đâu rồi, đến lượt em làm Napôlêông chưa?  
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Sáu, 2010, 02:06:34 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #5 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 06:45:30 pm »

Biệt ngữ "làm Napôlêông" có nghĩa là đến phiên gác. cái tố từ này bắt nguồn từ lái 1 Huyền - Bích - Thu, anh chàng sinh văn khoa khá lãng mạn. Đêm hôm trước, đúng phiên gác, Huyền - Bích - Thu đội mũ sắt, ôm súng AK báng xếp, đứng trước xe ngắm trăng rất ra dáng. Pháo bắn rất nhiều. Khi có dấu hiệu địch bắn pháo đinh mọi người nhắc Huyền ngồi xuống hoặc đứng lùi vào sát mũi xe, thì gã liền giở giọng tiểu thuyết. Gã kể về Napôlêông trong trận Oatéclô nào đấy từ đầu thế kỷ 19. Khi thấy viên đạn pháo rơi sát mình ngựa, ông ta nói giọng lạnh tanh: "Cái chết đang đến gần chúng ta", rồi cứ thế điềm nhiên nhìn những viên đạn pháo phát nổ. Nghe cái giọng "chập mạch" ấy, cả hội bèn quay vào với ván bài trong ánh điện ắc quy mờ ảo được che kín dưới gầm xe. Choác! Một tiếng nổ như vỡ bình thủy tinh cùng với quầng lửa nhoáng đỏ cách xe chục bước. Cả hội quẳng bài rạp xuống: 5 giây sau ngẩng lên đã thấy "Napôlêông" không biết từ bao giờ và bằng cách nào tọt vào góc trong cùng dưới gầm xe đang ngồi nhe răng cười. Toàn - Tú - Tài vốn có biết chút đỉnh về văn sử bèn gọi luôn Huyền - Bích - Thu là "Napôlêông Buônapáctê", một cách gọi trào lộng ông vua Pháp này.
   Thực ra, từ hồi mới nhập ngũ, Huyền đã bị bắt gánh thêm biệt danh rất phụ nữ: Huyền Bích Thu. Quê anh ở miền Trung, nhưng nhập ngũ từ một trường đại học tại Hà Nội. Ngày lên đường, Huyền bơ vơ lạc lõng vì bạn cùng lớp đã đi chống lụt hết không có ai đưa tiễn. Bất ngờ, một nữ sinh da nâu lạ hoắc có cái nốt ruồi nơi khóe miệng rẽ đám đông kéo anh ra sau thành chiếc xe quân sự dúi cho một cái khăn mặt, một quyển sổ, rồi chìa một bàn tay nói "Bạn lên đường mạnh khỏe!". Huyền ngẩn ngơ mất mấy tháng. Giữa khóa học ở trường lái tăng, Huyền biến về Hà Nội, điều tra được người đẹp là một nữ sinh dưới một khóa tên là Bích Thu. Trở về đơn vị anh tuyên bố: Hết chiến tranh, sống chết gì cũng về lấy nàng làm vợ. Và, mặc nhiên khoác luôn cái tên ẽo uột kia.
   Bây giờ không phải phiên gác của Huyền Bích Thu mà là của Hòa - ca sĩ khá nổi danh của binh chủng. Hòa quê Hải Phòng. Hết lớp 10 anh đi tuyển và trúng vào khoa Thanh nhạc Trường đại học Âm nhạc Hà Nội. Có giấy báo vào trường, đang loay hoay cắt hộ khẩu, lương thực thì nhận luôn giấy báo nhập ngũ. Thế là giấy cắt hộ khẩu chuyển thẳng luôn về Bộ tư lệnh thiết giáp. Hòa bị cái "bệnh" là không đứng yên được. Anh cứ đi vẩn vơ quanh xe. Trời chiều, nắng nhạt, se lạnh. Bãi phi lao xơ xác lúc lúc lại tung lên tiếng đạn pháo bắn cầm canh. Đơn vị ngụy trang kỹ theo kiểu nghi binh. Họ đào hầm ngập băng xích cho xe xuống, dùng cây khô tấp sơ sài lên xe. Cách khu vực đóng quân vài trăm mét thỉnh thoảng nổi lên một đụn khói nhỏ để nhử pháo địch. Thế là yên ổn. Páo, pháo thủ số 2, người dân tộc Tày đang nấu cơm. Đúng hơn là luộc cơm sấy. Hắn vừa loay hoay chữa cái bếp Hoàng Cầm rất khó đào trong cát vừa ư ử một điệu hát trữ tình: "Noọng ơi! Non ngàn nở hoa... Noọng về cùng ta"...    
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #6 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2010, 01:25:19 am »

Hòa đi về phía Páo:
-Noọng, Noọng cái gì! Chín chưa?
-Không chín được, củi không cháy. Mày về lấy cho tao vài viên AK, tháo cạc tút, xì ít thuốc đạn vô đây, sôi là được.
-Sợ thủ trưởng Hoán lắm.
-Không sợ đâu vớ, hôm qua thủ trưởng Hoán cũng làm vậy.
-Ừ thì được. Mà này lúc nãy mày hát bài gì đấy. Nhớ Noọng à? Mày có Noọng chưa? Khi nào rỗi, mày hát tiếng dân tộc cho tao chép với nhé!
-Thôi đi tao không hát được đâu vớ. Nghe nói mày định vào cái đại học âm nhạc thì đi bộ đội à?
Ịch! Một tiếng động rất lạ tai rung lên sau lưng họ. Cả hai nằm sấp xuống cát, nhắm mắt lại. Lát sau đứng dậy dụi mắt: Một viên đạn đại bác không hiểu duyên cớ gì lại rơi ngang, không nổ, nằm chình ình, nóng rẫy, đang hút nước kêu xèo xèo. Páo vội xách xoong cơm sấy: "Chạy thôi Hòa ơi!". Thế là lại phải soạn một cái bếp mới. Không biết lúc nào mới luộc được nồi cơm sấy cho cả xe.
Hoán đi kiểm tra đại đội trở về. Thực ra chỉ là một đại đội thiếu, gồm bảy chiếc thì đã "mất" năm chiếc là thiết giáp K63 có bộ binh cơ giới. Một chiếc PT50 có pháo hai nòng 23 ly. Duy nhất chiếc 704 là xe tăng có pháo 85 ly. Phiên chế bộ binh cơ giới lại hụt hạt. Đạn B40 với AT lại thiếu. Không biết đêm nay đánh chác thế nào đây? Lái 2 Toàn - Tú - Tài từ gầm xe chui ra mặt phớn phở. Từ đầu đến chân hắn tinh tươm như một đồng xu mới. bộ quân phục kaki Tô Châu cất giữ từ đời nào, được sửa chữa bởi một thợ may nào đó ngoài Bắc, hôm nay không hiểu nguyên cớ gì, hắn hì hụi tìm nước tắm rồi "đóng" bộ vào, vừa như in. Cả hội ngạc nhiên :
-Mày làm cái gì đấy?
-Làm cái gì đâu, chỉ mặc quân phục mới.
-Sao bỗng dưng...!
-Dưng, dưng gì? Sắp chết toi rồi còn cất quần áo mới làm gì?
-Thằng Toàn làm đúng đấy. Hắn đề phòng sang bên kia có bộ quần áo mới diện tết. Mẹ hắn khỏi đốt đồ hàng mã.
-Mấy thằng mất dạy, toàn nói điềm gở.
Cách đó vài mét, Páo vừa moi lại chiếc bếp Hoàng Cầm để nhóm lửa vừa ư ử hát cái bài duy nhất mà cậu phát âm chuẩn tiếng phổ thông. Páo là người dân tộc, là pháo thủ số 2 kiêm đầu bếp. Một tháng trước, khi còn nằm chờ chiến dịch dưới rừng cao su thuộc nông trường Quyết Thắng bắc Bến Hải, Páo đã làm cho cả đại đội cười chết thôi. Hắn từ đâu ngoài suối chạy về hốt hoảng:
-Các anh ơi! Con bò.
-Con bò làm sao!
-Không biết...
Đúng lúc ấy một con bò cái của nông trường đủng đỉnh đi ngang trước xe. Páo sốt sắng:
-Đó đó, các anh xem, ai đâm con bò chảy máu... chỗ cái L. hay con bò có kinh.
Không còn một nguyên tắc bí mật nào còn giữ nổi tiếng cười của những gã lính tăng vốn đã khỏe mạnh, phải ém mình chờ mục xương mấy tháng dưới gầm xe tăng. Páo không giận, nhưng bớt tò mò xốc nổi, chỉ hay hát bài: Noọng ơi! muôn thuở. Có lúc cậu ngồi nghệt ra trông rất thộn. Páo đang nghĩ gì, anh em trong xe không ai bỏ công tìm hiểu. Có thể cậu nhớ Mế, nhớ Cao Bằng, có thác Bản Giốc, có bìm bịp kêu buổi chiều, sương giăng buổi sớm. Páo nhập ngũ năm mười tám tuổi. Không ai hiểu lệnh động viên nào lại có thể lôi một anh cu hiền lành ngây ngô như thế từ rừng sâu hun hút Cao Bằng ném vào cái đống sắt thép này. Và đêm nay, trong trận đánh đầu tiên trong đời, hắn ta sẽ tác chiến ra sao.?
   Hôm qua thằng Toàn nói đùa:
-Anh Hoán à! xong trận này, anh ký quyết định cho thằng Páo về với Noọng của hắn, để hắn tiếp tục sự nghiệp "phát cốt đốt trỉa".
-Ê ê không đâu! Không đâu vớ!
Hoàng hôn xuống dần. Biển lấp lánh ánh bạc lân tinh. Bên trái nơi đại đội đóng quân là cảng Cửa Việt
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #7 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2010, 04:58:45 pm »

Bắt đầu từ ngày kia số phận cảng này sẽ ra sao, những người lính đại đội cũng không hiểu. Chỉ biết là đêm nay họ phải giữ lấy nó. Những việc lớn dành cho các nhà chính trị. Toàn đến gần đại đội trưởng.
-   Có nhớ chị không anh Hoán?
-   Công bằng mà nói là cũng có, nhưng nhớ con nhiều hơn.
-   Tết này thằng cu ba tuổi rồi đấy nhỉ?
-   Ừ nhớ nó quá! Xong trận này tớ xin tranh thủ.
Toàn cười:
-   Xong trận này thì thoải mái chứ còn "tranh thủ" gì nữa. Về. Hả! Hết chiến tranh rồi anh có ở lại binh chủng không?
-   Chả hiểu? Cấp trên giữ lại thì ở. nếu không thì về đánh cá sông Thao.
-   Ơ, sông Thao cũng có cá hả anh, em tưởng chỉ có lụa, tơ, tằm?
-   Sông nào chả có cá. Cái cậu này! Mà hình như pháo nó bắn dày hơn phải không? Cậu ra canh chừng chúng nó đổ bộ sớm.
Từ xa một người lính chạy lại huơ mấy mảnh giấy trắng:
-   Báo cáo thủ trưởng! Địch thả truyền đơn.
-   Thì sao, lúc nào chẳng thả?
-   Nhưng, chúng nó làm thơ.
-   Thơ à, thì đưa cho thằng Huyền - Bích - Thu xem sao? Hay đọc lên nghe coi.
Tờ truyền đơn in một bài thơ binh vận, người lính đọc:
"Tiếng pháo nổ với từng tràng pháo nổ
Trên bàn thờ mâm cỗ đã bày xong
Mẹ tôi đang thắp nốt nén hương vòng
Và xếp lại trái hồng mâm ngũ quả
Anh tôi cắt khoanh giò vừa bóc lá.
Các bạn cán binh Việt cộng! Xuân Quý Sửu sẽ là một mùa xuân hạnh phúc nếu các bạn biết hồi chánh quốc gia. Đêm nay là đêm cuối cùng trong cuộc giao tranh, các bạn háy tỉnh táo phân biệt để hướng tới chánh nghĩa"
.
-   Vớ vẩn...!
-   Làm thế nào thủ trưởng?
-   Thì thế nào, kệ nó, hơi đâu. cậu về báo anh em ăn no đi. Thay nhau mà ngủ để khi cần thì dậy cho tỉnh. Mà lúc nãy phía xe của cậu hình như có tiếng AK phải không?
-   Vâng ạ, anh em bộ binh ở cánh phía trong đấy. Mấy tay lính quê Quảng Ninh, Hải Phòng mò lên đài quan sát trên điểm cao xin lương khô, không được, liền chĩa súng bắn lên.
-   Sao nữa, ở trên không gõ xuống à?
-   Không, họ xuống kể với bọn em.
-   Chết thật, sắp đánh nhau to rồi mà... bên các cậu còn BA70 cho chúng nó một ít.
-   Ôi tiếc lắm, lấy gạo sấy cho cũng được.
-   Tùy cậu, nhưng gạo sấy bây giờ nấu sao được! Ừ mà thằng Páo nấu chín cơm chưa nhỉ. Thôi cậu đi đi. Páo ơi! Páo đâu rồi, cơm chín chưa?
Tiếng của Hoán vang lên trong buổi hoàng hôn giữa những giây phút yên tĩnh hiếm hoi. Khoảng sáng cuối cùng trên mặt biển thu hẹp dần rồi mất hẳn.
Ba giờ sáng. Không phải tiếng còi báo động hay tiếng nổ của đạn pháo, mà chính là âm thanh náo loạn của trận địa đánh thức các chiến sĩ xe tăng. Thốt nhiên, khu vực đại đội tràn ngập lính bộ binh. Dưới ánh trăng suông hạ tuần, họ rút thành từng tốp, thấy xe tăng liền dạt vào. Nhiều người dìu nhau, mình đầy máu me.
-   Các cậu từ đâu rút về đấy?
-   Từ thôn 7, thôn 8, bọn mình hết đạn - Người lính nói như thanh minh.
-   Nó từ trong nống ra à?
Một người lính tóc tai quần áo xơ xác rờ rờ vào khẩu pháo 85 ly:
-   Mẹ kiếp! Bọn tôi chọi nhau cả buổi với M48, còn các cha thì nằm ở đây?
-   Có phải chiều hôm qua chính các cậu bắn lên điểm cao phỏng?
-   Thôi anh, cậu ấy "chốt" rồi. Trước khi chết hắn còn "bàn giao" lại cho tụi em hai phong lương khô. Đâu như bên các anh cho. Các anh còn nữa không?
-   Còn, vào đây - Hoán nói giọng hào hiệp - bảo mấy cậu trong xe lấy cho mà ăn rồi rút ra tuyến sau đi. Để tụi M48 đấy cho bọn tớ, mẹ kiếp!
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #8 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2010, 11:32:14 pm »

Báo Quân đội nhân dân ra cuối tháng Giêng năm 1973 đưa tin:
"Sáng sớm ngày 28 tháng Giêng năm 1973 lợi dụng sương mù dày đặc, hai thiết đoàn Mỹ ngụy đã từ phía nam xã Triệu Vân (Triệu Phong, Quảng Trị), và từ tàu há mồm ngoài biển đổ bộ lấn chiếm vùng giải phóng nam Cửa Việt. Một đơn vị nhỏ của ta thuộc đoàn 202 thiết giáp đã anh dũng chặn đánh bảo vệ cảng. Mặc dù lực lượng hai bên chênh lệch, nhưng các chiến sĩ xe tăng đã anh dũng mưu trí bắn cháy nhiều xe tăng địch. Riêng xe tăng 704 do đại độ trưởng Nguyễn Văn Hoán trực tiếp chỉ huy đã bắn cháy 5 xe tăng địch. Đến 7 giờ sáng ngày 28 tháng Giêng năm 1973 khu giải phóng nam Cửa Việt vẫn được giữ vững".
Bản tin không nói hết rằng: trong cuộc đấu tăng lịch sử nửa đêm về sáng 28 tháng Giêng ấy, để chặn đứng và tiêu diệt được hai thiết đoàn địch, đại đội thiếu số 1 tăng thiết giáp thuộc trung đoàn 202 đã đánh đến xe cuối cùng. Xe tăng 704 trúng đạn vào khoảng 7 giờ kém 5 phút. Không một người nào kịp nhảy ra khỏi xe.
Vâng! Tất cả! Khi cùng bốc cháy thành khói bay lên trời đều yên trí rằng, họ là những ngưòi lính cuối cùng ngã xuống. Họ đâu biết rằng, những người lính xe tăng đồng đội của họ, còn đi tiếp hơn hai năm nữa trên những nẻo đường chiến tranh từ Quảng Trị vào tận Sài Gòn; còn phải tiêu tốn bao nhiêu dầu điêzen, bao nhiêu máu, băng xích còn nghiến qua bao nhiêu đường đất nữa mới đến được điểm cuối cùng: Cổng sắt dinh Độc Lập...
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #9 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2010, 12:56:28 am »

Chị Bùi

Chị Bùi không biết gì nhiều về lịch sử và những tích tuồng về cái rẻo đất xương xẩu này. Đơn giản chỉ là một cô gái làng chài, sinh ra trên cát, bạn với con còng gió, với bông hoa muống biển, có tới trường làng cũng ngồi bệt ngay trên cát học được dăm ba chữ. Con gái miền biển tuổi mười lăm, mười bảy là đã được rắp ranh gả chồng, đẻ con, sáng sáng chiều chiều chờ chồng đi biển về là mang cá, mang mực ra chợ. Nếu một ngày chồng đi biển không về thì thắp hương khấn. Tìm được xác chồng dạt vào đã là phước, chôn cất, chờ ngày đoạn tang thì có thể tái giá. Nếu chồng bị cá mập, thuồng luồng nuốt chửng ngoài khơi không để lại “bóng chim tăm cá”, thì cứ thế ôm con mà chờ, góp thêm hình hài vào muôn nghìn khối đã trơ gan trước biển.
Ký ức của chị cũng có một người đàn ông. Người ấy đi qua thời thanh xuân của chị trong mười ngày đêm. Trong suốt 40 năm chờ đợi, chị cố lưu giữ một hình ảnh mờ nhạt như tia nắng vàng nhấp nháy nơi khóe miệng anh và một khoảng trống nhỏ trong bàn tay. Anh nói giọng Quảng, vùng phía Nam Trung Bộ. Một anh bộ đội miền Nam tập kết sáng sủa, hiền lành có cái răng bịt vàng và bàn tay trái cụt một ngón. Hiệp định Giơ-ne-vơ đưa anh ra Bắc. Anh ở trong đoàn công tác về giúp làng chi tiến lên hợp tác hóa. Sáu tháng sau, từ nơi đống quân, anh một mình về làng cưới chị. Họ sống với nhau đúng một kỳ nghỉ phép, gấp gáp tới mức chị chưa kịp đọc thuộc cái tên xã, huyện bản quán của anh. Rồi anh đi. Có một tiếng gọi nào đó, không cao giọng nhưng rất quyết liệt đã kéo anh bứt ra khỏi vòng tay mới chớm biết ái ân của chị. Và thế là đi mãi, đi biệt. Đó là vào năm Canh Tý 1960. Rất lâu về sau, trong những đêm dài cô đơn vắng lặng, chị nằm nhớ anh và mơ hồi hiểu cái tiếng gọi thiêng liêng kia, mạnh hơn chị, có lẽ là… tiếng súng. Tiếng súng cứ cọng âm âm từ đầu bên kia vĩ tuyến 17, nơi quê hương anh. Cái âm hưởng hùng mạnh này đỡ chị, giúp chị níu giường níu chiếu chờ anh tới 15 năm sau.
Năm 1975, chiến tranh kết thúc. Từ phương Nam, nhiều người đàn ông trong làng chị trở về. Họ đi ô tô, nhảy xuống trên đường quốc lộ, ngỡ ngàng một chút, rồi xốc ba lô theo lối mòn về làng cát. Có người đàn bà tóc xổ tung và một lũ con chạy bấp bổng như điên dại lao ra đón. Lại có những người đàn bà xao xác chạy theo hỏi thăm tin tức về chồng mình. Vài ba ngày lại có một cuộc hội ngộ như vậy. Nhiều người về da xanh mét, có người bị thương vào đâu đó, nhưng ai cũng mừng vì chiến tranh đã kết thúc. Có lần vào buổi trưa, đang vắng lặng thì có tiếng quát tháo đầu làng. Mọi người chạy ra, gặp một thương binh chống tới hai cái nạng khó nhọc bước trên cát bỏng. Một người đàn bà nhào tới mếu máo… cười: Cụt chân cũng tốt, đi biển vẫn được, ngồi lên thuyền kéo lưới ấy mà. Lại một lần có chiếc xe hồng thập tự về tận ngõ xóm, có cả cán bộ ủy ban, khiêng xuống một người ngắn cun củn cụt hết cả chân tay, mù một mắt. Lại một trận vang làng, khóc giàn giụa và cười cũng ra nước mắt. Được đúng một buổi rồi chiếc xe hồng lại chở anh đi.
Chị âm thầm chờ anh. Mãi không thấy: Anh không lớn lên ở đây, liệu có nhớ lối mòn trên cát mà về? Trong tâm tưởng chị không bao giờ nghĩ anh đã chết. Khác những người đàn bà hay ngóng lên phía Tây, lên đường quốc lộ, chị hay đứng ở rạn đá nhìn ra biển. Trong mười ngày ngắn ngủi ấy chị đã hai lần dẫn anh ra biển tắm, đã thấy anh bơi lặn như con tấy. Con tấy ở quê chị thường sống trên cạn nhưng lặn bắt cá dưới nước rất giỏi. Không hiểu sao chị cứ nghĩ nếu còn sống, anh sẽ về từ hướng biển. Đôi mắt chị nhiều lúc ướt nhèm nhìn một cái rều rác nào đó cũng giật mình. Rồi chị bỗng nhìn quanh. Lên rạn đá có bao nhiêu hình hài cũng đứng im như chị, cũng nhìn ra biển như chị. Chị hoảng sợ nghĩ, một mai không khéo mình cũng thành đá. Chị bèn ngồi xuống. Chị ngồi rất lâu. Tuổi xuân của một người đàn bà như gió thổi, như sương sớm thoảng qua trên đầu.
Trong bốn năm sau đó, bố mẹ chị lần lượt qua đời. Anh chị em trong gia đình dựng nhà mới. Trong ngôi nhà cha mẹ chỉ còn vợ chồng con cái anh cả và chị. Chị bỗng thấy thừa thãi, vướng víu như cái mụn cóc trên mặt, cái cối xay giữa nhà, xoay trở hướng nào cũng không ổn. Tới chừng nổ ra cuộc chiến tranh biên giới thì chị càng cảm thấy không thể ở mãi trong nhà cũ. Nhân có đợt giãn dân lên vùng gò đồi dưới chân đèo ngang, chị đăng ký ngay. Những tháng đầu, chị cắm mặt xuống đào bới gốc sim, gốc mẹ khoanh một khoảng đất, dựng một mái lá. Chỉ mấy ngày sau, chị đã thấy dường như căn nhà quá rộng, chỉ đặt mỗi một cái giường đơn bằng gỗ mộc. Những đêm nằm thao thức nghe gió hú đồi hoang, chị hoang mang không còn thấy cái cảm giác cũ, cái rộn rạo, náo nức nơi người đàn bà, thường trở về đều đặn mỗi tuần trăng. Trong “tuần trăng mật” ngày ấy, cái “vườn xuân”của chị đã không kịp trổ một nụ hoa, hồng một trái chín. Cơ chi kỳ nghỉ phép của anh dài thêm dăm ngày nữa! Hơn 20 năm chờ đợi, hàng trăm “hạt giống” không gặp được phù sa đã rơi rụng vào khoảng không. Chị không nuối tiếc, chị bỗng giật mình. Đời người hữu hạn, tuổi xuân trong đời người đàn bà ngắn ngủi. Chị hay quyến bọn trẻ con vào nhà, mua kẹo cho chúng ăn. Nhưng, ăn hết kẹo chúng lại kéo nhau đi bắt chuồn chuồn hái hoa dại ngoài đồi. Rồi trong đêm chị bỗng nhớ lại một ánh mắt, ánh mắt một người đàn ông, không phải người đàn ông chồng chị.
Logged
Trang: 1 2 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM