Tiêu đề: Thời điểm của những sự thật Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2016, 08:25:34 pm - Tên sách: Thời điểm của những sự thật
- Tác giả: Henri Navarre - Người dịch: Nguyễn Huy Cầu - Nhà xuất bản: Công an Nhân dân - Năm xuất bản: 2004 - Số hoá: Giangtvx - Dịch theo nguyên bản tiếng Pháp “LE TEMPS DES VÉRITÉS” do Nhà xuất bản Plon - Paris ấn hành năm 1979 - Tóm lược nội dung: Hồi ký của đại tướng Henri Navarre, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, về thời kỳ cầm quân ở Đông Dương và sự kiện Điện Biên Phủ (1953 - 1954). LỜI NHÀ XUẤT BẢN Để thiết thực góp phần "Kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ” - 7-5-1954 - 7-5-2004, Nhà xuất bản Công an nhân dân tổ chức tái bản cuốn: ”Thời điếm của những sư thật” (Le Temps des Vérités) của Henri Navarre do nhà xuất bản Plon - Paris ấn hành năm 1979. Đây là cuốn hồi ký thứ hai do chính tay vị tướng bốn sao - nguyên là Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương (1953 - 1954) viết. Ngay sau khi về nước, vừa rời khỏi quân ngủ trở lại với cuộc sống dân sự ông đã tập trung thời gian, công sức và suy tư để viết gấp cuốn "Đông Dương hấp hối" (Agonie de Ưlndochine), nhà xuất bản Plon in năm 1956 nhưng bị kiểm duyệt và phải đợi đến năm 1958 mới cho phát hành. Trong cuốn này ông muốn gửi gắm tâm sự, muốn bộc bạch, lý giải, thanh minh... một số điều chủ yếu cốt để làm dịu bớt những cơn thịnh nộ, hoặc để né tránh búa rìu dư luận đang nhằm vào ông mà quy kết trách nhiệm. Nhưng do sự việc còn quá mới mẻ, thời gian còn quá ngắn ngủi và sự chỉ trích, lên án lại quá gay gắt nên ông chưa thể nói được tất cả những gi muốn nói, chưa thể bày tỏ quan điểm hoặc thái độ bất đồng của mình một cách rò ràng. Ông đành phải lặng lẽ chờ đợi đến 23 năm sau mới tìm được thời gian thích hợp để ra mắt cuốn thứ hai. Đến lúc này ông đã có trong tay hàng loạt những hồi ký, bút kỷ, tự thuật,... của nhiều chính khách, nhiều tướng lĩnh. Họ công khai mô xẻ, vạch trần, lên án,... có người còn cố tình xuyên tạc, vu không, bóp méo sự thật, có người lại ra sức biện hộ, bào chữa, bênh vực,... cho những gì đã xảy ra, những gì có liên quan tới cuộc chiến tranh Đông Dương, tới Điện Biên Phủ. Đến lúc này ông đã thấy: "Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai do người Mỹ tiến hành với những phương tiện và trang bị hiện đại gấp nhiều lần, với số quân đông hơn nhiều lần, với thời gian kéo dài gấp đôi cuộc chiến tranh lần thứ nhất vậy mà vẫn bị thất bại thảm hại. Tiếp đó là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba do những người Nam Việt Nam bị đồng minh bỏ rơi đứng ra đảm nhiệm củng kết thúc bi thảm... Tất cả những điều đó chứng tỏ rằng những khó khăn mà bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương phải gánh chịu còn to lớn hơn rất nhiều lần..." (Lời nói đầu). So với nhiều tướng lĩnh khác, Henri Navarre có những thuận lợi nổi trội hơn hắn. Ông có đủ điều kiện và cương vị để nhìn nhận, xem xét sự kiện một cách toàn diện và hoàn chỉnh trên toàn cuộc chiến Đông Dương. Ông chính là cha đẻ của kế hoạch Navarre - một kế hoạch đầy tham vọng và ngông cuồng của cả Pháp và Mỹ nhằm giành thắng lợi quyết định trên chiến trường trong vòng 18 tháng. Ông là công trình sư kiêm kiến trúc sư của cả tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ - "một pháo đài bất khả xâm phạm, một tập hợp những gì mạnh nhất, kiên cố nhất chưa từng có ở Đông Dương" (chương V). Ông vừa là người chỉ đạo chiến lược vừa là người chỉ huy chiến thuật của cả chiến trường rộng lớn và sôi động này. Vốn xuất thân là một sĩ quan trường võ bị Saint-cyr trước đại chiến thế giới thứ nhất, ông đã từng là kỵ binh ở Xiri, ở Algeri, Marốc, là tình báo của Bộ tham mưu rồi tình báo an ninh quân sự. Ông đã từng đến Hà Lan, Bỉ, Thụy Sĩ, Ba Lan, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Na Uy, Đức, Nam Phi... Ông là vị đại tướng thứ bảy được cử làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương ngay khi ông đang đảm trách chức vụ tham mưu trưởng lục quân khối NATO ở Trung Âu. Với bề dày kinh nghiệm, bề dày thời gian và sự từng trải ấy, ông được coi là người có năng lực, dũng cảm và mưu trí nhất có thể kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương trên thế mạnh. Không phải ngẫu nhiên khi hàng loạt tướng lĩnh cự phách của nền đệ tứ cộng hòa Pháp như: Leclère, Valluy, Blaizot, Carpentier, de Tassigny, Saỉan... đều bị chôn vùi sự nghiệp trên cái bán đảo nhỏ bé và nóng bỏng này thì người ta lại chọn ông, tiến cử ông, đưa ông sang thay. Sang Đông Dương ông không phải là người mở khúc nhạc dạo đầu mà là người kết thúc. Người ta hy vọng và tin tưởng ở ông một sự kết thúc trên thế mạnh và hùng tráng. Nhưng mọi cố gắng của ông củng chỉ có thể đem lại sự kết thúc bi thảm của Quân đội viễn chinh. Đó chính là sự kết thúc vĩnh viễn chế độ thống trị của thực dân Pháp đã tồn tại gần một thế kỷ trên bán đảo Đông Dương. Ông lại là người chứng kiến từ đầu đến cuối mọi diễn biến của sự kiện Điện Biên Phủ, cho nên ông không muôn để cho sự kiện đó: "Bị rối tinh rối mù lên và bị méo mó đến nỗi người ta không tài nào hiểu nổi, nếu không làm rõ những nguyên nhân chính của các cuộc tranh luận mà nó đã khơi lên. Vì những lẽ đó mà tôi thấy cần phải xem xét những luận điểm chủ yếu và phát biểu rõ quan điểm của tôi. Tôi sẽ cô gắng hết sức để trinh bày vấn đề được khách quan và hạn chế tối đa những tranh luận không cần thiết. Song điều đó thật khó tránh được, vì nếu làm như vậy thì chẳng khác gì chơi trò biển lận lịch sử" (Phụ lục - tranh luận về Điện Biên Phủ). Mặc dầu còn nhiều vấn đề cần được trao đổi, bàn luận thêm, nhưng với cách nhìn, cách nghĩ của một vị tổng chỉ huy, của người trực tiếp chỉ đạo và điều hành toàn bộ guồng máy chiến tranh ở Đông Dương vào thời điểm khắc nghiệt nhất, ông có cách lý giải riêng về trận chiến với những lập luận dù chưa thật thỏa đáng và thiếu hiện thực cả về nguyên nhân và điều kiện... âu củng là điều dễ hiểu. Tuy vậy ông vẫn là một nhân chứng dám nói lên tất cả những điều mà nhiều tướng lĩnh khác không dám nói hoặc không đủ hiểu biết để nói. Ông đã thắng thắn phơi bày toàn bộ sự thật về nội tình nước Pháp, về ý đồ của giới chính trị chóp bu, về tâm trạng của tướng lĩnh, của binh sĩ và những bất đồng trầm trọng về quan điếm giữa Pháp và Mỹ trước, trong và sau cuộc chiến. Ông đã dũng cảm nhìn thắng vào sự thật, vạch rõ cái mạnh cái yếu, sai lầm, lúng túng và tồn tại của cả hai phía. Ồng đã dám bênh vực, bảo vệ sự thật, tìm ra nguyên nhân, cho dù sự thật ấy đầy phủ phàng và cay đắng. Ông không hề lấn tránh trách nhiệm nặng nề của chính mình, nhưng cũng không để cho người khác rũ bỏ nó và đã thắng thắn vạch rõ: "... De Castries ở Điện Biên Phủ, Cogny ở Hà Nội và xa hơn nữa những người ở điện Elidê, ở lâu đài Matinhông, kể cả những người đứng đầu Lầu Năm Góc và Nhà Trắng đều có liên quan đến số mệnh của Vecđoong châu Á này..." (Chương VI). Để góp thêm tiếng nói, góp thêm tư liệu, góp thêm cách nhìn nhận đánh giá sự kiện trên một giác độ khác, theo một quan điềm khác - đó là của phía đối phương, phía ngược lại, chúng tôi giới thiệu phần II của cuốn sách - Phần nói về kế hoạch Nauarre và Điện Biên Phủ. NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2016, 04:33:34 am LỜI NÓI ĐẦU Khi viết tập hồi ký này, tôi nghĩ chỉ dành nó cho những người thân. Nhưng sau đó, cảm thấy mình dính dáng tới quá nhiều sự kiện vì thế những hồi ức của tôi, lẽ ra có thể đóng góp với lịch sử ít nhiều sự thật thì không nên bó hẹp trong phạm vi gia đình. Không cần phải công phu soạn lại, tôi chỉ "xếp sắp" lại, lược bớt những chi tiết có tính chất quá riêng tư, thuộc về cá nhân tôi hoặc gia đình tôi. Có thể lần biên tập cuối cùng ít nhiều cũng còn chịu ảnh hưởng của bước đi lầm lạc lúc ban đầu. Trong phần thứ nhất, độc giả sẽ tìm thấy một số tiết lộ, một vài chi tiết rõ ràng hoặc suy nghĩ về công tác tình báo trước và trong chiến tranh, về những nguyên nhân thất bại của chúng ta năm 1940, về hoạt động của Tướng Weygand ở Algeri thời kỳ 1940 - 1941, về cuộc kháng chiến và những ngày giải phóng nước Pháp, về chiến trận của Tập đoàn quân 1 Pháp ở Đức và về việc chiếm đóng nước Đức. Có lẽ nó sẽ giúp vào việc điều chỉnh lại nhận thức, quan điếm đối với một số sự kiện hoặc một số nhân vật mà trước đây, thường do quá chịu tác động của chính trị, nên lịch sử viết sau chiến tranh đã không phản ánh được chúng. Phần thứ hai dành riêng cho thời kỳ cầm quân của tôi ở Đông Dương và sự kiện Điện Biên Phủ. Trong cuốn "Đông Dương hấp hối" xuất bản năm 1956, tôi đã trình bày về sự việc này, nhưng do sự việc còn quá mới mẻ nên tôi không thể nói được hết. Từ đó, thời gian đã trôi qua. Có những sự việc lẽ ra có thể tiết lộ, song tôi đã tự nguyện giữ im lặng. Nhiều sự kiện khác mà tôi không biết hoặc còn nghi ngờ thì nay tôi đã được biết. Hơn nữa, nhiều diễn viên chính của tấn bi kịch nay đã mất, và tất cả đều không còn giữ những chức vị quan trọng nữa nên người ta có thể chỉ trích họ mà không sợ làm tổn hại đến sự nghiệp của ai, bởi những hành động của họ cũng như của tôi giờ đây, chỉ còn thuộc về lịch sử. vả lại đi trước tôi, một số người đã tự mình xuất bản hoặc cho xuất bản sách để trình bày những luận điếm của riêng mình. Cho nên việc tôi đưa ra những ý kiến đối nghịch cũng là điều bình thường. Mặt khác, cuộc "Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai", do người Mỹ tiến hành với những phương tiện hơn chúng tôi gấp nhiều lần tới mức không tài nào so sánh nổi, đã kéo dài gấp đôi thời gian cuộc chiến tranh lần thứ nhất và đã dẫn đến thất bại, một thất bại mà nền ngoại giao Mỹ một lúc nào đấy còn tìm cách che giấu song nó đã nhanh chóng trở thành hiển nhiên. Và cuộc "Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba", do những ngưòi Nam Việt Nam bị đồng minh bỏ rơi độc lực đảm nhiệm, đã kết thúc bằng một thảm họa. Tất cả những cái đó chứng tỏ những khó khăn mà Bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương vấp phải còn lớn hơn rất nhiều so với những gì mà những người tiền nhiệm của tôi và tôi tưởng. Vậy là những sự kiện chính trị và quân sự gây ra cho chúng ta thất bại vào năm 1954 đã được làm sáng tỏ dưới một ánh sáng mới. Nếu ai đó cho rằng phần hồi ức của tôi là một sự biện hộ "tự bào chữa" thì tôi cũng vui lòng công nhận. Nhưng ai viết hồi ký cũng thế thôi, dù là tác phẩm của các nhà chính trị hay quân sự đủ các cấp, của các nhà ngoại giao, quan tòa hay luật sư, các nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ, nhà kinh doanh, v.v... Dù người ta gọi nó là gì chăng nữa, Hồi ký luôn luôn là một sự tự biện ít hay nhiều chân thật hoặc dối trá, trong đó tác giả, ngay cả khi họ khắng định không phải thế, vẫn tìm cách khoe khoang ca ngợi hoặc bảo vệ công trình, những hành động hay ý kiến của họ. Vả lại, điều đó cũng là chính đáng khi tác giả là đối tượng của những lời phê phán, công kích. Tất cả những gì người ta có thể đòi hỏi, theo tôi, là họ không được cố tình bằng bất kỳ cách nào xuyên tạc hay bóp méo những sự kiện, những tư liệu đưa ra. Về vấn đề này, những gì liên quan đến tôi, tôi có thể đưa ra lời bảo đảm. Xin nói thêm rằng, tôi không hề có ảo tưởng cuốn sách này sẽ làm thay đổi ý kiến của công luận về những điều kiện mà chiến tranh Đông Dương đã kết thúc đối với nước Pháp. Luận điểm trình bày Điện Biên Phủ như một thảm họa không thể sửa chữa được, - do lỗi của Bộ chỉ huy Pháp đã mất tinh thần, nhưng may mà hậu quả tai hại của nó đã được giảm bớt nhờ có tài ngoại giao khéo léo của một "siêu nhân" đã được nhồi nhét quá ăn sâu bén rễ vào dư luận; nó lại được người ta duy trì để còn phục vụ cho quá nhiều lợi ích chính trị hay cá nhân. Vậy thì làm sao một cuốn sách như của tôi lại có thể phá đi được. Có khi nó còn bị chỉ trích hơn là được tán thành, bởi thường thường người ta sẽ coi là xấu những ai đó muốn lật lại lịch sử - cái thứ Lịch sử đã được tạo dựng lâu rồi. Nhưng có thể nó cũng giúp cho những độc giả - những người muốn vượt ra khỏi mọi thiên kiến - suy nghĩ lại, và biết đâu một ngày nào đó, nó sẽ giúp cho những sử gia chân chính có căn cứ để nghiên cứu một cách khách quan những điều kiện trong đó nước Pháp đã rời bỏ Đông Dương. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2016, 09:07:55 pm CHƯƠNG I TỔNG TƯ LỆNH Ở ĐÔNG DƯƠNG Giao nhiệm vụ Nhờ Tướng Juin mà tôi biết được những lý do việc giao quyền Tổng tư lệnh ở Đông Dương cho tôi. Tướng Salan đã hết hạn phục vụ ở Đông Dương quá lâu và cũng không còn được Chính phủ tín nhiệm. Bị thất bại trong trận Đông Xuân1 gây ấn tượng, Chính phủ đã khiển trách Tổng tư lệnh Đông Dương là chỉ bằng lòng với những đòn chống đỡ. Tướng Juin, ngay cả khi không đồng tình với những lời khiển trách ấy, cũng thấy đã đến lúc phải thay Tướng Salan vì ông đã ở Đông Dương quá lâu và cũng đã mỏi mệt. Một phương án là đưa Tướng De Linarès, chỉ huy Bắc Bộ lên thay. Nhưng Linarès còn mệt mỏi hơn cả Salan. Lại đưa ra ba ứng cử viên khác là các Tướng Valluy, Morlière hay Magnan, cả ba đều từng ở thuộc địa. Nhưng vì lý do chính trị - mà theo Juin thì đó là những lý do ngu xuẩn - Valluy và Morlière đều bị phản đốì: Valluy thì quá chống Việt Minh, còn Morlière thì quá thân Việt Minh. Riêng Magnan ông ta không muốn sang Đông Dương viện cớ khó khăn gia đình. Việc đang còn dừng ở đấy thì Thủ tướng René Mayer phát hiện ra tên tôi ở cuối danh sách những người "có khả năng lựa chọn", xếp theo thứ tự thâm niên phục vụ trong quân đội. Thê là ông quyết định cử tôi và không muốn buông tôi ra nữa. Ông René Mayer biết đến tôi khi tôi đang làm nhiệm vụ Tổng thư ký của Bộ Tổng chỉ huy ở Đức và khi ấy ông đang giữ chức cao ủy của Vùng quân Đồng minh chiếm đóng. Tôi còn gặp ông khi tôi chỉ huy Sư đoàn Constatine, còn ông là nghị sĩ của vùng này. Những nhà chính trị thường đánh giá không mấy hay hớm về trình độ tri thức của các tướng lĩnh, nhưng thỉnh thoảng họ cũng có ngoại lệ đốì với một vài tướng mà họ trực tiếp quen biết. Tự hào vì đã phát hiện được "con chim hiếm", họ thường gán cho những người này những đức tính, nhiều khi là quá mức so với thực tế mà những người này có. Chẳng may cho tôi, tôi lại là "vị tướng thông minh" theo con mắt của ông Mayer. Trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, chẳng có gì nổi trội để giao cho tôi quyền chỉ huy ở Đông Dương. Tôi chưa từng ở đấy và chỉ biết qua về chiến trường này, giống như mức hiểu biết của những người Pháp khác ít nhiều có chút thông tin. Tôi tự xét thấy mình không đủ khả năng và đã nói thẳng với Tướng Juin. Ông khuyên tôi, cẩn tắc vô ưu, nên trao đổi kỹ với ông Mayer nhưng cũng bảo rằng tôi không nên thoái thác một nhiệm vụ mà rồi trước sau cũng phải có một người nào đó đảm nhiệm. Ông nói thêm: "Vả lại, anh được đưa vào những vị trí cao nhất. Ở đấy, cần phải có những người dám mạo hiểm, dám chấp nhận khó khăn để đương đầu, thử thách với quân thù! Cần phải phá bỏ cái lệ là cứ đặt vào vị trí đứng đầu quân đội những tướng lĩnh, bất chấp khả năng của họ như thế nào, như tướng X tướng Y2 chưa từng chỉ huy ở chiến trường ở những cương vị cao". Như Tưóng Juin còn nói, tôi được tung vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm nhưng không phải không có lối thoát. Để làm chỗ dựa cho ý kiến của mình, ông đưa cho tôi bản sao một báo cáo do ông thảo ra qua chuyến đi thanh tra Đông Dương của ông vài tuần trước đây, với tư cách là cố vấn quân sự của Chính phủ. Những kết luận rút ra có vẻ khá lạc quan (có lẽ là quá hơn nhiều, như sau này tôi được biết) nếu không phải là đối với hiện tại hay trước đó chút ít, thì ít nhất cũng là đối với tương lai. Thống chế Juin đánh giá có thê ổn định được tình hình trong một thời hạn là hai năm. Khi đưa tôi bản báo cáo ấy, Thống chế nhấn mạnh cần phải giành lại quyền chủ động từ tay Việt Minh. Ông kết luận "Nếu chúng ta cứ tiếp tục đỡ đòn thì chúng ta sẽ bị "rã rời" và không bao giờ thoát ra khỏi". Ngày hôm sau, tôi được ông Renè Mayer tiếp. Trả lời sự từ chối của tôi, ông cho rằng chính việc tôi ít biết về Đông Dương lại là một lý do nữa để bổ nhiệm tôi vì như vậy tôi có thể "nhìn sự việc với một cặp mắt mới". Rồi ông nói thêm, tươi cười nhưng kiên quyết, rằng hơn nữa ông gặp tôi không phải để hỏi ý kiến, bởi một quân nhân không bao giờ được quyền từ chối nhiệm vụ và "càng không được từ chối khi nhiệm vụ đó đầy khó khăn nguy hiểm". Câu nói đó, trùng hợp với nhận xét của Tướng Juin nói vối tôi, quả đặc biệt khôn khéo. Thực ra, lý lẽ của ông Thủ tướng chưa phải đã thuyết phục được tôi. Bởi tôi luôn luôn cho rằng kỷ luật, dù nghiêm ngặt, cũng có giới hạn nhất định, nhất là khi nó có quan hệ tới những cương vị quan trọng hàng đầu, kể cả dân sự và quân sự. Cương vị đó nhất định đụng tới những vấn đề lớn và có ảnh hưởng lớn tới đường lối chính trị của Chính phủ. Do đó các nhà lãnh đạo quân sự cũng như dân sự có quyền từ chối những cương vị ấy, nếu những điều kiện đặt ra cho họ đụng chạm tới lương tâm của họ, hoặc những phương tiện giao cho họ không đủ bảo đảm những cơ may cần thiết để thành công. Nhưng quan điểm ấy của tôi, nếu có giá trị trong thời bình, thì lại không thể áp dụng trong thời chiến. Chúng ta đang tiến hành chiến tranh ỏ Đông Dương. Cương vị tổng chỉ huy ở đấy là một "vị trí chiến đấu". Tôi nghĩ rằng không nên lẩn tránh và ngày 8 tháng 5, việc bổ nhiệm tôi đã được thực hiện. Trong cuộc gặp lần thứ nhất và một lần khác sau đó vài ngày, ông René Mayer trình bày với tôi những nhận định của ông về tình hình Đông Dương. Ông đánh giá tình hình là rất xấu và cho rằng khó có thể đưa lại cho ông một giải pháp thuận lợi. Theo ông, vấn đề là tìm một "lốì thoát ra bằng cách nào và làm như thế nào để đả tới nó(1). Ông yêu cầu tôi mười ngày nữa lên đường sang Đông Dương nhận quyền chỉ huy, nghiên cứu tình hình tại chỗ, khoảng một tháng rồi trở lại Pháp để đệ trình lên Chính phủ một kế hoạch hành động. Nét lớn của kế hoạch đó ra sao, tốt hơn không nên chỉ thị gì cho tôi: tự tôi sẽ đề ra những gì cần thiết. Tuy nhiên ông lưu ý tôi phải dè chừng đối với mọi yêu cầu tăng viện lớn bởi sẽ không có khả năng đáp ứng được4. Ông cũng nói rõ, ông không trù tính đên việc phái một đạo quân nào sang Viễn Đông. -------------- 1. Ý nói Đông Xuân 1952 - 1953 (ND) 2. Haị tướng linh giữ những chức vụ cao cấp lúc bấy giờ. 3. Tôi rất ngạc nhiên khi đọc tập hồi ký của ông, Tướng Saỉan nói rằng ông Renè Mayer muốn "thoát khỏi Đông Dương bằng bất cứ giá nào" và ông cử tôi sang đó đại loại như một người để "thanh toán" việc ấy. Đây là một vai trò mà hẳn Tướng Salan cũng như tôi, không bao giờ chịu nhận. Nhưng sự thật lại không phải thế. 4. Trái với những gì người ta đả viết nhiều lần ông Renè Mayer chưa bao giờ nói với tôi là ông sẽ không gửi cho tôi "bất cứ tăng viện nào". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Hai, 2016, 09:52:24 am Thủ tướng cho tôi biết về những điều kiện, trong đó sẽ tổ chức lại những chức quyền ở Đông Dương.
Sau cái chết của Thống chế De Lattre - người kiêm nhiệm cả chức vụ Cao ủy và Tổng chỉ huy - Bộ trưởng Bộ các quốc gia liên kết kiêm luôn chức cao ủy. Tổng chỉ huy ở Đông Dương phụ thuộc vào ông bộ trưởng cả trên hai danh nghĩa. Cách tổ chức đó vừa được thay đổi. Nhiệm vụ dân sự của ông cao ủy chuyên giao một phần cho một "tổng ủy viên Pháp ở Đông Dương" (commiscare général de France en Indochine) và một phần cho "ba ủy viên cộng hòa Pháp" ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Về vấn đề quân sự, quyền hạn của cao ủy trước đây được chuyển giao hoàn toàn cho ông tổng ủy viên, người "chịu trách nhiệm trước Chính phủ Pháp về phòng thủ và an ninh của Đông Dương" và "nhằm mục đích đó, ông đặc biệt được sự giúp đõ của các Quốc gia liên đới để bảo đảm cho việc bảo vệ các biên giới của khối Liên hiệp Pháp và cho sự an ninh của Đông Dương". Những chuyên giao ấy đã làm cho nhà lãnh đạo dân sự trở thành người nắm quyền đích thực về quân sự., Lời lẽ của quyết định phân quyền cho tổng chỉ huy ra sao thì còn đang nghiên cứu nhưng chiều hướng của nó là: tổng chỉ huy được giao quyền "điều hành các hoạt động quân sự trong khuôn khổ của các kế hoạch chung mà ông tổng ủy viên trình lên Chính phủ". Tổng chỉ huy là người "phụ giúp" cho tổng ủy viên "về mặt phòng thủ và an ninh", chỉ có quyền "sử dụng" những lực lượng các quốc gia liên kết "được dành cho những nhiệm vụ tác chiến" và dành cho ông tổng ủy viên giải quyết tất cả các vấn đề có liên quan đến việc tổ chức, thành lập các lực lượng ấy. Dù ít hiểu biết về tình hình Đông Dương, tôi cũng bày tỏ với ông Renè Mayer sự thiếu thiện cảm của tôi đối với công thức đó, công thức có thể chấp nhận được đối với một chiến trường yên tĩnh hoặc bị quấy phá nhẹ, nhưng lại không thích hợp với một chiến trường đang có chiến tranh ác liệt. Ông Renè Mayer trả lòi chính ông cũng không hài lòng về cung cách tổ chức ấy và hiện nay chỗ của ông tổng ủy viên còn bỏ trống, ông chưa có ý định bổ nhiệm ai trước khi tôi trở về Paris vào tháng sau, do đó tôi vẫn có điều kiện để đề nghị xem xét lại công thức nói trên. Vừa được giao quyền, người tôi đến thăm đầu tiên là Tướng Valluy khi ấy là đại diện Pháp ở SHAPE và là người trước đây tôi có liên hệ thường xuyên khi tôi còn là tham mưu trưởng lực lượng Đồng minh ở Trung Âu. Có vấn đề rất nghiêm trọng khi người ta dự định cử ông sang làm tổng chỉ huy ở Đông Dương, nơi ông từng giữ cương vị ấy từ 1946 đến 1948. Dự định đó bị gạt đi, do một số nhận định chính trị phi lý về ông. Nhưng trước đó, khi chuẩn bị để đi, ông đã dự tính tổ chức một ê-kíp. Ông góp với tôi vài lời khuyên và sẵn sàng giúp tôi hỏi những người có thể đi cùng với tôi. Để làm phó cho tôi về chỉ huy quân binh chủng, Tướng Valluy nghĩ tới Tướng Bodet, một phi công rất quen biết Đông Dương và việc chỉ định ông ta sẽ làm cho Bộ tham mưu ở Sài Gòn, EMIFT (Etat - major interarmées et des íorces terrestres - Bộ tham mưu liên quân và các lực lượng lục quân) mang rõ nét hơn là một bộ tham mưu của binh quân chủng hợp thành (theo Valluy thì từ trước đến nay, EMIFT ở Sài Gòn chỉ mang tính chất "lục quân" nhiều hơn). Tuy mới biết nhau sơ sơ, Tướng Bodet cũng đã nhận lời và sau này qua thực tế tôi tự khen mình là đã lựa chọn đúng. Về nhiệm vụ tham mưu trưởng, Valluy đề nghị cử Tướng Gambiez, một người có học vấn, đã từng là một tiểu đoàn trưởng ưu tú của "Tiểu đoàn xung kích" và trong thời gian phục vụ ở Đông Dương trước đây, đã đảm nhiệm xuất sắc vai trò chỉ huy trưởng Liên khu Nam Đồng bằng Bắc Bộ. Tôi không quen Gambiez lắm nhưng ông cũng nhận lời đi cùng tôi ngay. Sỹ quan tùy tùng của tôi là Đại úy Pouget, ngươi đã cùng tôi công tác trong kháng chiến, rồi ở Trung đoàn 3 Spahi Marôc và cuối cùng là sĩ quan hầu cận của tôi khi tôi chỉ huy Sư đoàn 5 thiết giáp ở Đức. Một vấn đề tế nhị đặt ra với tôi: đó là việc cử ai làm chỉ huy trưởng ở Bắc Bộ, chiến trường quan trọng nhất ở Đông Dương. Hiện Tướng De Linarès đang giữ chức ấy, nhưng không thể đặt ông ấy dưới quyền chỉ huy của tôi, vì ông nhiều thâm niên hơn tôi, hơn nữa lại ở chiến trường nóng bỏng này đã hơn hai năm. Tôi không nghĩ đến việc cử vào vị trí đó một người mới sang Đông Dương; tôi đã mới, lại thêm một người cũng mới nốt để chỉ huy chiến trường quan trọng bậc nhất này thì thật không ổn. Vài người trong Chính phủ khuyên tôi chọn Tướng Cogny, nguyên là chánh văn phòng của Tướng De Lattre và sau khi De Lattre về nước thì được giao quyền chỉ huy Liên khu Bắc Đồng bằng Bắc Bộ. Nhờ tài "báo cáo giỏi", ông đã gây ấn tượng mạnh đối với một phái đoàn của quốc hội vừa sang thăm Đông Dương hồi đầu năm. Tôi hoàn toàn không biết gì về Tướng Cogny. Thông tin thu lượm được về ông còn xa mới gây được cho tôi lòng mến mộ. Trước khi giữ chức hiện thời, kinh nghiệm chiến tranh của ông chỉ hạn chế ở cương vị đại đội trưởng một đại đội pháo, mà cũng chỉ trong vài tháng của cái gọi là "cuộc chiến tranh kỳ quặc"1. Ông ít ở đơn vị chiến đấu và phần lớn sự nghiệp của ông là ở văn phòng hay những cơ quan chuyên môn. Tôi cố thử tìm một người khác có khả nàng chỉ huy chiến trường Bắc Bộ và hiểu biết kỹ Đông Dương. Nhưng ngay lập tức thì chưa có ai cả. Vì vậy trước khi sang Sài Gòn, vấn đề vẫn chưa được giải quyết. ---------------- 1. Giai đoạn đầu trong cuộc chiến Pháp - Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai. Hai bên đều "án binh bất động" và không có chiến sự nào nổ ra (ND). Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2016, 09:33:33 am Đến Đông Dương và nhận quyến chỉ huy Ngày đi của tôi được ấn định vào 17 tháng 5. Tôi đáp chuyến bay thường kỳ của hãng Hàng không Pháp (Air France), có Đại úy Pouget cùng đi. Hai Tướng Bodet và Gambiez sẽ đến mấy ngày sau. Tôi đến Sài Gòn ngày 19 tháng 5, được ông Letourneau, Bộ trưởng Bộ các quốc gia liên kết và cao ủy Pháp, ra đón ở sân bay. Ngay trưa hôm ấy, chúng tôi đã trò chuyện với nhau hồi lâu. Sau đó, chúng tôi đến thăm Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và đến tối, ông Letourneau mở tiệc chiêu đãi tôi, có mời tất cả các tướng lĩnh có mặt ở Sài Gòn. Sáng hôm sau, ngày 20 tháng 5, ông Letourneau và tôi ra Hà Nội. Đúng buổi trưa, chúng tôi đến nơi. Ra đón ở sân bay Gia Lâm, có Tướng Salan và Tướng Linarès. Ngay lập tức tôi rất ngạc nhiên về sự lạnh nhạt của Tướng Salan. Tôi đã biết ông từ trước chiến tranh, ông ở ngành tình báo Liên thuộc địa, còn tôi, ngành tình báo Bộ Quốc phòng. Giữa hai chúng tôi, quan hệ chỉ trên công tác nhưng hữu nghị. Trái lại, Linarès, bạn cùng khóa Saint - Cyr và Học viện quốc phòng với tôi, lại rất thân mật vồn vã. Vừa gặp tôi bước xuống thang máy bay, ông đã hỏi: "Cậu đến cái chỗ chết tiệt này làm gì?". Sau đó chúng tôi nói chuyện rất lâu với nhau. Tôi không giấu Linarès về thái độ lạnh nhạt của Salan đối với tôi. Bấy giờ Linarès cho biết việc cử tôi sang đây đã làm đảo lộn cả kế hoạch của Salan. Salan hy vọng rằng, sau khi trở về Pháp nghỉ ngơi vài tháng, ông ta lại quay sang Đông Dương, kiêm nhiệm cả hai chức quân sự và dân sự. Linarès nói thêm, theo ông, thì đó là giải pháp tốt nhất và tôi cũng hoàn toàn đồng ý. Tôi giải thích cho Linarès rõ về lý do và hoàn cảnh việc cử tôi sang đây. Rất thành thực, Linarès cho rằng điều đó thật là kỳ cục, vì tôi chưa biết gì về Đông Dương, thâm niên so với cấp bậc của tôi lại chưa cao, do đó tôi sẽ bị hạn chế khi muốn cử người vào những cương vị quan trọng, về tất cả những điều nói trên, tôi rất tán thành nhưng thử hỏi tôi còn làm gì được nữa? Sau đó, Linarès hỏi tôi dự định cử ai làm chỉ huy Bắc Bộ. Tôi nói về Cogny và ông ta được giới chính trị đánh giá ra sao, Linarès phản ứng mạnh và hình ảnh mà ông mô tả về Cogny quả là không mê được. Ở đây tôi xin giảm đôi chút cho bớt nặng nề: "Anh ta làm ra vẻ một tay "ác chiến" lắm nhưng sự thực thì đã đánh nhau bao giờ đâu. Anh ta chỉ suôt ngày tìm cách quảng cáo với báo chí. Nhưng người ta không thể tin được chính anh ta đã "ngáng chân" tớ trước phái đoàn quốc hội. Dùng anh ta nếu cậu muốn, nhưng nếu anh ta không chơi xỏ cậu thì cậu vẫn còn may đấy! Tôi với Linarès bàn xem tìm ai. Nhưng những ngươi "có khả năng" trong hàng ngũ tướng lĩnh ở Đông Dương thì đều sắp hết hạn hồi hương. Tôi yêu cầu Linarès, gạt bỏ mọi tình cảm cá nhân, hãy nhận xét Cogny chỉ riêng về phương diện chỉ huy tác chiến. Linarès trả lòi là về mặt này thì có thế được: "Anh ta thu xếp thế nào đó để không bao giờ đích thân chỉ huy một cuộc hành quân trên chiến trường nhưng ở Liên khu của anh ta thì anh ta điều hành rất tốt". Tôi cũng hỏi Tướng Salan xem ông nghĩ gì về Cogny. Ông trả lời ngắn gọn: "Vào địa vị ông, tôi sẽ không dùng anh ta". Chắng có giải pháp nào khác, tôi giao toàn quyền chỉ huy Bắc Bộ cho Cogny, và tuy Cogny là tướng chỉ huy lữ đoàn, tôi cũng đề nghị đề bạt ông ta lên tướng chỉ huy Sư đoàn để tiện cho công việc chỉ huy ở cương vị cuối. Trong xếp sắp nhân sự ở những chức vụ cao, tôi không chỉ có việc tìm người thay Tướng De Linarè.s. Tất cả ê kíp đương quyền đều sắp đến hạn hồi hương, một số còn quá hạn nữa. Ở những vị trí quan trọng, người ta cũng chưa sắp xếp ai đến ai đi. Những người có khả năng đảm nhiệm thì hầu như đi cùng một lúc. Tôi lại phải đương đầu với một vấn đề khó khăn là tổ chức lại bộ máy chỉ huy, một vấn đề mà chỉ cần những ngươi có trách nhiệm ở Sài Gòn và Paris để ý một chút là đã có thể tránh được. Trong vòng vài tuần, tôi phải thay chỉ huy ở ba trên năm liên khu của Đồng bằng Bắc Bộ, cũng như chỉ huy ở Lào. Trong không quân, Tướng Laugin thay Tướng Chassin. Bộ tham mưu của Tổng chỉ huy cũng có nguy cơ bị xáo trộn do việc hồi hương của nhiều sĩ quan giữ những chức vụ then cbốt: tham mưu trưởng, trưởng phòng, phó phòng "hành quân", trưởng phòng 3, v.v... Nhưng thời gian tôi ở Paris quá ngắn đã không cho phép tôi tổ chức được một ê kíp mới để thay thế. Tôi không đòi hỏi gì hơn là giữ lại những người thuộc "ê kíp Salan" nay tình nguyện ở lại với tôi. Nhưng chẳng có người nào ở lại bởi họ cũng ngại làm mất lòng xếp cũ. Tôi chỉ còn lưu lại được Tướng Allard Tổng tham mưu trưởng, nán lại vài ngày ở Sài Gòn để bàn giao tình hình cho Tướng Gambiez. Còn thiếu một chánh văn phòng. Theo lời khuyên của De Linarès, tôi chọn Đại tá Rovol, một "dân thuộc địa" biết khá kỹ Đông Dương và sau này trong suốt thời gian làm việc với tôi, ông tỏ ra là một người cộng tác trung thành và rất giỏi giang. Trong thòi gian tôi đến Hà Nội và trước khi Tướng Salan đi, tôi và ông ta đã có ba cuộc trao đổi về tình hình. Ông không một lúc nào tỏ ra cởi mở. Ngoài lý do mà Tướng De Linarès đã nói với tôi ở trên, còn có nguyên nhân là do ông bị báo chí làm cho bực dọc. Quả vậy, lúc bấy giờ báo chí ca ngợi tôi hết lời (còn mới thì còn tốt mà!) thì đối với ông, họ càng tỏ ra ác ý bấy nhiêu1 Trong suốt mấy lần trao đổi, Salan chỉ trả lời rất sơ sài những gì tôi hỏi mà không hề có một trình bày có tính chất bao quát chung. Từ những cuộc trao đổi ấy, rút ra là tình hình quân sự tốt. Việt Minh đang nhanh chóng thất bại, chiến dịch vừa rồi đã thành công và tôi - Navarre - chỉ có việc gặt hái những thành quả đã được gieo mầm từ hai năm nay. --------------- 1. Ví dụ ở đây vài đoạn trích trong bức điện của phóng viên Lucien Bodard gửi cho báo Nước Pháp Buổi Chiều đã bị cơ quan thông tấn của Tướng Salan kiểm duyệt ngày 19 tháng 5 năm 1953: "Trong tất cả các đơn vị, người ta nghe thấy sĩ quan và binh lính nói với nhau rằng họ đã chán ngấy cái việc cứ bị bó tay vào phòng thủ, chui rúc vào công sự đồn bốt dưới sự che chở của đại bác. Một sĩ quan nói với tôi: "Không chỉ có tránh tai họa mà cần phải đánh kẻ thù. Phòng ngự đơn thuần sẽ khiến cho đối phương tràn khắp rừng núi, từ Sông Hồng đến Mê Công và phát triển ở đồng bằng Bắc Bộ. Tinh trạng này không thể kéo dài được nữa, chúng ta còn bị hao người tốn của trong khi rút lui, khi bị phục kích, bị đánh vào đồn bốt... những thiệt hại này so với những trận đánh lớn có kém gì đâu. Tâm trạng của đạo quân viễn chinh lúc nào củng mong được chỉ huy tốt, mong được tiến công. Đối với Navarre, vấn đề thực sự là mở những đợt tấn công ra trò nhằm vào những mục tiêu cốt tử của Việt Minh đê đảo ngược tình thế. Vi thế cần phải có đủ số quân cần thiết vì lúc này hầu hết lực lượng của ta đã co cụm lại trong một số căn cứ để phòng thủ. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2016, 12:59:41 pm Tuy nhiên, cảm giác lạc quan của những cuộc trao đổi ấy đã phần nào giảm đi khi tôi được nghe các báo cáo của các trưởng phòng ở Bộ tham mưu Sài Gòn. Những người này hình như không dám nói quá, ít khắng định hơn xếp cũ của họ về những thắng lợi của chiến dịch vừa qua.
Chỉ mãi tới ngày 27 tháng 5, trước khi sắp sửa đi, Tướng Salan mới tổ chức cho tôi một cuộc họp, trong đó ông phát biểu ý kiến về tình hình có tính chất xem xét một cách toàn diện. Trình bày của ông gây cho tôi một cảm giác còn kém thuận lợi hơn cảm giác mà tôi có được qua những cuộc trao đổi riêng. Đặc biệt ông không dốì tôi là sau mùa mưa này, Việt Minh có khả năng sẽ mở cuộc tiến công ở Đồng bằng Bắc Bộ, Trung Lào và Thượng Lào mà trong đó theo ông, nguy hiểm nhất là ở Thượng Lào. Về phía tôi, tôi tìm cách hiểu tình hình một cách trực tiếp. Ngày 22 tháng 5, trong khi Salan đi một vòng để chào từ biệt thủ đô Lào và Campuchia, thì tôi cũng bay một vòng đế quan sát miền thượng du Bắc Bộ, lúc này gần như do Việt Minh kiểm soát hoàn toàn. Máy bay chúng tôi bị dính đạn của một khẩu súng máy phòng không và chúng tôi phải hạ cánh xuống Nà sản. Tôi lợi dụng cơ hội này để thăm tập đoàn cứ điểm. Trước khi trở lại Sài Gòn để gặp Tướng Salan, tôi có trò chuyện với Tổng trấn Bắc Kỳ Nguyễn Hữu Trí; ý kiến rất bi quan về tình hình của ông khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi cũng có một cuộc gặp gỡ khá lâu với Tướng Cogny, lúc này đã được bổ nhiệm chỉ huy các lực lượng lục quân ở Bắc Bộ (FTNV, Forces Terrestres du Nord - Viet Nam) và phong trung tướng. Ông nồng nhiệt cảm ơn tôi và xin hết lòng tận tụy. Ngày 23 tháng 5, tôi ở Sài Gòn, trao đổi nắm tình hình với Tướng Bondis, chỉ huy các lực lượng lục quân Nam Bộ (FTSV, Forces terrestres du Sud - Viet Nam); với ông Gauthier, Tổng ủy viên Đông Dương, lúc này trở thành cao ủy ở Việt Nam; với ông Tâm, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam; và với Tướng De Linarès mà giữa chúng tôi còn có một cuộc chuyện trò khá lâu. Tôi cũng còn tiếp xúc với ông Letourneau trước khi ông trở về Pháp ngày 26 tháng 5; với Tướng Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội quốc gia Việt Nam và với Đại sứ Hoa Kỳ, ông Heath. Tôi nhận quyền tổng chỉ huy lúc 0 giờ ngày 28 tháng 5. Cùng ngày hôm đó, Tướng Salan và Tướng De Linarès trở về Pháp. Nghiên cứu tình hình Qua những cuộc tiếp xúc tiến hành trước khi nhận thức, tôi có cảm tưởng là tình hình quân sự đáng lo ngại hơn nhiều so với những gì mà Tướng Salan đã trao đổi với tôi. Salan, khoái chí vì đã tránh được một thất bại nặng qua chiến dịch vừa kết thúc, có khuynh hướng xem xét sự việc một cách khá lạc quan. Tuy nhiên, trong cuộc họp ngày 27 tháng 5 ông không thể không thú nhận một sự lo ngại nào đấy đối với tình hình sắp tới1. Thế là ở đây có một sự mâu thuẫn2. Và tôi cần phải tự mình có một đánh giá đúng đắn. Vì vậy, vừa bắt tay vào nhận chức, tôi đã yêu cầu các cơ quan của EMIFT phải cung cấp cho tôi những báo cáo chi tiết. Những báo cáo đó toát ra những khác biệt đáng kể và tiếc thay lại thường theo chiều hướng bất lợi - với những gì đã được nói với tôi trước đấy3 . Sau đó tôi quyêt định đi nghiên cứu mọi việc tại chỗ. Từ 28 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6, tôi rong ruổi khắp Đông Dương, kết hợp những cuộc viếng thăm xã giao các nhà vua và các nhà cầm đầu Chính phủ ở Việt Nam, Lào, Campuchia với các buổi làm việc với các quan chức dân sự và quân sự ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Tôi thăm nhiều đơn vị đang hành quân cũng như một số căn cứ quân sự, ví dụ như một vài khu thuộc phòng tuyến De Lattre ở Bắc Bộ hay tập đoàn cứ điểm Cánh Đồng Chum ở Lào. Trong khoảng thời gian ấy, tôi nhận được rất nhiều thư, phần lớn kèm theo cả các bản nghiên cứu và hồi ký, của những sĩ quan các cấp đã từng phục vụ ở Đông Dương, có chứa đựng nhiều kiến nghị khác nhau. Không một người nào đánh giá tình hình là tốt, nhưng cũng không một ai coi nó là tuyệt vọng. Còn về những biện pháp đề nghị để xốc lại tình hình thì nó rất gần nhau. Những đóng góp đó đã giúp tôi rất nhiều và tôi hết sức lưu tâm sử dụng nó khi xây dựng kê hoạch của tôi. Ngày 16 tháng 6 ở Sài Gòn, để đánh giá tình hình một cách tổng thể, tôi tổ chức một cuộc họp triệu tập các phụ tá chủ yếu của tôi; Đô đốc Auboyneau chỉ huy hải quân, Tướng Laugin mới nhậm chức chỉ huy không quân, Tướng Bondis chỉ huy Nam Việt Nam, Tướng Cogny chỉ huy Bắc Việt Nam, Tướng Blane chỉ huy Trung phần Việt Nam, Nam, Tướng Gilles4 chỉ huy ở Lào, Tướng Langlade chỉ huy ở Campuchia và Tướng Delange chỉ huy khu cao nguyên. Vào khoảng giữa tháng 6. trong phạm vi thời gian ngắn như thế cho phép, tôi tự coi là đã được sáng tỏ về thực tế tình hình, một tình hình xấu hơn nhiều so với mới đẩu tôi tưởng và tôi sẽ trình bày ở chương sau. Bây giờ tôi có thể bắt tay vào nghiên cứu một kế hoạch để đệ trình lên Chính phủ, trong thời hạn một tháng như ông Renè Mayer đã nói vói tôi. Đấy là công việc chủ yếu của tôi trong nửa sau của tháng 6. Từ khi tôi bắt đầu nhậm chức, văn phòng của tôi đã bị giới báo chí bao vây và lớn tiếng yêu cầu một cuộc họp báo. Ngày 27 tháng 6, cuộc họp được tiến hành ở nhiệm sở của tôi ở Sài Gòn. Rủi cho tôi, cuộc họp báo này đã gây ra một sự cố không mấy dễ chịu giữa tôi và Tướng Salan. Trong cuộc họp, một số phóng viên đã "chọc quấy" tôi về chuyện: tôi nghĩ sao về tình hình và dự định sẽ làm gì. Tôi không thể nói với họ tình hình là tốt trong khi thực tâm tôi đánh giá nó là xấu, nhưng trong khi trả lời, tôi cũng gắng tỏ ra lạc quan hơn nhiều so với mức tôi nghĩ. Còn về các dự định, tôi chỉ nói chung chung về một vài nét lớn. ------------ 1. Trong một công trình nghiên cứu lấy tên là "Việt Minh địch thủ của tôi" mà ông để lại cho tôi một bản sao, Tướng Salan viết: "Có thể trong một năm hay sớm hơn, Việt Minh sẽ từ Binh Giang (Tây Bắc Huế) tiến sang Pắcxế sau khi thâm nhập suốt dọc sông qua Thà Khẹt... Thế là Campuchia sẽ bị bốc cháy và Nam Kỳ bị vây đuổi''. 2. "Hồi ký” của Salan công nhận mâu thuẫn này. Salan mô tả tình hình để lại cho tôi là thuận lợi và Việt Minh thì ''hiển nhiên là suy yếu". Ông dẫn một bức thư nói Việt Minh đang "bị bóp nghẹt bởi vấn đề quân số và hậu cần". Những chỗ khác, ông lại công nhận là đối thủ đã "tăng gấp ba sức mạnh hỏa lực và số lượng các đơn vị chính quy". Hai cách xem xét này thật khó ăn nhập với nhau. 3. Ví dụ, Salan cho tôi biết có khoảng 40.000 chiến đấu viên Việt Minh hoạt động trong lòng Đồng bằng Bắc Bộ. Trong khi đó, theo báo cáo của Phòng 2 làm sau khi Tướng Salan đi, thi có tới 60.000; mà con số này vẫn còn dưới sự thực. 4. Sau đó không lâu, Tướng Giỉles được thay bởi Tướng Gardet rồi tiếp đó là Đại tá Crèvecoeur. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Hai, 2016, 04:06:42 pm Cách các phóng viên hỏi và phát biểu những suy nghĩ của họ làm tôi hiểu rằng từ trước đến nay, họ ít có dịp làm thế đổi với vị tiền nhiệm của tôi về cách thức ông ta điều hành các chiến dịch và đạt kết quả ra sao. Tất cả những lần nhắc đến tên ông, tôi đều chỉ nói đến những cái tốt và khắng định rằng, ở vào địa ông, chắc cũng không ai có thế làm tốt hơn - và đó là điều mà từ trước đến bây giờ tôi vẫn nghĩ thế. Những ngày sau đó, theo yêu cầu của tôi, cơ quan không cần phải cấm gửi, hoặc đòi phải sửa lại các bức điện có nội dung rất khó chịu cho Tướng Salan hoặc diễn đạt những ý kiến của tôi không được chính xác lắm. Nhưng đối với các nhà báo thì có khó gì cái việc trốn kiểm duyệt.
Đầu tháng 7, tôi nhận được một bức thư của Tướng Salan với lời lẽ khá nặng nề, trong đó ông nói ông rất "phiền lòng và ngạc nhiên" về một bài viết đăng trên một tờ báo lớn ở Paris, mà tác giả, khi biết về tình hình ở Đông Dương, đã gán cho tôi những ý kiến thực ra là riêng của ông ta. Cái mẹo đó của các nhà báo thì quá bình thường đến nỗi khi trả lời Tướng Salan, tôi ngạc nhiên vì sao ông lại đánh giá cao các bài báo ấy. Và tôi nói thêm: "Khi nói về ông, tôi chỉ dùng những lời lẽ hữu nghị và tôi không hề chỉ trích cá nhân ông, cũng như cách chỉ huy của ông". Cũng nhân dịp trả lời này, tôi muốn đánh giá lại tình hình quân sự với Tướng Salan. Từ khi trở về Pháp, Tướng Salan có cho tiến hành một số cuộc phỏng vấn mà trong đó - nếu tin lời những người đối thoại với ông - thì ông đánh giá tình hình là thuận lợi và ông đã để lại cho tôi một nhiệm vụ dễ dàng. Vì thế tôi viết: "Không một giây phút nào, tôi không nghi ngờ rằng lời lẽ của ông, cũng như của tôi. đã bị xuyên tạc... Hắn ông cũng biết rằng trong năm qua, chúng ta chỉ chứng kiến những thất bại; rằng Bắc Bộ đã gần tới đỉnh cao của sự "ruỗng nát" (60.000 Việt Minh đã xâm nhập, theo đánh giá của Phòng nhì của ông, ngày tôi nhậm chức); rằng các tiểu đoàn cuối cùng của Nà Sản và Lai Châu là khó thu về được; rằng ở Bắc Lào, sau chiến dịch mùa xuân, Việt Minh đã kiểm soát gần hết, trừ vùng kế cận của Cánh Đồng Chum và Luang Prabang, và đạo quân chủ lực của họ lại càng mạnh mẽ, đầy khí thế hơn bao giờ vì chiến dịch vừa qua chưa làm họ sứt mẻ gì nhiều". Đối với báo chí, thêm vào sự cố trên còn có một số sự cố khác nữa. Do trống miệng, tò mò, xoi mói, một số nhà báo đã thông tin một cách vô ý thức, làm không công cho địch. Đặc biệt nghiêm trọng là đã có lần nếu không kịp thời ngăn chặn thì họ đã lộ cho kẻ địch biết rằng ta đã nắm được mật mã của chúng và do đó tự mình làm mất nguồn tin tình báo chủ yếu của ta. Tôi đã đòi hỏi phải tổng khứ khỏi Đông Dương tay nhà báo lộ bí mật ấy, nhưng không ăn thua. Đương nhiên là những sự cố kiểu ấy khó có thể làm cho giữa giới báo chí và tôi có được những mối quan hệ tin cậy. Sau việc ông Letourneau đi, tôi tạm thời nắm cả công việc của cao ủy. Điều đó cho phép tôi có được những ý kiến về việc cải tổ lại cơ cấu chức quyền ở Đông Dương mà ông Renè Mayer đã cho tôi biết dự tính. Tôi thảo một bản gọi là "ý kiến về tổ chức chính trị ở Đông Dương" đệ trình lên thủ tướng. Ý kiến của tôi tóm tắt như sau: Việc đặt ra một "tổng ủy viên" dễ gây cảm giác, chỉ đơn giản bằng cách thay tên, chúng ta vẫn muốn đặt một quan chức cao cấp để cai trị Đông Dương, tức là một ông toàn quyền được ngụy trang. Thế mà con bài tốt nhất của chúng ta (dưới, tôi sẽ nói điều gì đã làm tôi khắng định như vậy, lại là nền độc lập của các quốc gia liên kết. Để đánh thắng ván bài, chúng ta còn phải thành thực. Nhưng tình trạng chiến tranh buộc chúng ta phải có những hạn chế tạm thời đối với nền độc lập ấy, mà chỉ riêng tổng chỉ huy là người có khả năng để ra những hạn chế mà không bị nghi ngờ là có ẩn ý chính trị bên trong. Vì vậy cần phải dành cho các chỉ huy chiến trường những quyền hạn chính trị cần thiết. Điều đó lại càng đúng hơn khi mà ở Đông Dương, các vấn đề chính trị và quân sự có quan hệ rất chặt chẽ. Tổng chỉ huy có nên mang luôn danh là tổng ủy viên không? Không nên, bởi với tư cách tổng chỉ huy, quyền hành của ông không có gì phải bàn cãi, nhưng nếu mang luôn danh là tổng ủy viên, ông cũng sẽ bị phê phán, xem xét như mọi quan chức cao cấp khác. Vậy tôi đề nghị bỏ chức tổng ủy viên; tổng chỉ huy, trực thuộc Chính phủ Pháp, sẽ có được những quyền hạn chính trị cần thiết đối với việc điều hành chiến tranh, tức là được "làm việc trực tiếp" với các Chính phủ của các quốc gia liên kết. Khi nhận được bản ý kiến của tôi thì ông Renè Mayer đã từ chức, nhưng ông viết thư cho tôi nói rằng ông tán thành quan điếm của tôi và đã trao đổi ý kiến này với ông Joseph Laniel, người sẽ thay ông làm thủ tướng. Song một trong những việc làm của Chính phủ mới này là chỉ định một tổng ủy viên, chẳng cần thay đổi gì với những điều đã dự định. Quyết định này, tôi biết được qua báo chí. Nếu tôi không xin từ chức thì chỉ vì tôi không muốn trốn tránh một nhiệm vụ khó khăn vừa nhận, hơn nữa không muốn bị đánh giá là bất mãn. Ngoài ra cũng còn do quan hệ của tôi với ông Dejean, tổng ủy viên mới được chỉ định. Tôi biết ông Đại sứ Dejean1 từ lâu và tôi tin chắc làm việc với ông, việc va chạm quyền lực sẽ được giảm tới mức ít nhất. Tôi chấp nhận một công thức tồi, nhưng hy vọng cố gắng rút ra được cái gì tốt nhất. Nhưng chắc chắn là ở đây tôi đã phạm sai lầm. Vì, dù sự cộng tác cũng như quan hệ giữa chúng tôi có tốt và hữu nghị đến đâu, sự có mặt của một tổng ủy viên vẫn tạo ra một bức màn ngăn cách, một bên là giữa tôi và Chính phủ Pháp, một bên là giữa tôi và Chính phủ các quốc gia liên kết. Và do đó dẫn đến những bất tiện nghiêm trọng. Cuối tháng 6, kế hoạch tôi dự định trình lên Chính phủ đã hoàn thành. Tôi báo cáo với ông thủ tướng mới ý định trở lại Paris của tôi vào những ngày đầu tháng 7. Trả lòi tôi, ông Laniel tỏ ra rất ngạc nhiên về việc tại sao tôi lại trở về, ông hình như không biết gì về những điều ông Renè Mayer đã chỉ thị cho tôi và ngay cả việc cần phải có những biện pháp cấp bách cho Đông Dương, ông cũng có vẻ không biết nốt. Sau một cuộc trao đổi qua điện tín, tôi "được phép" (nguyên văn) trở về Pháp. Sự cố nho nhỏ này chứng tỏ cho tôi biết, trong những quan tâm của ông thủ tướng mới, vấn đề Đông Dương lúc này chiếm một vị trí mới "khiêm tốn" làm sao. Ngày 2 tháng 7, tôi rời Sài Gòn và ngày 3, tới Paris. --------------- 1. Ông Dejean là quan chức dân sự thuộc cơ quan tình báo (tôi biết ông khi ở đây), sau chuyến sang ngành ngoại giao. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Hai, 2016, 11:53:17 am CHƯƠNG II TÌNH HÌNH ĐÔNG DƯƠNG KHI TÔI MỚI ĐẾN Quá khứ Nhắc lại một chút về quá khứ là điều cần thiết để hiểu được tình hình mà tôi thấy khi mới tới Đông Dương. Năm 1945. chúng tôi trở lại Đông Dương trong khi Chính phủ Giải phóng chưa xác định một đường lối rõ rệt. Quá nhiều sự kiện đã qua đi từ năm 1939 để chúng tôi có thể đưa mọi sự việc quay trở về với tình trạng ở thời điểm trước chiến tranh. Thế mà đường lối thực thi của Pháp gần như chỉ có mỗi việc là khôi phục lại "nguyên trạng trước đó". Vậy, thất bại là cái chắc. Giữa chúng tôi và Chính phủ Việt Minh - chính phủ do Hồ Chí Minh thành lập sau khi Nhật đầu hàng và với họ chúng tôi đã uổng công thương lượng - tình hình ngày càng căng thắng. Ngày 19 tháng Chạp năm 1946, Việt Minh bất ngờ tiến công quân đồn trú của Pháp và mở đầu chiến tranh. Từ 1947 đến 1949, chúng tôi cố gắng chiếm lại những vùng mà họ kiểm soát, nhưng không thành công. Việc đó chỉ có thể đạt được nếu ta có được những mệnh lệnh rõ ràng của các Chính phủ kế tiếp nhau cầm quyền của nền Cộng hòa thứ tư, nếu có được một sự chỉ huy thống nhất và ổn định, và nếu được cung cấp đủ những phương tiện cần thiết. Nhưng không khí chính trị ở nước Pháp đã chống lại tất cả những cái đó: đối với phần lớn dư luận chung, chiến tranh Đông Dương đã là một cuộc "chiến tranh bẩn thỉu", và đối với Chính phủ, một cuộc "chiến tranh đáng xấu hổ, nhục nhã"1. Quân đội thì bị xộc xệch với những cuộc thanh lọc, giản chính cán bộ và cắt giảm lớn về ngân sách. Tuy nhiên dần dần từng bước, trong khi giữ vững ở miền Nam và miền Trung Đông Dương những vị trí mà chúng tôi nhanh chóng giành ngay lại được sau khi Đại chiến kết thúc, chúng tôi đã tiến tới chiếm lại được những điểm trọng yếu ở Đồng bằng Bắc Bộ, nhưng không sao diệt trừ được chiến tranh du kích của đối phương, ở Thượng du và Trung du chúng tôi cũng thu được một số kết quả và chiếm được các cửa ngõ thông với Trung Quốc. Song trên toàn Đông Dương, Việt Minh vẫn trụ được ở các mắt lưới của một hệ thống được tạo thành bởi những thành phố, thị xã và trục đường giao thông do chúng tôi kiểm soát, và chúng tôi cũng chỉ kiểm soát được ở những nơi đó. Chúng tôi cũng tìm cách giải quyết vấn đề Việt Nam về phương diện chính trị. Sau vài cố gắng đế tiếp xúc lại với Việt Minh nhưng không thành, chúng tôi hướng về cựu Hoàng đế Bảo Đại. Tháng 4 năm 1949, ông ta đồng ý làm quốc trưởng của một nước Việt Nam mà chúng tôi công nhận chủ quyền về chính trị và quân sự, nhưng chưa bao giờ chính thức tuyên bố cái từ "độc lập". Vậy là trong quá trình ba năm ấy, trong khi Việt Minh chưa bám rễ được vững chắc, thì chúng tôi cũng chưa biết đạt tới một kết quả quyết định nào, cả chính trị lẫn quân sự và thời cơ đã đi qua. Cuối 1949, việc Cộng quân Trung Hoa của Mao Trạch Đông tràn tới biên giới Bắc Bộ đã mở ra một giai đoạn chiến tranh mới, bởi viện trợ về vũ khí, phương tiện của Trung Quốc cho Việt Minh đã đặt chúng ta trước một vấn đề mới. Tất cả sẽ thay đổi nếu Trung Quốc cung cấp cho Việt Minh cái sức mạnh mà họ còn thiếu. Đối với nước Pháp, giờ phải lựa chọn đã đến: hoặc giành chiến thắng bằng cách chịu cung cấp cho nó những phương tiện cần thiết, trước khi viện trợ Trung Quốc trở nên có ý nghĩa quan trọng, hoặc là kết thúc chiến tranh bằng giải pháp thương lượng. Nhưng thay vào đó, nước Pháp đã lựa chọn một giải pháp trung gian. Tướng Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội, được cử đến tại chỗ, đã quvết định bỏ vùng biên giới Trung Hoa và tập trung lực lượng vào Đồng bằng Bắc Bộ. Kế hoạch đó, được thực hiện mấy tháng sau, đã kết thúc bằng một thảm họa trong đó có gắn vối tên Cao Bằng. Việc bỏ các "cửa quan sang Trung Quốc" đúng là một cách xoay xở làm lùi được thất bại những lại làm cho nó trở nên nặng nề hơn. Nó đã mang mầm mống của thất bại2. Để ngỏ cho đối phương mỗi lần giao thông với Trung Quốc, tạo cho họ dễ dàng nhận viện trợ ngày một tăng và điều đó đã giúp cho họ, bên cạnh lực lượng du kích, còn tổ chức được một quân đội chính quy ngày càng được tăng cường hùng mạnh. Ngược lại, việc mở rộng chiếm đóng Đồng bằng Bắc Bộ lại ngày càng giữ chân thêm nhiều đơn vị của chúng tôi và do đó làm giảm bớt lực lượng cơ động. Vậy là, trong khi Việt Minh ngày càng trở nên đông đảo, mạnh mẽ và cơ động thì chúng tôi ngày càng lún sâu hơn vào tình trạng bất động. Trong khi tinh thần của Việt Minh lên cao thì tinh thần chúng tôi sa sút nghiêm trọng. Cân bằng lực lượng bắt đầu bị phá vỡ theo chiều hướng có lợi cho đối phương. Tình hình cực kỳ nghiêm trọng đó khiến Chính phủ phải giao toàn bộ quyền hành ở Đông Dương cho một vị tướng cỡ lớn. Tháng 12 năm 1950. Tướng De Lattre kiêm nhiệm cả chức cao ủy và chức tổng chỉ huy. Tất cả lực lượng của chúng tôi ở Bắc Bộ đã rút về đồng bằng. Lực lượng cơ động chiến lược chỉ còn 12 tiểu đoàn tổ chức thành 2 binh đoàn cơ động3. Trái lại về phía Việt Minh, một "khối đại quân" xuất hiện, đã có 3 Sư đoàn trong khi 2 Sư đoàn nữa đang thành lập. Khai thác triệt đê ảnh hưởng uy tín của mình, De Lattre đem lại lòng tin cho quân đội. Đồng thời, ông đề ra những quyết định có ảnh hưởng sâu sắc tới tương lai. Ông xác định ngay tầm quan trọng chủ yếu của Đồng bằng Bắc Bộ, nơi ông coi là cái "then chốt của khu vực Đông Nam Á". Ngay lúc ấy, sự đúng đắn của quan niệm này là chắc chắn, bởi chính Đồng bằng Bắc Bộ là nơi đối phương đang tập trung nỗ lực. Song rủi thay dần dà sau đó, sự ưu tiên dành cho đồng bằng đã làm mất đi cách nhìn tổng quát về chiến trường Đông Dương. Về sau, người ta sẽ thấy những hậu quả nghiêm trọng do nhầm lẫn của cách nhìn nhận ấy. ---------------- 1. Quân tăng viện ở Đông Dương thì phải lên đường lúc ban đêm. Quan tài người chết trận chở về nước phải giấu giếm. Máu quyên góp ở Pháp không được phép sử dụng cho thương binh ở Đông Dương. Khen thưởng ở Đông Dương không được đăng trên Công báo v.v... 2. Trong cuốn Thảm họa Cao Bằng, Đại tá Sáctông kể lại trong thời gian ông bị cầm tù, ông được gặp Tướng Giáp. Tướng Giáp nói: "Các anh không thể hình dung được rằng kiểm soát đường số 4, các anh đã gây trở ngại cho chúng tôi biết bao. Cho dù đoàn xe của các anh có bị thiệt hại nặng nề, các anh vẫn thắng cuộc nếu giữ được đường số 4". 3. Ở Đông Dương, binh đoàn cơ động là tô chức đơn vị lớn nhất. Chủ yếu gồm một ban tham mưu, một tiêu đoàn pháo và ba tiếu đoàn bộ binh. Đại thê có giá trị băng 1/3 Sư đoàn. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Ba, 2016, 02:25:00 pm Tập hợp mọi lực lượng có được và tổ chức thành bốn binh đoàn cơ động mới, De Lattre trong vài tuần đã tiến tới làm cho Bắc Bộ có đủ khả năng đương đầu với khối chủ lực của Việt Minh. Nhưng trước nhất là Tướng Giáp đã phạm phải một sai lầm chiến lược nghiêm trọng: say sưa bởi thắng lợi Cao Bằng, ông đã thử tiến hành chiến tranh chính quy, mạo hiếm đưa quân vào một chiến trường trống trải thuận lợi cho việc sử dụng thiết giáp và máy bay, liên tiếp tung ra hai đòn tiến công hướng về Hà Nội và sau đó về Hải Phòng. Các đòn tiến công đó đã bị đấy lùi1.
Tiếp đó, De Lattre quyết định bảo vệ đồng bằng bằng cách tổ chức phòng thủ, vừa để đương đầu với một cuộc tiến công có thể xảy ra, vừa để ngăn chặn Việt Minh liên hệ giữa các vùng lân cận2. Quyết định trên dẫn đến việc xây dựng một thứ "phòng tuyến Madinô" thu nhỏ mà kết quả là nó chẳng bao giờ làm tròn hai nhiệm vụ được giao, không những thế nó còn giam chân một cách vô ích khoảng 20 tiểu đoàn trong khi chúng tôi đang thiếu quân nghiêm trọng để tổ chức lực lượng cơ động. Để "làm trong sạch" đồng bằng, De Lattre cho tiến hành nhiều cuộc càn quét kéo dài trong xuân và hè năm 1951. Nhưng tình hình cũng không cải thiện được là bao. De Lattre quyết định xây dựng những đơn vị mới, phát triển đạo quân viễn chinh. Nhưng quân thiếu tiền thiếu, ông chỉ còn cách là tăng thêm thành phần quân bản xứ. Sự "vàng hóa" ấy tạo cho ông tiện để đương đầu với tình hình trước mắt, nhưng về lâu dài, nó làm cho quân đội giảm dần chất lượng. Cuối cùng, nỗ lực được tập trung vào việc phát triển quân đội các quốc gia liên kết, đặc biệt là quân đội Việt Nam. Sau khi phần nào ổn định được tình hình, De Lattre quyết định vào mùa thu 1951, mở một cuộc tiến công nhằm cố gắng tiêu diệt khối chủ lực cơ động tác chiến của Việt Minh. Nhận thấy "tóm" được một đối thủ mà tính cơ động linh hoạt là con chủ bài chính là một điều rất khó khăn, ông tính giải quyết vấn đề này bằng cách chiếm của họ một vị trí quan trọng tối mức họ không thể bỏ được, và buộc họ phải chấp nhận giao chiến để chiếm lại: đó là Hòa Bình. Cuộc chiến kéo dài ròng rã hơn bốn tháng trời; giữa chừng Tướng De Lattre ốm phải trở về Pháp, sau đó chết chẳng kịp nhìn đến bước kêt thúc của nó nữa. Tháng 12 năm 1952, cuộc hành quân chấm dứt bằng cuộc rút chạy của chúng tôi trong những điểu kiện khó khăn mà không đạt được một kết quả chiến lược nào. Rủi thay, cuộc chiến ở Hòa Bình đã giữ chân lực lượng cơ động của chúng tôi xa đồng bằng quá lâu, do đó tạo điều kiện cho Việt Minh xâm nhập vào đây với số lượng lớn. Và từ đó bắt đầu tình trạng "ruỗng nát" mỗi ngày một tăng, dần dần làm bất động đại bộ phận đạo quân viễn chinh. Đối phương đã giành được một thắng lợi cơ bản3. Rốt cuộc lại, De Lattre đã thực hiện được một sự hồi phục gây ấn tượng mạnh nhưng nó đã không bền, vì không một nguyên nhân cản bản nào dẫn chúng tôi đến thất bại - nhất là những nguyên nhân có ngay từ ở Paris - đã không được loại trừ. Tuy nhiên có lẽ nếu còn sống, De Lattre, nhờ ảnh hưởng uy tín của mình đối với Chính phủ, đã có thể tìm ra một giải pháp. Nhưng, sau khi ông ra đi, chiến tranh mở ra một giai đoạn mới mà trên tất cả các lĩnh vực, tình hình ngày càng sa sút. Quyền hành chính trị và quân sự lại tách rời nhau. Ống Bộ trưởng các quốc gia liên kết Letourneau nắm quyền cao ủy, Tướng Salan giữ chức Tổng chỉ huy. Ở đồng bằng, mặc dù tập trung ưu tiên vào đấy, binh sỹ chúng tôi vẫn phải chiến đấu không ngừng chống một đối phương chỉ có rặt bộ binh, nhưng trang bị ngày càng cải tiến và hoạt động ngay trong lòng chúng tôi. Các đơn vị cơ động của chúng tôi thì mỗi ngày một giảm. Quân đồn trú bị bó chân bó tay trong các vị trí hiếm khi chống đỡ nổi các loại vũ khí hiện đại mà bây giờ Việt Minh đã được trang bị. Từ đó dẫn đến sự sa sút về tinh thần, tình trạng bất động ngày một tăng, quân sỹ ngày càng ít cơ động ra ngoài hoạt động, bỏ trống trận địa cho đốì phương. Những cuộc tảo thanh liên miên và vô vọng chẳng giải quyết được gì đổi với tình hình trên. Ở các chiến trưòng khác, tình hình cũng phát triển tương tự, tuy có đỡ tồi tệ hơn. Đâu đâu Việt Minh cũng bám trụ được. Riêng ở miền Nam và vài nơi ở Trung phần, tình hình tương đối được cải thiện. Khối chủ lực cơ động tác chiến của Việt Minh, lúc này rất mạnh, có tới 6 Sư đoàn, chưa thấy hoạt động gì từ sau chiến dịch Hòa Bình. Người ta tưởng nó vẫn hướng cuộc tấn công vào đồng bằng, nhưng vào mùa thu 1952, nó đã xuất hiện ở xứ Thái. Giữa tháng 10, Việt Minh tấn công Nghĩa Lộ, một vị trí quan trọng ở phía Bắc sông Đà mở màn cho một chiến dịch đánh lên Thượng nguồn sông Mê Kông. Đó là một chuyển hướng cơ bản trong chiến lược của Việt Minh. Tướng Salan viết: "Việt Minh tiến về sông Mê Kông, bởi Mê Kông chính là cái chìa khóa chiến lược của bán đảo Đông Dương". Sau khi chiếm Nghĩa Lộ, lực lượng Việt Minh chọc thủng phòng tuyến sông Đà và chia cắt chúng tôi ra làm đôi. một hướng đánh lên Lai Châu, một hướng đánh xuống Nà Sản. Lực lượng chúng tôi vội tập trung quanh các sân bay và xây dựng cấp tốc các tập đoàn cứ điếm. Một cuộc hành quân từ đồng bằng đánh thọc lên hậu phương Việt Minh ở hướng Yên Bái được tiến hành (cuộc hành quân Loren, Lorrame), chúng tôi có phá được của họ một số kho tàng quan trọng nhưng cũng chẳng làm hề hấn gì đến diễn biến của chiến dịch. Cuối tháng 11, Việt Minh tập trung quanh Nà Sản chuyển sang tấn công một số cứ điếm ngoại vi. Sau bốn ngày, bị thiệt hại nặng nể và thiếu vũ khí nặng, họ kết thúc trận đánh. Thắng lợi phòng thủ đó cho chúng tôi được ngưng nghỉ, thư giãn trong ba tháng. Cuối tháng 3 năm 1953, Việt Minh lại mở tiến công hướng về phía Luang Prabang. Họ chiếm Sầm Nưa mà lực lượng chúng tôi đóng ở đấy rút lui quá muộn, đã gần như bị bắt toàn bộ. Do không bảo đảm được hậu cần tiếp tế vì mùa mưa gần đến, Việt Minh đã không thể đấy mạnh đến cùng cuộc tiến công. Cuối tháng 4, họ dừng lại trước các tập đoàn cứ điểm được tổ chức ở Luang Prabang và Cánh Đồng Chum, không mạo hiểm đánh và quay trở vê các hậu cứ quen thuộc của họ ở xung quanh Đồng bằng. --------------- 1. Trận Vĩnh Yên (1-1951) và trận Đông Triều (5-1951). 2. Các cuộc chuyển quân (để thay quân, lấy quân, nghỉ ngơi dưỡng sức) và trao đối sản phẩm (đặc biệt là lấy gạo ở Đồng bằng). 3. Sau đỉnh chiến, theo lời những người thân cận của Tướng Giáp nói với các sĩ quan thì Việt Minh, sau khi Pháp rút khỏi Hòa Bình, đánh giá là họ đã thắng cuộc. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Ba, 2016, 01:30:05 pm Trên một vài điểm, Việt Minh bắt chúng tôi phải rút lui đến hàng trăm kilômét và đã kiểm soát được những vùng rộng lớn ở Thượng du Bắc Bộ và ở Lào. Họ chưa tiến đến được sông Mê Kông nhưng đã ở rất gần và đang chuẩn bị các căn cứ để tiến công tiếp. Chúng tôi đã bị dồn tới chân tường. Thực tế đã chứng tỏ rằng trong mọi trường hợp, Đồng bằng Bắc Bộ không còn là "chiếc chốt cửa của Đông Nam Á" nữa bởi đối phương có thể vòng qua nó một cách dễ dàng.
Vượt quá khuôn khổ chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến đã bước sang giai đoạn "chiến tranh Đông Dương". Sự chuyển biến đó làm chúng tôi bất ngờ hoàn toàn. Thực vậy, chưa bao giờ chúng tôi dự kiến một cách nghiêm túc rằng sẽ có một ngày Việt Minh lại có thể mở các chiến dịch lớn ở một nơi nào khác ngoài Đồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy trong tất cả các lĩnh vực, chúng tôi chẳng có một biện pháp nào để đề phòng: huấn luyện, trang bị cho binh lính, bảo đảm hậu cần, giao thông đường bộ và đường không, v.v... Về tổ chức lực lượng, sau những hoạt động tích cực của Tướng De Lattre, là có sự trì trệ. Quân số đạo quân viễn chinh giảm xuống1. Trái lại, quân đội các Quốc gia liên kết có tăng chút ít. Do đó, tổng quân số hơi tăng, nhưng lại phải trả giá bằng việc hạ thấp chất lượng, do trước hết bởi số quân Pháp làm nòng cốt bị giảm xuống so với tổng số chung2. Cuối cùng và đây là điều nghiêm trọng nhất - khối quân cơ động của chúng tôi không hề thay đối3, trong khi đó lực lượng cơ động của đốì phương lại không ngừng tăng lên, do đó khoảng cách giữa đôi bên ngày càng rõ rệt và chúng tôi ở vào thế ngày càng yếu kém hơn. Riêng về hậu cần là chúng tôi có những tiến bộ. Người Mỹ, bị thất bại ở Trung Quốc và Triều Tiên, cuối cùng đã nhận ra sự đe dọa của cái họa cộng sản ỏ Đông Nam Á, đã thay đổi cách nhìn về chiến tranh Đông Dương. Từ "chiến tranh thực dân" trái với đạo lý, họ đã đưa nó lên hàng chiến tranh chống chủ nghĩa cộng sản. Để giúp chúng tôi thắng trận sau một thời gian dài mong tôi thua trận, họ đã bằng lòng viện trợ cho chúng tôi về tài chính và phương tiện trang bị, tạo điều kiện cho chúng tôi hiện đại hóa một phần quân đội viễn chinh và xây dựng thêm quân đội các Quốc gia liên kết. Nhưng viện trợ Mỹ cũng gây ra những bất tiện nghiêm trọng. Thứ nhất là làm cho quân đội chúng tôi trở nên nặng nề. Nhận không mất tiền những vũ khí trang bị chỉ thích hợp với kiểu chiến tranh quy ước, chúng tôi lấy cớ đế tiết kiệm tiền bạc và đâm ra lười suy nghĩ, chúng tôi đã không nghĩ đến việc trang bị cho quân đội tôi những vũ khí thích hợp với một cuộc chiến tranh đòi hỏi phải có sự cơ động linh hoạt. Nhưng điểu nguy hiểm nhất của viện trợ Mỹ là vể chính trị. Nó dẫn đến việc người Mỹ thò tay vào công việc nội bộ của chúng tôi và thay thế ảnh hưởng của chúng tôi đốì với các quốc gia liên kết. Trong khi nhận viện trợ ồ ạt của Mỹ4, chúng tôi đã mất luôn Đông Dương, ngay cả khi viện trợ đó giúp chúng tôi thắng trận. ------------ 1. Bị Chính phủ không chế, quân viễn chinh đã giảm mất khoảng 15.000 người. 2. 3. Hậu quả của việc chuyến những đơn vị của quân viễn chinh sang quân đội của Quốc gia liên kết. 4. Từ 1952, viện trợ Mỹ chiếm khoảng 80% chi phí chiến tranh ở Đông Dương. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Ba, 2016, 12:11:36 pm Hiện tại Cái quá khứ nặng nề mà tôi thừa hưởng là như thế đấy. Bây giờ tôi tổng kết tình hình vào lúc tôi nhận quyền chỉ huy ở Đông Dương. Ở Pháp, không khí tinh thần thật khủng khiếp: thờ ơ, lạnh nhạt nếu không nói là thù ghét, sự phản bội công khai phơi bày, "buôn lậu tiền bạc", "vụ bê bối các tướng lĩnh", v.v... Trong giới chính trị, chiến tranh Đông Dương chỉ còn được nhìn dưới góc độ của việc tranh phiếu bầu1. Đối với các tướng lĩnh chóp bu, nó là một trở ngại cho việc tái lập lại lực lượng Pháp ở châu Âu: đó là một gánh nặng mà họ mong muôn được rũ bỏ. Đối với tất cả các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự, cuộc chiến tranh Đông Dương bây giờ chỉ còn là một việc phải thanh toán đi cho rồi. Người ta muốn "thoát ra”, nhưng người ta lại bất đồng với nhau cả về đường lối chính trị, cả về chiến lược cần phải áp dụng. Người này thì miễn cưỡng chấp nhận một nỗ lực cuối cùng và hạn chế để sao cho việc giải quyết nó bớt xấu hơn. Người kia thì muốn chấm dứt nó ngay lập tức và bất chấp ra sao. Và ý kiến sau cùng này có chiều hướng chiếm ưu thế. Tôi phải công nhận rằng nếu gặp khó khăn nghiêm trọng, tôi hoàn toàn không có được hậu phương vững chắc ở nước Pháp để trông cậy. Ở Đông Dương, các mặt quân sự và chính trị của chiến tranh tác động và đan xen vào nhau một cách chặt chẽ. Về chính trị, Việt Minh bây giờ là một nhà nước thực sự. Họ kiểm soát hoàn toàn hơn một nửa nước Việt Nam và ngoài ra, bằng một chính quyền bí mật, họ còn nắm được cả những vùng về lý thuyết là dưới quyền kiểm soát của chúng tôi mà ở đấy, chính quyền của chúng tôi đã bị họ vô hiệu hóa. Ở đấy, họ còn thu được thuế, tuyển mộ được một số lớn quân, lấy được một phần quan trọng những gì cần thiết cho nỗ lực chiến tranh của họ. Chủ bài chính của họ là sự "sùng tín" về quốc gia và nhất là về xã hội mà họ đã biết tạo dựng nên, bảo vệ và hỗ trợ nó bằng tuyên truyền và khủng bố. Dù vui lòng hay miễn cưỡng, hơn một nửa dân chúng đã đi theo họ. Họ in sâu vào mọi lĩnh vực đấu tranh: chính trị, kinh tế, xã hội, đạo lý, quân sự, một sự thúc đẩy kiên cường mãnh liệt. Ở Lào và Campuchia, những phần tử thân Việt Minh cũng kiểm soát được những vùng rộng lớn. Bức tranh vẽ lên về phía chúng tôi, than ôi, lại trái ngược hắn. Chưa bao giờ những nhà cầm quyền của chúng tôi có được thời gian làm việc liên tục. Đối địch với Hồ Chí Minh - lãnh tụ chính trị duy nhất - và Tướng Giáp - Tổng tư lệnh duy nhất từ đầu chiến tranh đến nay, 19 Chính phủ kế tiếp của chúng tôi đã đưa ra 5 cao ủy (Dejean là người thứ 6) và 6 tổng chỉ huy (mà tôi là người thứ 7)2). Chúng tôi cũng chưa bao giờ có một đường lối chính trị nhất quán để theo đuổi. Sau khi định tái lập chế độ thuộc địa hay một cái gì na ná như thế, chúng tôi dần dần đưa ra một quan niệm có thể tóm tắt bằng một công thức mỹ miều "Độc lập của các Quổc gia liên kết trong khuôn khổ khối Liên hiệp Pháp". Theo tuyên bố ngày 3 tháng 7 năm 1953, nước Pháp vừa thông báo ý định của mình là "hoàn thiện độc lập và chủ quyền” của các Quốc gia liên kết và chuyển giao cho họ "những quyền hành mà nước Pháp vẫn còn giữ". Nhưng còn phải bắt tay vào thực thi những nguyên tắc đó, và thế là ở đấy, bắt đầu có những khó khăn. Nhiều nguyên nhân chia rẽ tồn tại trong hàng ngũ chúng tôi. Giữa chúng tôi và những "suýppoócte" người Mỹ cũng có những chính kiến bất đồng. Hiện nay họ giúp chúng tôi bởi chúng tôi giữ một khu vực cần thiết cho thế bố trí chiến lược chống Cộng của họ, nhưng để giúp chúng tôi giữ được Đông Dương cho khối Liên hiệp Pháp thì họ chẳng mặn mà gì và họ vẫn tiếp tục cho đó là tàn dư của chủ nghĩa thực dân và là một trở ngại cho những mưu đồ của riêng họ. Trong nội bộ các Quốc gia liên kết cũng có sự chia rẽ: Việt Nam là một sự lắp ghép của các miền, các chủng tộc, các đảng phái, các tôn giáo và giáo phái; Lào là một thực thể chính trị mới mẻ và rời rạc; còn ở Campuchia, các thủ lĩnh các phe phái đang làm thất bại quyền lực của hoàng gia. Vậy là, đương đầu với một địch thủ thống nhất về chính trị, năng động và kiên quyết bằng mọi cách để đạt những mục tiêu được xác định rõ ràng, chúng tôi chỉ là một khối rời rạc, nhiều xu hướng khác nhau và hoàn toàn do dự. ----------------- 1. Nhiều nhà chính trị quan trọng và của tất cả các đảng phái đã không ngần ngại khi có những lời phát biểu công khai mà lý ra, nếu ở một đất nước thực sự có kỷ cương, thì họ sẽ phải ra trước tòa về tội lung lạc tinh thần nhân dân và quân đội. 2. Năm cao ủy là: Đô đốc d'Argenlieu, Pinon, Tướng De Lattre, Letourneau; sáu tổng chỉ huy: Lèclerc, Valluy, Bleđỗ, Carpentier, De Lattre, Saỉan. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Ba, 2016, 10:20:09 am Tình hình quân sự Đối vói những ai, như tôi, chưa từng trực tiếp tham dự thì các kiểu chiến tranh ở Đông Dương quả là khó hình dung nổi. "Chiến tranh không trận tuyến" mà Việt Minh tiến hành chống chúng tôi, thực ra là một sự kết hợp giữa chiến tranh du kích rộng rãi được nhân dân ủng hộ, giúp đỡ với chiến tranh đánh tập trung quy mô do bộ đội chính quy thực hiện. Tại những vùng rừng núi ở Việt Nam, Lào và Campuchia, dân thưa, rừng rậm và ít đường giao thông, từ lâu Việt Minh chỉ có chiến tranh du kích. Ngược lại ở đồng bằng sông Hồng và Mê Kông, cũng như vùng đồng bằng ven biến Trung phần, ở đấy từ lâu đã diễn ra một cuộc chiến tranh thực sự của cả đôi bên, những vùng này là những khu vực hoạt động có lợi ích cần thiết. Điều đó khiến chúng tôi tập trung ở đồng bằng những bộ đội tinh nhuệ, còn ở vùng rừng núi rộng lớn, tôi chỉ đế những lực lượng thứ yếu. Chúng tôi cũng chỉ trang bị và tổ chức quân đội sao cho phù hợp với tác chiến ở đồng bằng mà không bao giờ tự hỏi rồi một ngày nào đó, sẽ phải tác chiến ở rừng núi. Vì vậy chúng tôi đã gặp khó khàn ghê gớm khi, bắt đầu từ mùa thu 1952, Việt Minh quyết định đưa khối chủ lực có khả năng tác chiến ở tất cả mọi nơi của họ lên xứ Thái, Thượng Lào. Trung Lào và Cao nguyên Trung Bộ. Cũng như về hình thức chiến tranh, Việt Minh bắt chúng tôi phải chấp nhận kiểu cách của họ, thì về chiến lược, họ cũng bắt chúng tôi như thế. Họ xác định một kế hoạch tổng thế, rất chú ý đến các mặt chính trị và tâm lý, có sự tính toán dài hạn đến việc giành thắng lợi nếu không bằng cách lợi dụng được thời cơ quốc tế có lợi và sự xói mòn tinh thần của Pháp thì cũng bằng thắng lợi quân sự. Họ không có gì phải giữ bí mật về kế hoạch đó và ông Giáp đã công khai nói về nó từ năm 1950. Trong giai đoạn một, Việt Minh chỉ hạn chế hoạt động của họ ở chiến tranh du kích ở các địa phương. Giai đoạn hai, họ phát triển rộng rãi chiến tranh du kích rồi mở những chiến dịch đánh vận động lớn. Giai đoạn cuối cùng là tổng phản công nhằm giải phóng toàn bộ Đông Dương. Giai đoạn cuối này phụ thuộc vào ba điều kiện: ưu thế quân sự, tình hình quốc tế có lợi và khủng hoảng ở nước Pháp. Việt Minh hình như nghĩ rằng, vào khoảng 1955 hoặc 1956, tất cả các điều kiện đó đều được hội tụ. Tương ứng với kế hoạch chiến lược trên là một kế hoạch tổ chức lực lượng vũ trang và một bộ máy quân sự hoàn toàn thích hợp. Theo một cách nói thường dùng, quân đội Việt Minh là một "hình chóp nón sống" bám rễ sâu trong nhân dân. Tầng tháp bên dưới là du kích, những chiến đấu viên không quân phục mà làng nào cũng có một đội, nhiều ít tùy theo. Tầng trên họ là bộ đội địa phương, chất lượng ngày càng khá hơn và được trang bị tốt hơn, tổ chức thành đại đội, tiếu đoàn, đôi khi tới trung đoàn. Đỉnh tháp là bộ đội chính quy tổ chức thành khối chủ lực cơ động tác chiến, trang bị ngày càng tốt trong khi vẫn giữ vững tính cơ động linh hoạt, trở thành một quân đội hiện đại có khả năng mở những chiến dịch tiến công lớn trên toàn chiến trường Đông Dương. Bây giò, khối chủ lực cơ động tác chiến ấy gồm có 6 Sư đoàn bộ binh: 304, 308, 312, 316, 320 và 325, thêm vào đó là nhiều trung đoàn chính quy không tổ chức thành Sư đoàn, đưa tổng quân sô" chủ lực của Việt Minh lên tương đương 8 Sư đoàn. . - Cuối cùng, một Sư đoàn nặng - Sư đoàn 351 - tập hợp của một số đơn vị pháo binh, công binh và phòng không, đang được tổ chức. Về phía chúng tôi, chưa có một kế hoạch tổng quát chung nào của Chính phủ để chỉ đạo chiến tranh. Những kế hoạch của các tổng chỉ huy kế tiếp nhau nắm quyền không thể nào có được tính nhất quán, liên tục và tình hình, hậu quả của bảy năm rời rạc, thiếu thống nhất ấy là đáng lo ngại. Phía Bắc, chúng tôi "kiểm soát" được Đồng bằng Bắc Bộ nếu như người ta có thể gọi như vậy cái tình trạng hỗn độn ở đấy mà tôi sẽ mô tả dưới nữa. Ở đấy, khả năng bị tiến công là có thế xảy ra không lâu nữa. Tại vùng duyên hải, chúng tôi kiểm soát tới Móng Cái, "cửa quan" cuối cùng mà ta còn giữ được. Từ cuộc rút lui trong chiến cục 1952 - 1953 ở vùng rừng núi, chúng tôi chỉ còn giữ được các tập đoàn cứ điếm Lai Châu và Nà sản đang bị đối phương theo dõi. Do đối phương chiếm Điện Biên Phủ1 và Sầm Nữa nên Thượng Lào cũng bị uy hiếp. Chúng tôi chỉ còn làm chủ được vùng ven sát gần với Luang Prabang, Viêng Chăn, Cánh Đồng Chum và Pắc Sân. Chỉ thời gian ngắn nữa là có nguy cơ Việt Minh tiến đến vùng Thượng sông Mê Kông. Phía Nam, về lý thuyết, chúng tôi kiểm soát toàn bộ đất nước, nhưng ở đấy Việt Minh làm chủ được những "vệt" quan trọng. Nhiều "vệt" như thế có ở Nam Bộ, trong đó vùng Cực Nam nằm hoàn toàn trong tay đốì phương (vùng Transbassac và bán đảo Cà Mau). Vùng rộng nhất là Liên khu 52, trải dài suốt Nam phần Trung Bộ, từ mũi Né (Varella) đến rìa phía Nam Đà Nẵng. Sự có mặt của 30.000 người có võ trang, trong đó 18.000 quân chính quy hoặc quân địa phương tinh nhuệ, đối với miền Trung và miền Nam Đông Dương là một mốì đe dọa mà không lâu nữa, chúng tôi biết là nó sẽ trở thành hiện thực 3. Trong thời gian tới, đó có lẽ sẽ là nguy hiểm trầm trọng nhất đối với toàn cục Đông Dương. ------------- 1. Điện Biên Phủ thuộc đất Việt Nam, nhưng chỉ cách biên giới Việt - Lào vài kilômét và án ngữ cửa ngõ vào đất Lào. 2. Liên khu, theo cách gọi của Việt Minh, là những vùng vừa có tính chất chính trị, vừa có tính chất quân sự. 3. Trong một chỉ thị ngày 4 - 4 - 1953, Tướng Salan viết: "Càng ngày càng rõ là Việt Minh có khả năng, song song với việc tiến công mùa xuân đánh lên Bắc Lào và xứ Thái, sẽ dùng lực lượng của Liên khu 5 để mở một hoặc nhiều cuộc tiến công thứ yếu, nghi binh đánh vào những khu vực ở Trung Trung Bộ và Tây Nguyên". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Ba, 2016, 08:21:26 am Trong những khu vực trên lý thuyết do chúng tôi kiểm soát, Việt Minh đã làm hậu phương chúng tôi mất an toàn. Ở đấy họ có hơn 60.000 người ở Bắc Bộ, 25.000 người ở Trung Bộ, 40.000 người ở Nam Bộ, 6.000 người ở Lào và 8.000 người ở Campuchia.
Tình hình đó buộc chúng tôi phải phân tán lực lượng cắm vị trí ở khắp nơi để bảo vệ đường sắt, đường bộ, công trình nghệ thuật, sân bay, kho tàng và những "điểm xung yếu" đủ loại, đó là chưa tính đến các thành thị và không quên tuyến vành đai boongke trấn giữ Đồng bằng Bắc Bộ. Một bộ phận lực lượng khác thì dùng làm quân ứng chiến địa phương, bảo đảm liên lạc tiếp tế và cứu viện cho lực lượng chiếm đóng khi lực lượng này bị tấn công. Đồng bằng Bắc Bộ chính là nơi bị "ruỗng nát" lớn nhất. Hy vọng có thể làm chủ được nơi này, chúng tôi đã giữ chân đại bộ phận quân tinh nhuệ ở đây (khoảng 100.000 người). Nhưng chẳng vì thế mà nơi đây không phải là một căn cứ quan trọng của Việt Minh. Trong khoảng 7.000 làng thì họ kiểm soát được 5.000 làng, hoặc một phần hoặc toàn bộ. Chính đây là nơi cung cấp cho họ số lớn cán bộ chính trị, quân sự, binh lính, lương thực và thực phẩm đủ loại. Hậu quả trầm trọng nhất của tình trạng trên là 9 phần 10 lực lượng của chúng tôi bị giam chân vào nhiệm vụ chiếm đóng, hoặc có cơ động thì cũng rất hạn chế. Đổi đầu với đội quân gần 400.000 Việt Minh1 nhưng phần lớn là rất cơ động, chúng tôi có 450.000 người2 thật đấy, nhưng gần như hoàn toàn tĩnh tại; chỉ có 1/4 là cơ động chiến thuật, còn cơ động chiến lược thì chỉ có 1/10. So với 8 Sư đoàn của khối chủ lực cơ động tác chiến Việt Minh3, chúng tôi chỉ có 3 Sư đoàn (6 binh đoàn cơ động và 8 tiểu đoàn dù)4. Tình hình đó làm chúng tôi chỉ có khả năng tác chiến rất yếu ớt, còn Việt Minh thì rất mạnh. Để Việt Minh vượt chúng tôi như vậy, về mặt chiến lược, đó là một bất lợi lớn nhất đối với chúng tôi. Trái lại, chúng tôi có ưu thế lớn về không quân, pháo binh và xe tăng nhưng đó là một thứ ưu thế chúng tôi có được do thiếu tính toán, cân nhắc. Thực vậy, vũ khí trang bị của chúng tôi quả là chưa thích hợp lắm bởi đã sử dụng những thứ đồ "thừa ế" của Mỹ, những thứ được làm ra cho một kiểu chiến tranh khác. Song cái yếu nhất trong lực lượng chúng tôi là vấn đề người. Trong khi quân đội đối phương là một khối thuần nhất về dân tộc thì quân đội chúng tôi, giống như các Lediông La Mã thời kỳ suy tàn, là một mớ hỗn độn các dân tộc và chủng tộc. Người Pháp chỉ chiếm một số rất ít, gần như duy nhất chỉ gồm sĩ quan và kỹ thuật viên. Còn phần lớn là những người Bắc Phi, người da đen đến từ các thuộc địa của chúng tôi, người da vàng và người Âu của nhiều quốc tịch, tập hợp lại trong đội quân Lê dương. Gây hậu quả trầm trọng nhất là chất lượng của bộ binh. Thêm vào đó là những nguyên nhân yếu kém khác. Trước hết là sự kém thích nghi với chiến tranh, cả về điều kiện thể lực và con người, cũng như việc kém rèn luyện. Sau đó là sự giảm sút về biên chế cán bộ: số lượng thì thiếu và không ngừng thay đổi do việc "thay quân từng người" , một điều mà bảy năm nay Bộ chỉ huy tối cao ở Paris chữa có cách gì để khắc phục. Những khó khăn của lối thay quân ấy dẫn đến việc làm già cỗi cán bộ và làm chất lượng cán bộ giảm sút (như phải dùng những sĩ quan lâu ngày đã xa binh lính, hoặc dùng sĩ quan trù bị, họ tốt thật đấy nhưng thiếu kinh nghiệm hoặc phải đưa sĩ quan các binh chủng khác sang nắm bộ binh. Trong lĩnh vực trang bị, chúng tôi cũng để đối phương đuổi kịp về tốc độ: bộ đội Việt Minh hoặc được trang bị vũ khí tự động nhẹ, súng cối và súng không giật hơn hắn chúng tôi. Ngoài ra, trong binh lính chúng tôi, tỷ lệ lính bản xứ đã quá cao - không phải họ không có khả năng chiến đâu tốt (điều đó đã được chứng tỏ trong hàng ngũ đối phương), nhưng trong hàng ngũ chúng tôi, trừ một số rất ít đơn vị có đầy đủ sĩ quan Pháp chỉ huy, phần lớn bọn họ tỏ ra rất kém tinh thần và chiến đấu tồi. Lê dương, người Bắc Phi và người Phi chỉ được giữ trong chừng mực cho phép, bởi thiếu cán bộ và thiếu huấn luyện. Còn người Pháp, họ chiến đấu rất dũng cảm, với tư cách lính nhà nghề, nhưng họ không có ý thức là chiến đấu vì đất nước mà họ cảm thấy đối xử với họ rất thờ ơ. Cho nên dù vững vàng đến mấy, tinh thần của họ không phải tinh thần của những người lính của năm thứ II. Tất cả những điều nói trên làm cho bộ binh của chúng tôi ngày càng sa sút, mà họ lại là những người gánh vác trách nhiệm chính. Thế là trừ một số đơn vị tinh nhuệ, đầu đàn, họ dần dần mất tự tin trong tác phong chiến đấu, họ đòi hỏi quá nhiều sự yếm trợ của pháo binh và không quân, ngán đánh vận động, ngại thoát ly công sự. Họ trở nên kém hơn so với bộ binh của Việt Minh. Tóm lại, so với đối phương, lực lượng chúng tôi hiện đang ở thế bất lợi. Trong một báo cáo gửi lên Chính phủ vài ngày sau khi nhận chức, tôi viết: "Sự phân tán và tình trạng bất động của lực lượng chúng tôi chỉ cho bộ chỉ huy những khả năng tác chiến hết sức hạn chế. Chúng tôi không có khối chủ lực tác chiến đủ sức đương đầu vối khối chủ lực của Việt Minh. Lực lượng tổng dự bị của chúng tôi, trong tình hình hiện tại đang ở một trình độ mà mọi tác chiến chiến lược ỏ một quy mô nào đó đều tỏ ra không có khả năng thực hiện". -------------- 1. Khoảng 125.000 quân chính quy, 75.000 quân địa phương và 150.000 đến 200.000 du kích. Con số này được tính vào lúc tôi nhận quyền chỉ huy. Chắc chăn là còn dưới sự thật. 2. Toàn Đông Dương có: - Quân viễn chinh gồm: lục quân: 175.000 quân chính quy và 55.0 phụ lực quân; không quân: 10.000; hải quản: 5.000 - Quân các Quốc gia liên kết gồm: Việt Nam: 150.000 chính quy; 50.000phụ lực; Lào: 15.000; Campuchia: 10.000. 3. Thêm vào đó là lực lượng chính quy của LK5, khoảng 1 Sư đoàn. 4. Có thể tính thêm một số đơn vị thiết giáp và xe lội nước nhưng chỉ có ở một số vùng. Và do đó, chỉ có thể tinh những đơn vị này khi tiến hành hành quân ở những vùng đó. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Ba, 2016, 06:16:06 am Mối lo Trung Quốc Tình hình trỏ nên đáng lo ngại hơn nữa do nguy cơ can thiệp của Trung Quốc đang đè nặng xuống Đông Dương từ khi cộng sản tràn đến biên giới. Sự can thiệp ấy có thế xảy ra bất cứ lúc nào và dưới mọi hình thức: tăng cường ồ ạt viện trợ về vật chất cho Việt Minh, chi viện không quân, đưa bộ đội - giả danh là bộ đội Việt sang. Tất cả những kiểu can thiệp ấy gây nguy hiểm cho chúng tôi đến nỗi, để đỡ phải giữ ở Đông Dương những trang thiết bị vô ích, Bộ chỉ huy Pháp đã phải "cam đoan" rằng sẽ chẳng bao giờ chúng tôi phải đương đầu với không quân, xe tăng, pháo phòng không và pháo mặt đất thuộc loại hiện đại của đối phương. Do đó cho phép chúng tôi tiết kiệm được việc bố trí những cơ sở cho ra đa, máy bay và sân bay hiện đại, vũ khí phòng không và phòng tăng. Những tự lừa dối mình như thế chúng tôi đã phải luôn luôn nơm nớp lo âu và e ngại một ngày nào đó sẽ phải tỉnh mộng một cách tàn nhẫn. Thiếu bí mật Một thiệt thòi lớn nữa của chúng tôi là trong lĩnh vực tình báo. Việt Minh giữ bí mật tuyệt đối cho nên chúng tôi chỉ có thể nắm tin tức họ một cách rất không đầy đủ. Ở hạ tầng cơ sở, tin tức chúng tôi nắm được rất ít vì dân chúng tỏ ra thù địch và phải sống trong cảnh sợ bị khủng bô". Chúng tôi cũng không nắm được những ý định chiến lược lâu dài của bộ đội chỉ huy đối phương, đặc biệt là những đàm phán của họ với Trung Quốc về viện trợ. Cách mà nhờ đó chúng tôi biết địch được tương đối khá hơn cả là cách trung gian: chúng tôi biết được phần lớn các cuộc chuyển quân của chủ lực Việt Minh và cả những chuyến hàng từ Trung Quốc sang. Nhưng có được những tin tức ấy là hầu như duy nhất do giải được một số mật mã của đối phương. Cho nên chỉ cần Việt Minh thay đổi mật mã là chúng tôi thiếu tin tức, ít nhất cũng một thời gian. Kiểu phó thác cho may rủi ấy có thể làm cho chúng tôi bị bất ngờ lớn về chiến lược. Trái lại về phía Việt Minh, chúng tôi có chuyện gì là họ gần như biết hết. Điều đó do nhiều lẽ. Trước hết, họ tiến hành chiến tranh trên đất nước họ, giữa một dân chúng hoặc vì sợ, hoặc vì tán thành mà giúp đỡ họ. Chúng tôi bị dò xét thường xuyên và ở khắp cả mọi nơi. Tổ chức và cấu tạo của lực lượng chúng tôi cũng là một điều thua kém. Trong khi bộ đội Việt Minh, linh hoạt, chẳng có dấu hiệu gì đặc biệt, đồng phục nhiều khi không có, cho nên rất khó phát hiện được họ trên đồng ruộng hay trong rừng rậm, thì quân đội chúng tôi với xe cộ. vũ khí nặng, những dấu hiệu riêng biệt, cách đóng quân lộ liễu, thật dễ dàng cho Việt Minh giám sát và nắm được. Ý định của chúng tôi vừa mới ra khỏi - điều này quả là khó tránh đến một giai đoạn chuẩn bị nào đấy - phạm vi hẹp của cấp chỉ huy hành quân thì lập tức Việt Minh đã nắm được ngay. Có khi ngay cả đang còn là dự kiến, cuộc hành quân của chúng tôi đã bị lộ rồi. Họ có nhiều cách để nắm tình hình. Phía chúng tôi, đó là sự bất cẩn thường xuyên đối với việc giữ gìn tài liệu, từ khâu làm đến khâu chuyển giao và bảo quản nó. Đó là sự ba hoa không biết giữ lời ở các cuộc hội họp, nơi làm việc và những nơi công cộng. Sau ngày đình chiến, một sĩ quan Việt Minh đã nói: "Hình như mỗi sĩ quan Pháp biết được điều gì thì đều kể hết cho bạn, rồi những người này, đến lượt họ cũng lại thế". Một nguồn thông tin khác rất dồi dào cho Việt Minh là thông tấn báo chí. Chiến tranh đã đưa đến Đông Dương đông đảo các nhà báo; quan tâm trước hết của họ là săn được thật nhiều tin giật gân, bất chấp thật hay giả, và trừ một số rất hiếm hoi, phần lớn họ chẳng đếm xỉa gì đến việc bản thân họ cũng phải có trách nhiệm. Cậy mình là phóng viên chiến tranh và nhất là được hưởng những đặc quyền của nghề nghiệp (đi máy bay không mất tiền, được vào những nơi thông tin quân sự,...), họ chỉ tìm cách để lấn tránh mọi gò bó. Việt Minh gọi họ là những cái loa thông tin, đương nhiên là vô ý thức nhưng rất có giá trị. Đối với họ, tổng chỉ huy gần như bị bó tay, bởi do hậu quả của sự tranh chấp giữa quyền lực dân sự và quân sự, cũng như việc chúng tôi chưa chính thức chiến tranh, nên tôi không có khả năng áp đặt đối với báo chí một sự kiểm soát nghiêm ngặt. Cuối cùng Việt Minh còn tìm thấy mọi nguồn thông tin do sự "rò rỉ" vô tội vạ các tin tức ở các cấp trong hệ thống chính quyền bên nước Pháp. Một số tin tức rút ra đã giúp họ hiếu được phương hướng chung về chỉ đạo chiến tranh cũng như về điều hành các chiến dịch quân sự của Pháp. Tóm lại, về phía Việt Minh là một cái bình bịt kín, còn phía chúng tôi, một cái giỏ đan thưa. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Ba, 2016, 01:26:03 pm Những chủ bài của chúng tôi So sánh với Việt Minh, nếu chúng tôi có những bất lợi, thua kém rất lớn thì tuy nhiên, chúng tôi cũng không thiếu những con chủ bài. Một, là ưu thế tuyệt đối về vũ khí nặng (xe tăng, pháo binh và máy bay ném bom). Hai, là sức cơ động chiến lược, do chúng tôi có nhiều phương tiện vận tải, nhất là về đường không. Những tiếc thay, khả năng không vận của chúng tôi lại bị hạn chế do thiếu bảo đảm về hạ tầng cơ sở. Sự nghèo nàn của việc bảo đảm này, ở phía Tây Trường Sơn, - mà chưa có một cố gắng nghiêm chỉnh nào để phát triển nó - đặc biệt đã gây khó khăn lớn cho chúng tôi trong trường hợp phải mở những cuộc hành quân ở Thượng và Trung Lào. Nhưng hình như chủ bài quan trọng nhất của chúng tôi là khả năng mở rộng một cách đáng kể quân đội các Quốc gia liên kết, mà Tướng De Lattre là người khởi xướng nhưng sau khi ông đi, người ta đã tiếp tục không được mạnh mẽ lắm. Quan trọng nhất trong quân đội các Quốc gia liên kết là quân đội Quốc gia Việt Nam. nhưng mới chỉ được tô chức đến cấp tiếu đoàn (tiếu đoàn bộ binh, pháo binh và một số đơn vị binh chủng), chưa tổ chức thành đơn vị lớn mà thành những phân đội lắp ghép vào quân viễn chinh. Việc thành lập quân đội quốc gia cũng chưa được nỗ lực tiến hành một cách thực sự. Nghĩa vụ quân sự chưa được thực thi. Chỉ từ đầu 1953, chúng tôi mới quyết định tổ chức nhiều tiểu đoàn nhẹ, tuyến quân theo nghĩa vụ quân sự, cán bộ là sĩ quan và hạ sĩ quan Việt Nam. Việc thành lập quân đội quốc gia Lào và Campuchia cũng tiến hành tương tự, bắt đầu bằng tổ chức các tiếu đoàn nhẹ. Vậy là đối với chúng tôi, quân đội các Quốc gia liên kết là một chủ bài rất quan trọng, nhưng mới tới mức độ đó thôi. Thực vậy, việc thành lập các quân đội này cũng khơi lên những vấn đề phức tạp về kỹ thuật và nhất là về chính trị khó giải quyết trong một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi phải xây dựng một ý thức quốc gia để trên cơ sở đó mới đáp ứng được những nhu cầu về tuyển quân, về những hy sinh và nỗ lực các loại của chiến tranh. Việc này đòi hỏi phải có những biện pháp về phương diện xã hội, cũng như những nguồn tài chính cần thiết. Song đó còn là điều quá xa đối với chúng tôi1. Một bản tổng kết ảm đạm Cuối cùng, khi tôi mới tới Đông Dương, tình hình chung có thể tóm tắt như sau: Phía Việt Minh, là một lòng sùng tin, một quyết tâm ghê gớm, một tính năng động mạnh mẽ và một sự thống nhất hành động hoàn toàn giữa chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo chiến dịch. Phía chúng tôi là một liên minh các quốc gia có quyền lợi khác nhau - nêu không phải là trái ngược nhau - là thiếu lòng tin vào các mục tiêu rõ rệt, là do dự và thiếu hắn sự kết hợp giữa chính trị và quân sự trong chiến tranh. Phía Việt Minh là một cuộc chiến tranh được dân chúng tham gia một cách toàn diện, hoặc vì lý tưởng hoặc bị cưỡng bức. Phía chúng tôi là một cuộc chiến tranh tiến hành nửa vời và "bán theo kiểu hạ giá”, dư luận chung thì khoan nhượng đấy nhưng không quan tâm, bỏ mặc hoàn toàn cho những người lính nhà nghề mà đối với họ, người ta thậm chí không buồn nói là tại sao họ phải chiến đấu. Phía Việt Minh là một quân đội hết sức cơ động linh hoạt, sức mạnh quân sự yếu kém nhưng ngày càng tăng. Phía chúng tôi, tuy còn mạnh hơn, nhưng đang phải trả giá bởi sự nặng nề, cồng kềnh và thiếu thích nghi với đất nước và con người ở xứ sở này. Phía Việt Minh, số lượng ít hơn một mức nào đấy, nhưng bù lại, họ lại có một tỷ lệ quân cơ động lớn. Phía chúng tôi, hy vọng còn đặt vào sự phát triển sắp tới của quân đội các Quốc gia liên kết. một việc mà rủi thay đang còn bị cản trở bởi một tình hình chính trị cũng như một không khí xã hội và tâm lý không mấy thuận lợi. Phía Việt Minh, chủ bài chính của họ là một khối chủ lực cơ động tác chiến lớn gần gấp ba lực lượng cơ động của chúng tôi và để cân bằng được so sánh này, chúng tôi còn phải mất nhiều tháng nữa. Từ đó phía chúng tôi, viễn cảnh thật đáng lo âu đối với chiến cuộc 1953 - 1954 sắp tới. Và cuổi cùng, đứng ở sau lưng, mỗi bên đối địch đều có một siêu cường giúp đỡ. Sau chúng tôi là một nước Mỹ xa xôi, đổ ào ạt và đều đặn vũ khí, phương tiện, nhưng phần lớn là vô dụng. Sau Việt Minh, gần kề là Trung Quốc, chỉ viện trợ một cách hạn hẹp thôi, nhưng bất kể lúc nào cũng có thể tăng lên một cách ghê gớm, khiến chúng tôi khó có thể chống đỡ trong những thời hạn mong muốn. Bản tổng kết, mà vài tuần sau khi nhận chức tôi rút ra được quả là xấu hơn nhiều so với những gì người ta trình bày với tôi khi tôi mới đến, và sau đó tôi mới biết rằng, nó đã sai lệch vì quá lạc quan. Thực vậy, chúng tôi luôn đánh giá thấp Việt Minh, cả về chính trị và quân sự. Uy tín ảnh hưởng của họ đối với dân chúng, tinh thần, tính năng động, những khả năng kinh tế, nguồn nhân lực, trình độ quân sự của các cấp chỉ huy, tất cả của họ đều luôn luôn cao hơn so với những gì chúng tôi nghĩ. Nhất là chưa bao giờ chúng tôi đánh giá đúng giá trị thực sự của cái ưu thế quyết định - ưu thế có được do chế độ cực quyền của họ so với chế độ dân chủ không hạn chế của chúng tôi, do nghị lực ghê gớm của các nhà lãnh đạo của họ so với sự mềm yếu của các nhà lãnh đạo của chúng tôi. ------------ 1. Người Mỹ, có tham vọng lớn hơn chúng tôi về vấn đề này, đả mất 15 năm để xây dựng một quân đội Việt Nam tạm gọi là có giá trị, mặc dù họ đổ vào đấy biết bao công sức. Do hiểu biết xứ sở này, đương nhiên chúng tôi có thể đi nhanh hơn họ. Nhưng củng phải mất nhiều thời gian hơn chúng tôi nghĩ. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Ba, 2016, 08:21:02 am CHƯƠNG III "KẾ HOẠCH NAVARRE" Như người ta đã biết, tôi sang Đông Dương mà không có một chỉ thị nào của trên. Tôi phải nghiên cứu tình hình tại chỗ, rồi quay về Pháp trình bày với Chính phủ một kế hoạch mà tôi thấy có khả năng thực hiện được. Phương pháp này trái với lệ thông thường. Lẽ ra Chính phủ, căn cứ vào đường lối chính trị chung, phải xác định mục tiêu chiến tranh, đề ra một kế hoạch chỉ đạo chiến tranh, rồi trong khuôn khổ đó yêu cầu cao ủy và tổng chỉ huy trình lên một kế hoạch quân sự. Nhưng do được phép, nên mặc dù thế nào, tôi cũng vạch ra một kế hoạch chính trị - quân sự và trở về Paris vào đầu tháng 7 để báo cáo lên Chính phủ. Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân1 đã đồng ý kế hoạch của tôi nhưng có những dè dặt về khả năng cung cấp những phương tiện mà tôi yêu cầu để thực hiện kế hoạch. Sau đó tôi được triệu tập tới dự một số cuộc họp, phạm vi hẹp các bộ trưởng có nhiệm vụ nghiên cứu dự án của tôi. Những cuộc họp ấy - mà chỉ các bộ trưởng có liên quan đến sự việc Đông Dương mới tham dự - được tiến hành dưới sự chủ tọa trên lý thuyết của Thủ tướng Laniel. Vì thực ra ông thủ tướng chỉ có khai mạc và bế mạc cuộc họp, còn điều khiên cuộc họp là Phó Thủ tướng Paul Raynaud, người được phó mặc về công việc ở Đông Dương2. Nói chung các cuộc họp đều rời rạc và hiếm khi ra được một quyết định. Chỉ đến cuối tháng 7 mới có những ý kiến đủ rõ rệt để kế hoạch của tôi được đưa ra Hội đồng quổc phòng3. Hội đồng họp ngày 24 tháng 7 dưới sự chủ tọa của Tổng thống Vincent Auriol. Sau khi trình bày tình hình ở Đông Dương, tôi nêu lên những điều kiện có tính chất chính trị mà tôi nghĩ cần thiêt phải thực hiện. Tôi trình bày những dự kiến của tôi trong lĩnh vực tổ chức và phát triển lực lượng, cũng như vê vấn đề tác chiến. Tôi yêu cầu những phương tiện mà tôi xét cần thiết. Mặc dù bàn cãi dài dòng và rối rắm. nhưng chẳng có một quyết định dứt khoát nào được đưa ra về những vấn đề nêu lên. Khối lượng phương tiện tài chính cấp cho tôi không được xác định, chỉ quyết định chung chung là "kêu gọi sự giúp đỡ của nước Mỹ". Nguyên tắc cho tăng viện được chấp nhận nhưng tầm quan trọng của nó ra sao và được bao nhiêu thì không nói rõ. Còn về các phương án tác chiến, nó chỉ được đề cập trong chừng mực có thể có tác động tới chính trị hay tài chính và cũng không có một quyết định nào được đưa ra đổi với quan điếm này. Đặc biệt, một vấn đề rất nghiêm trọng là bảo vệ Thượng Lào cũng được đưa ra thảo luận lâu (sẽ nói ở phần sau) nhưng cũng chưa có giải pháp. Thực ra Hội đồng cũng đưa ra được một "quyết định" duy nhất, đó là quyết định yêu cầu tôi, trong một thời hạn khoảng 3 tuần, phải đệ trình lên Chính phủ những để nghị mới "kinh tế hơn", "tiết kiệm hơn" về tiền của và quân số. Thời hạn ấy sẽ được dùng đế nghiên cứu việc gửi quân tăng viện, đàm phán với Mỹ để họ giúp thêm tiền cho những khoản phụ phí mà kế hoạch đòi hỏi. Tôi trở lại Sài Gòn vào đầu tháng 8, cùng chuyên bay vối ông tân Cao ủy Dejean. Với sự nhất trí của ông, tôi bắt tay vào xây dựng kế hoạch cuổì cùng và tính toán những phương tiện tối thiểu cần thiết. Việc nghiên cứu đó đảm bảo để cuối tháng 8 tôi kịp trình lên Chính phủ những đề nghị mới. Tôi nhấn mạnh sự cần thiết phải chấp nhận kế hoạch mà tôi đã trình lên hồi tháng 7, không có những sự thay đổi. điều chỉnh đáng kể. Tôi yêu cầu một số phương tiện về tiền, quân số và vũ khí trang bị với sô lượng mà tôi đã cố gắng "dồn ép" tới mức tối đa, nghĩa là tới mức không thế thấp hơn được nữa. Kế hoạch của tôi cuối cùng đã được chấp nhận. Nhưng sự chấp nhận ấy cũng không được ghi nhận dưới dạng một thống báo chính thức mà tôi có thể coi đó là một chỉ thị, và sự chấp nhận ấy cũng không hề giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền chính phủ mà kế hoạch của tôi nêu ra. Còn về những phương tiện tôi yêu cầu, nó chỉ được chấp nhận từng phần, và cũng chỉ mới trên nguyên tắc chứ chưa phải đã được quyết định rõ rệt. Đó là những điều kiện chung trong đó được xây dựng cái mà giới báo chí gọi là "Kế hoạch Navarre" và đối với công chúng, nó đã được thuật đi thuật lại và giải thích với nhiều cách khác nhau, hoặc mặc sức tưởng tượng, hoặc đơn giản sơ sài. Bây giờ tôi xin trình bày thực sự nó ra sao. -------------- 1. Hội đồng, dưới sự chủ tọa của thống chế Juin (sắp sửa nhường chức cho Tướng Eỉy), gồm: Tướng Blane, Tham mưu trưởng Lục quân, Tướng Léchères, Tham mưu trưởng không quân (sắp thay bởi Tướng Fay) và Đô đốc Nomy, Tham mưu trưởng Hải quân. 2. Thời gian ở Paris, tôi làm việc nhiều nhất với ông Paul Raynaud và thường có những buổi gặp gỡ riêng. Còn với ông Laniel, thì không một buổi nào. 3. Gồm các bộ trưởng có liên quan đến văn đề Đông Dương củng như các tham mưu trưởng Lục quản, Không quân và Hải quân. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Ba, 2016, 08:51:28 am Những điều kiện chính trị Chính phủ không cung cấp cho tôi "khung cảnh" chính trị trong đó kế hoạch quân sự cần phải lồng vào. vì vậy tôi buộc phải tự mình đề ra cái khung đó. Tôi trình bày nó dưới dạng "những điều kiện chính trị", những điều kiện mà tôi tuyên bố là nếu muốn. thực hiện được kế hoạch quân sự thì cần thiết phải thực hiện nó. Thứ nhất, điều trước đây chưa từng làm, là phải xác định những mục tiêu cho chiến tranh Đông Dương. Vì nhiều lẽ, sự xác định đó là cần thiết. Đối với đất nước, người ta không thể đòi hỏi ở nó những nỗ lực mà không làm cho nó hiểu rõ nguyên nhân. Đối với tinh thần của binh sĩ, nhất là với sĩ quan, việc xác định ấy làm cho họ hiểu tại sao họ phải chiến đấu. Và đối với các Quốc gia liên kết và nước Mỹ, điều đó giúp cho việc xác định một đường lối chính trị rõ ràng. Nước Pháp, các Quốc gia liên kết và nước Mỹ hình thành một liên minh chống Việt Minh nhưng họ lại không có cùng mục đích. Đối với Mỹ, giống như ở Triều Tiên, mục đích của họ là ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, thêm vào đó là cũng có những nhăm nhe về kinh tế và chính trị đối với các Quốc gia liên kết. Với các nước này thì mục đích của họ là nhằm loại quân "phiến loạn" Việt Minh. Nhưng qua cuộc chiến tranh, đồng thời họ cũng muốn giành được "độc lập", nghĩa là nới lỏng mối ràng buộc với nước Pháp mà việc nới lỏng này tất nhiên sẽ dẫn đến việc không tránh khỏi theo Mỹ bởi còn lâu họ mới vượt khỏi tình trạng không cần bảo trợ. Vậy là những mục tiêu chiến tranh của Mỹ và các Quốc gia liên kết phần nào trùng hợp với nhau và chút ít có chống lại chúng ta. Còn nước Pháp, họ cũng không biết tại sao họ phải chiến đấu. Liệu có phải, như người ta thường nói, là để "giải phóng" của Quốc gia liên kết khỏi cái họa Việt Minh và đưa lại độc lập cho họ? Đó có thể là một mục đích đáng giá nếu nền độc lập ấy phù hợp với việc giữ gìn Khối liên hiệp Pháp. Một mục đích khác có thể xem xét đối với nước Pháp, đó là chỉ tham gia vào đường lối ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản của Mỹ: nếu vậy thì phải từ bỏ quyền lợi của Pháp ở Đông Dương và rút lui khỏi xứ sở này khi chiến tranh kết thúc. Giữa các mục tiêu chiến tranh nói trên, có một sự không tương hợp, bởi đối vối mỗi nước, để đạt được mục tiêu ấy, lại phải có đường lối chính trị và chiến lược riêng. Nếu muốn xây dựng ở Đông Dương một Liên hiệp Pháp vững chắc thì chúng tôi phải có những trách nhiệm với nó. Chúng tôi phải bảo vệ hoặc khôi phục lại toàn bộ lãnh thổ của các Quốc gia liên kết. Chúng tôi cũng phải giữ quân đội của họ trong ảnh hưởng quân sự của Pháp, tức là phải đám nhiệm việc xây dựng và huấn luyện nó. Những trách nhiệm đó sẽ kéo theo những hy sinh lớn về phía Pháp và để đổi lại, các Quốc gia liên kết cũng phải hạn chế phần nào chức quyền của mình. Đồng thời chúng tôi cũng phải đòi hỏi Mỹ từ bỏ ý định thay thế ảnh hưởng của họ vào ảnh hưởng của chúng tôi. Ngược lại. nếu chúng tôi cho là nước Pháp không tìm kiếm một quyền lợi nào nữa ở Đông Dương và chỉ chiến đấu đế tham gia mặt trận chống Cộng theo hướng của Mỹ thì chúng tôi có thể trao trả độc lập hoàn toàn cho các Quốc gia liên kết. Chúng tôi có thế từ bỏ, với sự có lợi cho Mỹ một phần lớn, ảnh hưởng chính trị và quân sự của chúng tôi, chia sẻ với họ việc điều hành tác chiến và có thể ngay cả nhường tất cho họ. Với sự thỏa thuận với họ, chắc chúng tôi có thế không cần có mặt trên tất cả các lãnh thổ Đông Dương mà chỉ giữ một số khu vực có tầm quan trọng thiết yếu đối vối chiến lược chung. Nhưng như vậy thì chẳng có lý do gì chúng tôi phải đóng vai trò quân sự chủ yếu. Như người ta thấy, việc xác định rõ ràng những mục tiêu chiến tranh của chúng tôi quả là cần thiết. Đó là điều mà tôi cố gắng giải thích với các thành viên Chính phủ mà tôi có quan hệ. Nhưng tôi có cảm giác là họ chẳng hề mảy may quan tâm đến vấn đề này mà cũng chẳng coi đó là quan trọng. Đổi với họ, đó chỉ là cái trò tranh luận có tính chất hàn lâm, thế mà đấy lại là cốt lõi của vấn đề. Tuy nhiên người ta cũng hứa với tôi là sẽ xác định. Nhưng rồi tôi cũng chẳng nghe thấy nhắc gì đến. Rõ ràng là đối với các nhà lãnh đạo của chúng tôi, họ chẳng có mục đích chiến tranh nào khác là "thoát khỏi" chiến tranh. Không có điều kiện hơn nữa, người ta đành phải tiếp tục đường lối hiện hành - nếu có thể gọi cái thứ thỏa hiệp mơ hồ giữa các đường lối chống đối nhau ấy bằng từ này - ; đó là đường lối nhằm giữ được ưu thế của chúng tôi ở Đông Dương, nhưng trong khi đó lại lẩn tránh mọi nỗ lực mà đường lối ấy đòi hỏi. Điều kiện chính trị thứ hai tôi nêu ra là cuộc chiến tranh này phải được chỉ đạo và muốn vậy sự thống nhất hành động chính trị và quân sự phải được thực hiện trong hàng ngũ chúng tôi cũng như bên đối phương đã làm. Song đây là công việc thuộc cương vị chính phủ, tôi chỉ là người nêu vấn đề thôi. Cuối cùng, tôi yêu cầu là cần phải làm tất cả để thúc đẩy các quốc gia liên kết thực sự tham gia chiến tranh. Để đạt mục đích ấy, tôi nghĩ phải trao cho họ quyền độc lập tối đa. Thực vậy, lúc mà chúng tôi từ bỏ chế độ thuộc địa, một việc làm có khả năng đem lại hiệu quả, cần phải tìm một cái gì khác nữa để đạt được hiệu quả thật sự. Thế thì đối với các Quốc gia liên kết, duy nhất chỉ có nền độc lập là có khả năng khơi dậy ở họ một tinh thần quốc gia khiến họ hăng hái tham gia chiến tranh. Tôi đồng thời còn nhấn mạnh, kèm theo việc trao trả độc lập, phía các Quốc gia liên kết cũng như phía Mỹ cũng cần phải có những cam đoan cần thiết1. Về điểm này, chẳng hơn gì các vấn đề khác, trong Chính phủ cũng không có tiếng nói chung. Một số bộ trưởng thì tán thành một nền độc lập rộng rãi cho các Quốc gia liên kết. trong khi một số khác, chỉ ngại việc này sẽ tác động đến các nước khác trong Khối liên hiệp Pháp, lại đòi hỏi cần phải có những hạn chế đối với nền độc lập ấy, tới mức mà nếu làm như họ thì nó chỉ còn là một thứ độc lập "bánh vẽ”. --------------- 1. Trong một bức giác thư gửi Chính phủ vào tháng 7 năm 1953, tôi viết: "Mỗi một nước trong ba Quốc gia (liên kết) cần phải xây dựng ý thức dân tộc trong quân đội họ và giải thích để dân chúng hiếu ý nghĩa của cuộc chiến tranh là giành độc lập... Trái lại, để khỏi mang tiếng là lừa bịp, chúng ta cần phải nói rõ những điều kiện của việc chúng ta tiếp tục những nỗ lực: đó là xây dựng một Khối liên hiệp Pháp thực sự chứ không phải chỉ là bề ngoài... Củng phải có những điều kiện đặt ra về những gì liên quan đến thái độ của nước Mỹ. Việc kiểm soát những phương tiện mà họ giao cho chúng ta thì không cần phải đưa ra tranh cãi nữa. Nhưng thế đã đủ để biện bạch cho việc can dự không một giới hạn nào của họ vào công việc của chúng ta chưa, một việc đã làm chúng ta lâm vào thế bất lợi đối với các Quốc gia liên kết và gây tổn hại tới những khả năng thực hiện một Liên hiệp Pháp thực sự của chúng ta”. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Ba, 2016, 05:53:44 am Kế hoạch quân sự Điều kiện chính trị nêu ra rồi, còn lại là việc đệ trình Chính phủ một kế hoạch quân sự. Một kế hoạch như thế cần phải dựa vào một căn cứ: đó là nhiệm vụ được giao. Nhưng những cuộc hội họp, tiếp xúc của tôi ở Paris đã cho biết là tôi ít có cơ may để có được những quyết định, những kết luận dứt khoát, rõ ràng. Vì vậy, biện pháp duy nhất là tôi đành phải tự mình xác định lấy rồi sau đó xin Chính phủ phê chuẩn. Trong Chính phủ, hình như có một ý kiến chung là: tìm cách thoát ra khỏi chiến tranh trong danh dự. Nhưng về mặt quân sự, Việt Minh đang ưu thế, chúng tôi không có khả năng giành được thắng lợi bằng chiến thắng quân sự. Vậy giải pháp chỉ có thể là bằng chính trị. Song từ đó tôi cũng xác định nhiệm vụ của tôi là phải tạo ra những điều kiện quân sự đế làm chỗ dựa cho một giải pháp chính trị thỏa đáng mà Chính phủ sẽ đưa ra vào thời cơ của nó. Đó là chứng tỏ cho Việt Minh biết rằng, nếu chúng tôi không "thắng" cuộc chiến tranh này thì họ cũng không thể đánh bại được chúng tôi và họ cần phải nhân nhượng. Tôi chưa bao giờ hy vọng cũng như chưa bao giờ hứa hẹn hơn thế và người ta cũng không đòi hỏi tôi phải làm hơn. Một số nhà chính trị cũng như một vài nhà bình luận quân sự đôi khi đã gợi ý chúng tôi nên "co bớt" lại ở Đông Dương để tập trung lực lượng lại nhằm tước mất của Việt Minh mọi cơ hội giành chiến thắng. Người thì dự kiến rút khỏi đồng bằng Bắc Bộ để co về khu vực Hải Phòng - Hà Nội, hoặc có khi là dồn tất về Hải Phòng. Người thì khuyên nên bỏ miền Bắc mà rút về thành lập một "mặt trận” ở vĩ tuyến 18. Cuối cùng lại có những người trù tính chỉ nên giữ lại Nam Bộ. Về chính trị mà nói, những giải pháp kiểu nói trên là có thể thực hiện được, song phải là trước khi có hiệp định ký kết với Bảo Đại và trước khi người Mỹ có sự viện trợ. Nhưng bây giờ, nó chỉ có thể xem xét đến trong khuôn khổ của việc xét lại toàn bộ đường lối chính trị của chúng tôi ở Đông Dương và do đó, toàn bộ đường lối chính trị nước Pháp. Còn về quân sự thì ở tình trạng chúng tôi hiện nay, những giải pháp ấy đã hoàn toàn bị vượt qua rồi. Lùi, có nghĩa là giúp Việt Minh tăng cường sức mạnh vật chất của họ, nhất là về người; là kích thích tinh thần của họ tới mức họ không còn nghĩ gì đến việc thỏa hiệp nữa. Đó là thúc đẩy những vụ đào ngũ hàng loạt và chắc chắn là cả những cuộc binh biến trong lòng quân đội viễn chinh đang bị quá "vàng hóa" và nhiều đơn vị bản xứ đã thay thế cho các đơn vị gửi từ Pháp sang. Rút lui chỗ này sẽ kéo theo những cuộc rút lui chỗ khác và cuối cùng, nhiều nhất là chỉ có thể giữ trong một thời gian vài căn cứ cô lập, như Hải Phòng, Đà Nẵng và vịnh Cam Ranh, mà những nơi này thì rất khó bảo vệ xung quanh vì làm sao có thể đương đầu với cả một đất nước quay lại chống chúng tôi1. Theo cuốn Điện Biên Phủ - Sự việc của ông Roger Delpey, ra mắt nám 1974, thì phương án co lai ấy, tuy là một việc hoàn toàn không có khả năng thực hiện được trong thời kỳ ấy, lại là một trong những kết luận của Tướng Blane trong dịp ông ở Đông Dương năm 1954. Đôi với tôi, thật khó tin được một điều phi thực tế như thế lại có thế ở một vị tham mưu trưởng Lục quân. Mọi rút lui đều không thể được. Nó là hồi chuông báo tử cho Khối liên hiệp Pháp và làm cho, chỉ một thời gian ngắn, sự ra đi vĩnh viễn của chúng tôi trở nên không thể tránh khỏi. Một giải pháp chính trị trong danh dự để ra khỏi chiến tranh chỉ có thể có được bằng cách giữ vững các vị trí của chúng tôi và với mọi cố gắng có thế, ra sức cải thiện nó2 ------------ 1. Một trong những người tán thành chiến lược co bớt lại là Tướng Blane, Tham mưu trưởng Lục quân. Nhưng với tôi, chưa bao giờ ông đả động đến quan điềm đó, cả hồi tháng 7 năm 1953, khi tôi trình bày kế hoạch (đó là lúc thuận tiện nhất để bảo vệ một luận điểm như thế), cả hồi tháng 1 tháng 2 năm 1954, khi ông sang Đông Dương. Chỉ sau này khi từ Đông Dương về nước, tôi mới biết là ông đã có dự kiến bỏ Bắc Bộ và Thượng Lào và quay về phòng thủ miền Trung và Nam Đông Dương. 2. Năm trước, khi phải tiến hành một cuộc rút lui theo "chiến lược co bớt lại'' (tức cuộc rút lui khi bị tiến công ở Tây bắc, cuối 1952 - ND), Tướng Salan đã viết trong một bức thư gửi về Paris: "Tôi tin chắc rằng chỉ cần rút lui một chút là chắc chắn sẽ dẫn chúng ta đến một cuộc di tản toàn bộ". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Ba, 2016, 12:55:36 pm Một vấn đề khác đặt ra mà tôi cần phải xem xét: liệu có khả năng tiến hành ở Đông Dương một kiểu chiến tranh khác với cái đã làm và nó có thể cho những kết quả tốt hơn không?
Trong giới chính trị và các nhà báo, đã có nhiều lời chê trách đối với Bộ tổng chỉ huy về vấn đề này. Đương đầu với "chiến tranh cách mạng" của Việt Minh - họ nói - người ta chỉ biết có mỗi một kiểu "chiến tranh cổ điển, thông thường". Việt Minh đã khám phá ra một kiểu chiến tranh mới nó làm chúng tôi khó khăn, vậy thì "chỉ có việc" là bắt chước nó!1. Luận điểm này được phát triển rất thành công bởi nó có cái lợi là đơn giản, hay nói đúng hơn là quá mức đơn giản. Song rủi thay, thực tế lại khác hắn. Cuộc chiến tranh mà đốì phương của chúng tôi tiến hành, được gọi là "chiến tranh cách mạng", mang tính chất vừa là "chiến tranh tổng hợp" (guerre globale) vừa "chiến tranh tổng lực" (guerre totale). Tổng hợp, bởi kết hợp chặt chẽ với quân đội có sự tham gia triệt để của mọi lực lượng Quốc gia Việt Minh: chính trị, tuyên truyền trong và ngoài nước, kinh tế, v.v... và của toàn thể dân chúng, hoặc tự nguyện hoặc do cừỡng bức. Tông lực, bởi đối phương không hề bị bó tay hoặc băn khoăn bối rối vì bất cứ một điều gì, họ có thể dùng đủ mọi biện pháp miễn sao cứ có hiệu quả là được: khủng bố, đàn áp, nhồi sọ về chủ nghĩa, cưỡng bức đủ kiểu về thể chất và tinh thần. Tất nhiên, quân đội viễn chinh Pháp hoàn toàn không hề tiến hành một kiểu chiến tranh như vậy. Họ chiến đấu trên đất nước người, chỉ được nước Pháp giúp đỡ dè sẻn về vật chất còn về tinh thần thì không hề có; họ bị trói buộc bởi cơ man những điều lệ thuộc và mặc dù đôi khi cũng có những "điều đáng chê trách" không tránh khỏi, họ vẫn buộc phải tuân theo những nguyên tắc lớn của nền vãn minh phương Tây. Còn các Quốc gia liên kết, họ có thể áp dụng "chiên tranh cách mạng" được không? Đương nhiên là có thuận lợi hơn chúng tôi, nhưng hoàn toàn cũng không được. Bởi nếu dù các nhà lãnh đạo của họ có đủ quyết tâm để tiến hành kiểu chiến tranh ấy thì quân đội của họ cũng có những sự lệ thuộc như quân đội chúng tôi, nghĩa là họ cũng không thể thoát khỏi những nguyên tắc đạo lý không thể xa rời được trong hàng ngũ chúng tôi. Trong những biện pháp của "chiến tranh cách mạng", biện pháp duy nhất tôi có thể bắt chước được Việt Minh là đánh du kích, mà chúng tôi đối phó lại bằng "chổng chiến tranh du kích". Nhưng ngay cả trong lĩnh vực này, khả năng chúng tôi so với họ cũng thấp kém rất nhiều. Trước hết là chúng tôi có nhiều mục tiêu để đổi phương tiến công (thành thị. đồn bốt, sân bay, cầu cống, đoàn xe, kho súng đạn, xăng dầu, lương thực, v.v...) trong khi về phía họ, hầu như không có một mục tiêu nào rõ rệt cả. Và nhất là họ rất cơ động linh hoạt, do bộ đội của họ có sức chịu đựng cao và sổng rất giản dị. Còn chúng tôi thì nặng nề cồng kềnh, bởi phần lớn chúng tôi đều sống không thể thiếu được chút tiện nghi tối thiểu. Chống chiến tranh du kích của chúng tôi chỉ có thể nhằm những mục tiêu hạn chế và bằng những lực lượng nhỏ được trang bị và huấn luyện đặc biệt. Từ trước đến nay, chúng tôi đã có những cố gắng cần thiết để đạt được kết quả khiêm tốn ấy chưa? Chắc chắn là chưa. Chúng tôi mới chỉ hạn chế trong việc giữ một vài "khu du kích", tổ chức một số ít đội commăngđô (biệt kích), trong đó trừ một số nhỏ là khá, còn phần lớn đều không có giá trị. Nhưng để khắc phục tình trạng ấy, chúng tôi còn phải tổn nhiều công sức. thời gian. Chúng tôi cần phải phát triển các đội commảngđô, các "khu du kích", trang bị nhẹ nhàng hơn cho bộ binh. Những biện pháp ấy sẽ cải thiện tình hình hơn, những cũng không cho chúng tôi một quân đội có hiệu qủa sánh được với Việt Minh. Tuy nhiên chúng tôi cũng không thể làm được gì hơn nữa. ------------- 1. Cái mốt của các phóng viên báo chí ở Đông Dương là nói "chỉ có việc" sao chép lại kinh nghiệm của người Anh ở Mã Lai. Rủi thay, nghiên cứu kỹ thì người ta thấy chiến tranh ở Đông Dương chẳng có gì tương đồng với những cuộc hành quân cảnh sát của người Anh ở Mã Lai, nơi mà người Anh có ưu thế lớn về quân số chống lại một địch thủ không có sự ủng hộ của dân chúng. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Ba, 2016, 05:51:06 am Kế hoạch tổ chức lực lượng Để làm kế hoạch, tôi nghĩ có thể tìm được những yếu tố trong những kế hoạch của các nhà tiền nhiệm dân sự và quân sự kế tiếp nhau cầm quyền ở Đông Dương. Nhưng không hề có một chút nào. Hơn nữa, cả đến những chỉ thị có tính chất chỉ đạo chung của Chính phủ cũng không có. Tuy nhiên cũng có một bản đề án rất hoàn chỉnh, gồm hai phần: Tổ chức lực lượng và Tác chiến, do Tướng Salan thảo ra theo yêu cầu của ông Letourneau, trong đó ông Letourneau có vạch ra một vài nét chính nhằm xin Mỹ viện trợ vũ khí, phương tiện. Trong báo cáo nhân chuyến công cán ớ Đông Dương. Tướng Juin có đề nghị áp dụng đề án đó, nhưng rồi cũng không thấy thực hiện. Tuy nhiên, đó là một đề án hoàn toàn không có giá trị và tôi quyết định sử dụng nó tới mức tối đa. Như tôi đã nói, bất lợi chính về tác chiến của chúng tôi là, mặc dù đông quân hơn đối phương một chừng mực nào đấy, lực lượng cơ động vẫn không có khả năng đương đầu với khối chủ lực cơ động tác chiến của họ. Việc tổ chức một khối lực lượng mạnh hơn có thể sánh với Việt Minh là một điều cần thiết. Tướng Salan đã trù tính hai biện pháp: rút bớt quân chiếm đóng để làm nó cơ động hơn và phát triển quân đội các Quốc gia liên kết. Việc rút bớt quân chiếm đóng đặt ra những vấn đề khó khăn. Việc rải quân chiếm đóng của chúng tôi là một điều xấu những thường lại cần thiết. Thay quân chiếm đóng bằng một lực lượng chiếm đóng khác chất lượng kém hơn sẽ có những bất tiện nghiêm trọng. Chất lượng lực lượng vũ trang địa phương của Việt Minh đã tới mức mà nếu đem quân chất lượng kém của chúng tôi đương đầu với họ thì chỉ tổ chuốc lấy thất bại. Biện pháp duy nhất có giá trị là quét sạch lực lượng vũ trang địa phương Việt Minh, phá căn cứ, và khi địa phương đã được "làm sạch" thì đưa quân chất lượng kém đến đóng giữ. Trước khi rút bớt quân chiếm đóng (loại có chất lượng) thì cần phải tiến hành bình định. Muốn vậy cần phải có phương tiện và thời gian1. Đối với toàn Đông Dương, một kế hoạch rút bớt quân chiếm đóng - mà điều này phụ thuộc một phần vào kế hoạch bình định - cần phải được xây dựng. Để có quân thay thế cho việc rút bớt quân chiếm đóng nói trên, chúng tôi có hai cách: tuyển thêm quân bổ sung và phát triển quân đội các Quốc gia liên kết. Cách thứ nhất có lợi là nhanh gọn nhưng chỉ cho Pháp số quân có chất lượng tồi và cũng không thể vượt quá một tỷ lệ nào đấy. Vì vậy cần phải có một số lớn đơn vị quân chính quy và muốn thế, phải ra sức phát triển quân đội các Quốc gia liên kết. Sự phát triển này trở thành cơ sở chủ yếu của kế hoạch của tôi: không có nó thì không có lối thoát. Trên kia tôi đã nói về tình hình quân đội. Đã có những đề án để cải thiện nó và giành lại thời gian đã mất. Tôi đã sử dụng những đề án này, có sự thay đổi điều chỉnh để làm cho nó có tầm bao quát hơn và nhất là để thúc đẩy tiến độ tiến hành. Nhưng chúng tôi đang rất vội. Chắc chắn một cuộc chiến gay go sẽ xảy ra khi bước vào mùa đông. Vì vậy tôi quyết định, một mặt xin thêm tăng viện, mặt khác sắp xếp lại lực lượng để có dôi ra lực lượng dự trữ. Về quân tăng viện, ý nghĩ đầu tiên của tôi là xin gửi sang Đông Dương hai Sư đoàn lấy ở lực lượng Pháp đặt dưới quyền sử dụng của khối NATO. Với kinh nghiệm của một tham mưu trưởng mới đây của Trung Âu, tôi chắc chắn là sự ra đi của hai Sư đoàn có nhiệm vụ bảo vệ khu vực sông Ranh (Rine) sẽ không có ảnh hưởng gì tới kết quả của công việc. Trong điểu kiện như vậy, để một ngõ cụt ở châu Âu trong khoảng một hoặc hai năm nhưng lại giành được một kết quả thiết thực ở Đông Dương thì có phải tốt hơn không? Nhưng tôi chẳng nhận được một hồi âm nào của các nhà chính trị cũng như các nhà quân sự có thẩm quyền. Cho dù những lý lẽ chống đối với đề nghị của tôi có nghiêm trọng đến đâu thì nó cũng không thể chống trụ nổi với sức ép của tình thế khi, hai năm sau, Pháp phải gửi quân sang Bắc Phi - số quân mà chỉ cần một phần của nó thôi cũng đủ cho phép chúng tôi thoát khỏi cuộc chiến tranh ở Đông Dương trong danh dự và có thể do đó mà làm thay đổi được nhiều điều ở Bắc Phi. Cho dù thế nào, trước sự từ chối ấy, tôi cũng hạ thấp yêu cầu xuống một mức khiêm tốn nhưng hình như cũng đủ để chống đỡ với tiến công của đối phương dự kiến vào mùa đông tới. Dưới nữa, tôi sẽ nói yêu cầu của tôi như thế nào và tình hình xảy ra ra sao. Để bổ sung cho những biện pháp nói trên, tôi cũng nghiên cứu việc sắp xếp lại lực lượng (bỏ những công việc không cần thiết, sử dụng tốt hơn một số nhân sự, thu hẹp những bộ tham mưu tổ chức quá lớn). Còn lại một việc là lập kế hoạch tổ chức khối cơ động tác chiến. Quân số và tổ chức ra sao thì đã có những dự kiến của Tướng Salan làm cơ sở, nhưng về tiến độ công việc thì tôi phải xem lại vì xét thấy không phù hợp với nỗ lực mà Việt Minh chắc chắn sẽ thực hiện. Một kế hoạch mới được xây dựng mà nhịp độ tiến hành sẽ cho phép chúng tôi tránh khỏi bị đối thủ vượt xa. Một sự phát triển về không quân và hải quân được đề ra. Những đề nghị, yêu cầu cũng được xác định. ------------- 1. Sau này, phương pháp này đã được sử dụng thành công ở Algeri trong khuôn khổ "kế hoạch Challe". Nhưng ở đây, vấn đề dễ dàng hơn nhiều vì Pháp không phải đương đầu với một "Khối chủ lực tác chiến". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Ba, 2016, 08:44:45 pm Kế hoạch tác chiến Bây giờ nói về kế hoạch tác chiến, tôi đã nói những nét chủ yếu về tình hình chiến lược khi tôi mới tới Đông Dương. Và triền vọng tình hình xảy ra có thể tóm tắt như sau: Trước tháng 10-11, do còn mùa mưa, nên có ít khả năng Việt Minh sẽ mở những cuộc tiến công quan trọng. Chúng tôi có thể có một khoảng thời gian ngưng nghỉ nào đấy. Nhưng trái lại, bước vào mùa thu và đầu mùa đông, cần phải thấy trước là Việt Minh sẽ mở một cuộc tiến công quy mô rất lốn có thể kéo dài đến mùa mưa năm sau. Họ đang tìm kiếm, nếu chưa phải là một thắng lợi quyết định thì cũng là những ưu thế về quân sự và chính trị cho phép họ giành được thắng lợi cuối cùng vào một hoặc hai năm sau. Chúng tôi phải chống đỡ vối đòn giáng của đối phương với những phương tiện kém họ rất nhiều. Trong một tương lai xa - khoảng hai năm - Với điều kiện là tương quan lực lượng về quân cơ động đảo ngược lại có lợi cho chúng tôi thì có thể đến lượt chúng tôi sẽ mở tiến công. Vậy tư tưởng chủ đạo của kế hoạch tác chiến là: trong chiến cục 1953 - 1954, coi như một thời kỳ nguy hiểm, phải tránh tổng giao chiến và xây dựng khối cơ động tác chiến; ngược lại trong chiến cục 1954 - 1955, khi khối cơ động tác chiến của chúng tôi đạt được số lượng và được huấn luyện đầy đủ, chúng tôi phải tìm cách giao chiến. Một yếu tố khác cần xem xét là sự phân cách chiến trường thành hai khu vực cách biệt, đúng ở phía Nam và Bắc vĩ tuyến 181. Ở khu vực phía Bắc, lực lượng cơ động của Việt Minh lớn hơn lực lượng cơ động của chúng tôi, bởi đấy là nơi tập trung gần như toàn bộ khối chủ lực tác chiến của họ. Trái lại ở khu vực phía Nam, từ ở Liên khu 5 Việt Minh có một lực lượng tương đương một Sư đoàn mạnh quân chủ lực, còn thì gần như chỉ có quân địa phương. Trong tình hình hiện thời, nếu phía Bắc phải tránh tiến công chiến lược thi ở phía Nam. điều đó lại hoàn toàn có thể. Cách nhận định tình hình chung như vậy dẫn tôi đến kế hoạch tác chiến như sau: - Trong chiến cục 1953 - 1954. nói chung giữ thế phòng thủ ở phía Bắc vĩ tuyên 18 và "tìm"i]) cách tránh giao chiến lớn. Trái lại ở phía Nam. lại tiến công để làm ổn định miền Trung và Nam Đông Dương và để lấy được nhân vật lực. Đặc biệt phải thanh toán cho được Liên khu 5r/>. - Khi đạt được ưu thế lực lượng về quân cơ động, nghĩa là nếu có thể được thì từ mùa thu 1954, thực hành tiến công ở phía Bắc nhằm mục đích tạo ra một tình hình quân sự cho phép đưa ra một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh. Kế hoạch này được xây dựng trong tương quan với tiềm lực ta biết được về đối phương và dự kiến khả năng phát triển của họ: Song cũng cần dè chừng hai trường hợp nữa tôi đã lưu ý. Chính phủ (trong giác thư tháng 7 năm 1953 và báo cáo trình bày trước Hội đồng quốc phòng ngày 14 tháng 7 năm 1953): một mặt, do đối phương vượt trội lên, chúng tôi có thể bị những thất bại nghiêm trọng trong chiến cục 1953 - 1954; mặt khác, kế hoạch này chỉ có giá trị trong chừng mực viện trợ của Trung Quốc cho Việt Minh không tăng lên ồ ạt. ------------- 1. Cần nhắc lại Liên khu 5 là một "vết loang" rất lớn của Việt Minh nằm giữa đồng bằng miền Trung, giữa Huế và Nha Trang. 2. Chữ "tìm" ở đây là dùng có dụng ý. Thực ra, khi người ta đang ở thế phòng thủ, thì củng khó dám chắc là có thể tránh được giao chiến. 3. Cuộc hành quân này đã được Tướng Salan nêu ra trong một bản nghiên cứu tháng 5 năm 1953. Nếu trong năm 1954 không thanh toán được Liên khu 5 thi sau đó sẽ rất khó loại trừ được nó, bởi vỉ vài tháng nay, nó đã phát triển lực lượng một cách rất đáng kể. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Ba, 2016, 07:04:45 pm Bảo vệ Lào Một vấn đề rất khó khăn là việc phòng thủ Bắc Lào. Trong chiến cục 1952 - 1953, vấn đề này đã đặt ra với Tướng Salan và có nguy cơ sẽ đặt ra một cách nguy hiểm hơn đối với tôi trong chiến cục sắp tới. Việt Minh có thể làm gì trong 1953 - 1954? Có thể có ba khả năng và ba khả năng này sẽ kết hợp với nhau. Thứ nhất là tiến công trên toàn đồng bằng Bắc Bộ: khả năng này rất nghiêm trọng nhưng lại không đặt ra vấn để gì vì hành động của chúng tôi đã được vạch sẵn: chúng tôi sẽ phòng thủ tại chỗ bằng cách tập trung nỗ lực để giữ khu vực quan trọng Hà Nội - Hải Phòng. Thứ hai là mở một cuộc tiến công về phía Nam, xuất phát từ khu vực Vinh, hoặc dọc theo sông Mê Kông, hoặc dọc theo bờ biển, hoặc theo cả hai hướng cùng một lúc, đế bắt liên lạc với Liên khu 5, và từ Liên khu 5 cũng sẽ mở một hướng phối hợp. Giả thuyết này rất đáng sợ vì như vậy cả miền Trung và Nam Đông Dương sẽ bị uy hiếp. Để chống đỡ với đòn tiến công này, nhiều vấn đề khó khăn sẽ đặt ra, nhưng chúng tôi cũng phải làm tất cả để đương đầu với nó. Thứ ba là Việt Minh, xuất phát từ những căn cứ đã chiếm được trong 1952 - 1953 mà nhờ đó đã ở gần mục tiêu hơn, sẽ tiếp tục tiến về phía thượng Mê Kông. Đối với hai khả năng đầu tiên, do nó gây ra ngay lập tức những hậu quả nguy hiếm trực tiếp nên chúng tôi dễ dàng xác định thái độ bao nhiêu thì đối với khả năng thứ ba, việc xác định thái độ lại thành vấn đề bấy nhiêu. Thuần túy quân sự mà xét thì thoạt nhìn, hình như có vẻ không có gì nguy hiếm lắm khi để cho Việt Minh đến được vùng Thượng Mê Kông: cuối chiến cục vừa qua, họ đã tới được biên giới Xiêm rồi đấy nhưng đã không dám công khai xâm lược một nước trung lập bởi điều này sẽ gây ra những rắc rối về mặt quốc tế. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ hơn, ta sẽ thấy việc bỏ Bắc Lào sẽ gây ra những nguy cơ đáng kể. Thực vậy, khi đã tới được biên giới Xiêm, ngay cả khi không dám xâm lược trắng trợn, Việt Minh vẫn có thể thâm nhập vùng biên giới rồi dọc theo lưu vực sông Mê Kông và Trung Lào, họ sẽ uy hiếp toàn miền Nam Đông Dương1. Không bảo vệ Thượng Lào tức là chấp nhận một thảm họa chung trong vòng vài tháng tới. Còn Tướng Salan. trong một bản nghiên cứu tháng 5 năm 1953, ông viết: "Từ một cuộc chiến tranh trong phạm vi Việt Nam, Việt Minh đã chuyển một cách có ý thức sang chiến tranh toàn Đông Dương, mà mục tiêu chủ yếu bước một có thể là tiến tới sông Mê Kông, để sang bước hai tiến hành một cuộc tổng nổi dậy do Trung Quôc tổ chức, thông qua trung gian là Việt Minh". Xét về mặt chính trị, quyết định không bảo vệ Lào cũng là một điều rất nghiêm trọng. Trong ba Quốc gia liên kết, Lào là nước trung thành nhất với nước Pháp và không đặt điều kiện gì khi gia nhập khốì Liên hiệp Pháp. Để Luang Prabang, kinh đô hoàng gia và tôn giáo của Lào rơi vào tay kẻ thù có nghĩa là thú nhận Pháp đã bất lực trong việc bảo vệ những bạn bè tin cậy. Nó cũng có nghĩa là phủ nhận ngay cả những nguyên tắc của khối Liên hiệp Pháp. Thêm vào lý do chính trị cơ bản này, còn có một lý do khác nữa. Đó là nếu người Mỹ giúp chúng tôi ở Đông Dương, thì chính bởi vì chúng tôi bảo vệ ở đây một khu vực quan trọng của Đông Nam Á: Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai. Để đối phương tới được sông Mê Kông tức là không làm tròn nhiệm vụ ấy. ------------ 1. Trong báo cáo tháng 3 năm 1953 của ông, Tướng Juin viết: "Mất Thượng Lào sẽ có những tác hại không thể tính hết được về mặt chính trị”. Và ông dự kiến hậu quả sẽ là: cộng sản xâm nhập vào Thái Lan, chính quyển Băng Cốc sụp đổ như một lâu đài xây bằng những quân bài", Campuchia bị uy hiếp sau lưng và công cuộc bỉnh định ở Nam Việt Nam bị đe dọa. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Ba, 2016, 08:51:29 pm Vậy là những lý do về chính trị và quân sự đều thống nhất với nhau trong nhiệm vụ cần bảo vệ Thượng Lào. Song phòng thủ Thượng Lào quả là một vấn đề gay go do điểu kiện địa hình ở đấy: rừng núi hiếm trở và giao thông khó khăn, chỉ có ít đường thủy và đường bộ rất xấu.
Trên địa hình ấy, đánh vận động là tuyệt đối không thể làm được đối với một quân đội được trang bị, tiếp tế và huấn luyện như quân đội chúng tôi. Việc phòng thủ chỉ có thể bảo đảm bằng các cứ điểm mạnh, xây dựng xung quanh các sân bay và nằm trên những trục giao thông chính. Chiến lược các "con nhím" này đã được Salan tiến hành từ năm trước với các tập đoàn cứ điểm được thiết lập ở Lai Châu, Nà Sản và Cánh Đồng Chum. Nó nguy hiểm bởi dẫn đến việc tổ chức các cụm quân cô lập khó chống giữ, đỡ đần. Nó đòi hỏi một sự chi viện lớn vê không quân nhưng nó lại là hình thức phòng ngự duy nhất có thể đương đầu nổi với sức tiến công lớn mạnh của đối phương. Tháng 7 năm 1953, tôi đã trình bày nhiều về vấn đề này với Hội đồng các tham mưu trưởng. Chỉ thuần túy đứng trên quan điểm quân sự và căn cứ vào khả năng tăng viện ít ỏi mà họ dự kiến cấp cho tôi, các tham mưu trưởng đã đưa ý kiến là trong nhiệm vụ của tôi, tôi không có trách nhiệm phải bảo vệ Thượng Lào. Ý kiến ấy chỉ là cách xoay xở để làm dễ dàng nhiệm vụ trước mắt của tôi, nhưng trước hết là nhằm biện minh cho việc từ chối yêu cầu tăng viện của tôi. Nó đã mang mầm mống của sự thất bại. Tuy nhiên, không muốn đặt tôi vào một tình trạng khó xử - bởi họ biết rất rõ những nguy hại trong ý kiến của họ - các tham mưu trưởng cũng ám chỉ là sẽ có biện pháp ngoại giao để ngăn Việt Minh không tiếp tục tiến công sang Lào. Biện pháp đó là yêu cầu Mỹ và Anh đứng ra bảo đảm chủ quyền cho Vương quốc Lào và lưu ý Liên Xô và Trung Quốc về nguy cơ chiến tranh sẽ mở rộng nếu một cuộc tiến công về Luang Prabang được tái diễn. Trong cuộc họp ngày 24 tháng 7 năm 1953 của Hội đồng quốc phòng, tôi đã trình bày tỉ mỉ vấn đề bảo vệ Lào, nói rõ sự cần thiết đồng thời cũng lưu ý những khó khăn, vất vả, hiểm nguy của nhiệm vụ này. Quan điểm của các tham mưu trưởng cũng được nêu ra và được một vài bộ trưởng đồng tình, song phần lớn đều nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết của việc bảo vệ một đồng minh của chúng tôi. Tôi yêu cầu Chính phủ cần có một quyết định rõ ràng, dứt khoát về vấn đề này - một yếu tố cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch của tôi. Chính phủ chưa quyết định nhưng hứa sẽ sớm chỉ thị cho tôi. Biện pháp ngoại giao về vấn đề bảo vệ Lào mà các tham mưu trưởng nói bóng gió đến, về nguyên tắc, đã được chấp nhận, tuy rằng Bộ trưởng Ngoại giao Bidault không mặn mà với nó lắm, bởi trong thòi kỳ ấy, ông phản đối tất cả những gì có cớ đưa vấn đề Đông Dương trở thành một vấn đề quốc tế. Tóm lại, kế hoạch tổng quát của tôi được chia ra làm nhiều kế hoạch riêng: kế hoạch tăng cường lực lượng từ Pháp sang (các lực lượng trên bộ, không quân và thủy quân); kế hoạch sắp xếp lại quân lính, giải quyết quân số; kế hoạch rút bốt lực lượng chiếm đóng (dựa trên một kế hoạch bình định); kế hoạch phát triển quân đội các Quốc gia liên kết; tất cả các kế hoạch trên đều nhằm xây dựng chủ lực cơ động tác chiến. Toàn bộ các kế hoạch, được triển khai trong các năm 1953, 1954 và 1955, hình thành một tổng thể và liên quan mật thiết với nhau, tác động và phụ thuộc lẫn nhau. Các kế hoạch đó đều phải dựa vào các điều kiện chính trị: như xác định các mục tiêu chiến tranh, thống nhất hành động giữa chính trị và quân sự, các Quốc gia liên kết thực sự tham gia chiến tranh. Như vậy kế hoạch của tôi là kế hoạch đầu tiên gắng đưa ra một giải pháp toàn diện và thực tế cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Tôi cũng hoàn toàn ý thức được rằng ngôi nhà mà tôi dựng lên không lấy gì làm chắc chắn lắm. Bởi nó chỉ dựa trên những cơ sở rất mong manh. Nhưng cũng chẳng có cơ may nào khác để thoát ra khỏi cuộc chiến ở Đông Dương một cách thỏa đáng. Song dù chẳng hy vọng gì nhiều lắm, tôi vẫn phải thử cưỡng lại số mệnh. Điều kiện cần thiết và - tôi vẫn nghĩ như vậy - đủ để thành công là Chính phủ từ nay phải quyết tâm chỉ đạo một cách có phương pháp, nhất quán và kiên quyết cuộc chiến tranh Đông Dương, một cuộc chiến tranh mà từ trước đến nay nó chưa từng được chỉ đạo. Những cuộc tranh luận tiền hậu bất nhất trong Chính phủ mà tôi được chứng kiến đã làm tôi không mấy ảo tưởng vê sự chỉ đạo ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn còn nhiều hy vọng và tương lai sắp tới sẽ làm tôi tỉnh mộng. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Ba, 2016, 12:21:35 pm CHƯƠNG IV THỰC HIỆN KẾ HOẠCH Trong chương này, người ta sẽ thấy "Kế hoạch Navarre" diễn ra trong những điều kiện như thế nào, kết quả đạt được và những thất bại phải gánh chịu. Sự chỉ đạo chiến tranh ở Pháp Tôi đã nói rằng nước Pháp với các quốc gia liên kết và ở một mức độ thấp hơn, với nước Mỹ, đã hợp thành một thứ liên minh mà nước Pháp là người "thủ lĩnh". Vậy nước Pháp phải là người có trách nhiệm lãnh đạo chiến tranh. Muôn vậy, phải tổ chức một cơ quan chỉ đạo hữu hiệun). Nhưng việc này chẳng thấy ai làm cả. Ở Paris, những công việc ở Đông Dương phụ thuộc vào chín Bộ trưởng. Bộ trưởng Bộ chiến tranh, Không quân và Hải quân có trách nhiệm tổ chức và bảo dưỡng các lực lượng của họ ở Đông Dương. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đảm nhiệm một sự phối hợp mơ hồ giữa ba bộ trên. Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách về công việc Đông Dương trong phạm vi quốc tế và đặc biệt là trong quan hệ với Mỹ. Còn Bộ trưởng Tài chính, do nắm hầu bao, nên đóng vai trò kẻ "độc tài" chi phối tất cả các bộ. Cũng có một nhạc trưởng để gắng làm cái nhiệm vụ bắt nhịp cho tất cả các nhạc cụ trên, đó là Quốc vụ khanh phụ trách quan hệ với các Quốc gia liên kết, chịu trách nhiệm về đường lối chính trị đối với các Quốc gia liên kết, mà chức trách của ông theo nghị định phân quyển (số 53618 ngày 10 tháng 7 năm 1953) là "giúp Thủ tướng về những gì liên quan đến việc điều hành các lực lượng bảo vệ quân đội Đông Dương và phối hợp tiến hành công cuộc phòng thủ ấy". Nhưng ông chẳng khác gì hơn là một cái "thùng thư", cả vị trí của ông trong Chính phủ, cả tư cách thực quyền của ông cũng đều không cho phép ông làm gì hơn. Thông thường, điều hành chiến tranh là việc của ông Thủ tướng. Nhưng Thủ tướng Laniel đã hầu như phó mặc việc này cho Phó Thủ tướng Ravnaud, ủy quyền cho ông Raynaud về mọi công việc ở Đông Dương, tạo nên tình trạng dẫm chân lên nhau với Bộ các Quốc gia liên kết, do đó công việc đã rốì lại càng rối hơn. Tuy nhiên, với quyền hành của mình, ông Reynayd vẫn có thể phối hợp giữa các bộ để tạo nên một sự thống nhất hành động, nhưng ông đã chẳng làm một tý gì để đảm nhiệm một vai trò mà hình như ông coi chẳng có gì cần thiết. Quan hệ vói Mỹ và các Quốc gia liên kết Thiếu một đường lối được xác định rõ rệt, quan hệ của chúng tôi với Mỹ và các Quốc gia liên kết chẳng bao giờ được xây dựng trên những cơ sở rõ ràng cả về chính trị lẫn quân sự. Tôi đã nói là nước Pháp cần phải lựa chọn giữa hai thái độ: hoặc chỉ tham gia vào mặt trận chống cộng theo chỉ đạo của Mỹ; hoặc giữ vững vai trò chủ đạo của Pháp ở Đông Dương. Nhưng bất lực trong việc lựa chọn, Chính phủ Pháp đã tìm cách theo đuổi một đường lối trung gian, đường lối cho phép giữ lấy "vài cái gi đấy" - cái gì thì họ cũng chẳng biết chính xác nữa - bằng cách đẩy cho Mỹ gánh vác phần lớn chi phí chiến tranh, còn các Quốc gia liên kết thì cái gánh về nhân lực. Người Mỹ, vốn thù địch với sự có mặt của Pháp ở Đông Dương vẫn không ưa gì Pháp dù đã trở thành đồng minh. Họ giúp chúng tôi về vật chất, nhưng đá chúng tôi về tinh thần. Trong khi sử dụng "quân cờ" Pháp, cần thiết cho cuộc chơi cua họ, họ vẫn tìm cách phá ngầm quyền lợi của chúng tôi. Và các vị ở phố Quai d'Orrsay, ý nói Bộ Ngoại giao, vẫn cứ để họ làm. Đối với các Quốc gia liên kết, phải vừa thực hiện lòi hứa về độc lập đã cam kết với họ, phải vừa thúc đẩy họ nỗ lực chiến tranh thực sự. Đã hứa trao trả độc lập cho họ, biện pháp duy nhất là phải chơi con bài này đến cùng. Đó là một chính sách mà còn lâu kết quả mới được bảo đảm, nhưng với tình trạng chúng tôi hiện nay, tôi không còn cách nào khác. Chính sách trên đòi hỏi, trong khi không từ bỏ những quyền lợi chính yếu của Pháp ở Đông Dương, nước Pháp phải chấp nhận ở đấy một hình thức Liên hiệp Pháp khác với hình thức đề ra theo thể chế năm 1946, mà các người quốc gia cả ba nước liên kết đều từ chối không gia nhập. Nhưng trong Chính phủ, những xu hướng chống đối nhau đã không cho phép xác định được một đường lối hành động nào. Cái gọi là đương lối của Pháp là lẩn tránh việc thực thi nền độc lập mà Pháp đã công nhận những nguyên tắc. Sự bất lực của Chính phủ Pháp đã khiến các Quốc gia liên kết không muốn có những nỗ lực chiến tranh thực sự. -------------- 1. Trong dịp tôi đang ở bên Pháp, tháng 7 năm 1953, tôi đã gợi ý ông Raynaud nên thành lập một "Hội đồng chiến tranh”. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Ba, 2016, 06:40:40 pm Sự phân cách giữa chính trị và quân sự Việc thiếu chỉ đạo chiến tranh của Chính phủ thể hiện trước hết ở chỗ hoàn toàn không có một sự phối hợp nào giữa đường lối chính trị và chiến lược quân sự. Từ đó dẫn đến kết quả là không có một thái độ rõ rệt nào đổi với một vấn đề cơ bản là bảo vệ nước Lào. Về chính trị thì nước Pháp cam kết bảo vệ Lào nhưng về quân sự thì Pháp thiếu quyết tâm để có nỗ lực cần thiết. Điều không tránh khỏi là đến một ngày nào đó, chúng tôi đứng trước một sự bắt buộc là phải bảo vệ Lào nhưng lại không có phương tiện. Tuy nhiên, phải đến Hội nghị Berlia mới xảy ra sự không ăn khớp trầm trọng nhất giữa chính trị và quân sự của chúng tôi. Trong khi tôi đề nghị là cho đến trước khi các hoạt động quân sự tích cực của Pháp kết thúc, tức là khi bắt đầu mùa mưa, thì không nên làm một điều gì có thê gây thêm những khó khăn cho tôi, thì Chính phủ, không cần hỏi gì ông cao ủy và tôi, nghĩa là không xem xét gì đến những tác động đối với quân sự, đã có sáng kiến là chấp nhận họp Hội nghị Geneve mà hậu quả của nó tác hại biết nhường nào như sau này tôi sẽ nói. Thất bại chủ nghĩa và phản bội Một trong những quan tâm chủ yếu của Chính phủ là phải giữ vững tinh thần của quốc gia dân tộc. Tôi đã nói tình hình vấn đề ra sao khi tôi mới nhận quyền chỉ huy. Tháng 7 năm 1953, xảy ra một sự kiện góp phần làm cho tinh thần quốc gia ngày càng xuống cấp hơn: đình chiến ở Triều Tiên. Sự kiện này đã làm dấy lên ở Pháp niềm hy vọng nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Đông Dương. Nhẽ ra Chính phủ có bổn phận phải cố gắng biến hy vọng ấy thành hiện thực, mặt khác tránh cho dư luận khỏi có những ảo tưởng và có những biện pháp để ngăn không cho nó dẫn đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về tinh thần. Nhưng Chính phủ đã để phát triến rộng rãi trong dịp ấy một chiến dịch "thất bại chủ nghĩa" chống lại chiến tranh Đông Dương trong các giới chính trị và trong dân chúng. Đó chính là thời cơ mà Việt Minh đã chọn đế tung ra, và ngày 30 tháng 11 năm 1953, quả bom "tuyên bố sẵn sàng lập lại hòa bình" do ông Hồ Chí Minh phát biểu với báo Expressen của Thụy Điển. Bị chia rẽ trước bước ngoặt ấy của chiến tranh. Chính phủ đã bó tay không biết xác định thái độ như thế nào. Thế là dẫn đến trong dư luận Pháp một sự bối rối hoang mang sâu sắc và chiến dịch thất bại chủ nghĩa lại dấy lên mạnh mẽ. Một trong những nhiệm vụ chính khác của Chính phủ là phải ngăn chặn sự bội phản. Sự phản bội này đã có mặt trên đất nước nhưng người ta đã không làm gì một cách mạnh mẽ để ngăn chặn nó. Nó xuất hiện dưới nhiều hình thức mà khả năng cho phép: phá hoại tinh thần của quốc gia; nói xấu quân đội; kích quân đội đến chỗ bất phục tùng; phá hoại nhà máy, kho tàng và vận chuyển vũ khí súng đạn sang Đông Dương, cung cấp tin tức cho địch, v.v... Một việc rất trầm trọng xảy ra vào lúc tôi mới nhận chức, chứng tỏ uy tín của Chính phủ đã xuống cấp tới mức độ nào trong lĩnh vực này. Trong số báo ra ngày 30 tháng 7 năm 1953, tuần báo nước Pháp Người quan sát đã cho đăng một bài nhan đề "Trong một trận chiến đáng nghi hoặc", trong đó nội dung chính của cuộc họp Hội đồng quốc phòng ngày 24 tháng 7 về vấn đề bảo vệ nước Lào đã bị tiết lộ. Bài báo viết là tôi được biết: tôi "không có nhiệm vụ phòng thủ nước Lào chống lại cuộc tiến công có thể xảy ra của đối phương". Kẻ địch nắm được một tin tức tối quan trọng: còn có tin tức nào quý giá hơn là được biết trong các đòn đánh sắp tới của họ, Pháp sợ nhất là bị đánh ở đâu? Tôi không được biết chính xác bài báo này đã đóng vai trò như thế nào trong quyết định tiến công Lào của Việt Minh, nhưng tất cả diễn biến sau đó chứng tỏ họ đã lợi dụng được rộng rãi tin tức này. Thê nhưng tò báo đó không bị trừng phạt1. Ở Paris, Việt Minh còn nhiều nguồn thông tin khác. Tôi gần như chác chắn đã có những rò rỉ tin tức nghiêm trọng ở Văn phòng Bộ Quốc phòng, đặc biệt là từ đó cả những bức điện mật của tôi cũng bị lộ cho Đảng cộng sản Pháp và từ Đảng cộng sản Pháp, đến tai Việt Minh. Thông chế Juin cũng có ý nghi ngại như tôi nên trong một bức thư riêng, ông đã căn dặn những mệnh lệnh của ông cũng "không nên phát ra nhiều". Còn Tướng Ely, ông thấy cẩn thận hơn là giữa ông và tôi chỉ trao đổi bằng một bộ mật mã riêng mà chỉ có thêm hai người được biết: sỹ quan hầu cận của ông và tôi. Tình hình sau này - đặc biệt là "Vụ việc của những sự thất thoát” - chứng tỏ là tất cả những nghi ngờ nói trên là có cơ sở rộng rãi. Qua tin tức được biết, từ đấy. tôi càng khẳng định là sự phản bội còn đi xa hơn là tôi nghĩ. --------------- 1. Mãi sau này khi kết thúc chiến tranh, việc rò rỉ tin tức này mới được nêu lên trong "Vụ việc của những sự thất thoát". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Ba, 2016, 12:30:12 pm Tăng viện Sự bất lực của Chính phủ còn biểu hiện trong một vấn đề quan trọng khác nữa: vấn đề tăng viện. Tôi nhắc lại rằng khi mới nhận chức, tôi đã yêu cầu Chính phủ có một quyết định kiên quyết bằng cách gửi sang Đông Dương hai Sư đoàn lấy ở lực lượng Pháp đóng góp cho NATO, nhưng đề nghị ấy đã bị bác bỏ. Tôi cũng đã nói đến việc trong Hội đồng quốc phòng họp ngày 24 tháng 7 năm 1953, tôi đã xin những tăng viện cần thiết để đảm bảo cho kế hoach tôi đã trình lên Chính phủ. Chính phủ yêu cầu tôi giảm bớt lượng xin tăng viện và chuyển yêu cầu của tôi sang tài trợ của Mỹ mà sắp tới đây sẽ có đàm phán về vấn đề này1. Cuối tháng 8 tôi đệ trình những yêu cầu đã giảm bớt chút ít nhưng nhấn mạnh đó là những nhân nhượng cuối cùng. Thông báo ngày 11 tháng 9 của Chính phủ báo cho tôi biết yêu cầu của tôi không được chấp nhận. Tôi cũng không chấp nhận sự từ chối ấy và phản đối kịch liệt, cho rằng tôi chỉ được cấp "một công cụ bán hạ giá" và như vậy "khả năng thành công sẽ bị giảm". Hội đồng quốc phòng họp ngày 13 tháng 11 năm 1953 lại gạt bỏ kiến nghị của tôi. Cuối cùng, trong thư ngày 1 tháng 1 năm 1954 gửi lên Chính phủ, tôi lại nhấn lại vấn đề tăng viện và bày tỏ nỗi lo ngại mà tình hình đó gây ra cho tôi. Những thư này chẳng có hồi âm. Phải mãi đến khi tình hình ở Điện Biên Phủ trở nên nguy cấp, toàn bộ yêu cầu tăng viện của tôi mới được chấp nhận - điều đó chỉ có nghĩa bằng không. Bởi đã quá muộn để có thể có một tác dụng nào đấy. Về những gì liên quan đến lục quân, yêu cầu tăng viện của tôi là 12 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo thả bằng dù và một tiếu đoàn công binh, ngoài ra là những tăng viện cá nhân để bổ sung quân số và bố trí cán bộ cho các đơn vị. Người ta đã gửi cho tôi. một cách dần dà và rất chậm chạp. 8 tiếu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn công binh, ngoài ra là những tăng viện cá nhân để bổ sung quân số và bố trí cán bộ cho các đơn vị. Người ta đã gửi cho tôi, một cách dần dà và rất chậm chạp, 8 tiếu đoàn bộ binh và một tiếu đoàn công binh nhưng quân số và khung cán bộ rất không đầy đủ. Còn về tăng viện cá nhân thì gần như chẳng có gì. Kết quả là các đơn vị, nhất là bộ binh, quân thiếu và sĩ quan cũng thiếu, cứ thế mà ra trận. Nếu làm một so sánh giữa hai lực lượng: lực lượng không phải chiến đấu (như quân đội đóng ở Pháp, Đức, Bắc Phi, Pháp quốc hải ngoại) và lực lượng đang chiến đấu ở Đông Dương thì có một sự ngược đời: nơi không phải chiến đấu thì chưa đến 20 người có một sĩ quan chỉ huy, còn nơi phải chiến đấu thì 30 người, một sĩ quan chỉ huy. So sánh về số hạ sĩ quan, người ta cũng đi đến một kết quả tương tự. Những con số đó cho thấy rõ ràng là quân đội ở Đông Dương đã bị bỏ rơi2. Tình hình này đã được phản ánh lên Bộ chỉ huy tối cao và Chính phủ, nhưng không một mảy may kết quả. Thực ra trong quân đội ở Đông Dương, để đưa tỷ lệ sỹ quan lên đúng mức cần thiết của nó, thì phải đưa sang cho nó một số lượng sỹ quan và hạ sỹ quan nhiều đến mức có thể làm cho cả bộ máy quân sự của Pháp phải xộc xệch. Nhưng để đạo quân đang chiến đấu phải gánh toàn bộ gánh nặng thì nước Pháp chỉ còn tiến hành ở Đông Dương một cuộc chiến tranh với giá hạ, có nghĩa là sẽ thua trận. Giải pháp duy nhất thích hợp là sử dụng thêm sỹ quan và bộ đội dự bị. Muốn vậy phải làm cho nó có tính chất quốc gia, nhưng để làm được điều ấy, chúng tôi hãy còn xa! Trừ "Tiểu đoàn Triều Tiên" và hai trung đoàn Bắc Phi đến từ Đức, còn các đơn vị được tăng viện sang chất lượng đều rất tồi tệ. Binh lính được huấn luyện rất đầy đủ. Đặc biệt binh sỹ Bắc Phi, chỉ sau một thời gian phục vụ quá ngắn, họ đã phải ra mặt trận. Quân đội lê dương, quân số quá phình to, chất lượng cũng bị giảm sút nghiêm trọng. Còn về các sỹ quan, họ không được chuẩn bị gì cho một cuộc chiến tranh mà họ phải tiến hành và thường không hiểu gì về binh sỹ mà họ phải chỉ huy (như trong các đơn vị lê dương và các đơn vị bộ binh khác, nhiều sỹ quan mới chiến đấu lần đầu). Đốì với không quân, tôi yêu cầu như sau: tăng máy bay vận tải (từ 75 đến 100 chiếc) và máy bay ném bom (từ 60 đến 210 chiếc, kể cả máy bay của hải quân); một số lượng lớn trực thăng (chỉ có 19 chiếc, trong đó có 4 đến 5 chiếc còn sử dụng được, tất cả dùng cho vận chuyển thương binh); tăng cho đủ số nhân viên cần thiết (phi hành đoàn và thợ máy) để có thể đạt được hiệu quả phục vụ tối đa; kinh phí cần thiết để mở mang căn cứ không quân ở phía tây dãy Trường Sơn nhằm đối phó với hoạt động của đối phương ở Lào. ----------------- 1. Dẫn đến việc Mỹ nhận đảm đương viện trợ cho các Quốc gia liên kết. 2. Đối với cả hai phía, những con số này đã trừ số quân phục vụ. Và nó đã phản ánh đúng thực trạng. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Ba, 2016, 09:51:23 am Nếu yêu cầu trên được đáp ứng thì hiệu quả của không quân Pháp ở Đông Dương sẽ được tăng lên gần gấp đôi, mà để làm việc đó thì nước Pháp cũng chẳng phải cố gắng gì nhiều lắm: máy bay và phương tiện thì đã có Mỹ viện trợ, còn Pháp thì chỉ phải cung cấp một quân số khoảng 4.000 người và một số tiền khoảng 6 tỷ Franc vào lúc đó. Nhưng muốn vậy thì Bộ chỉ huy tối cao phải quan tâm đến Đông Dương. Thế mà vừa đặt chân tới Sài Gòn vào tháng 2 năm 1954, câu đầu tiên Tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân, nói với Tướng Lauzin, Tư lệnh không quân ở Đông Dương, là: "Không một người. Không một máy bay!".
Kinh phí cũng không được chấp thuận. Quân thì không đạt tối một phần năm số tôi xin. Sự chi viện của số máy bay vận tải và ném bom được tăng cường cho Điện Biên Phủ gần như bằng không. Quân số quá ít của không quân đã không bảo đảm nổi một hiệu suất bình thường. Còn về chương trình phát triển máy bay trực thăng thì nó thấp một cách đến nực cười so với yêu cầu. Trận Điện Biên Phủ đã được tiến hành với sự yểm trợ của một không quân không đủ cả máy bay, cả người lái lẫn nhân viên phục vụ mặt đất và cả về cơ sở hạ tầng. Hiệu quả thấp của không quân là một trong những nguyên nhân thất bại chính của trận đánh. Đối với hải quân, yêu cầu tăng viện trước hết là về các phương tiện không quân của hải quân và nó được giải quyết toàn bộ. Trong ba quân chủng, chỉ có Hải quân là phải ít đương đầu với khó khăn hơn các quân chủng khác. Đó là sự chỉ đạo chiến tranh của Chính phủ. Có thể tóm gọn lại là: chẳng có gì cả. Không có một mục tiêu nào được đặt ra cho cuộc chiến đấu. Chẳng có một đường lối nào được xác định cả đối với các Quốc gia liên kết, cả với ông bạn đồng minh Mỹ. Chẳng có một sự phối hợp nào giữa các bộ có trách nhiệm đối với cuộc chiến ở Đông Dương. Tinh thần của đất nước thì bị mặc sức thao túng không có gi bảo vệ. Quân đội thiếu đủ mọi thứ cần thiết: cán bộ, quân số, trang thiết bị vật chất. Nó lại bị đâm sau lưng bởi sự phản bội và không có biện pháp nào đê ngăn ngừa. Nếu quân đội Pháp ở Đông Dương bị bỏ rơi như vậy thì than ôi về phía đối phương, tình hình hoàn toàn khác hẳn. Quân đội Việt Minh "nằm" ở trong dân, cả về vật chất và tinh thần - đúng như Mao Trạch Đông thường nói - như "cá trong nước", ở Việt Minh, không có những chủ trương chính trị và quân sự riêng rẽ mà là những chủ trương thông nhất giữa chính trị và quân sự. Những chủ trương đó do một ủy ban trung ương quyết định mà trong đó Tổng tư lệnh đồng thời là Bộ trưởng Quốc phòng là một thành viên. Vậy là kế hoạch quân sự được đặt trong một tổng thể mà tất cả đều được tiến hành để bảo đảm cho sự thành công: chính trị đối nội và đối ngoại, ngoại giao, kinh tế, công tác tư tưởng nội bộ và tuyên truyền ra bên ngoài, động viên vật chất và tinh thần của toàn bộ dân chúng, v.v... Đã biết bao lần, tôi phát ghen với Tướng Giáp! Một vấn đề đôi khi đặt ra với tôi: tại sao, trong những điều kiện như vậy, tôi lại không xin từ chức? Theo truyền thống quân sự, không có chuyện từ chức đương khi chiến đấu. Tuy nhiên tôi sẽ làm như vậy nếu trước khi tiến hành trận giao chiến quyết định, tôi nắm được thực chất tình hình. Nhưng chỉ dần dà ít một tôi mới biết được là những điều kiện tôi đặt ra không được người ta thực hiện và những yêu cầu tôi đòi hỏi không được người ta giải quyết. Không phải tôi bị từ chối thắng thừng mà ngưòi ta nói dè chừng, lần chần tránh né, không trả lời hoặc trả lời không thắng vào vấn đề, hứa rồi lại thất hứa hoặc có giữ lời thì cũng chỉ giải quyết một phần và rất chậm trễ. Tôi không giống như húc đầu vào tường mà giống như người làm cái việc "đấm bị bông". Trong điều kiện như thế, lúc nào thì có thể từ chức? Vả lại, như sau này người ta sẽ thấy, cho đến đầu tháng 3 năm 1954, diễn biến của tình hình khiến tôi hy vọng có thể đương đầu với địch thủ cho tới mùa mưa mà không bị một thất bại nào nghiêm trọng. Đến lúc đó, tranh thủ một khoảng thời gian ngưng nghỉ, tôi có thể tổng kết lại tình hình và quyết định xem nên hay không nên tiếp tục đảm đương trách nhiệm. Quyết định họp Hội nghị Geneve của Chính phủ đã bất ngờ đảo lộn mọi tính toán của tôi. Tôi có thể lấv cớ thuận lợi là khi quyết định việc ấy, người ta đã không hỏi gì ý kiến của tôi để xin từ chức và rũ bỏ trách nhiệm một cách hợp pháp. Nhưng lúc ấy lại sắp phải đương đầu với một cuộc tổng tiến công mà, trước triển vọng của Hội nghị Geneve, Việt Minh sẽ cố sức mở ra. Một trận đánh quyết định sẽ được tiến hành chẳng riêng ở Điện Biên Phủ mà còn trên toàn Đông Dương mà tôi cảm thấy mình không có quyền, dù kết quả thế nào, từ bỏ nhiệm vụ trước khi trận đánh kết thúc. Ít nhất là về phương diện cá nhân, chắc chắn tôi đã mắc sai lầm lớn! Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Ba, 2016, 11:03:50 pm Điều hành chiến tranh ỏ Đông Dương Ở Sài Gòn, không có gì phải bàn cãi, trách nhiệm điều hành chiến tranh là thuộc ông cao ủy, người nắm quyền hành chung. Theo đề nghị của tôi, một hội đồng lấy tên là "Hội đồng chiến tranh" đã được thành lập, gồm ông cao úy, tôi và một số sỹ quan và quan chức khác. Những giải pháp được Hội đồng này chuẩn bị sau đó sẽ được đưa ra thảo luận với Chính phủ các Quốc gia liên kết trong những cuộc họp, gọi là "Hội đồng quân sự cấp cao". Ông cao ủy và tôi thường có những cuộc họp đều đặn như thế này với họ. Hệ thống làm việc này cho những kết quả khả quan, nhưng bị sự thúc ép của Paris, nó tỏ ra chưa đủ để làm cho cuộc chiến ở Đông Dương mang tính chất là hành động thống nhất của Pháp và ba nước liên kết, và cũng chưa đủ để thúc đẩy các Quốc gia liên kết tăng cường mạnh mẽ hơn nữa những nỗ lực cần thiết. Nỗ lực chiến tranh của các Quốc gia liên kết Việc chiến tranh không được Chính phủ Pháp chỉ đạo là nguyên nhân chính của tình trạng thiếu nỗ lực đầy đủ của cuộc chiến tranh Đông Dương: chúng tôi chẳng thể đòi hỏi gì hơn ở các đồng minh khi chính chúng tôi không nêu gương tốt. Tuy nhiên mỗi Quốc gia liên kết đều có những nguyên nhân riêng làm hạn chế nỗ lực của họ. Thực vậy, những nhà lãnh đạo các nước ấy đều không muốn dân tộc mình phải hy sinh. Họ muốn được hưởng lợi lộc của độc lập nhưng lại không muốn gánh vác nghĩa vụ. Tuy vậy, thái độ của Lào, Campuchia và Việt Nam cũng khá khác nhau. Những nhà lãnh đạo Lào luôn luôn thể hiện thiện ý tốt. Cũng có một vài người muốn chơi trò nước đôi giữa chúng tôi và Việt Minh, nhưng uy tín của Thái tử Savang, người đảm nhiệm thực sự chức trách của Thủ tướng, nói chung đã giữ được họ theo con đường đúng đắn. Cho đến đầu 1953, Campuchia sống trong cảnh tương đối yên tĩnh, nhưng những lợi ích gợi lên từ phía Mỹ đã khuyên khích họ ngày càng có một thái độ độc lập với chúng tôi. Tính khí của vua Norodom Sihanouk không phải là tính khí của một con người để thu xếp ổn thỏa công việc. Thông minh và nói về cá nhân ông, ông là một người bạn của nước Pháp, nhưng hay đổi ý và bất đồng, ông tự cho mình là người có trách nhiệm phải ngay lập tức dẫn dắt đất nước tới độc lập và không muôn đếm xỉa gì đến những tác động của thái độ ấy đối với tình hình quân sự. Sự bất định về đường lối cũng như một vài cách xử sự không khéo léo của chúng tôi đối với Sihanouk đã khiến ông ta, vào tháng 6 năm 1953, có một thái độ công khai thù địch đối với chúng tôi. Trong sáu tháng, mọi quan hệ giữa chúng tôi và Campuchia đã bị cắt đứt. Phải vất vả lắm, vào cuối 1953, quan hệ đó mới được nối lại bằng một tạm ước què quặt. Thực vậy, từ đó trở đi, Campuchia xử sự như một quốc gia độc lập không nhận bất kỳ một ý kiến nào của chúng tôi. Nó chỉ còn là một vật nặng trơ ỳ. Mọi hy vọng thành công của chúng tôi đều đặt vào nỗ lực chiến tranh của Việt Nam. Nhưng rủi thay, chính ở đây vấn đề lại gay cấn nhất. Đối với người Việt Nam, Việt Minh là một người bạn. người bà con, người anh em; với Việt Minh, mọi liên hệ không bị cắt đứt và sẽ có ngày lại hòa hợp với nhau. Từ đó, mọi người đều đau lòng không muốn chống họ đến cùng. Một nguyên nhân nữa làm cho tình hình thêm rối là thiếu ý thức quốc gia. một ý thức thống nhất đất nước: đối lập giữa miền Bắc và miền Nam, giữa các thành phần dân tộc và tôn giáo, tham vọng của các "giáo phái" miền Nam là muốn những quốc gia riêng trong một Quốc gia chung1, v.v... Muốn Việt Nam nhập cuộc chiến tranh thì phải có một thủ lĩnh. Người ta đã nói rất nhiều rằng "thí nghiệm Bảo Đại" là một sai lầm. Tuy nhiên ngoài hoàng đế và truyền thống tôn quân người ta không còn thấy một người nào hoặc một điều thần bí nào có thể tạo ra sự thống nhất. Vậy là Bảo Đại có một vai trò lớn để thực hiện. Nhưng ông ta đã không thực hiện nó, mặc dù ông hoàn toàn có thể làm được nếu ông muốn, vì ông là người khá hơn điều mà người ta tưởng: ông chắc chắn là một người thông minh về chính trị, có cảm tình với nước Pháp và muốn hợp tác với nước Pháp. Nhưng tiếc thay những đức tính ấy đã bị thói đợi thời và ưa nhàn tản của ông làm hỏng đi. Một chi tiết để minh chứng: không bao giờ người ta có thể yêu cầu được ông mặc một bộ quân phục để đi thăm binh sỹ. ------------- 1. Những giáo phái ở miền Nam Việt Nam (Cao Đài, Hòa Hảo, Binh Xuyên) là những tổ chức có tính chất vừa tôn giáo, vừa chính trị và quân sự, có xu hướng muốn tự trị. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Ba, 2016, 02:00:16 pm Bên cạnh hoàng đế, người ta không thể tìm được trong phe quốc gia của Việt Nam một chính khách nào có đủ tầm cỡ về trí tuệ và những đức tính cần thiết để lãnh đạo đất nước.
Tất cả những nỗ lực của tôi để có được một Chính phủ Việt Nam có quyết tâm "tiến hành chiến tranh một cách thật sự" đều tỏ ra vô ích. Tháng 10 năm 1953, tôi đã gửi họ một thông báo nói không úp mở gì về quan điểm của tôi. Tôi lưu ý họ về sự cần thiết phải điều hành chiến tranh một cách kiên quyết, chẳng những về quân sự mà còn trên tất cả các mặt: tâm lý, kinh tế và nhất là xã hội1. Tôi yêu cầu thực hiện ngay lập tức một số biện pháp mà có kết quả hay không là tùy thuộc vào quyết tâm của Chính phủ Việt Nam. Những sau đó hầu như chẳng thấy họ làm gì cả. Ngày 1 tháng 1 năm 1954, trong một bức thư gửi Chính phủ Pháp, tôi bày tỏ sự bi quan của tôi về trình độ của Chính phủ Việt Nam trong việc đưa đất nước nhập cuộc chiến tranh. Thư này không được trả lời. Tháng 2, nhân dịp ông Pleven sang Đông Dương, tôi lại nhấn mạnh vấn đề trên với ông. Trong những tháng 2, 3 và 4. qua thư riêng, tôi không ngừng yêu cầu Bộ các Quổc gia liên kết và Tổng tham mứu trương hãy lưu ý với tôi sự thụ động của phần lớn các quan chức Việt Nam và đòi hỏi phải có sự can thiệp kiên quyết của Chính phủ Pháp. Tất cả những nơi tôi yêu cầu đều chẳng có phản ứng gì cả: người ta chỉ khuyên tôi "chớ có nên thô bạo với người Việt Nam". Phác một bức tranh về cố gắng chiến tranh của Việt Nam gần như có nghĩa là lập một biên bản về sự bất lực. Không có một hành động tâm lý nào được tiến hành với dân chúng và quân đội. Gương xấu về lơ là trách nhiệm, ăn hối lộ, mánh khóe thủ đoạn của các tầng lớp lãnh đạo có thể làm uổng công các hành động thuộc loại đó. Trong lĩnh vực xã hội, người ta cũng chẳng làm gì hơn. Không một biện pháp nào tôi yêu cầu được thi hành cả. Về kinh tế thì cũng vậy. Nhiều nguồn cung cấp thiết yếu tiếp tục chuyển qua tay Việt Minh mà không một ai làm gi để ngăn chặn sự chảy máu về lĩnh vực quân sự, chưa bao giờ chính phủ Việt Nam thực sự tìm cách để làm cho quân đội giành được sự ủng hộ của cả đất nước. Không có một hệ thống tuyển mộ sĩ quan nào có giá trị được xây dựng. Không có một hành động nào để trừng trị những kẻ cứng đầu cứng cổ và đào ngũ. Nghĩa vụ quân sự bắt buộc - mãi tháng 6 năm 1953 mới được ban bố nhưng chẳng bao giờ được thực hiện. Nhiều sự miễn trừ - thường thường có tiền là có thể xin được miễn - đã cho phép những thanh niên tầng lớp trên lấn tránh được nghĩa vụ. Không có một sự tổ chức nào để kiểm soát dân chúng, giúp đỡ cho địch không bị trừng phạt, việc huy động nhân lực không được đảm bảo. Đương nhiên Chính phủ Việt Nam cũng có nhiều khó khăn. Có lẽ, nếu họ thử cố gắng để vượt qua thì không chắc họ đã đạt được bởi phải chăng họ đã muộn mất một hoặc hai năm để đuổi kịp Việt Minh. Nhưng chưa bao giờ họ thử làm một cách nghiêm chỉnh cả. -------------- 1. Trích thông báo ngày 11 tháng 10 năm 1953 về nỗ lực chiến tranh: "Không nghi ngờ gì sức mạnh của Việt Minh là ở chỗ họ biết gây trong dân chúng niềm tin, họ là người đại diện duy nhất cho bình đẳng và công lý xã hội. Đó là nguyên nhân chính làm cho người lính Việt Nam hăng hái chiến đấu. Muốn người lính quốc gia Việt Nam củng chiến đấu tốt như vậy, cần phải thuyết phục họ rằng phía ta cũng có khả năng giải phóng xã hội, bởi ở xứ sở này, dân chúng quan tâm được giải phóng về mặt xã hội hơn là được độc lập về chính trị". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Ba, 2016, 05:26:30 am Sự phát triển của quân đội các Quốc gia liên kết Chỉ riêng trong lĩnh vực thuần túy quân sự của việc xây dựng quân đội là các Quốc gia liên kết thu được những kết quả đáng kế. Trong một giác thư tháng 7 năm 1953, tôi đánh giá các quân đội đó như sau: "Cho đến bây giờ, chúng ta chưa thể đánh giá các đơn vị do các Quốc gia liên kết tố chức là những quân đội thực sự. Phần lớn nó mới chỉ là các đơn vị phụ lực cho quân viễn chinh chứ chưa phải là những quân đội quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Tuy nhiên giá trị của nó là không cần phải bàn cãi gì nữa bởi nó là những lực lượng duy nhất thích nghi với xứ sở". Tất cả cố gắng của tôi là làm cho những quân đội này có được tính độc lập càng nhiều càng tốt - điều đó có lợi cho tinh thần của họ - trong khi vẫn cố duy trì cho nó có đủ chất lượng (do việc tính độc lập tăng lên mà chất lượng có chiều hướng giảm đi). Đó thật là một việc làm nan giải! Cách xử sự của Mỹ cũng gây cho chúng tôi một vài khó khăn. Đại diện của họ "Phái đoàn viện trợ quân sự" ở Sài Gòn có nhiệm vụ, căn cứ vào vốn viện trợ, đáp ứng những yêu cầu của chúng tôi về tiền và các phương tiện và sau đó kiểm tra việc thực hiện. Bằng cách vòng vèo đó, họ dần dà có khả năng can thiệp vào hầu hết các công việc của chúng tôi. Quan hệ giữa chúng tôi và phái đoàn ấy luôn luôn tốt: trong việc giúp đỡ vũ khí phương tiện, tinh thần hợp tác của họ thật đáng khen. Nhưng về những gì liên quan đến việc xây dựng các quân đội liên kết thì giữa chúng tôi với họ có những khó khăn nghiêm trọng, trước hết là do bất đồng nghiêm trọng về quan điểm. Đối với chúng tôi, các quân đội liên kết sẽ trở nên có tính độc lập (tự quản), nhưng là theo cách tuần tự nhi tiến và vẫn luôn luôn giữ liên hệ mật thiết với chúng tôi. Nhưng đối với người Mỹ thì đó phải là những quân đội đã độc lập, tuy trong một thòi gian nào đấy vẫn cần có sự đỡ đầu (mà người Mỹ hy vọng được tham dự), song khi có điều kiện là phải thoát ly ngay. Về tiền và phương tiện vật chất. Pháp muốn viện trợ phải thông qua chúng tôi. Người Mỹ miễn cưỡng chấp nhận cách thức này. Bởi họ muốn sử dụng túi tiền để gây liên hệ mật thiết với các Quốc gia liên kết và tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này thực hiện ý đồ thoát khỏi sự bảo trợ của chúng tôi. Về tổ chức, nguyên tắc của chúng tôi là chỉ tổ chức những đơn vị độc lập chừng nào đào tạo được những cán bộ cao cấp có khả năng đảm đương được việc chỉ huy. Nhưng người Mỹ lại muốn chúng tôi - giữa lúc chiến tranh đang bước vào một bước ngoặt ngày càng quyết liệt - cho quân đội liên kết được độc lập ngay; điều này chỉ tổ làm cho chất lượng các quân đội liên kết đã yếu lại càng thêm yếu. Tuy chưa lúc nào thật gay gắt, nhưng những bất đồng Pháp - Mỹ nói trên đã tác động nặng nề tới việc xây dựng các quân đội liên kết. Tuy nhiên, tổ chức quân đội là điều duy nhất tương đối có giá trị mà Việt Nam đã thực hiện được. Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tống tham mưu trưởng, cựu sĩ quan Không quân Pháp, là người rất thông minh và ông hiểu được quân đội non trẻ của mình vẫn cần đến sự bảo trợ. Tuy thiếu kinh nghiệm và quá quan tâm đến việc khẳng định sự độc lập đối với chúng tôi - điều này là nguyên nhân của không ít khó khăn nhưng tôi thấy ông là một người có tinh thần hợp tác rất cao1. Rủi thay, ông vấp phải sự bất lực của một Chính phủ mà như trên tôi đã nói, nó chưa bao giờ có những biện pháp đáng có để tuyển mộ quân và nhất là sĩ quan. Trái với Việt Minh, họ lấy cán bộ trong nông dân và đào tạo ngay trong chiến đấu. trong khi Chính phủ Việt Nam ương bướng chỉ muốn tuyến sĩ quan trong các tầng lớp trên và chọn lọc qua thi cử. Nhưng đối với nghĩa vụ quân sự, những tầng lớp này chừng nào chuồn được là họ tìm cách để chuồn. Tuy nhiên, số lượng sĩ quan và hạ sĩ quan tăng lên rất nhiều (nhờ đó giải quyết được gần đủ số sỹ quan cấp thấp, nhưng với sỹ quan cấp cao thì vấn đề còn nan giải) và việc tổ chức những đơn vị thuần người Việt Nam được tiếp tục tiến hành. Trong lúc tôi chỉ huy, số binh đoàn cơ động tăng được từ một lên đến sáu và dự kiến đến mùa thu - 1954 sẽ tổ chức được ba Sư đoàn. ---------------- 1. Sau khi tôi rời Đông Dương, Tướng Hình va vấp với Chính phủ và quay về với quân đội Pháp; ông hoàn toàn binh nghiệp với cấp trung tướng chỉ huy Sư đoàn không quân. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Ba, 2016, 08:09:11 pm Nhưng từ khi biết có chủ trương sắp họp một hội nghị để giải quyết vấn đề hòa bình ở Đông Dương, quân đội Việt Nam bước vào thời kỳ tan rã. Nỗi lo sợ trước triển vọng thắng lợi của Việt Minh mà hội nghị gây ra, và tuyên truyền của Việt Minh biết khai thác triệt để, đã tàn phá sâu sắc hàng ngũ quân đội quốc gia. Tuyển quân bị ngừng lại (có đến 90% kháng lệnh), nạn đào ngũ tăng ào ạt, từng các đơn vị từ chối không chịu đi chiến đấu, nhiều ngưòi tự thương, sỹ quan Pháp bị lăng nhục và đôi khi bị hành hạ. Chính trong không khí đó, Điện Biên Phủ thất thủ. Cú sốc tinh thần này càng làm cho khủng hoảng thêm gay gắt1.
Sự "cắt đứt - một nửa" giữa Pháp và Campuchia hồi tháng 6 năm 1953 khiến quân đội Campuchia, được Mỹ khuyến khích, gần như thoát khỏi hoàn toàn sự bảo trợ của chúng tôi. Nhờ sự có mặt của Tướng Langerat, rồi Tướng Des Essarts vẫn giữ được quan hệ hữu nghị và tin cậy với ông hoàng Sihanouk mà chúng tôi còn duy trì được một ảnh hưởng nào đấy ở Nông Pênh. Vì vậy tôi buộc phải ngừng trong 6 tháng việc phát triển một quân đội mà bất kỳ lúc nào nó cũng có thể quay lại chống chúng tôi. Mùa đông 1953-1954, không khí chính trị được cải thiện, những cuộc đàm phán dẫn đến việc tiếp tục phát triển quân đội Campuchia. Nhưng chúng tôi phủ nhận để nhà vua nắm quyền chỉ huy tác chiến. Từ lúc ấy, quân đội Campuchia không còn đóng một vai trò nào hữu ích đối với chiến tranh. Quân đội quốc gia Lào không gây khó khăn gì lớn cho chúng tôi. Họ đồng ý chịu đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đại tá Crèvecoeur, chỉ huy lực lượng Pháp ở Lào. sở dĩ vậy là nhờ tính cách đặc biệt của Đại tá và sự tin cậy của Chính phủ Lào đối với ông ta, hơn nữa Chính phủ Lào cũng không hay bắt bẻ gì lắm về vấn đề độc lập như các Chính phủ Quổc gia liên kết các. Vậy là kế hoạch phát triển quân đội Lào gần như được thực hiện toàn bộ. Nhưng do bản thân nước Lào chỉ có nguồn cung cấp nghèo nàn, nên việc phát triển lực lượng quân sự của họ cũng rất hạn chế. --------------- 1. Sau khi Pháp ra đi, người Mỹ nắm lấy quân đội Việt Nam và quyết định cho nó được độc lập hoàn toàn, chỉ đặt ở các đơn vị một số "cố vấn" Mỹ. Họ đã thất bại hoàn toàn và các "cố vấn" đã phải nắm lấy quyền chỉ huy thực tế ở phân lớn các đơn vị quan trọng. Thế là không thú nhận nhưng họ đả phải quay về với cách thức của người Pháp. Quân đội Việt Nam chỉ có thể độc lập sau nhiều năm và bằng từng bước một. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Ba, 2016, 12:46:06 pm Rút bớt quân khỏi nhiệm vụ chiếm đóng Tôi xin nhắc lại, việc phát triển ồ ạt và nhanh chóng các quân đội liên kết là nhằm mục đích có nhiều quân để bảo đảm nhiệm vụ chiếm đóng và để rút bớt khỏi nhiệm vụ này những đơn vị có khả năng tham gia xây dựng khối cơ động tác chiến. Nhưng muốn làm việc này đạt được kết quả khả quan thì phải tiến hành các chiến dịch bình định trước đã. Song rủi thay công cuộc binh định lại vấp phải sự bất lực của chính quyền các cấp của các Quốc gia liên kết; bản thân họ, họ cũng không nắm vững được các vùng chúng tôi đã quét sạch được Việt Minh. Dù thế nào, việc "rút bớt quân" vẫn cứ phải được tiến hành và nó đã cho những kết quả khác nhau tùy theo từng vùng. Bắc Việt Nam là nơi gay go nhất bởi ở đây chúng tôi phải đương đầu với những đơn vị Việt Minh vừa giỏi vừa đông. Nhưng cũng chính ở đây mà kết quả đạt được của việc "nhô bớt quân" lại có lợi nhất bởi những "khoản tiết kiệm" dành ra được lại là những số quân rất lớn. "Phòng tuyến De Lattre" đặt ra một vấn đề đặc biệt. Gồm khoảng 900 lô cốt boongke và được trang bị khá mạnh, phòng tuyến này chỉ có thể đóng giữ bởi quân đội chính quy. Nếu thay được lực lượng này bằng quân phụ lực - số quân chỉ có khả năng ngăn chặn được sự ra vào, trao đổi của đối phương giữa Đồng bằng với bên ngoài - thì chúng tôi sẽ dôi ra được một sô lượng lớn các đơn vị có chất lượng. Nhưng giải pháp này đã làm dấy lên ở bộ tham mưu Hà Nội những ý kiến phản đối (có tính chất tâm lý; tinh thần nhiều hơn) là: làm như vậy có khác nào phá hoại không thừa nhận một công trình của cố thông chế vừa mới được hoàn tất xong. Một ý kiến phản đối có giá trị khác cũng được nêu ra với tôi: Việt Minh giờ đã có đủ sức mạnh đế tiến công đồng bằng, vậy phòng tuyến De Lattre đã đến lúc có thể đóng vai trò của nó. Những ý kiến này khiến tôi đành bằng lòng vối một biện pháp có tính chất chờ thời: cài vào mỗi cứ điểm boongke một tỷ lệ quân phụ lực nào đấy, và rút bớt ra được một số quân chính quy. Gác vấn đề phòng tuyến De Lattre sang một bên, thì biện pháp "rút bớt quân" nói trên có thể cung cấp cho chiến trường Bắc Bộ một lực lượng cơ động quan trọng. Nhưng kết quả lại rất thấp, nguyên nhân trước hết là do bộ chỉ huy ở Hà Nội có khuynh hướng muốn xin tăng viện lấy ở ngoài chiến trường mình hơn là sử dụng triệt để các lực lượng bản thân mình có trong tay. Tất nhiên, tôi cần phải đòi hỏi ở họ hơn về vấn đề này. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Ba, 2016, 12:34:09 am Khối cơ động tác chiến Bất chấp khó khản, việc tổ chức khối cơ động tác chiến được theo đuổi một cách mạnh mẽ. Nó phải gồm sáu Sư đoàn (trong có một sư không vận), tức là có 24 binh đoàn cơ động (GM) và 3 binh đoàn không vận. Đợt đầu phải sẵn sàng vào ngày 1 tháng 4 năm 1954; đợt hai, vào ngày 1 tháng 9; và đợt ba vào sáu tháng đầu 1955. Đợt một đã được thực hiện đúng hạn định, nhưng bắt đầu từ đầu năm 1954. nhiều khó khăn nghiêm trọng đã xảy ra do việc tổ chức và huấn luyện những đơn vị Việt Nam mới đã bị quá chậm trễ và vì thế không kịp thay cho những đơn vị dự định rút ra để tổ chức quân cơ động. Vào cuối tháng 2 năm 1954, khó khăn lại càng trầm trọng hơn do việc ngừng tuyển quân - hậu quả của việc sắp họp Hội nghị Geneve mà như trên tôi đã nói. Đối với khối cơ động tác chiến, cần phải làm cho nó tăng giá trị tới mức tối đa về mọi phương diện: cán bộ, trang bị và các mặt bảo đảm. Trong vài ngày tôi ỏ Paris trước khi nắm quyền chỉ huy, tôi đã nghe xôn xao trong giới chính trị nhiều lời chỉ trích gay gắt đối với những "lạm dụng" có vẻ đang đầy rẫy ở Đông Dương: nào là quá nhiều các vị tướng, quá thừa mứa các sĩ quan "náu mình" trong những bộ tham mưu hay các cơ quan khác, nào là quá nhiều các chỗ làm việc vô bổ, v.v..., tóm lại là cả một sự tai tiếng về lãng phí cán bộ. Chỉ cần liếc nhìn số sĩ quan cấp tướng, tôi cũng đủ biết những điều ngồi lê đôi mách nói trên là chẳng có căn cứ gì cả. Để chỉ huy một số quân gần bằng nửa tổng số quân đội Pháp, tôi không có đến một phần tám số sỹ quan cấp tướng so với tổng số. Phần lớn chức trách của cấp tướng phải giao cho các đại tá, có khi cả trung tá. Các bộ tham mưu cũng thiếu sĩ quan giống như các đơn vị. Ở Sài Gòn, EMIFT, cơ quan tham mưu tác chiến của toàn chiến trường có số sỹ quan không bằng một bộ tham mưu tập đoàn quân. Hồi mới đến, De Lattre đã cố gắng giảm nó đi những sau đành chịu thôi. Bộ tham mưu Hà Nội, chỉ huy hơn 200.000 người, chỉ tương đương vơai bộ tham mưu quân đoàn. Còn bộ tham mưu các chiến trường khác, số người của nó cũng bị giảm nhiều. Tuy nhiên đối với các bộ tham mưu cấp cao, tôi định giảm thêm 10% để lấy cán bộ bổ sung cho khốì cơ động tác chiến mà không đụng chạm gì đến số cán bộ của các đơn vị. Tôi tìm cả cán bộ ở những chỗ làm việc được coi là vô bổ thì kết quả chang có ý nghĩa gì bởi thực tế là không có tình trạng đó. Nhưng nhờ sử dụng đội cảnh vệ lưu động (garde mobile) một cách thích hợp hơn, tôi đã lấy được ở đấy một số khá đông hạ sĩ quan. Trong các cơ quan phục vụ, tỷ lệ giữa số nhân viên với khối lượng vật chất khí tài họ phải bảo đảm còn thấp rất nhiều so với mức khiêm tốn nhất cho phép đối với một đạo quân đang chiến đấu. Cực chẳng đã, tôi cũng đành phải bằng lòng như vậy. Như tôi đã nói, quân đội chúng tôi thiếu nhẹ nhàng và linh hoạt. Muốn làm cho nó được như vậy, phải công phu và mất nhiều thời gian. Phải được trang bị những vũ khí mới thích hợp, nhiều khi là phải tổ chức lại đơn vị, thay đổi một cách cơ bản việc huấn luyện và ngay cả tâm tính cũng như thói quen của cán bộ và binh sỹ. Nhưng khi mà tình hình chẳng thể ổn định được trong vài tháng thì vấn đề nói trên chẳng thể đặt ra. Chỉ có những biện pháp cục bộ, từng phần là có thể tiến hành ngay được. So với dự kiến của Tướng Salan thì tỷ lệ bộ binh trong khối cơ động tác chiến đã tăng lên. Để đáp ứng yêu cầu đó, tôi đã xin tăng lên rất nhiều số vũ khí tự động loại nhẹ để trang bị cho bộ binh. Lúc tôi sang Đông Dương thì yêu cầu đó chưa được giải quyết. Các trại huấn luyện được thành lập, trong đó các đơn vị được huấn luyện theo một kiểu chiến tranh mà chúng tôi phải tiến hành. Một tổ chức phụ trách biệt kích được thành lập, có nhiệm vụ xây dựng một số quan trọng các đơn vị gọn nhẹ, được huấn luyện và trang bị tốt có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ vượt quá khả năng của những đơn vị thông thường. Cuối cùng, một kế hoạch phát triển "Đội biệt kích hỗn hợp không vận" (GCMA: Groupement de commanddos mixtes aéroportés) được thành lập - GCMA vừa thuộc quyền Paris (SDECE), vừa thuộc quyền Bộ tổng chỉ huy ở Đông Dương, có nhiệm vụ tổ chức, duy trì và chỉ đạo hoạt động của các "chiến khu". Tháng 12 năm 1953, GCMA đổi tên là "Đội hỗn hợp ứng chiến" (GMI: Groupement mixte d'intervention). Tôi đã dự kiến cho nó một vai trò quan trọng với hoạt động ngày càng tăng1 . Tuy không một điều kiện chính trị nào tôi đề nghị được hoàn thành và dù những điều kiện quân sự chỉ được thực hiện phần nào, lực lượng của chúng tôi vẫn đang được cải tổ và phát triển. Một khối cơ động tác chiến đã được tổ chức. Từ 7 binh đoàn cơ độnga) và 8 tiểu đoàn dù lúc tôi mới sang, đến ngày 1 tháng 4 năm 1954, nó đã phát triên lên thành 18 binh đoàn cơ động2 và 10 tiểu đoàn dù. --------------- 1. Bên cạnh 6 binh đoàn cơ động của quân viễn chỉnh, còn có thêm một binh đoàn của quân đội Việt Nam, 2. Trong cuốn "Những chiến khu ở Đông Dương", xuất bản năm 1976, Đại tá Trinquier, chỉ huy GCMA rồi GMI từ 1952 đến 1954 đã mô tả những cố gắng để mở mang các chiến khu. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Ba, 2016, 09:26:59 am CHƯƠNG V NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN TRƯỚC ĐIỆN BIÊN PHỦ Như trên đã nói, trong chiến cục 1953-1954, kế hoạch tác chiến dự kiến sẽ phòng thủ ở miền Bắc vĩ tuyến 18 và tiến công ở miền Nam. Giai đoạn thứ nhất (hè và đầu thu 1953) là ổn định được những vùng chúng tôi kiểm soát và bỏ đi một số mặt trận thứ yếu. Trong giai đoạn thứ hai, kéo dài suốt mùa khô 1953-1954, sẽ tiến hành những cuộc hành quân quan trọng, có những cuộc thì nhằm chổng đỡ với tiến công của đối phương dự kiến có thể xảy ra vào tháng 10, 11, có những cuộc thì nhằm chiếm một số vùng đất đai của Việt Minh ở miền Trung. Chương này sẽ trình bày vắn tắt diễn biến thực hiện kế hoạch ấy cho đến trước trận Điện Biên Phủ. Những cuộc hành quân mùa hè 1953 Từ tháng 6, nhiều cuộc hành quân tiến công có tính chất địa phương đã được tiến hành trên toàn lãnh thổ Đông Dương, chủ yếu ở Đồng bằng Bắc Bộ và ở miền Trung Trung Bộ. Tháng 7, một đơn vị nhảy dù đã phá được, tiếc thay chỉ một phần nhung kho tàng của Việt Minh ở Lạng Sơn1 nằm sâu trong hậu phương của họ. Tháng 10, với sự hỗ trợ của các "chiến khu" ở địa phương, đã thả nhiều toán biệt kích xuống khu vực Lào Cai. Từ ngày 8 đến ngày 13 tháng 8. rút bằng máy toàn bộ quân ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản mà Pháp biết Việt Minh dự định sẽ tiến công vào cuối hè. Cuộc di tản này được thực hiện theo yêu cầu của Tướng Cogny khi ông ta mới nhận chức nhằm mục đích làm Việt Minh mất một miếng mồi hấp dẫn và có thêm được 6 tiểu đoàn để bảo vệ đồng bằng. Quan điểm này của Tướng Cogny được tôi tán thành vì Nà Sản lúc ấy không có giá trị gì lắm đối với việc che chở cho Thượng Lào. Thực vậy, chúng tôi đã biết Việt Minh đang xây dựng một con đường vòng qua phía bắc Nà sản, rồi qua Tuần Giáo. Điện Biên Phủ và lưu vực sông Nậm Hu tiến đến Luang Prabang'2. Và Tướng Cogny đã lưu ý là thay vì Nà sản. chúng tôi nên "khóa con đưòng ấy lại ở Điện Biên Phủ". Ở Thượng Lào, tháng 9. chúng tôi tiến hành một cuộc hành quân nhằm giải tỏa khu vực Đông bắc Luang Prabang và chuẩn bị cho cuộc hành quân xuống Điện Biên Phủ, dự kiến sẽ mở vào tháng 12 năm 1953 hay tháng 1 năm 1954, khi nào tập hợp được đủ lực lượng. Tất cả những hoạt động trên đã đem lại cho chúng tôi những lợi thế tâm lý: lấy lại tin tưởng cho quân đội. nâng đỡ tinh thần các nhà lãnh đạo các Quốc gia liên kết và làm Việt Minh rất lo ngại. Đó là điều mà trong các báo cáo chính thức, các cuộc tiếp chuyện các quan khách quan trọng, tôi đã luôn luôn nhấn mạnh đến. Về phía Việt Minh, mọi tin đều ăn khớp là họ đang chuẩn bị một cuộc tấn công lớn chưa từng thấy vào mùa đông tới. Tiếc thay, những kết quả đạt được nói trên, lại được báo chí thôi phồng quá đáng, đã gây nên một không khí "lạc quan" rất đáng lo ngại. Người ta nhắn tôi rằng tôi không nên tìm cách "thắng trận" mà chỉ cần chứng tỏ cho Việt Minh biết họ không thể thắng trận là đủ. Và dựa vào lý lẽ đó người ta từ chổi cấp phương tiện cho tôi. -------------- 1. Theo Trung tá Ducourneau chỉ huy cuộc tập kích thì Pháp đã phá được gần toàn bộ. Còn Tướng Bigeard, trong Hồi ký của ống, thỉ viết: "Phá hủy sạch sẽ. không có gì sai sót. Việt Minh không còn thu lại được tí gì”. Nhưng sự thực lại khác hắn. Do quá vội vàng nên Pháp chỉ phá được một phần nhỏ. Việt Minh đã giữ và thu hồi được ít nhất là 80%( số vũ khí, phương tiện của họ. (Tin này là chính xác, do giải mã tin điện của Việt Minh). 2. Trong thư ngày 2 tháng 7 năm 1953, Tướng Cogny lưu ý tôi về con đường đó, con đường mà "để phá nó, hoạt động của ta tỏ ra kém hiệu quả". Và ông viết thêm: "Tôi khắng định là để ngăn chặn đối phương đánh sang nước Lào, Nà Sản tỏ ra vô hiệu". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Ba, 2016, 08:21:03 pm Chiến cục mùa thu 1953 Cuối hè, tình hình chung có mấy nét như sau: Khối cơ động tác chiến của Việt Minh bố trí xung quanh Đồng bằng Bắc Bộ, chia thành hai cụm chính. Một khối gồm 2 Sư đoàn (308 và 312) cùng với 2 trung đoàn độc lập, có Sư đoàn 351 yếm trợ, bố trí ở mặt Bắc. Một khối gồm các Sư đoàn 316, 304 và 320, bố trí ở mặt Nam. Trong đồng bằng, ngoài lực lượng địa phương, có 5 trung đoàn chủ lực độc lập đã xâm nhập. Ba bộ phận thứ yếu có mặt ở những hướng khác. Một bộ phận, gồm 2 trung đoàn, hoạt động ở xứ Thái và Bắc Lào, chông lại lực lượng "du kích" ở các chiến khu của chúng tôi và kiềm chế tập đoàn cứ điểm Lai Châu. Bộ phận thứ hai là Sư đoàn 325 đang tập trung lực lượng ở bắc Trung Trung Bộ. Bộ phận thứ ba là lực lượng của Liên khu 5. Tin tức chắc chắn (bằng giải mã tin của địch) cho hay Việt Minh chuẩn bị tiến công đồng bằng theo hai bước. Mới đầu, Sư đoàn 320 có nhiệm vụ xâm nhập vào Khu Nam. Sau đó, sẽ mở ra hai cuộc tiến công: một ở phía Bắc, một ở phía Nam, trong đó phía Bắc là đòn tiến công chính. Mục đích là cắt đứt giữa Hải Phòng và Hà Nội, có dự kiến cả việc chiếm các thành phố quan trọng. Để đương đầu Với cuộc tiến công lớn đó, Tướng Cogny trù tính phải có trong tay toàn bộ dự bị chiến lược của Đông Dương và trong thư tới ngày 19 tháng 8 ông không giấu giếm sự lo ngại của ông. Vậy là đồng bằng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Trong một bức thư gửi Chính phủ. tôi đã báo với Chính phủ rằng "với khoảng 7 tháng trước khi đến mùa mưa", Việt Minh có thể, "bằng cách làm xói mòn về tinh thần và vật chất các đơn vị của Pháp, hy vọng giành được những thắng lợi quan trọng, có khi là những thắng lợi quyết định"1. Để đối phó với nguy cơ đó, nhiều biện pháp quan trọng đã được thực hiện. Tất cả các lực lượng cơ động dành ra được đều tập trung ở đồng bằng và tiến hành càn quét lớn các căn cứ mà Việt Minh chuẩn bị đế đón các đơn vị lớn từ ngoài vào. Đặc biệt là Pháp đã tiến hành một chiến dịch lớn nhằm loại khỏi vòng chiến Sư đoàn 320 trước khi nó kịp nhảy vào đồng bằng. Chiến dịch lấy tên "Hải Âu" (Mouette). bắt đầu tiến hành từ ngày 15 tháng 10. Địch phản ứng lại dữ dội, do đó bị tổn thất nặng, chủ yếu là bởi hỏa lực của pháo binh và không quân. Sau 20 ngày chiến đấu, Pháp đã làm chủ được chiến trường: Sư đoàn 320 bị loại khỏi vòng chiến khoảng 3.000 người, trong đó 1.200 bị giết. Theo nguồn tin chắc chắn, Pháp biết là theo đánh giá của bộ chỉ huy đối phương, Sư đoàn này phải 2 tháng nữa mới hồi phục được sức chiến đấu. Pháp đã giành một thắng lợi không thể chối cãi được. Tuy nhiên, trong chiến đấu ở rừng núi, bộ binh Việt Minh đã chứng tỏ rằng sức chiến đấu của họ đã được cải thiện rõ rệt và hơn hắn chúng tôi. Điều đó khiến tôi lo ngại khi sau này phải đương đầu với khối cơ động tác chiến của họ trong những điều kiện không có được thuận lợi về ưu thế lực lượng như trong cuộc hành quân Hải Âu. ------------ 1. Ít có khả năng Tướng Giáp lại mắc phải sai lầm như hồi 1951 khi ông ta tung những cuộc tiến công quy mô lớn vào quân của Tướng De Lattre. Tiến công của Việt Minh có thể sẽ diễn ra dưới hình thức những cuộc xâm nhập trên toàn miền, tương tự như họ làm cuộc "Tiến công Tết 1968" chống lại người Mỹ. Sau nhiều thắng lợi quan trọng, cuộc tấn công này chỉ thất bại khi người Mỹ phải dùng những lực lượng cực lớn để đối phó lại. Nếu tính tương quan lực lượng giữa Pháp và Việt Minh ở thời điểm 1953, thi chắc chắn lực lượng chúng tôi đả bị chìm ngập. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Ba, 2016, 08:15:06 am Việt Minh thay đổi kế hoạch Từ những ngày cuối tháng 10, tin tức cho chúng tôi biết Việt Minh đã thay đổi kế hoạch. Ít nhất cũng tạm thòi, kế hoạch đánh vào đồng bằng bị gác lại và Việt Minh sẽ tiến công trên hai hướng: một hướng, có lẽ là chủ yếu đánh lên vùng rừng núi Bắc Bộ và Thượng Lào. một hướng đánh vào miên Trung Đông Dương, trong khi đó có những triệu chứng lực lượng Liên khu 5 chuẩn bị để tiến công. Tại sao có sự thay đổi ấy? Không ai nghi ngờ gì nữa, việc chúng tôi tăng cường lực lượng ở đồng bằng và thất bại của Sư đoàn 320 là một trong những nguyên nhân, nhưng điều đó vẫn chưa đủ để cắt nghĩa hoàn toàn. Nguyên nhân chính là vấn đề chính trị. Mấu chốt của nó đã lộ ra khi vào tháng 11, trong trả lời phỏng vấn tờ Expressen của Thụy Điển, ông Hồ Chí Minh đã tỏ ý sẵn sàng, bằng biện pháp chính trị, tìm một giải pháp nhanh chóng cho chiến tranh. Do nắm được trạng thái tinh thần của các giới chính trị cũng như các kế hoạch của chúng tôi, Việt Minh cho rằng giải pháp ấy là nên làm đối với họ và có khả năng làm được trong thời gian ngắn. Tại sao "nên làm", là bởi chỉ vài tháng nữa, việc phát triển khối cơ động tác chiến của Pháp và các quân đội liên kết sẽ làm cho họ mất các lợi thế hiện có1. Còn "có khả năng làm được", là vì họ xét thấy ý chí chiến đấu của chúng tôi đã suy yếu tới mức cho phép họ có thể hy vọng đủ mọi điều. Thế là từ đây Việt Minh hướng theo một kế hoạch tác chiến có khả năng dẫn tới một giải pháp chính trị. Cái mà họ nhắm, đó là các mục tiêu mà chiếm được thì sẽ có tác động sâu sắc tới dư luận của Pháp. Để đạt kết quả ấy. họ có thể đánh đồng bằng, với điểu kiện phải trả giá đắt để giành một thắng lợi quyết định, ví dụ như chiếm Hà Nội hay Hải Phòng. Nhưng họ cũng có thể giành được kết quả với cái giá rẻ hơn, bằng cách chiếm lấy những vùng rộng lớn mà chúng tôi rất khó phòng thủ, như Cao nguyên Trung phần, Thượng du Bắc Bộ và Lào. Đặc biệt, Lào là một mục tiêu lý tưởng. Trong ba nước liên kết thì Lào là nước trung thành nhất với chúng tôi. Chúng tôi vừa mối ký với họ một hiệp ước. trong đó chúng tôi cam kết bảo vệ họ. Thế mà Việt Minh biết được, chẳng riêng do báo chí lộ bí mật như tôi đã nói2 mà còn do những "rò rỉ" khác, rằng bảo vệ Lào là vấn đề khó khăn nhất của chúng tôi. Vậy là họ nhằm vào Lào mà chĩa mũi nhọn3. Hướng nỗ lực của họ là cả Thượng và Trung Lào. Đánh Thượng Lào và chiếm kinh đô Luang prabang, Việt Minh sẽ giáng cho Pháp một thất bại về tinh thần mà chúng tôi khó có thể gượng dậy. Chiếm Trung Lào, Việt Minh sẽ tiếp tay cho Liên khu 5 và đe dọa toàn miền Nam Đông Dương. Như thường lệ của Việt Minh, đòn quân sự sẽ kết hợp với đòn chính trị. Đòn chính trị này vừa nhằm vào dư luận Pháp, mà ý muốn "kết thúc chiến tranh cho xong" sẽ bị kích động bằng mọi cách, lại nhằm vào dư luận các Quốc gia liên kết đã hết tin cậy ở chúng tôi. Đoạn trích bức thư riêng sau đây của tôi gửi Thống chế Juin ngày 14 tháng 12 năm 1953 chứng tỏ tôi đã dự kiến như thế nào về những triển vọng do tình hình mới gây ra: "Chắc chắn kế hoạch mới của Việt Minh sẽ dẫn tôi tới việc phải chiến đấu phòng ngự ở ba nơi: một ở Đồng bằng, nhưng không quan trọng nhiều (chống khoảng 2 Sư đoàn Việt Minh); một ở giữa Vinh và Thà Khẹt, chống một Sư đoàn; còn cái thứ ba là ở Điện Biên Phủ, chống một lực lượng có thể tới 2 Sư đoàn(1>. Điều đó không có gì lạ, và chẳng cần phải giấu giếm gì, có thể chúng tôi sẽ thất bại nặng ở nơi này hay nơi khác trong ba mặt trận ấy. Tuy nhiên tôi cho rằng, phân tán nỗ lực như vậy, Việt Minh sẽ không thể giành được thắng lợi quản sự quyết định, song khả năng đó sẽ không loại trừ trong trường hợp nếu họ tổng tiến công ở Đồng bằng. Điểu cần thiết là phía chúng tôi, quyết tâm chung và nhất là quyết tâm của các giới chính trị sẽ không "xẹp" đi. Và đó là điều tôi tự cho phép nhờ cậy ông để phần nào ngăn chặn tinh trạng đó". ----------- 1. Trong một trả lời phỏng vấn, Tướng Giáp đã phát biểu: Kế hoạch Navarre đã đặt chúng tôi trước những khó khăn nghiêm trọng". 2. Báo nước Pháp - Người quan sát đãng cả nội dung thảo luận trong Hội đồng Quốc phòng ngày 24 tháng 7 năm 1953. 3. Trong cuốn Tại sao Điện Biên Phủ, Đại tá Rocolle đã nghiên cứu kỹ sự "thay đổi kế hoạch" này. Dựa một phần vào tài liệu của địch, ông tỏ ý nghi ngờ về sự xác thực của nó; ông nói: có thể từ tháng 9 năm 1953, Tướng Giáp đã quyết định tập trung nỗ lực chủ yếu vào Thượng Lào. Tôi không tin là hoàn toàn chỉ có dự kiến này, bởi chúng tòi đã có được những tin tức chắc chắn về một kế hoạch tiến công đồng bằng của Việt Minh (tin giải mã). Nhưng có thể Việt Minh có hai kế hoạch: Đồng bằng và Lào, và sau đó do Pháp phản ứng mạnh và nhất là vì những lý do chính trị, nên cuối cùng họ đả quyết định chấp nhận kế hoạch tiến công Lào. 4. Lúc viết thư này, tôi còn chưa biết là gần như toàn bộ khối chủ lực cơ động tác chiến của Việt Minh đã lên đường hướng về Thượng du (tức Tây Bắc). Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Ba, 2016, 08:21:01 pm Phòng thủ trực tiếp hay gián tiếp? Nếu có đủ phương tiện trong tay thì một chiến lược có thể đồng thời tiến hành bằng nhiều cách. Song rủi thay đó không phải là trường hợp của tôi. Vì vậy, để đối phó với kế hoạch của Việt Minh, tôi có thể sử dụng hai cách. Cách thứ nhất - phòng thủ gián tiếp - là tập trung lực lượng chúng tôi ở đồng bằng và đánh vào hậu phương Việt Minh. Cách thứ hai - phòng thủ trực tiếp - là sử dụng lực lượng thích hợp để chặn đường tiến của đối phương trên các hướng bị uy hiếp. Cách thứ nhất quả là hấp dẫn. Đặc biệt nó có cái lợi lớn là ở gần căn cứ ở đồng bằng, không quân Pháp được sử dụng tốt hơn. Nhưng nó cũng có những bất lợi nghiêm trọng. Bởi ai mà biết được thực tế Việt Minh sẽ hành động ra sao? Hoặc họ sẽ hành động như năm ngoái khi Tướng Salan từ đồng bằng đánh vào hậu phương của chủ lực Việt Minh đang tác chiến ở Tây Bắc. Để đối phó với cuộc hành quân Lorrame, họ chỉ dùng một số đơn vị độc lập để ngăn chặn, còn chủ lực của họ thì chẳng hề bị đánh lạc hướng khỏi mục tiêu. So với địch, tương quan lực lượng năm nay còn bất lợi cho chúng tôi nhiều hơn năm ngoái, vậy kết quả đối với Pháp có thể sẽ còn tồi hơn chứ không phải như trước. Hoặc Việt Minh sẽ dùng đại bộ phận chủ lực đương đầu lại, và thế là chúng tôi phải tiến hành sớm một trận giao chiến lớn theo kiểu vận động chiến trên một địa hình không thuận lợi mà, do sự yếu kém cũng như việc chưa thích nghi của các phương tiện của Pháp hiện nay, chúng tôi muốn hoãn lui lại. Tuy nhiên, tất cả các khả năng trên đều được nghiên cứu kỹ lưỡng. Tập trung ở khu vực Vinh - Hà Tĩnh là cụm quân Việt Minh có nhiệm vụ sẽ mở chiến dịch ở Trung Đông Dương. Để đánh vào hậu phương của cụm quân này, Pháp có thể từ Đồng bằng Bắc Bộ hoặc từ miền Trung Việt Nam (tức Trị - Thiên) đánh đến và có thể phối hợp thêm bằng các mũi đổ bộ đường biển. Những hành động theo kiểu này đòi hỏi những phương tiện vượt quá xa khả năng cho phép của chúng tôi. Đại bộ phận lực lượng cơ động của tôi phải dành cho hướng chính để đương đầu với phần lớn khối chủ lực cơ động tác chiến của Việt Minh đang tiến lên Tây Bắc. Muốn chặn bước tiến của họ lại, Pháp có thề hoặc từ Đồng bằng tiến ra chặn, hoặc cắt đứt giao thông của họ khi họ đã tiến quân lên. Để làm việc này, hai dự án đã được nghiên cứu. Dự án thứ nhất, dự án duy nhất có hiệu quả thực sự. là đánh vào nút giao thông của Việt Minh ở Yên Bái, Tướng Cogny, được giao trách nhiệm chỉ huy, đã dự trù những lực lượng cần thiết; dự trù này lên tới con số vượt quá tổng số lực lượng dự bị Pháp có được ở Đông Dương. Vậy cần đánh vào nơi nào gần Thái Nguyên hơn. Cuộc hành quân này tiết kiệm hơn nhưng cũng kém hiệu quả hơn, tuy vậy vẫn vượt quá khả năng phương tiện của Pháp. Sau khi nghiên cứu rất kỹ lưỡng, tôi và Tướng Cogny đã hoàn toàn nhất trí là không thể thực hiện được dự án nào1. Vậy là do thiếu lực lượng để tiến công, chúng tôi buộc phải bằng lòng với cách bảo vệ trực tiếp những khu vực bị uy hiếp - cách làm tiết kiệm được rất nhiều. Tuy nhiên cũng không loại trừ những hoạt động đánh vào giao thông đối phương khi mà sau này, do được tăng viện và phát triển các quân đội liên kết, Pháp có thêm lực lượng. ------------ 1. Đặc biệt tôi đã hỏi ý kiến Tướng Alecxandri, lúc ấy là cố vấn quân sự của Chính phủ Việt Nam và có một sự hiếu biết sâu về Đông Dương. Alecxandri và tôi là bạn cố cựu ở Marôc và tôi rất tin ở sự suy xét của ông (nếu người ta nghe ông thì đã không xảy ra thảm họa ở Cao Bằng). Hồi tôi mới sang, ông đả nói với tôi khi nào có điều kiện là Pháp phải lập tức từ đồng bằng đánh lên vùng Thái Nguyên là nơi tập trung các cơ quan đầu não của Chính phủ và Bộ chỉ huy tối cao Việt Minh. Thế mà sau khi cùng tôi nghiên cứu vấn đề này, ông củng phải cho rằng trong tình trạng lực lượng chúng tôi hiện nay thì chiến lược trên là không thể áp dụng được. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Ba, 2016, 08:49:56 am Chiến cục mùa đông 1953-1954 Chiến dịch Tây Bắc Ở Thượng du Bắc Bộ, sau những rút lui của Pháp trong chiến cục 1952-1953, chúng tôi chỉ còn giữ được Lai Châu và một số "chiến khu". Đường sang Lào đã bị bỏ ngỏ. Để chặn đường tiến công của Việt Minh, tôi dự định tính mở một cuộc hành quân để chiếm Điện Biên Phủ. Bằng cách sử dụng quân từ Lai Châu đánh xuống, từ Lào theo lưu vực sông Nậm Hu (Pháp kiếm soát được từ tháng 9) đánh sang và phối hợp với quân nhảy dù. Cuộc hành quân được dự kiến sẽ tiến hành vào tháng 12 năm 1953 hay tháng 1 năm 1954. Giữa lúc đó, vào những ngày đầu tháng 11, khi những dấu hiệu ngày càng cho biết những đơn vị quan trọng của khỏi cơ động tác chiến của Việt Minh đã tiến lên miền Thượng du, nhằm mục tiêu là Thượng Lào, thì không chần chừ gì nữa, Pháp phải tức khắc có một quyết định. Trong chương sau tôi sẽ mô tả quyết định ấy được đưa ra trong những điều kiện như thế nào. Còn ở đây, tôi chỉ nói là tôi đã quyết định phải thực hiện sớm việc tái chiếm Điện Biên Phủ để chặn đường khối cơ động tác chiến Việt Minh. Bước thứ nhất, Pháp sẽ chiếm Điện Biên Phủ bằng một chiến dịch đô bộ đường không. Bước thứ hai, đưa về đấy số quân ở Lai Châu, nơi mà địa hình không cho phép chúng tôi phòng thủ được. Chiến dịch đổ bộ đường không, gọi là Castor, được dự định vào ngày 20 tháng 11. Nó đã được thực hiện mà không gặp khó khăn lớn. Ngay sau đó, Pháp cho xây dựng ở Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điếm cỡ 5-6 tiếu đoàn và tùy theo lực lượng đốì phương ta phải đương đầu, nó sẽ được nâng lên thạnh tập đoàn cứ điếm cỡ 10-12 tiểu đoàn. Ngày 8 tháng 12, quân ở Lai Châu di tản về Điện Biên Phủ cả bằng đường bộ và đường không. Trong những tuần tiếp theo, chúng tôi dần dần nắm được gần toàn bộ khối cơ động tác chiến của Việt Minh đã lên Thượng du. Viện trợ súng đạn và lương thực từ Trung Quốc được đưa vào với số lượng quan trọng. Huy động một lực lượng nhân công lớn gấp bội các chiến dịch trước, đổi phương đã có một nỗ lực ghê gớm, để xây dựng một hệ thông đường sá nối từ biên giới Trung Quốc đến Điện Biên Phủ. Họ thiết lập một căn cứ tiếp vận lớn ở Tuần Giáo, cách Điện Biên Phủ khoảng 50km về phía Đông Bắc. Từ đầu tháng 1 năm 1954, chủ lực Việt Minh đã tập trung xung quanh Điện Biên Phủ và có nhiều triệu chứng sẽ tấn công. Phía chúng tôi, số quân đồn trú đã lên tới mức dự kiến tối đa và chuẩn bị sẵn sàng để nghênh chiến. Đồng thời, xuất phát từ Mê Kông, chúng tôi đã tiến hành một số cuộc hành quân để bố trí lực lượng cho phép Pháp một mặt bảo vệ Thượng Lào trong trường hợp đối phương dùng lực lượng nhẹ vòng qua Điện Biên Phủ tiến công sang Luang Prabang, mặt khác tạo bàn đạp đê sau này đánh sang hỗ trợ cho Điện Biên Phủ. Những ngày cuối tháng 1 năm 1954, giữa lúc tưởng như Việt Minh sắp đánh Điện Biên Phủ thì đột nhiên họ ngừng lại và cho Sư đoàn 308 cấp tốc tiến sang Luang Prabang. Quân Pháp ở lưu vực sông Nậm Hu phải rút lui một phần về Luang Prabang, một phần về Mưòng Sài, và cùng với quân nhảy dù tăng viện xuống, thành lập ở những nơi đó các trung tâm cố thủ. Tiến đến Nậm Bạc, giữa chừng Điện Biên Phủ và Luang Prabang, thì đối phương dừng lại, đặc biệt là gặp khó khăn về tiếp tế do hậu cần đặt ở xung quanh Điện Biên Phủ bị máy bay cản trở. Tình hình đó kéo dài đến ngày 23 tháng 2, ngày mà Sư đoàn 308 lại quay về với đội hình cũ ở Điện Biên Phủ. Chiến dịch Trung và Hạ Lào Vào tháng 11, Việt Minh đã tập trung ở khu vực Vinh một cụm quân mạnh có nhiệm vụ hoạt động ở miền Trung Đông Dương. Nhưng chúng tôi không biết được chủ yếu họ sẽ đánh vào khu vực Bắc Trung phần (khu vực Đồng Hới) hay đánh vào các tuyến giao thông của Pháp lên Bắc Lào (lưu vực sông Mê Kông đi về Thà Khẹt và Sênô). Đồng thời, lực lượng của Liên khu 5 chuẩn bị, có thể là đánh lên Tây Nguyên, uy hiếp tuyến giao thông Mê Kông của chúng tôi. Ngày 20 tháng 12, Việt Minh bắt đầu đánh ở Trung Lào. Lợi dụng những đường mòn và thời tiết xấu hạn chế hoạt động của không quân, các đơn vị đối phương bất ngờ tiến công các đơn vị bảo vệ vòng ngoài của chúng tôi và đẩy lui họ. Nhiều trận đánh quyết liệt đã xảy ra từ 20 đến 25 tháng 12. Chúng tôi rút lui về Thà Khẹt, rồi Sênô. Ngày 26 tháng 12, vài phân đội Việt Minh tiến về Thà Khẹt đã di tản từ sáng sớm. Tất cả thông tấn báo chí kêu lên là "Đông Dương đã bị cắt làm đôi". Dư luận Pháp xôn xao và luồng tư tưởng thất bại chủ nghĩa có thêm một sức đẩy mới. Vậy là nguy cơ Đồng bằng bị tiến công đã biến mất, một bộ phận lực lượng được lấy ở đấy để đưa lên Sênô1, từ tháng 9 đã được xây dựng thành một căn cứ không - bộ lớn. Từ ngày 5 đến ngày 9 tháng 1 năm 1954, Việt Minh đánh vào Sênô nhưng bị chặn đánh kịch liệt. Vài ngày sau, chúng tôi giải tỏa được Sênô và mở thông trục giao thông thủy - bộ chạy dọc theo sông Mê Kông nốì liền Trung Lào với Thượng Lào. Thà Khẹt cũng được tái chiếm. Tuy nhiên đối phương vẫn bám lại, họ phân tán lực lượng và lợi dụng địa hình rừng núi, xâm nhập cả xuống phía Nam, thường xuyên uy hiếp giao thông và có nguy cơ sẽ bóp nghẹt cả Trung Lào và Thượng Lào. Việc bảo vệ giao thông ở những khu vực này thu hút nhiều quân của Pháp, do đó lại gây thiếu quân nghiêm trọng ở những nơi khác. Xem xét theo quan điểm ấy, Việt Minh đã thu được một kết quả không thể chối cãi được. Mặt khác, như sau này người ta sẽ thấy, cuộc tiến công của lực lượng Liên khu 5 lên Tây Nguyên cũng tạo ra thêm một uy hiếp khác nữa đốì với trục giao thông của Pháp dọc theo lưu vực sông Mê Kông. ------------- 1. Hồi tôi mới đến, Sênô chỉ là một sân bay dự bị. Khi cầm quyền, tôi quyết định nâng cấp nó lên thành một căn cứ Không - bộ để hỗ trợ cho những hoạt động của chúng tôi ở phía Tây dãy Trường Sơn. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Ba, 2016, 09:17:20 pm Chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Atlante Theo kế hoạch thì chiến dịch Atlante nhằm loại bỏ Liên khu 5 sẽ được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1954, thời kỳ duy nhất có thể thực hiện được do lý do thời tiết. Không thể có vấn đề là hoãn lại năm sau vì Liên khu 5 là mối đe dọa lớn thường xuyên đối với miền Nam Đông Dương; mối đe dọa này vào những tháng cuối 1953 lại càng tăng lên một cách mạnh mẽ. Chúng tôi được biết theo nguồn tin chắc chắn là từ 1954. Liên khu 5 sẽ có những hoạt động quan trọng và sang năm 1955 lại có những hoạt động quan trọng hơn. Cuối 1953, có những triệu chứng cho biết Liên khu 5 đang chuẩn bị tiến công hoặc đánh ra khu vực Đà Nẵng, hoặc đánh vào Nha Trang, nhưng có nhiều khả năng là đánh lên Tây Nguyên. Liên khu 5 có khoảng 30.000 quân, trong đó có khoảng 12 tiếu đoàn chính quy và từ 5 đến 6 tiểu đoàn địa phương rất thiện chiến. Họ ở "tuyến trong" nên có điều kiện đánh ra nhiều hướng khác nhau. Còn trái lại, chúng tôi lại ở "tuyến vòng ngoài" của họ, nên chúng tôi phải đề phòng trên cả ba hướng Nam Đà Nẵng, Bắc Nha Trang và Tây Nguyên; giữa những nơi này, quân cơ động của chúng tôi muốn can thiệp thì chỉ có thể đến được bằng những chặng đường dài và khó khăn. Chúng tôi phải chống đỡ với cuộc tiến công của Việt Minh trong những điều kiện rất khó xử. Để đương đầu với họ, tối thiểu Pháp phải bỏ ra 5 binh đoàn cơ độngn1). Thế mà để mở cuộc hành quân Atlante. Pháp trù tính là phải có 6 binh đoàn, trong khi ở các khu vực khác, vẫn phải có đủ lực lượng để hỗ trợ cho địa phương. Giữa hai biện pháp: biện pháp phòng thủ chẳng giải quyết được gì hết, và biện pháp tiến công, cũng không loại trừ được vĩnh viễn sự uy hiếp của đối phương, đối với lục quân, "cái giá phải trả" cũng gần như ngang nhau'1’. Còn đốì với không quân, tiến công cũng không tốn kém gì hơn so với phòng ngự2. Những chi tiết trên chứng tỏ rằng, trái với một số điều viện dẫn, cuộc hành quân Atlante được khởi sự từ ngày 20 tháng 1, chỉ trước khi Việt Minh đánh lên Tây Nguyên 8 ngày. Nếu Atlante không ngăn được Việt Minh mở cuộc tiến công này, thì nó cũng làm cho sức mạnh tiến công của Việt Minh phải giảm sút. Nó chủ yếu gồm những máy bay không thể dùng được ở mặt trận Điện Biên Phủ do tinh trạng máy móc hoặc do kiểu loại không thích hợp. Thế là diễn ra một trận giao chiến lộn ẩu, khó phân biệt, vừa trên Cao Nguyên, vừa dưới đồng bằng ven biển. Đầu tháng 3, chúng tôi chiếm được phần phía Nam Liên khu 5 tối tận tuyến An Khê (thuộc chúng tôi) - Quy Nhơn (thuộc Việt Minh). Ngược lại chúng tôi mất phần phía Bắc Cao Nguyên tới tận tuyến An Khê - Plâycu, những nơi này vẫn còn trong tay chúng tôi. Trận chiến có chiều hướng cân bằng. Việt Minh chiếm được Kon Tum nhưng phải từ bỏ ý định chiếm An Khê và Plâycu. Còn chúng tôi, nhất là từ khi có dự định họp Hội nghị Geneve, chúng tôi có những rắc rối lớn đối với những đơn vị quốc gia Việt Nam và lính miền núi (người Thượng): từ chổi không đi đánh nhau, đào ngũ, bỏ trốn đốt cả đơn vị, tự thương. Mặt khác, các quan chức dân sự và quân sự, được giao cho những khu vực đã chiếm, tỏ ra bất lực trong việc bình định và cai trị những nơi ấy. -------------- 1. Một binh đoàn cơ động ờ Nha Trang, một ở Đà Nẵng và ba trên Tây Nguyên. 2. Cái "giá" này không phải là tính thiệt cho Điện Biên Phủ hay Đồng bằng vì, trong 6 binh đoàn cơ động cần thiết thì có 5 binh đoàn là người bản xứ ở Nam Bộ, Trung Bộ và miền núi - nghĩa là những đơn vị không thể đảm nhận được ở ngoài Bắc (họ sẽ tự thương hay đào ngủ khi phải điều đi quá xa gia đỉnh). Chỉ có một binh đoàn Bắc Phi là có thể sử dụng được ở ngoài Bắc. Nhưng lấy họ đi thì rất nguy hiểm bởi đó là đơn vị duy nhất có chất lượng và sự có mặt của nó là cần thiết để làm chỗ dựa cho một mớ tạp nham những đơn vị quá yếu kém. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:00:24 am Cuộc chiến ỏ đồng bảng Bắc Bộ đến cuối tháng 2 năm 1954 Từ cuối tháng 10 năm 1953, dù cuộc chiến có gay go, Đồng bằng vẫn chỉ là một mặt trận thứ yếu. Cả lực lượng bên trong và cả lực lượng nằm rìa Đồng bằng sẵn sàng nhảy vào cuộc (lực lượng này có chiều hướng giảm xuống), tổng số Việt Minh từ 78 tiểu đoàn ngày 15 tháng 10 năm 1953 đa hạ xuống còn khoảng 50 tiếu đoàn ngày 18 tháng 12 năm 1953. Cũng trong thời gian trên, tôi buộc phải lấy bớt ở Đồng bằng một số đơn vị thuộc lực lượng tổng dự bị để đối phó VỚI hoạt động Việt Minh trên các mặt trận khác. Nhưng lấy đi bao nhiêu là tương ứng với việc rút bớt lực lượng của Việt Minh ở Đồng bằng và đều có tính toán sao cho cân bằng lực lượng không bị phá vỡ theo chiều hướng bất lợi cho tôi. Thực ra ở Đồng bằng, lực lượng Pháp có ưu thế hơn rất nhiều so với đốì phương, tới mức có thể nghĩ rằng sẽ chẳng có cuộc tổng tiến công vào Đồng bằng tháng 11 năm 1953, như trước đây Pháp dự kiến. Trái với những điều người ta thường nói, Bộ chỉ huy Bắc Bộ đã luôn luôn có đủ lực lượng ở Đồng bằng để đối phó với những uy hiếp nghiêm trọng của đối phương. Do địa bàn tác chiến nhỏ hẹp, giao thông lại tương đổi thuận tiện, việc điều hành tác chiến ở chiến trường này không gặp nhiều khó khăn bằng những chiến trường khác như Trung Lào và đặc biệt là Tây Nguyên. Sau cuộc hành quân Hải Âu, tình hình Đông Dương tương đôi yên tĩnh. Cuối tháng 12 năm 1953, Sư đoàn 320 được xây dựng lại đã xâm nhập khu Nam, trong khi một trung đoàn độc lập địa phương tiến vào hoạt động ở khu Bắc. Tình hình có khó khăn hơn nhưng không đến nỗi nghiêm trọng. Vào giữa tháng 2 năm 1954, tình hình yên tĩnh trỏ lại và tình trạng này kéo dài tới những ngày đầu tháng 3. Cuộc chiến ỏ Trung phần và Nam phần Việt Nam Ở đây chỉ có những cuộc chiên đấu có tính chất địa phương nhưng không phải không gay go, do ở những chiến trường này, chúng tôi đã phải rút những đơn vị có chất lượng đến các mặt trận khác. Nêu một tấm gương đoàn kết, giúp đỡ bạn bè trong chiến đấu, Tướng Bourgund, chỉ huy Trung phần và các Tướng Bondis và Gardet, kế tiếp nhau chỉ huy Nam phần, đã biết tự bằng lòng với những lực lượng bị giảm tới mức tối thiếu để đương đầu với tình hình.Tình hình chung từ cuối tháng 2 Cuối tháng 2, tiến công của Việt Minh hình như được mở rộng tới mức tối đa. Những mũi tiến công chính của họ đã bị chặn lại trước Điện Biên Phủ, Mường Sài, Luang Prabang, Sênô và Plâycu. Ở Nam Lào và Bắc Campuchia, cũng như ở Tây Nguyên, họ còn tiến thêm nhưng dần dà do xa hậu cứ, khó tiếp tế, họ đã chuyển sang hoạt động du kích. Tuy nhiên, hoạt động của họ đã gây trở ngại rất nhiều cho tuyến giao thông theo dọc sông Mê Kông của Pháp (Đường số 13), tuyến đường huyết mạch để tiếp tế cho Lào mà ở nước này. rất nhiều công trình nghệ thuật (khoảng 275 công trình) đã trở thành mục tiêu không ngừng đánh phá của họ. Một vài cuộc đánh phá khác ở khu vực trung tâm và phía Nam Tây Nguyên cũng làm cản trở giao thông của Pháp với Plâycu và An Khê. Trên Tây Bắc, Việt Minh đã chuẩn bị xong để đánh Điện Biên Phủ. Tin tức cho hay là gần như chắc chắn cuộc tiến công sẽ bắt đầu vào ngày l5 tháng 3. Cuộc chiến nhất định sẽ rất gay go những chúng tôi biết được theo nguồn tin chắc chắn là lượng súng đạn của họ chỉ cho phép họ kéo dài chiến đấu được trong vài ngày. Như vậy, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ thắng trận. Để phối hợp với mặt trận chính Điện Biên Phủ, chắc chắn Việt Minh sẽ đẩy mạnh hoạt động ở đồng bằng, đánh đồn bốt, đường giao thông và căn cứ không quân. Vì vậy, Pháp đã có biện pháp đề phòng. Tóm lại, nhờ cái "nhọt hút độc" Điện Biên Phủ, ở đấy 12 tiểu đoàn của Pháp từ 3 tháng nay đã kìm chân được 33 tiểu đoàn Việt Minh, Pháp đã tạo ra được một thế cân bằng trên toàn chiến trường Đông Dương, và có thể đương đầu được với khối chủ lực cơ động tác chiến của đối phương đông mạnh hơn lực lượng cơ động của chúng tôi. Để kết thúc chiến cục với "tỷ số hòa" như ý định của tôi, có hai điều kiện cần phải thực hiện: phải thắng trong trận chiến đấu phòng ngự ở Điện Biên Phủ và làm tiêu tan các cuộc tiến quân nguy hiểm nhất của đối phương trên các mặt trận khác. Vì thế. tôi đã đưa ra những mệnh lệnh nhằm tăng cường sức mạnh phòng thủ ở Điện Biên Phủ lên mức tối đa và tiếp tục tiến công đối phương trên những mặt trận thứ yếu. Chỉ thị ngày 25 tháng 1 năm 1954 của tôi đã nêu tổng quát nội dung các mệnh lệnh trên. Vào thời kỳ ấy, sau một thời gian công cán ở Đông Dương, phái đoàn do Bộ trưởng Quốc phòng Pleven cầm đầu đã trở về Pháp. Phái đoàn gồm các ông: De Chévigné Bộ Quốc phòng; Marc Jacquet, Bộ các Quốc gia liên kết; Tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng: Tướng Blane, Tham mưu trưỏng quân đội; Tướng Fay, Tham mưu Trưởng Không quân. Phái đoàn đã thăm tất cả các mặt trận, đặc biệt là Điện Biên Phủ; đã cùng tôi chia sẻ niềm tin vào kết quả của chiến cục đang tiến hành. Phái đoàn còn lạc quan hơn tôi về triển vọng tương lai đến nỗi tôi còn phải đặc biệt dè chừng họ khi thấy họ đặt quá nhiều hy vọng vào nỗ lực chiến tranh ở Việt Nam. Khi trở về Pháp, phát biểu trước Quốc hội, ông Pleven không hề che giấu niềm tin của mình. Sự lạc quan thể hiện thái quá ở ông về những gì liên quan đến một tương lai gần, và sau đó ông đã phủ nhận, đã hoàn toàn được chứng minh là có thực. Trong một báo cáo mật, ông Pleven còn trình bày với Chính phủ những kết luận mà ông rút ra về chính trị và quân sự. Trong phạm vi tác chiến báo cáo của ông dựa vào báo cáo của Tướng Ely, mà theo Ely thì để chặn Việt Minh tiến về hướng Tây Bắc, không đâu tốt hơn Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Ba, 2016, 11:04:58 pm Hội nghị Geneve và cuộc tổng tiến công của Việt Minh Giữa lúc cuộc chiến đang ở thế ổn định chung và hơn thế nữa, tới một bước cải thiện, và ở Điện Biên Phủ, trận đánh sẽ được tiến hành trong những điều kiện thuận lợi thì một sự kiện quan trọng đã xẩy ra làm đảo lộn mọi vấn đề. Tại Hội nghị Berlin, họp từ 25 tháng 1 đến 18 tháng 2, nước Pháp đã yêu cầu1 mở một cuộc hội nghị về những vấn đề Viễn Đông, dự kiến họp ở Geneve vào tháng 4, trong đó sẽ nêu lên vấn đề hòa bình ở Đông Dương cả ông cao ủy và tôi đều không được báo trước, được hỏi về thời cơ mở hội nghị, càng không được tham gia ý kiến về ngày giờ, về thời hạn và những thành phần dự hội nghị. Ngược lại, Việt Minh hoàn toàn biết trước và ý thức được họ có thể chờ đợi được những gì ở hội nghị. Thế là lập tức họ kết hợp toàn bộ hoạt động quân sự của họ với sự kiện ngoại giao đó, sự kiện mà họ biết sẽ tạo cơ hội để nhanh chóng giành thắng lợi quyết định. Điều chỉnh lại kế hoạch chiến lược, họ đã tiến hành tổng phản công sớm trước dự định một năm và có khi trước hai năm, để giành lấy toàn thắng2. Vậy là, do sáng kiến bất hạnh của các nhà lãnh đạo chính trị nước Pháp mà tình hình quân sự đột nhiên trở thành bất lợi đối vói chúng tôi. Theo nguồn tin chắc, chắn, chúng tôi biết Việt Minh sẽ tổng tiến công vào những ngày đầu tháng 3i1!. Và nó đã trở thành sự thật. Chúng tôi phát hiện họ đẩy nhanh việc bố trí lực lượng và phương tiện các loại để chuấn bị cho tiến công. Nhiều đơn vị quan trọng được tăng cường cho đạo quân đánh Điện Biên Phủ. Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh trong dân chúng và quân đội. Chúng tôi được biết ở khắp mọi nơi, Việt Minh đã ra những chỉ thị "tăng cường hoạt động" và chuẩn bị để đánh đến tận tháng 7, nghĩa là đến giữa mùa mưa, khác hẳn với những năm trước là đến lúc ấy họ phải dừng lại. Việt Minh sẽ tiến công trên tất cả các mặt trận, nhằm kiểm chế phân tán các lực lượng mặt đất và trên không của chúng tôi, những nỗ lực chủ yếu là nhằm vào Điện Biên Phủ. Đây là nơi đối phương muốn giành được thắng lợi vang dội, đánh bại ý chí của Pháp và bảo đảm cho thắng lợi chính trị ở Geneve. ------------- 1. Trong cuốn "Thảm kịch Đông Dương, ông Laniel viết: "Chúng ta đã yêu cầu (tôi, Navarre, gạch dưới) là hội nghị có đủ tư cách... đế tìm kiếm một giải pháp cho chiến tranh Đông Dương và muốn làm vậy, cần phải triệu tập CHND Trung Hoa, các Quổc gia liên kết ở Đông Dương và các đại biểu của Việt Minh tới họp”. 2. Một sỹ quan Việt Minh chiêu hồi tháng 1 năm 1955 đã khai: "Hội nghị Berlin, quy định triệu tập Hội nghị Geneve, được lãnh đạo Việt Minh coi là rất quan trọng. 1) Nó đánh dấu một bước tiến về quốc tế hóa chiến tranh. 2) Nó thúc đẩy các nhà lãnh đạo Việt Minh tìm cách thương lượng trực tiếp với nước Pháp. 3) Nó thúc đẩy Việt Minh, Liên Xô và Trung Quốc tiến hành mọi nỗ lực để đến dự đàm phán vói tư thế có lợi. Vì thế từ lúc ấy, viện trợ Trung Quốc được đẩy mạnh, nhất là về đạn dược, vũ khí và xe cộ. Trong thời kỳ đang diễn ra trận Điện Biên Phủ, rồi Hội nghị Geneve, ngày nào ông Hồ Chí Minh cũng có liên lạc tiếp xúc với "ông Malacov"." Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 08:32:46 pm center]
Tiến công của Việt Minh trên các mặt trận khác [/center] Trận Điện Biên Phủ là nội dung sẽ trình bày ở các chương sau. Trước khi trình bày nó, tôi sẽ nói vắn tắt trên các mặt trận thứ yếu. cuộc tổng tiến công của Việt Minh diễn ra như thế nào và kết quả ra sao. Ở Nam Viêt Nam, tình trạng "ruỗng nát" và chiến tranh du kích phát triển. Trung phần Vỉêt Nam, đối phương đẩy mạnh chiến tranh du kích, gây cho chúng tôi nhiều khó khăn và buộc chúng tôi phải từ bỏ chiến dịch dự định như đã dự kiến. Trên Cao nguyên và khu vực Atlante, cuộc chiến tiếp diễn xung quanh Plâycu và An Khê. Chúng tôi chiếm được Quy Nhơn nhưng không nổĩ liền được Quy Nhơn với An Khê. Đối phương xâm nhập vào sau lưng, uy hiếp Tuy Hòa, Ban Mê Thuột và ngay cả Đà Lạt. Ở Trung Lào, đối phương lọt vào khu dãy núi đá vôi ở Đông Thà Khẹt, không vây được quân Pháp nhưng cũng kìm chân được nó. Ở Hạ Lào và Campuchia, một số tiểu đoàn Việt Minh uy hiếp Sanavan và Pắcxê, chiếm Vươn Sai và tiến vào rừng núi Bắc Cămpuchia. Ở Bắc Lào, để cô lập và vây kín Điện Biên Phủ, Việt Minh đẩy lùi các đơn vị Pháp từ Luang Prabang và Mường Sài tiến lên phía Bắc định thiết lập liên lạc với tập đoàn cứ điếm. Cuối cùng ở Đồng bằng, chiến sự trở nên ác liệt. Việt Minh đánh mạnh vào những tuyến giao thông chính của Pháp (đường sắt và đường bộ Hải Phòng - Hà Nội), hệ thống đồn bốt và căn cứ không quân. Đánh đồn bốt và sân bay, kết quả thu được thấp. Nhưng kết quả nhất là đánh giao thông, có lúc họ đã làm tê liệt gần như hoàn toàn tuyến đường Hải Phòng - Hà Nội trong 4 ngày. Sở dĩ họ đạt được kết quả là do sự bố trí lực lượng của chúng tôi quá tồi: khi nào nó được bố trí thích hợp hơn thì khi đó tiến công của đối phương sẽ bị đánh bại. Cuối cùng, chúng tôi cũng giữ được một thế cân bằng bấp bênh cho đến lúc kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, nhung cũng phải trả giá rất đắt về tiêu hao và tổn thất lực lượng. Tướng Cogny luôn yêu cầu tôi tăng viện cho đồng bằng. Tôi không thể đáp ứng yêu cầu ấy mà không làm yếu đi một cách nguy hiểm những mặt trận khác mà ở đó, khó khăn nếu không hơn thì ít nhất cũng không kém gì đồng bằng, vả lại, những yêu cầu ấy cũng không chính đáng lắm, vì còn xa Bộ chỉ huy Hà Nội mới tận dụng hết các lực lượng bản thân mình có trong tay. Thực vậy, trong chỉ thị nhiệm vụ cho họ, có quy định trong trường hợp bị uy hiếp cực kỳ nghiêm trọng, họ có thể rút bớt những đồn bốt không cần thiết, lấy lực lượng đó mà tăng cường cho các đồn bốt khác hoặc cho những đơn vị cơ động. Với quy định này (mà Tướng Cogny chưa bao giờ sử dụng) và thêm vào đó một chút đầu óc sáng tạo, Cogny hoàn toàn có thể lấy ra được những lực lượng cần thiết để nếu không đánh ra hậu phương Việt Minh chi viện cho Điện Biên Phủ thì chí ít cũng tự lực đương đầu được với đối phương ở chiến trường đồng bằng mà không đòi hỏi thêm tăng viện. Tóm lại. trên ba hướng phụ - trong đó có Đồng bằng Bắc Bộ - tổng tiến công của Việt Minh thể hiện bằng các hành động nhằm kiềm chế lực lượng mặt đất của chúng tôi, làm yếu sức mạnh không quân Pháp và thu hút nó ra khỏi Điện Biên Phủ. Đôi với không quân Pháp, ý định đó của Việt Minh không đạt mấy kết quả, nhưng đối với việc kiểm chế lực lượng mặt đất thì họ đã thành công không thể chối cãi được. Họ đã buộc chúng tôi phải dành một số lớn đơn vị để làm nhiệm vụ bảo vệ giao thông, sân bay và giải tỏa các đồn bốt bị bao vây. Chúng tôi đã bị giam chân mất một bộ phận lực lượng quan trọng lý ra có thể dùng để mở một chiến dịch chi viện cho Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 08:38:19 pm CHƯƠNG VI MỞ ĐẦU VỀ ĐIỆN BIÊN PHỦ Tại sao Điện Biên Phủ? Muốn hiểu tại sao tôi cho chiếm Điện Biên Phủ và chấp nhận giao chiến ở đây, cần phải quay lại tình hình cuối tháng 10 năm 1953, khi Việt Minh bỏ ý định tiến công đồng bằng mà hướng nỗ lực lên miền Thượng du Bắc Bộ và Bắc Lào. Những ngày cuối tháng 10, chúng tôi lần lượt biết tin Việt Minh đánh phá các "chiến khu" ở xứ Thái của chúng tôi và Sư đoàn 316 rời vùng ven đồng bằng tiến lên Lai Châu. Đầu tháng 11, có nhiều triệu chứng chứng tỏ các Sư đoàn 304, 308 và 312 cũng nối gót Sư đoàn 312 tiến lên Tây Bắc. Rồi dần dần, nhờ những nguồn tin chắc chắn (giải mã tin địch), kế hoạch của Việt Minh đã lộ rõ dưới con mắt chúng tôi. Kế hoạch đó nhằm triệt phá các "chiến khu" của Pháp ở Tây Bắc Đông Dương, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Lai Châu, sau đó chiếm toàn bộ Bắc Lào. Căn cứ xuất phát cho các chiến dịch đó được dự kiến là Điện Biên Phủ. Đứng trước tình hình vào mười ngày đầu tháng 11 đã trở nên rõ ràng đối với tôi, một vấn đề đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết ngay lập tức nếu không muốn bị đối phương vượt lên trước, đó là: có phải bảo vệ nước Lào hay không? Và nếu có, thì bảo vệ như thế nào? Bảo vệ Lào luôn luôn là thuộc phần nghĩa vụ của Bộ tổng chỉ huy ở Đông Dương. Như người ta đã biết, vấn đề từ bỏ nghĩa vụ này đã được các tham mưu trưởng các quân chủng đặt ra với Hội đồng Quốc phòng hồi tháng 7 năm 1953, nhưng sau đó nó không có ý kiến giải quyết. Vậy là nghĩa vụ đó vẫn tồn tại. Chẳng những thế, nó còn mang tính chất là một mệnh lệnh nhất quyết phải chấp hành khi mà ngày 28 tháng 10, một hiệp ước đã được ký kết với Lào, theo đó Lào gia nhập khối Liên hiệp Pháp và nước Pháp cam kết phải bảo vệ Lào. Hiệp ước này được Chính phủ coi như một mẫu mực gợi ý phương hướng cho những cuộc đàm phán đang tiến hành với Việt Nam và Campuchia1. Không tôn trọng nó chỉ 15 ngày sau khi ký, có nghĩa là phá bỏ chính sách này. Mặt khác như tôi đã nói. về mặt quân sự việc bảo vệ Thượng Lào đối với Pháp cần thiết nếu Pháp không muốn chứng kiến cái cảnh chỉ vài tháng nữa toàn bộ miền Trung và miền Nam Đông Dương sẽ bị sụp đổ. Được tôi hỏi ý kiến về việc này hồi đầu tháng 11, ông cao ủy đã trả lời rằng, không bảo vệ Lào là một điều "không thể tưởng tượng được". Ông Marc Jacquet, Quốc vụ khanh phụ trách quan hệ với các Quốc gia liên kết, tối Đông Dương giữa tháng 11, cũng trả lời tôi tương tự như vậy và còn nói thêm là nếu Việt Minh tới được sông Mê Kông thì chắc chắn dư luận nước Pháp sẽ bị một cú "sốc" choáng váng đến nỗi không còn có thể tiếp tục chiến tranh được nữa. Lý do để bảo vệ Lào vậy là đã rõ và coi như được đồng ý. Nhưng bảo vệ Lào như thế nào? Bằng cách trực tiếp hay gián tiếp? Vấn đề này chương trước đã nghiên cứu. Và người ta đã biết do lực lượng không đủ và kém thích nghi, nên dù có muốn thế nào, tôi chỉ có mỗi một cách là bảo vệ trực tiếp. Từ xứ Thái sang xứ Lào có hai trục đường, cả hai đều dẫn đến vùng Thượng sông Mê Kông. Một đường qua Sầm Nưa và Cao nguyên Trấn Ninh, đường này đã có tập đoàn cứ điểm Cánh Đồng Chum, do Tướng Salan thiết lập năm ngoái, chặn lại. Một đường tốt hơn, đi từ Tuần Giáo, Điện Biên Phủ và lưu vực đi lại được của sông Nậm Hu, tới Luang Prabang. Theo nguồn tin giải mã thì chính con đường nói sau là con đường đại quân Việt Minh sẽ đi. Chúng tôi tính toán có thể ngày 1 tháng 12 họ sẽ tới Điện Biên Phủ và cuối tháng, sẽ tới Luang Prabang. Những tuần đầu của năm 1954, chúng tôi có thể thấy họ xuất hiện ở khu vực Viêng Chăn và tràn tới biên giới Xiêm. Cũng như tôi đã trình bày với Hội đồng Quốc phòng ngày 24 tháng 7 năm 1953, do điều kiện địa hình và sự kém thích nghi của lực lượng chúng tôi. Việc bảo vệ Lào một cách trực tiếp tuyệt đối là không thế bảo đảm được bằng cách đánh theo kiểu vận động chiến. Vậy cần phải có biện pháp khác. Đó là biện pháp thiết lập các "căn cứ không - bộ", các "con nhím" hay các "tập đoàn cứ điểm" - biện pháp tuy tồi tệ nhưng là cái duy nhất chúng tôi có thể làm được. Biện pháp này không ngăn nổi hoạt động của các đơn vị nhỏ nhưng chặn được đối phương tiến công lớn. Đó cũng là chiến lược năm trước Tướng Salan đã áp dụng, với việc tổ chức tập đoàn cứ điếm Nà sản và Cánh Đồng Chum. ------------------ 1. Ngày 26 tháng 10, trong một diễn văn chính thức, ông Paul Raynaud, phó Chủ tịch Hội đồng đã phát biểu: "Hiệp ước với Lào mang lại một giải pháp cho vấn đề cần phát triển khổì liên hiệp Pháp như thế nào". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 08:45:13 pm Trong điều kiện hiện tại, chúng tôi có thể tổ chức phòng thủ ở đâu? Xét một cách kỹ lưỡng thì Luang Prabang và Viêng Chản đều không thể được, cả hai thành phố này đều không có điều kiện tốt để tổ chức phòng thủ, cả điều kiện mặt đất và trên không. Luang Prabang nằm trong một "cái hố" bị khống chế chặt chẽ. Viêng Chăn có điều kiện tổ chức phòng ngự dễ dàng hơn nhưng phải tôn rất nhiều công sức để phát quang. Hơn nữa ở cả hai nơi. sân bay đều xa thành phố nên không thể tổ chức được một tập đoàn cứ điểm ôm gọn được cả thành phố và sân bay. Cuốì cùng hai thành phố đều xa đồng bằng - nơi đặt các căn cứ không quân - nên vận chuyển đều quá tốn kém.
Mặt khác, ngay cả cho rằng khi đổ công đổ của1 vào xâv dựng Luang Prabang và Viêng Chăn đủ mạnh để đối phương không dám tiến công, thì chúng tôi cũng không thể ngăn được họ chiếm các vùng xung quanh và có mặt trên sông Mê Kông. Nếu không bị buộc phải giao chiến, Việt Minh vẫn có thể tới được sông Mê Kông mà không phải tung vào đấy toàn bộ lực lượng của họ, và họ có thể dành một bộ phận lực lượng đáng kể để hoặc tiến công đồng bằng, hoặc đánh vào miền Trung Đông Dương. Thế là trong chiến cục 1954, người ta sẽ được chứng kiến cái cảnh: mất Thượng Lào và đồng thời, hoặc thua thiệt lớn ở đồng bằng do lực lượng hai bên quá chênh lệch2), hoặc Việt Minh sẽ qua Trung Lào phát triển mạnh xuống phía Nam gây nguy hiếm cho chúng tôi. Để ngăn không cho đối phương vừa không phải giao chiến mà vẫn tới được Mê Kông, vừa có dư lực lượng để gây nguy hiếm cho chúng tôi ở các nơi khác, chỉ có một giải pháp duy nhất: đó là chặn đường của họ bằng một tập đoàn cứ điểm, xây dựng với những điều kiện như thế nào đấy để, hoặc nếu muốn vòng qua thì họ phải bỏ ra nhiều lực lượng để bao vây kiềm chế, hoặc là buộc phải tiến công trực tiếp vào để mở đường đi qua. Vậy đặt tập đoàn cứ điếm ấy ở đâu? Nếu chọn Lai Châu - nơi duy nhất chúng tôi còn giữ được ở Tây Bắc - thì nơi này vừa khó phòng thủ lại vừa quá xa đường tiến của Việt Minh mà chúng tôi cần phải chặn. Vậy điếm duy nhất thích hợp đê xây dựng một căn cứ không - bộ theo ý định của chúng tôi là Điện Biên Phủ, nơi trước đây chúng tôi vẫn đóng quân nhưng đã phải rút bỏ năm ngoái trước sự uy hiếp của Việt Minh. Trước khi về nước, Tướng Salan đã trù tính chiếm lại Điện Biên Phủ. Trong một bản nghiên cứu ngày 25 tháng 5 năm 1993 về vấn đề bảo vệ Thượng Lào, ông đã viết: "Cần thiết phải bổ sung cho thế bố trí hiện tại bằng việc thiết lập một trung tâm đề kháng mới ở Điện Biên Phủ. Tôi đã đề ra việc chiếm lại Điện Biên Phủ từ những ngày đầu tháng 1 năm 1953, khi thấy quả là nó rất cần thiết cho sự an toàn của Luang Prabang. Những sự kiện tháng 4-5 gần đây càng chứng tỏ sự cấp bách của việc làm đó mà chỉ do thiếu phương tiện vận tải không quân, ta đã không thực hiện được nó trước cuộc tiến công sau cùng của Việt Minh"3. Chừng nào chưa chiếm lại được Điện Biên Phủ chừng đó đường sang Luang Prabang còn bị bỏ ngỏ bởi giữa Điện Biên Phủ và kinh đô Lào, chúng tôi không có một vị trí nào có thể tổ chức chặn được đối phương. Trái lại, chiếm được Điện Biên Phủ. chúng tôi sẽ khóa được con đường một cách rất có hiệu quả, bởi vị trí này chỉ có thể vòng qua một cách rất khó khăn bằng những con đường mòn phải vượt qua núi rất xấu. Tuy nhiên, đối với không quân, Điện Biên Phủ có một bất tiện rất nghiêm trọng: nó quá xa đồng bằng, nơi duy nhất Pháp có căn cứ không quân. Đó là một bất lợi mà chẳng may chúng tôi phải chấp nhận vì không có cách gì khác thay thế. Mặc dù vậy, so với Luang Prabang hay Viêng Chăn, yếm trợ không quân cho Điện Biên Phủ vẫn cứ tốt hơn nhiều. Vả lại. khoảng cách xa gây trở ngại cho không quân Pháp thì nó cũng gây nhiều khó khăn cho Việt Minh về vận chuyển tiếp tế. Thực vậy, từ Điện Biên Phủ đến các điếm đưa viện trợ vào trên biên giới Việt - Trung, khoảng cách phải trên 300 cây sô. Mọi đường dẫn đến các điếm nhận hàng ấy đều bị phá. Muốn đánh Điện Biên Phủ, Việt Minh chỉ có thể giải quyết khâu vận chuyển tiếp tế bằng lực lượng dân công mang vác, do đó đê sử dụng sức mạnh binh khí kỹ thuật, khả năng của họ rất hạn chế: trong một bản nghiên cứu tháng 5 năm 1953, Tướng Salan cho rằng, do vận chuyển khó khăn, Việt Minh không thể sử dụng được vũ khí nặng trên chiến trường rừng núi Thượng du với số lượng lớn. Xem xét về mặt chiến thuật, những điều kiện để phòng thủ ở Điện Biên Phủ cũng giống như những điều kiện của mọi tập đoàn cu điếm được xây dựng xung quanh một sân bay thiết lập trên chiến trường rừng núi. Vị trí của sân bay đương nhiên nằm trong một lòng chảo, bởi người ta còn chừa tìm được cách xây dựng những sân bay vắt vẻo trên những điểm cao. Tuy nhiên, lòng chảo Điện Biên Phủ là lòng chảo rộng nhất trên toàn miền Thượng du. Lòng của nó thực sự là một cánh đồng dài rộng 16 trên 9 km, cho phép sử dụng được xe tăng thiết giáp. Những đỉnh núi cao không chế nó còn cách sân bay tới 10-12km; xung quanh sân bay là các vị trí của tập đoàn cứ điếm, ỏ cự lỵ ngoài tầm bắn của pháo binh hiện có của đôi phương. Muốn bắn tới nơi, pháo binh Việt Minh phải bố trí trên phía sườn núi đổ xuống lòng chảo. Phòng không của họ muốn kiểm soát không phận sân bay thì cũng phải làm như thế. Được hỏi ý kiến, các pháo thủ của Pháp đều cho rằng đó là điều Việt Minh không dám làm vì nếu vậy, lập tức pháo của họ sẽ bị chúng tôi phản pháo và cùng với không quân "bịt miệng" ngay. Xét một cách toàn diện, có tính toán cả những bất lợi của một căn cứ không - bộ xây dựng trên miền núi, có thể coi Điện Biên Phủ là một lối thoát xấu nhưng có thế chấp nhận được. Dẫu sao nó cũng hơn Nà Sản(4, Lai Châu và Luang Prabang. Đó là những lý do khiên tôi quyết định chiếm Điện Biên Phủ và chấp nhận giao chiến ở đấy. Giải pháp là tồi tệ đấy nhưng có thể "chơi" được với một đối thủ mà chúng tôi nghĩ có lý là phải đương đầu. Và nghĩ cho cùng, chúng tôi cũng chang có giải pháp nào hơn. Như người ta nói: chính trị là biết đê lựa chọn giữa những điều bất lợi. Trong chiến lược, thường cũng phải làm thế, nhất là trong phòng ngự. ------------- 1. Còn tốn hơn rất nhiều so với để phòng ngự ở Điện Biên Phủ. 2. Tướng Cogny đã nhiều lần tỏ ra rất lo lắng cho triển vọng của đồng bằng nếu xảy ra giao chiến, tới mức ông đã trù tính có khi phải bỏ cả Hà Nội. 3. Tướng Salan đả liên tiếp ra bốn chỉ thị về việc chiếm lại Điện Biên Phủ: 17-12-1952, 30-12-1952, 7-1 1953, 22-1 1953. 4. Đã từng chỉ huy ở Nà Sản rồi sau đó ở Điện Biên Phủ, Tướng Gilỉes cho rằng khả năng phòng thủ ở Điện Biên Phủ tốt hơn rất nhiều so vói Nà sản. Lý lẽ của ông như sau: ơ Nà Sản, do lòng chảo hẹp (5km trên 2), người ta phải - và có thê - chiêm các điếm cao khống chê xung quanh. Nhưng có tới 30 điểm tựa tầm không chế rất kém. Chỉ cần đối phương chiếm 2 hoặc 3 trong sô các điếm tựa ấy và họ bám giữ được thì lập tức khu lòng chảo sẽ năm dưới hỏa lực bắn gần của họ. ơ Điện Biên Phủ, Pháp khống thê giữ được các cao điếm không chế nhưng nó ở quá xa nên nếu đôi phương có chiếm thì họ củng không thê gày nguy hiếm cho bên phòng thủ. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 08:52:12 pm Chiếm Điện Biên Phủ Vậy là tôi quyết định, vào cuôi của 10 ngày đầu tháng 11, sẽ chiếm Điện Biên Phủ và thiết lập ở đấy một căn cứ không - bộ để che chở cho Lào. Chiến dịch không phải "ngẫu hứng" vì trước đó các kế hoạch đã xây dựng. Thực vậy, như người ta đã biết nhiều lần trong mùa hè, Tướng Cogny đã đề nghị tôi cùng lúc với việc rút bỏ Nà Sản - nơi mà ông xét thấy về chiến lược thì bố trí sai chỗ, về chiến thuật thì là một cái "vực thắm giam chân" nên chiếm lấy Điện Biên Phủ, nơi có một vị trí tốt hơn xét về mọi phương diện1. Vì chưa đủ lực lượng dự bị, chúng tôi đã lui cuộc hành quân lại muộn hơn. Và dự kiến sẽ tiến hành vào tháng 12 năm 1953 hoặc tháng 1 năm 1954 với kế hoạch phối hợp tiến công bằng ba mũi: một mũi từ Lai Châu đánh xuống, mũi khác từ Lào đánh sang và một mũi, đổ bộ đường không chụp xuống mục tiêu. Nhưng bây giờ cần phải hành động nhanh, vượt trước khối chủ lực cơ động Việt Minh. Do lực lượng ở Lai Châu chưa đủ, còn lực lượng ở Lào thì chưa chuẩn bị sẵn sàng, cho nên tôi quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ hoàn toàn bằng quân nhảy dù. Ngày được chọn là 20 tháng 11 bởi vài ngày sau đó là lực lượng Pháp đã có thể đứng chân vững chắc, dù khả năng chiến đấu khi những đơn vị đi đầu của đối phương tới nơi. Một binh đoàn gồm 6 tiểu đoàn dù và 1 tiểu đoàn pháo (75 không giật) sẽ bất ngờ đổ xuống chiếm Điện Biên Phủ. Sửa xong sân bay, 3 tiếu đoàn dù sẽ được thay thế bởi một binh đoàn cơ động đưa từ đồng bằng lên bằng máy bay. Theo đề nghị của Tướng Gilles, chỉ huy cuộc hành quân, ba tiểu đoàn dù còn lại sẽ tổ chức thành đội dự bị chung để phản kích địch, một nhiệm vụ chỉ có thể do những đơn vị bộ binh thật tinh nhuệ đảm đương. Lực lượng đóng ở Lai Châu sẽ rút về Điện Biên Phủ khi xuất hiện nguy cơ bị uy hiếp nghiêm trọng. Chiến dịch lấy mật danh là Castor. Mọi chi tiết được xác định xong trong cuộc họp ngày 17 tháng 11 tại nhiệm sở của tôi ở Hà Nội và do tôi chủ trì. Tham dự cuộc họp có phó của tôi là Tướng Bodet, Tướng Cogny và phó của ông là Tướng Masson, Tướng Gilles, người sẽ trực tiếp chỉ huy chiến dịch, và Tướng Dechaux, chỉ huy không quân Bắc Bộ. Tất cả mọi người dự họp đều nhất trí về ý nghĩa sống còn của việc tái chiếm Điện Biên Phủ và không một ai có ý kiến về thời cơ tiến hành chiến dịch này2. Riêng việc nhảy dù xuống mục tiêu chắc chắn là có nguy hiểm. Thực vậy chúng tôi biết rằng ở Điện Biên Phủ, Việt Minh có một tiểu đoàn địa phương đóng quân ngay ở đây, ngoài ra họ còn có 2 hay 3 tiểu đoàn nữa đóng ở cự ly có thể sẵn sàng ứng cứu được. Vậy là những đơn vị nhảy dù của Pháp sẽ rơi xuống đúng một nơi được phòng thủ rất mạnh mẽ. Hơn nữa nguy hiếm lại càng lớn bởi do không đủ phương tiện chuyên vận, chúng tôi không thể nhảy dù xuống chỉ trong một đợt. Thế là nổ ra một cuộc tranh luận xem có nên chấp nhận mạo hiếm như thế hay không? Tôi để mọi ngưòi phát biểu ý kiến. Tướng Masson tỏ ra rất bi quan, ước tính Pháp sẽ bị tôn thất khoảng 50%. Tướng Gilles nói Pháp phải mạo hiếm lớn nhưng ông sẵn sàng làm vì "cái được thua" ở đây rất quan trọng. Tướng Dechaux nhấn mạnh một vài khó khăn mà không quân vận tải phải gánh vác những không cho là Pháp không làm được. Còn Tướng Cogny thì trả lời theo kiểu nước đôi: một mặt vẫn nhắc lại tầm quan trọng chủ yếu của Điện Biên Phủ. những mặt khác lại lưu ý về sự mạo hiểm của cuộc nhảy dù, và ông không kết luận ra sao. Riêng Tướng Bodet thì phát biểu thắng thắn là ông ủng hộ việc tiến hành chiến dịch. Tôi quyết định ngày 20 tháng 11 sẽ tiến hành cuộc hành quân Castor, nếu điều kiện khí hậu đủ cho phép. Ngại rằng Tướng Cogny, mà thái độ do dự khiến tôi chú ý, có thể phút cuối cùng nao núng, tôi yêu cầu Tướng Bodet ở lại Hà Nội (tôi có việc buộc phải trở vào Sài Gòn) và nhân danh tôi, vào sáng 20, căn cứ vào những tin tức cuối cùng về khí hậu. sẽ quyết định cho tiến hành chiến dịch ngay ngày hôm ấy, hoặc lui lại ngày hôm sau hoặc ngày sau nữa. Như đã dự kiến, ngày 20 tháng 11, 3 tiểu đoàn dù nhảy xuống Điện Biên Phủ. vấp phải sự kháng cự khá mạnh mẽ của tiểu đoàn địa phương mà chúng tôi biết có mặt ở đấy và gây cho họ hoàn toàn bất ngờ. Sau đấy, đối phương không có phản ứng nào khác. Ngày 21 và 22, 3 tiểu đoàn dù nữa được đưa lên Điện Biên Phủ cùng một tiếu đoàn pháo binh. Ngày 22, liên lạc được với Lai Châu. Ngày 24, sửa xong sân bay và đường bay đã mở3. ------------- 1. Cuối tháng 6, Tướng Cogny viết cho tôi: "... Như tôi đã đề nghị với ông là rút bỏ Nà sản khi nào ông bắt đầu cầm quyển... Tôi cũng đã lưu ý ông việc xây dựng một căn cứ không - bộ ở Điện Biên Phủ tốt hơn so vói Nà Sản biết bao. Do biến động tình hình ở xứ Thái và sau khi suy nghi, tôi thấy cần nhắc lại đề nghị này một cách đầy đủ hơn...". Và cũng trong thư này, Tướng Cogny đánh giá Điện Biên Phủ là chiếc chìa khóa của Thượng Lào". 2. Phải sau đó nhiều năm tôi mới biết là vài hôm trước, bộ tham mưu lục quân Bắc Bộ có nêu ý kiến đó được viết dưới dạng những tấm "phiếu” và gửi cho Tướng Cogny. Nhưng ông này, rất ủng hộ chiến dịch, đã không để ý đến những lời phản đối và củng không hề nói với tôi. Ý kiến phản đối như sau: a) chiếm Điện Biên Phủ sẽ làm cho đồng bằng thiếu mất đi những tiểu đoàn giỏi (đây là lý do chính); b) tái chiếm Điện Biên Phủ là để bảo vệ Lào nhưng Lào đâu có bị đe dọa (lý lẽ này sai); c) tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ chẳng ngăn chặn được Việt Minh đánh sang Lào vì họ chỉ cần vòng qua bên cạnh (thực tế sau này chứng minh lý lẽ này củng sai nốt). Trong các tâm phiếu này, không có gì đả động tới khả năng Pháp sẽ bị thất bại. 3. Từ lâu Điện Biên Phủ đã có sân bay. Bây giờ cần sửa lại và mở rộng thêm. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 08:56:50 pm Tổ chức chỉ huy Trận giao chiến sẽ xảy ra mang tầm cỡ chiến lược đối với toàn Đông Dương bởi nó nhằm mục đích bảo vệ Lào. những đồng thời nó cũng đóng vai trò một cái "ung nhọt hút độc" có lợi cho cả Bắc Bộ và miền Trung Đông Dương. Về lý thuyết, nó phải được giao cho một cơ quan chỉ huy đặc biệt, trực thuộc với Tổng chỉ huy ỏ Đông Dương. Nhưng trên thực tế, làm thế lại không thuận. Điện Biên Phủ thuộc đất Bắc Bộ. Đường giao thông của đối phương chạy từ đầu chí cuối lãnh thổ ấy. Về không quân và hậu cần, trận đánh phụ thuộc vào đồng bằng, nơi chỉ ở đấy mối có những căn cứ đủ sức chi viện cho nó. Để chỉ huy trận đánh, duy nhất chỉ có bộ tham mưu lục quân và không quân ở Hà Nội là có khả năng bởi chỉ có nó mới có phương tiện. Thế là quyền chỉ huy được giao từ đầu chí cuối cho một bộ chỉ huy gồm Tướng Cognv, chỉ huy lục quân Bắc Bộ và Tướng Dechaux, chỉ huy không quân chiến thuật phía Bắc. Thực ra trong bộ chỉ huy hỗn hợp này, Tướng Cogny giữ vai trò quyết định nhất, vì ông chịu trách nhiệm hoàn toàn về tác chiến mặt đất của trận đánh và cả về hướng dẫn không quân tiến hành các phi vụ sao cho trực tiếp hoặc gián tiếp có lợi cho lực lượng mặt đất. Thế mà gần như toàn bộ hoạt động của không quán là phải tập trung vào thực hiện các phi vụ này. Tuy nhiên, do trận đánh có tầm quan trọng , chiến lược đối vói toàn Đông Dương nên tôi đã cứ tướng Bodet, phó của tôi. thường trực tại Hà Nội và ủy nhiệm cho ông có quyền quyết định những vấn đề thuộc cấp của tôi. Giúp việc ông, có một bộ phận nhỏ sỹ quan tham mưu. Cuối cùng bản thân tôi cũng luôn luôn có mặt tại Hà Nội cả trước và trong trận đánh (khi trận đánh xảy ra, tôi có mặt ở Hà Nội quá nửa thời gian, đặc biệt là trong những thời kỳ gay cấn nhất). Một vấn đề khác là tự tôi nắm quyền chỉ huy chiến dịch. Tôi đã không chấp nhận phương pháp này vì hai lý do. Một là, và đây là cái chính, tôi phải đương đầu với một cuộc tiến công lớn của Việt Minh diễn ra trên toàn Đông Dương, cho nên tôi không thể chỉ trực tiếp chỉ huy một chiến dịch, cho dù nó quan trọng đến đâu, mà lại bỏ lơi các chiến dịch khác. Lý do thứ hai, mà kinh nghiệm cho thấy, là giải quyết vấn để chỉ huy theo kiểu như thế thường dễ làm rối loạn nếp chỉ huy bình thường và điều đó chẳng đưa lại được cái gì tốt đẹp. Tướng Cogny theo thông lệ có quyền quyết định tất cả những gì liên quan đến trận đánh. Cái gì liên quan đến phạm vi cả mặt đất và trên không thì có sự nhất trí vói Tướng Dechaux. Những gi thuộc phạm vi cấp Tổng chỉ huy thì do tôi quyết định, và nếu tôi vắng mặt thì do Tướng Bodet, theo đề nghị của Tướng Cogny và Tướng Dechaux. Cho nên chưa bao giờ, như người ta nói, có chuyện thiếu sự phối hợp giữa các bộ chỉ huy Sài Gòn và Hà Nội. Và cũng chưa bao giờ có chuyện bất đồng quan điếm giữa Tướng Cogny và tôi về những vấn đề chiến lược hay chiến thuật do trận đánh đặt ra, chỉ trừ một điều mà sau đây tôi sẽ nói. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 09:03:07 pm Những việc xảy ra trước trận đánh Trong những ngày đầu tháng 12, những bộ phận đi đầu của Sư đoàn 316 đã tiến đến gần Lai Châu. Tướng Cogny mà ý định ban đầu là "chơi cặp bài trùng Lai Châu - Điện Biên Phủ" quyết định rút Lai Châu ngay tức khắc. Bây giờ ông đã nhận ra tốt hơn là nên tập trung sức phòng thủ vào một "tập đoàn cứ điểm duy nhất" (như ông gọi) là Điện Biên Phủ. Tôi đồng ý quyết định này bởi xét thấy Lai Châu chẳng quan trọng gì mấy về chiến lược và ở đấy cũng khó phòng thủ1. Ngày 8 tháng 12, số quân chính quy đóng ở Lai Châu được chuyển về Điện Biên Phủ bằng máy bay. Số đơn vị phụ lực quân (lính dõng - ND) phải rút theo đường bộ, nhưng trước đó đã có rất nhiều người đào ngũ. Nhiều đơn vị bị chặn đánh dọc đường và tổn thất nặng. Một số khác chạy vào các "chiến khu". Tướng Cogny hy vọng từ căn cứ Điện Biên Phủ ông sẽ cho tiến hành những hoạt động mà ông gọi là "hành động tiến công mạnh mẽ" để làm chậm việc bài binh bố trận của đối phương. Nhưng trên thực tế, hoạt động mạnh mẽ đó mới chỉ hạn chế ở một vài cuộc lùng sục tuần tiễu hoặc trinh sát trong cự ly gần. Thực vậy, Tướng Cogny đã sớm nhận ra mình không có khả năng để thực hiện những hành động mạnh mẽ đó vì một mặt nó đòi hỏi phải có lực lượng lớn, mặt khác còn phải nhanh chóng xây dựng tập đoàn cứ điểm đê đủ sức đương đầu với đối phương2. Nhưng lý do chủ yếu của việc này là binh lính, ngay cả những đơn vị giỏi nhất đều tỏ ra kém thích nghi vối chiến đấu ở rừng núi mà cuộc hành quân Hải Âu trước đây cũng như mấy lần đụng độ qua vái cuộc lùng sục thám thính vừa rồi ở quanh Điện Biên Phủ đã chứng minh rất rõ rệt. Ngày 8 tháng 12, Đại tá De Castnes thay Tướng Gilles chỉ huy Điện Biên Phủ. Lý do của sự thay đổi này, mà xung quanh có những lời bình luận sai lạc như sau: Tướng Gilles là người chỉ huy toàn bộ quân dù ở Đông Dương. Chịu trách nhiệm huấn luyện và tổ chức những đơn vị mối để đáp ứng những yêu cầu kế hoạch, ông không thể xa lâu vị trí chỉ huy của ông. Vả lại, sức khỏe của ông rất kém (ông đã chết ít năm sau). Để thay ông, Tướng Cogny là người chịu trách nhiệm lựa chọn, đã tìm được trong hàng ngũ đại tá có hai người có khả năng lên chỉ huy ở Điện Biên Phủ, là Đại tá Vanuxem và Đại tá De Castries. Nhưng lúc ấy đang vướng trong một cuộc hành quân quan trọng ở đồng bằng, nên chưa rảnh. Còn De Castries thì có thể nhận nhiệm vụ ngay tức khắc. Đó là lý do duy nhất khiến Cogny chọn De Castries3. Tôi lập tức phê chuẩn việc bổ nhiệm bởi từ lâu tôi đã biết De Castries đặc biệt là hồi ở Đức, De Castries đã công tác dưới quyền tôi và tôi đã có điều kiện để đánh giá cao khả năng quân sự của ông. Ngưòi ta hỏi, tại sao lại chọn một sỹ quan thiết giáp trong khi thông thường chỉ huy tập đoàn cứ điểm phải là một sỹ quan bộ binh? Sự phân biệt giữa "bộ binh" và "thiết giáp” này là một khái niệm cũ kỹ và lỗi thời. Đặc biệt là với Đại tá De Castries, điều kiện chiến đấu của ông ở Ý, Pháp, Đức và hai lần phục vụ ở Bắc Bộ, đã rèn luyện ông thành một "dân bộ binh" hoàn toàn có giá trị. Vả lại, trong các "dân bộ binh" lúc này có mặt ở Đông Dương, không ai là người có kinh nghiệm bằng ông vê kiểu chiến tranh sắp diễn ra ở Điện Biên Phủ, một kiểu chiến tranh trận địa mang dáng dấp của cuộc chiến tranh 1914-1918. Người ta lại hỏi, tại sao lại giao cho một đại tá quyền chỉ huy, lẽ ra là phải của một ông tướng? Bởi vì ở Đông Dương, như tôi đã nói, do thiếu sỹ quan cấp tướng nên việc một đại tá đảm đương nhiệm vụ cấp tướng là một điều bình thường. -------------- 1. Trích bức điện ngày 8 tháng 12 năm 1953 của Tướng Cogny thông báo về việc rút Lai Châu: Lai Châu là nơi "không có giá trị quân sự", là "một cái bẫy chuột thực sự"... "Trái lại Điện Biên Phủ là nơi có thể phòng thủ tốt...", "tăng cường Điện Biên Phủ sẽ làm tăng hiệu quả các hành động tiến công xuất phát từ tập đoàn cứ điểm duy nhất này". 2. Tướng Cogny hoàn toàn đồng ý có thể đưa quân số ở Điện Biên Phủ lên tới mức ấn định, bằng cách thúc đẩy nhanh việc chuyển vận quân lên. Nhưng ông đã không làm do quá bấn bíu với đồng bằng. Ông củng có thể dùng tù nhân đế tăng thêm nhân công cho Điện Biên Phủ. Song ông củng không làm nốt. 3. Người ta viết rằng, có nhiều tướng và đại tá được đưa ra chọn trước De Castries nhưng đều bị gạt. Hoàn toàn là nói sai. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 09:07:25 pm Dù thê nào, tôi tin chắc rằng bất kỳ ai trong số những người có thê được lựa chọn - dù cấp tướng và thuộc bộ binh chăng nữa - cũng không thể làm hơn Đại tá De Castries.
Dần dần, tin tức cho hay một lực lượng lớn đối phương đã được điều lên thượng du và họ đã có một nỗ lực ghê gớm chưa từng có trong tổ chức bảo đảm hậu cần. Ba Sư đoàn rưỡi (316, 308, 312 và một bộ phận của 304) đang trên đường hành quân. Có triệu chứng cả "Sư đoàn nặng" 351 cũng tham gia. Việt Minh đã huy động được 75.000 dân công sửa chữa khôi phục được 200 km đưòng cho ô tô và làm mới gần 100 km nữa. Việt Minh đã thiết lập được một tuyến đường giao thông chạy thông suốt từ đầu chí cuối cho ô tô. Đường dài khoảng 350 km, chạy từ biên giới Trung Quốc ở Cao Bằng và Lạng Sơn, vòng qua Đồng Đăng, qua Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái (ở đây có đường tiếp tế từ Lào Cai theo sông Hồng xuôi về) rồi nhờ một đoạn đường mới xâv dựng, đường nối liến với đường 41 (Hòa Bình - Lai Châu) ở gần Nà Sản. Đường kết thúc ở Tuần Giáo (cách Điện Biên Phủ 50 km), ở đó Việt Minh lập một căn cứ hậu cần lớn để cung cấp tiếp tế cho đạo quân đánh Điện Biên Phủ. Đến Tuần Giáo, còn hai tuyến đường nữa. Một đường đến từ Trung Quốc qua bản Nậm Cúm và Lai Châu; đường này ngắn, sử dụng sông suối và đường mòn khó đi nên hiệu quả hạn chế, chủ yếu là chở gạo. Còn một đường khác đến từ Thanh Hóa theo lưu vực sông Mã, hiệu quả cũng thấp. Không quân Pháp cố gắng ngăn chặn tuyến vận chuyển chính của đôi phương bằng cách đánh phá giao thông và các đoàn xe vận tải. Nhưng vô hiệu. Phá đến đâu, họ sửa liền đến đấy1. Ô tô, xe thồ, dân công chỉ đi đêm. hoặc đi vào những lúc thời tiết xấu máy bay Pháp hoạt động khó khăn, và ngụy trang rất chu đáo khéo léo khiến chúng tôi khó quan sát. Chúng tôi lại thiếu máy bay nên chẳng đạt được kết quả gì cho ra trò. Trước tình hình đó, tôi yêu cầu Chính phủ chú ý tới mối đe dọa của Việt Minh đối với Điện Biên Phủ và nhấn mạnh sự gia tăng viện trợ của Trung Quốc. Trong thư ngày 1 tháng 1 năm 1954, tôi viết: "Trường hợp bị tiến công, khả năng thành công sẽ thế nào? Trước đây hai tuần, tôi đánh giá khả năng đó là 100% (...). Nhưng trước sự tăng cường lực lượng của đối phương mà tin chắc chắn cho biết, thì tôi không dám khẳng định khả năng thế nữa. Bởi trước hết, ở đây là một trận đánh của không quân. Thế mà không quân ta lại quá yếu so với nhiệm vụ nặng nề nó phải đảm đương". Từ đó tôi yêu cầu phải cấp bách tăng cường không quân. Nhưng chẳng có một chữ nào trả lời cho thư của tôi. Trong chuyến công cán sau này ở Đông Dương, ông Marc Jacquet chỉ cho tôi biết: Chính phủ đánh giá lời lẽ của tôi là "quá bi quan" và ông Paul Raynaud còn gọi nó là "Tiểu thuyết đen". Tướng Bodet, phó của tôi, được đặc trách cử về Pháp báo cáo tình hình tuy nhiên cũng nhận được một sự đồng ý trên nguyên tắc là sẽ tăng cường cho một số phương tiện không quân có tính chất thứ yếu. Nhưng nó cũng đến quá chậm - phải giữa chừng cuộc chiến vào lúc đã rất gay go nó mới có mặt - nên tác dụng chẳng còn mấy. Ngày 25 tháng 12, chúng tôi tiến hành một cuộc hành quân bắt liên lạc giữa Điện Biên Phủ với lực lượng Pháp ở Lào: các lực lượng này đã tới được Thượng sông Nậm Hu và tiến ra sục sạo thăm dò tới Sốp Nao. Phía Việt Minh, họ đã chiếm các khu vực xung quanh Điện Biên Phủ, thắt một vòng vây gần kín những không tìm cách tiếp xúc gần. Khoảng 20 tháng 1, tất cả đều chứng tỏ tiến công sắp xảy ra đến nơi. Trong đêm 25 rạng 26 và ngày 26, phía đối phương có nhiều cuộc vận chuyển, cả pháo binh, bộ binh và súng đạn. Máy bay và pháo binh Pháp có đánh phá. Nhưng cuộc tiến công đã không xảy ra. ----------- 1. Trên tuyến giao thông chính của Việt Minh, có gần 40 điểm Pháp có thể cắt đường được một cách hiệu quả. Gần các điểm đó, Việt Minh đều bố trí lực lượng để vừa phá xong là họ sửa liền. Mọi cố gắng của Pháp để ngăn cản họ sửa đường (bắn phá, dùng bom nô chậm v.v...) đều vô hiệu. Hiếm có một điếm phá nào có thể làm gián đoạn giao thông của họ quá 24 giờ. Hơn nữa, trong khi vừa sửa, họ vẫn tiếp tục vận chuyển bằng cách tăng bo hoặc vòng tránh qua. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 09:14:55 pm Một trong những nguyên nhân đối phương chưa đánh là do chuẩn bị đủ phương tiện - đặc biệt là đạn1. Mặc dù rất quan trọng, viện trợ Trung Quốc cho đến thời điểm ấy vẫn chưa đủ để giúp cho Việt Minh sức mạnh cần thiết đế đánh chiếm những tập đoàn cứ điếm mạnh như Điện Biên Phủ.
Tuy nhiên, qua việc lui ngày tiến công và theo nhiều nguồn tin, trong đó có cả những tin của các nước phương Đông thì Pháp có thể hiểu rằng lý do chính khiến Tướng Giáp quyết định tạm hoãn tiến công là việc sắp họp Hội nghị Berlin, khai mạc đúng ngày 25 tháng 1. Nắm chắc ý định của Chính phủ Pháp là yêu cầu mở một cuộc hội nghị để giải quyết vấn đề hòa bình ở Đông Dương'1), Bộ chỉ huv tối cao Việt Minh không muốn mạo hiếm chuốc lấy ở Điện Biên Phủ một thất bại, hoặc ngay cả chỉ một nửa - thất bại, có thể khiến họ lâm vào thế yếu trong cuộc hòa đàm sắp tới. Họ thấy tốt hơn là chờ viện trợ Trung Quốc, lúc này đang gia tăng hết sức mạnh mẽ. cung cấp đủ cho họ các phương tiện để bảo đảm đánh chắc thắng2. Cuối tháng 1, những nguồn tin rất có giá trị cho chúng tôi biết Việt Minh sắp tiến công sang Thượng Lào và ngay sau đó, nó đã được chứng minh là chính xác. Sư đoàn 308, tách khỏi đội hình bao vây và được tăng cường trung đoàn độc lập 148, tiến sang hướng Luang Prabang. Được báo kịp thời, lực lượng của Pháp ở Thượng sông Nậm Hu dưới sự chỉ huy xuất sắc của Tiếu đoàn trưởng Vaudray, đã tránh được đòn tiến công của địch và rút một bộ phận về Luang Prabang, một bộ phận về Mường Sài. Sư đoàn 308 hành quân cấp tốc tới được Nậm Bạc, nửa đường đi Luang Prabang thì buộc phải dừng lại. do quá khó khăn về tiếp tế3. Trong thòi gian ấy, Đại tá De Castries cho quân lùng sục thăm dò xung quanh Điện Biên Phủ. Nơi nào Pháp cũng vấp phải những trận địa tổ chức phòng ngự tốt. Vòng vây không có chỗ nào rạn nứt. Bắt đầu từ lúc ấy, diễn ra một cách dồn dập, những hậu quả của quyết định của Hội nghị Berlin (25/1 - 18/2) về việc sắp tới sẽ họp một hội nghị bàn về Vấn đề hòa bình ở Đông Dương. Từ ngày 23 tháng 2, chúng tôi biết tin Sư đoàn 308 đang trở lại đội hình của đạo quân bao vây Điện Biên Phủ. Có thêm nhiều triệu chứng của một cuộc tiến công đang đến gần. Đối phương từng bước xiết chặt vòng vây. chiếm thêm nhiều vị trí ở sườn phía Đông và Bắc của lòng chảo. Họ đặt ở đấy nhiều đài quan sát pháo mặt đất và pháo phòng không. Chúng tôi được tin một lực lượng lớn quân tăng cường, khoảng 25.000 người lấy từ các nguồn dự trữ và cả những đơn vị địa phương của đồng bằng và Trung Bộ, đang trên đương lên Điện Biên Phủ. Trên tuyến giao thông, bây giờ xe chạy cả đêm lẫn ngày, dù có bị một vài thiệt hại do không quân quá thiếu và kém hậu quả của Pháp gây ra. Những ngày đầu tháng 3, có khả năng Việt Minh sẽ bắt đầu tiến công tập đoàn cứ điếm vào ngày 15 và cùng ngày ấy, tất cả các mặt trận phối hợp sẽ đều nổ súng để kiềm chế quân bộ và không quân của Pháp ở khắp mọi nơi. Trong chỉ thị ngày 25 tháng 2, tôi đã xác định việc điều hành trận chiến đấu phòng ngự ở Điện Biên Phủ sẽ được tiến hành trong những điều kiện như thế nào. Đặc biệt chỉ thị đã dự kiến tổ chức một đội dự bị gồm 5 tiểu đoàn dù (trong đó có 2 tiểu đoàn lấy ở Tây Nguyên) để sẵn sàng chi viện cho tập đoàn cứ điểm. ---------------- 1. Chúng tôi biết chính xác (qua tin địch giải mã) số lượng súng đạn Việt Minh có lúc bấy giờ và họ chưa có thêm chuyến hàng nào khác để chờ đợi. 2. Phái đoàn Pháp ở Hội nghị Berlin, chắng giữ mồm giữ miệng gỉ cả, đã tiết lộ tin này và cuối cùng Việt Minh đã biết, do một thông tin viên của họ nắm được qua tiếp xúc với cán bộ ngoại giao Pháp. Vấn đề này đã được Đại tá Rocolle nghiên cứu rất kỹ lưỡng trong cuốn "Tại sao Điện Biên Phủ?" của ông. 3. Tập đoàn cứ điếm Điện Biên Phủ đã chặn mất con đường duy nhất đi lại được, nên để tiếp tế cho Sư đoàn 308, Việt Minh phải dùng những đường mòn rất xấu. Qua tin địch giải mã, chúng tôi biết được đối phương đang gặp phải những khó khăn ghê gớm. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2016, 09:23:35 pm Tổ chức phòng ngự Mới đầu chúng tôi dự định chỉ tổ chức ở Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điểm cỡ 5 đến 6 tiểu đoàn và 1 tiểu đoàn pháo binh. Dự định này phù hợp với những tin tức nhận được vào khoảng tháng 11, qua đó, Pháp chắc chỉ phải đương đầu với riêng Sư đoàn 316 có tăng cương chút ít. Đến giữa tháng 12, khi thấy Việt Minh điều lên Tây Bắc các Sư đoàn 308, 312, 304 và cả Sư đoàn nặng 351, chúng tôi nhận thấy dù đối phương có đưa một phần lực lượng nói trên sang Cánh Đồng Chum, thì Điện Biên Phủ vẫn sẽ phải đương đầu với một lực lượng mạnh hơn nhiều so vối dự kiến ban đầu. Vậy chúng tôi cần mở rộng tập đoàn cứ điểm và tăng cường lực lượng cho nó. Đại tá De Castries đã vạch một kế hoạch mới theo sự chỉ dẫn của Tướng Cogny và kế hoạch này đã được tôi thông qua có bổ sung, thêm bớt đôi chỗ. Quân số được đưa lên 12 tiểu đoàn (bộ binh và dù), một tiếu đoàn xe tăng nhẹ, hai tiểu đoàn pháo 105, một đại đội pháo 155 (để phản pháo) và 4 đại đội súng cối 120. Ở sân bay có 6 máy bay khu trục và máy bay thám thính. Ngày 13 tháng 3, bộ đội ỏ Điện Biên Phủ có đủ lượng súng đạn, lương thực như dự kiến. Ngoài ra, dây thép gai đã bố trí xong xuôi với số lượng gấp ba tiêu chuẩn bình thường và Pháp còn có một số vũ khí khí tài đặc biệt: súng phun lửa, mìn na pan, phương tiện chống đạn khói, máy ngắm hồng ngoại tuyến v.v... Theo tính toán của Bộ chỉ huy Hà Nội, trong trường hợp bị tấn công, ngày chiến đấu bình thường phải tiêu thụ 70 tấn các loại, ngày căng thẳng phải 96 tấn1. Vận chuyển khối lượng ấy đòi hỏi không quân phải cố gắng lớn nhưng không phải là quá sức2 Chúng tôi cũng nghiên cứu về những điều kiện chống pháo mặt đất và pháo phòng không của đối phương. Kết quả rất khả quan. Tất cả các chỉ huy pháo binh đều cho rằng do điều kiện địa hình ở đây. cả pháo mặt đất và pháo phòng không của địch đều không thể bố trí, nhất là khi bắn, mà không bị phát hiện và không bị pháo binh, không quân Pháp phản kích một cách có hiệu quả3. Báo cáo của pháo binh Pháp kết luận: "Ít có khả năng đối phương có thế bắn vào các vị trí của Pháp trong ban ngày và lúc trời trong. Họ sẽ bị pháo binh và không quân ta trả đũa ngay tức khắc". Báo cáo về pháo phòng không viết4: "Để đưa pháo 37 vào sát cự ly có thể uy hiếp máy bay ta khi cất cánh, hạ cánh và thả dù, đối phương sẽ gặp khó khăn rất lớn... Ngay nếu không phải như thế thì phản pháo của ta củng như một vài biện pháp đề phòng thụ động (chọn khu vực thả dù, thu hẹp phòng lượn của máy bay) vẫn có thể đảm bảo được việc tiếp tế mà không bị tổn thất quá đáng... Hay ít nhất nữa là ta vẫn có thế tiếp tế bằng không quân của ta vẫn luôn luôn được đảm bảo". Trước khi sắp bị tiến công, tập đoàn cứ điểm được tổ chức như sau: Một trung tâm vừa làm nhiệm vụ đề kháng vừa bảo vệ sân bay, gồm 5 cụm cứ điếm: Claudine, Huguette, Anne Marie (Bản Kéo), Dominique và Eliane. Cách 2-3 km về phía Bắc và Đông Bắc, có hai cụm cứ điểm: Gabrielle (Độc Lập) và Béatrice (Him Lam) làm nhiệm vụ bảo vệ khu trung tâm trên những hướng nguy hiểm nhất. Cách 7 km về phía Nam là cụm cứ điếm Isabelle (Hồng Cúm) có nhiệm vụ chính là chi viện pháo binh cho khu trung tâm. Lực lượng dự bị có 3 tiểu đoàn dù và tiểu đoàn xe tăng. Mỗi cụm cứ điểm có hàng rào dây thép gai dày rộng 50 km vây quanh; giữa các cứ điểm trong cụm cũng có hàng rào ngăn cách. Các lớp rào đều được tăng cường mìn nhẩy, mìn napan. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là tập hợp những gì được phòng thủ mạnh nhất và chưa từng có ở Đông Dương. --------------- 1. Tính toán theo kinh nghiệm Nà Sản. 2. Trái vói điều người ta thường nói, không làm gì có chuyện Bộ chỉ huy không quân đã chống lại việc giao cho không quân vận tải một nhiệm vụ quá nặng. Vài nhà báo bịa ra chuyện có một "báo cáo của Đại tá Nicot", chỉ huy không quân vận tải mà thực ra nó không hề có. Chỉ có việc sau đây là đúng: trong cuộc họp 11-11-1953 ở Bộ tham mưu Hà Nội, Đại tá Nicot đã khách quan trình bày những khó khăn kỹ thuật mà không quân vận tải sẽ phải khắc phục. Nhưng ông không hề nói những khó khăn ấy không thể vượt qua nổi. Và ông đã đồng ý nhận khối lượng vận tải hàng ngày mà Bộ tham mưu đề ra. Cả Tướng Lauzin, chỉ huy không quân Đông Dương và Tướng Dechaux chỉ huy không quân Bắc Bộ, đều thấy không cần thiết phải phản ảnh cho tôi những nhận xét của Đại tá Nicot. 3. Chỉ huy pháo binh tập đoàn cứ điểm, chỉ huy pháo binh Bắc Bộ, chỉ huy pháo binh Đỏng Dương và Tướng Cogny, cùng là dân pháo binh. Trong dịp thăm Điện Biên Phủ, Tham mưu trưởng lục quân Blane củng tán thành ý kiến này. 4. Bản nghiên cứu này có sự cộng tác của các sỹ quan Mỹ, đã từng có kinh nghiệm về loại pháo phòng không 37 của Nga sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 04:58:02 am Địch thủ Vào ngày Điện Biên Phủ bị tiến công, ngày 13 tháng 3, tình hình đối phương như sau: Lực lượng bao vây tiến công gồm tất cả là 33 tiểu đoàn, trong đó có 27 tiểu đoàn dùng để tiến công trực tiếp và 6 tiểu đoàn phối hợp với lực lượng địa phương dùng để chặn các hướng Pháp có thế tiến đến cứu ứng. Pháo binh gồm một trung đoàn sơn pháo 75, một trung đoàn 105, mỗi trung đoàn 20 khẩu. Ngoài ra còn có một số lượng lớn súng cối nặng và pháo không giật1. Lực lượng phòng không có 4 tiểu đoàn súng máy cao xạ (tức 100 khẩu trọng liên 12,7) và một tiểu đoàn tiểu cao 37 gồm 16 khẩu. Nhưng mạnh nhất là một trung đoàn pháo gồm 4 tiểu đoàn (tổng cộng 64 khẩu) trang bị loại pháo 37 mm kiểu mới của Nga. Theo nguồn tin giải mã, chúng tôi biết chắc chắn Việt Minh đã chuẩn bị được một lượng đạn rất lớn (15.000 đạn 105, 5.000 đạn 75, 25.000 đạn súng cối và 45.000 đạn 37 phòng không), nhưng nó vẫn chưa đủ để cho phép họ chiến đấu được dài ngày. Đến ngày 9 tháng 3, theo ước lượng của Bộ tham mưu Hà Nội, khả năng đạn pháo của Việt Minh chỉ có thể bảo đảm chi viện cho một trận đánh kéo dài độ 5-6 ngày, bao gồm đánh 2 hoặc 3 cụm cứ điếm. Nhưng chúng tôi cũng biết, Trung Quốc còn viện trợ sang nhiều nữa. Xung quanh tập đoàn cứ điểm, Việt Minh đã xây dựng một hệ thống đường mòn có ngụy trang, cho phép họ chở đạn đến gần các khẩu đội pháo. Chúng tôi biết họ đã xây dựng nhiều trận địa cho cả pháo mặt đất và pháo phòng không, nhưng những trận địa này đã được ngụy trang khéo đến mức chúng tôi chỉ có thể phát hiện được một số rất ít. Đối phương bố trí pháo của họ rất khác với cách thông thường: họ bố trí từng khẩu riêng rẽ, đặt trên những vị trí có thể quan sát trực tiếp được mục tiêu. Pháo lại được đặt trong hầm và bắn qua lỗ châu mai. Cách sử dụng pháo binh này và nhất là việc Việt Minh có nhiều pháo phòng không hơn Pháp dự kiến, khiến máy bay ném bom và trinh sát của Pháp hoạt động kém hiệu quả, đã làm cho các tính toán của các pháo thủ Pháp trở nên lôi thời2. Hiện thời để bổ sung tổn thất, đối phương chỉ có tại chỗ khoảng 6.000 đến 8.000 người. Nhưng chúng tôi biết rồi họ sẽ tăng số quân dự bị này lên gấp ba hoặc bốn lần. Từ tình hình trên người ta có thể kết luận rằng, cho đến giữa tháng 2, Việt Minh chỉ dự định tiến hành một trận đánh ngắn ngày với cường độ có hạn do đạn dược chưa nhiều và cũng chỉ với mức tổn thất tối đa về người mà họ có thể chấp nhận. Nhưng từ khi có quyết định họp Hội nghị Geneve thì họ quyết tâm mở một trận đánh dài ngày với cường độ cao - một trận đánh mà để tiến hành nó họ dám chấp nhận những tổn thất nặng và đã có được những phương tiện đáng kể tuy chưa phải tất cả đã sẵn sàng. Thực vậy, nhiều lực lượng và phương tiện mới đang ùn ùn kéo lên Điện Biên Phủ. Hỏa lực phòng không tăng lên một cách mạnh mẽ do sự có mặt của một trung đoàn pháo cao xạ mới, trang bị hiện đại, huấn luyện tốt; đơn vị này hẳn sẽ có vai trò quyết định đốì với lưới lửa phòng không của đối phương. Những ngày cuối của trận đánh, còn có dấu hiệu Việt Minh sử dụng cả tên lửa đất đối không. Cũng những ngày cuối của trận đánh, Việt Minh đã sử dụng dàn hỏa tiễn của Liên Xô, gọi là "đàn oóc Stalin", làm tăng thêm nhiểu sức mạnh hỏa lực pháo binh. Đạn ngày càng được đưa lên vói số lượng lớn mà Pháp không nắm được chính xác. Chúng tôi chỉ biết là trong suốt trận đánh, pháo binh Việt Minh đã bắn trên 200.000 đạn pháo và súng cối nặng. Cuối cùng, lực lượng quân bổ sung của họ đã lên tới trên 25.000 ngưòi. ❖ Trong ba tháng rưỡi, từ khi Pháp chiếm Điện Biên Phủ cho đến khi nó bị tiến công, tôi đã nhiều lần lên đấy. Trong những lần ấy, tôi đã chỉ thị cho thay đổi về bố phòng của tập đoàn cứ điểm, khác với dự kiến của Tướng Cogny. Đặc biệt theo lệnh tôi, Pháp đã tổ chức thêm cụm cứ điếm Isabelle, lấy đó làm trận địa pháo để bắn chi viện cho khu Trung tâm3. Cũng theo lệnh tôi, Pháp đã đưa lên Điện Biên Phủ tiểu đoàn xe tăng (trước đây chưa dự kiến) và bổ sung thêm nhiều dây thép gai cũng như các vũ khí đặc biệt - nhất là súng phun lửa, máy hồng ngoại - mà bộ chỉ huy Hà Nội không nghĩ tới việc sử dụng. -------------- 1. Pháo không giật: đối với Pháp là súng của bộ binh, nhưng với Việt Minh, đó được coi là pháo. 2. Dùng pháo binh từng khâu riêng rẽ như vậy đương nhiên sẽ không thể tập trung được hỏa lực cao, và hiệu quả vật chất của pháo binh Việt Minh sẽ có thể tương đối thấp. 3. Khi bố trí thêm cụm cứ điểm này, người ta đã phạm sai lầm là bố trí nó quá xa khiến pháo binh đặt ở đấy đã không thể chi viện một cách có hiệu quả cho các cụm cứ điểm ở phía Bắc (tức Him Lam và Độc Lập). Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 05:02:21 am Tôi cũng phải đưa ra khá nhiều nhận xét bằng miệng hoặc bằng văn bản về tình trạng thiếu vững chắc của các hầm trú ẩn và công sự cho pháo1.
Trong quá trình tôi lên xem xét kiểm tra, người ta có trình bày với tôi vê kế hoạch phản kích khi địch chiếm được một vài cụm cứ điếm vòng ngoài, tôi hoàn toàn yên tâm khi thấy kế hoạch đó được chuẩn bị chu đáo và tin rằng mặc nhiên người ta cứ theo thế mà thi hành. Nhưng tôi đã sai lầm khi không kiểm tra đến nơi đến chốn những lời họ nói. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng Tướng Cogny và bộ tham mưu của ông tỏ ra chán ngán khi từ nay phải coi Điện Biên Phủ là mối quan tâm hàng đầu của họ. Từ trước đến giờ chỉ hoàn toàn chú mục đến cuộc chiến ỏ đồng bằng, nay họ khó kham nổi cái ý nghĩ là tạm thời đó không phải là nhiệm vụ chính của họ nữa. Ngày 27 tháng 12 năm 1953, từ Điện Biên Phủ trở về và nhận thấy một số chậm trễ trong công tác tổ chức phòng thủ, tôi đã gửi cho Tướng Cogny một bức điện mà kết luận của nó là: "Trong trách nhiệm chung của ông với đồng bằng và Thượng du, phải dành ưu tiên cho Thượng du, đặc biệt là phòng thủ Điện Biên Phủ". Lệnh ấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho đến ngày Điện Biên Phủ bị tiến công. Thái độ ương bướng muốn dành ưu tiên cho Đồng bằng của Bộ chỉ huy Hà Nội thể hiện ở khuynh hướng chỉ gửi lên Điện Biên Phủ những tiếu đoàn chất lượng kém. Họ viện đủ cớ để giữ ở Đồng bằng những đơn vị khá mà nhiều lần tôi phải can thiệp để buộc họ phải thay đổi lại. Đặc biệt, thây kệ những lời yêu cầu của Đại tá De Castries và làm trái với mệnh lệnh của tôi, họ đã giữ ở Đồng bằng Bắc Bộ hai tiếu đoàn giỏi nhẽ ra phải đưa lên Điện Biên Phủ để thay thế cho hai tiểu đoàn Thái yếu kém, mà quả nhiên hai tiểu đoàn này sau đó đã bỏ chạy khi bị đánh. Cách nhìn nhận sai lầm ấy cũng dẫn Bộ chỉ huy Hà Nội tới phân phối không hợp lý những phi vụ của không quân. Nhiều phi vụ được yêu cầu cho những cuộc chiến đấu ở Đồng bằng mà nhẽ ra nó phải được dành nhiều cho đánh phá các tuyến giao thông đang tiếp tế cho khối chủ lực Việt Minh tập trung xung quanh Điện Biên Phủ. Hiểu được Tướng Cogny và bộ tham mưu của ông luôn luôn bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ cho Đồng bằng, nên tôi quyết định ra 5 tiểu đoàn dù đóng ở xung quanh Hà Nội dưói quyền điều động trực tiếp của tôi để sẵn sàng chi viện cho Điện Biên Phủ. Bởi nêu đặt các tiểu đoàn dù này dưới sự chỉ huy của bộ chỉ huy Hà Nội thì có chuyện gì, lập tức họ sẽ sử dụng nó vào Đồng bằng, không nghĩ gì hơn hay thiệt cho tập đoàn cứ điểm. Nhưng cũng có quy định là nếu Tướng Cogny yêu cầu sử dụng nó để chi viện cho Điện Biên Phủ, thì lập tức nó sẽ được đặt dưới quyền sử dụng của ông. Đó là những gì đã xảy ra và kết quả là việc sử dụng các tiểu đoàn dù ấy được trôi chảy, không bao giờ chậm trễ. Trong những tháng trước khi xảy ra trận đánh, nhiêu quan khách đã lên thăm Điện Biên Phủ, chỉ kể ra những vị do nhiệm vụ mà có liên quan trực tiếp, đó là các ông: Pleven, Bộ trưởng Quốc phòng; De Chevigné, Bộ chiến tranh; Marc Jacquet, bộ các Quốc gia liên kết; và các Tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng quân đội; Blanc, tham mưu trưởng lục quân; Fay, Tham mưu trưởng không quân; Hinh, Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam; O' Daniel, Trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ. Tất cả đều có những cảm tưởng thuận lợi trước sức mạnh phòng thủ của tập đoàn cứ điếm và tinh thần tốt của đạo quân đóng ở đấy. Không một ai mảy may tỏ ý lo ngại. Tôi còn nhớ chính xác thái độ của một số quan khách. Trả lời câu hỏi của tôi về trình độ, khả năng phòng thủ của tập đoàn cứ điểm, ông De Chevigné vừa ở đó 2-3 ngày2 đã trả lời tôi một cách kiên quyết: "Thật là bất khả xâm phạm, vả lại, họ không dám tiến công đâu". Tướng Blane, cũng tin chắc là Việt Minh sẽ không dám đánh, chỉ trả lời gọn: "Đảy là Verdun". Còn Tướng O'Daniel, sau chuyên đi thăm, ông đã đến gặp riêng tôi để bày tỏ sự "phấn khởi". Ong khẳng định rằng nếu tiến công, Việt Minh chắc chắn sẽ bị "đè bẹp". Ông còn cho rằng, bằng cách xây dựng các tập đoàn cứ điếm kiểu như Điện Biên Phủ ở nhiều nơi, đó chính là "giải pháp" để có thể thắng được cuộc chiến này. -------------- 1. Hai cụm Him Lam và Độc Lập đóng trên những ngọn đồi có đá và cây, săn vật liệu đê xây dựng những công sự kiên cố Nhưng ngược lại trong khu lòng chảo là đất ruộng không có gỗ. Nhưng trong 3 tháng, Bộ tham mưu Hà Nội hoàn toàn có thể cho chở gỗ và sắt bằng máy bay lên. Song họ đã không làm thế. 2. Ông De Chevigné, cựu sỹ quan, là một người cẩn thận, quan tăm đến từng chi tiết, hơn nữa ống lại có nhiều bạn củ ở Đông Dương mà ông thích trao đổi trực tiếp. Ông đã yêu cầu tôi được lên thăm Điện Biên Phủ trong vài ngày. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 05:26:37 am Chỉ có Tướng Fay ngại một điều là sân bay có thể không sử dụng được trong mùa mưa. Nhưng điều này không đáng ngại cả về chiến lược và chiến thuật. Bởi theo điều tra thì từ trước đến nay sân bay này chưa bao giờ bị gián đoạn quá 2-3 ngày, hơn nữa Pháp lại sẽ sửa chữa tu bổ thêm. Thực tế sau này đã chứng tỏ nỗi lo ngại của Tướng Fay là vô ích, bởi đến cuối tháng 5, máy bay vẫn hạ cánh được dễ dàng để chở thương binh sau khi trận đánh kết thúc.
Tất cả các nhân vật lên thăm Điện Biên Phủ đều có ấn tượng mạnh mẽ về tinh thần lạc quan của các cấp, từ bộ chỉ huy Hà Nội, bộ chỉ huy tập đoàn cứ điếm đến các sỹ quan binh lính trực tiếp chiến đấu ở đấy. Có thể hoặc họ nghĩ Việt Minh sẽ không dám tiến công, hoặc có bị tiến công thì sẽ đánh lui được Việt Minh dễ dàng. Có rất nhiều chứng cứ về sự lạc quan ấy. Trước hết là những lời tuyên bố của Tướng Cogny đối với báo chí, kéo dài suốt thời gian chờ đợi cuộc tiến công. Ông còn giữ nguyên lời tuyên bố đó ngay cả khi Việt Minh đã tập trung xong lực lượng xung quanh Điện Biên Phủ và chúng tôi biết đích xác Pháp phải đương đầu với một đốì thủ mạnh như thế nào và cuộc tiến công của họ đã được coi là chắc chắn sẽ xảy ra1. Sự lạc quan của Tướng Cogny còn thể hiện ở nhiều chỗ khác: Ngày 4 tháng 1, khi nói về bức thư gửi Chính phủ trước đây vài ngày trong đó tôi không giấu giếm một số lo ngại trước sự nghiêm trọng của tình hình. Ông hoàn toàn yên tâm. không thấy lo ngại như tôi. Thái độ ấy khiến tôi có lúc ân hận vì đã trót gửi thư đi và cho rằng mình quá nhát gan. Giữa tháng 1, tôi yêu cầu Cogny cho De Castries bí mật nghiên cứu xem liệu chúng tôi có khả năng di tản khỏi Điện Biên Phủ trong trường hợp tình hình trở nên quá nguy ngập. Ngày 21 tháng 1, ông viết thư phúc đáp: "Tôi trân trọng nhấn mạnh với ông rằng căn cứ Điện Biên Phủ cần phải được giữ bằng bất kỳ giá nào". Trong thư ngày 9 tháng 2, ông nhắc lại quan điểm trên và yêu cầu tôi chấm dứt những dự kiến di tản khi tinh thần của quân đồn trú ở Điện Biên Phủ đang "phấn khích trước triển vọng thắng lợi lớn của một trận đánh phòng ngự". Trong bức điện ngày 10 tháng 2, ông đề nghị tôi lập mưu dụ đối phương chuyển sang tiến công. Bằng cách tạm thời điểu về Đồng bằng hai hoặc ba tiểu đoàn giỏi làm cho đối phương tưởng là Điện Biên Phủ yếu đi. Tôi không thực hiện điều này vì tôi không mong muốn cuộc tiến công đó, vả lại e ngại rằng rồi ông sẽ sử dụng các tiểu đoàn này ở Đồng bằng và khi cần nó sẽ không được đưa lên Điện Biên Phủ kịp thời. Biết chắc rằng cuộc tiến công xảy ra từ ngày 5 tháng 3 trở đi, trong bức điện ngày 24 tháng 2, Cogny đã có ý định đánh một đòn ra quanh Điện Biên Phủ để giành thắng lợi nhằm gây thanh thế. Trong một bức điện khác ngày 27 tháng 2, ông còn dự kiến khả năng Việt Minh rút lui khi "bị giáng cho một đòn đau". -------------- 1. Phát biểu của Tướng Cogny với báo chí: 23-11-1953 (với Gillbert, United Press): "Nếu tôi có thể làm được, tôi đã bê cả khối Nà Sản lên Điện Biên Phủ"; - 22-11-1953 (với LecunịỴ, AFP): "Cách đây 5 tháng khi tôi mới nhận quyền chỉ huy, nếu tập đoàn cứ điếm Nà sản được đặt nằm trên những bánh xe thì tôi đã đẩy cho nó lên Điện Biên Phủ"; - 11-12-1953 (với Corle Smith, Presse Américaine): "Chúng tôi đã tập trung ở Điện Biên Phủ để bảo vệ cho Bắc Lào"; - 30-12-1953 (trả lời phỏng vân của Guilbert, u.p.): "Cogny mong giao chiến ở Điện Biên Phủ và chuẩn bị cho khả năng này, Điện Biên Phủ có hỏa lực mạnh gấp nhiều lần Nà Sản"; 2-1-1954 (phỏng vấn của Allen, Presse Américaine): "Bộ chỉ huy Pháp tin chắc sẽ đánh cho Việt Minh đại bại ở Điện Biên Phủ. Chúng ta chờ đợi những cuộc chiến đấu ác liệt và kéo dài. Nhưng chúng ta sẽ thắng"; - 13-1-1954 (với Anthériau, báo Figaro): "Bằng chiến dịch nhảy dù táo bạo, chúng ta đã lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cắt ngang đường tiến quân của Việt Minh sang Lào"; 14-1-1954 (phỏng vấn của Quiỉbert, u.p.): "Hỏi Cogny có chờ đợi tiến công không, Cogny trả lời rất mong... Pháo Việt Minh có thê gây rắc rối, nhưng sẽ bắt nó phải câm họng... Giáp bắt buộc phải đánh, không thể tiến sang Lào mà không sợ lại có một nút chặn nữa... Tôi sẽ làm tất cả đê bắt ông ta phải "ăn bụi" và chừa cái thói muốn đóng vai một nhà chiến lược lốn"; - 7-1-1954 (phỏng vấn của Allen): "Cogny chưa bao giờ hồ nghi là ông không thể đánh bại đốì phương nếu họ tung 3 Sư đoàn vào để tổng tiến công Điện Biên Phủ... Chúng ta đã có một hỏa lực mạnh đủ sức quét sạch một đối phương đông gấp 4-6 lần"; - 20-2-1954 (với Barré, u.p.): "Phòng không Việt Minh... không bao giờ có thể bóp nghẹt được Điện Biên Phủ". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 05:36:16 am Ngày 4 tháng 3, trong lần thăm tập đoàn cứ điểm cuối cùng, tôi đã tiếp nhiều chỉ huy đơn vị và đều nhận thấy ở họ sự tin tưởng tuyệt đối, nhưng chưa thật hoàn toàn yên tâm, trước khi đi, tôi đã gặp riêng Cognv và De Castries yêu cầu hai ông hãy nói thật ý nghĩ của mình. Tôi cũng đề nghị hai hoặc ba tiểu đoàn bổ sung để tăng thêm sức phòng thủ, buộc đối phương phải nghiên cứu lại tình hình khiến họ hoãn tiến công, hoặc phải từ bỏ hẳn. cả hai ông đều không muốn thế. De Castries trả lời: "Chắc chắn là gay go đấy, nhưng chúng tôi sẽ giữ vững nếu khi cần thiết, ông kịp thời tăng viện cho tôi hai hoặc ba tiểu đoàn". Còn Cogny nói với tôi:
"Chúng ta đến đây là để buộc Việt Minh phải giao chiến, không nên làm gì thêm để khiến họ phải lảng đi". Sau này tôi đã tiếc biết bao vì không giữ vững ý kiến của mình! Những đoạn sau đây, trích trong các bài của ông Robert Guillain đăng trên tờ Thế giới (Le Monde) ở Đông Dương, đã chứng minh sự lạc quan của bộ tham mưu Hà Nội, cũng như những người bảo vệ Điện Biên Phủ và niềm lạc quan này còn kéo dài đến tận ngày bắt đầu trận đánh. Ngày 13 tháng 2 năm 1954: "Làm cho Việt Minh tiến xuống khu lòng chảo! Đó là mơ ước của Đại tá De Castries và toàn ban tham mưu. Họ mà xuống là chết với chúng ta. Đụng độ có lẽ căng đấy nhưng chúng ta sẽ chặn họ lại. Và cuối cùng, chúng ta có được cái mà chúng ta đang cần: đó là một mục tiêu, một mục tiêu tập trung mà chúng ta có thể "quất cho tơi bời"”. Ngày 15 tháng 3 năm 1954: "Tiến công Điện Biên Phủ, phải chăng Việt Minh đã mắc phải một cái lỗi tày đình ? Họ hành động thế phải chăng vì lý do chính trị hơn là vì lý do quân sự, hay vi theo lệnh của Bắc Kinh và Matxcơua? Đó là chiều hướng các cuộc bàn luận sôi nổi về ván bài này, ván bài có ảnh hưởng lớn đến tiến trình chiến tranh Đông Dương... Cơ quan tình báo của Pháp đã làm việc một cách hoàn hảo. Thêm vào đó, đối phương lại tự làm lộ ý định của mình qua việc vội vã đấy mạnh công tác chuẩn bị. Đối với quân đội chúng ta, thế là kết thúc một thời kỳ ngồi yên sau ba tháng đằng đẵng chờ đợi và tinh thần của họ thì thật tuyệt vời". Trong cuốn Điện Biên Phủ, Đại tá Langlais cũng công nhận mọi người ở tập đoàn cứ điếm đều vững tin cho đến ngày mở đầu cuộc tiến công. Vào lúc trận đánh bắt đầu, ông viết: "Tôi hy vọng tràn trề là chúng ta sẽ thắng trong cuộc chiến tranh Đông Dương tại mặt trận Điện Biên Phủ". Giải thích thế về nào sự lạc quan kỳ lạ đó? Có lẽ trước hết là do từ trước đến giờ Việt Minh mới chỉ có thể hạ những đồn bốt lẻ, đôi khi một vài vị trí quan trọng, nhưng chưa bao giờ họ đánh được một quần thể phòng thủ vững chắc có hỏa lực pháo binh mạnh kết hợp với những lưỡi lửa của các cứ điểm đan xen vào nhau. Người ta tưởng họ chưa đạt tới trình độ ấy. Thắng lợi năm trước ỏ Nà Sản càng làm tăng thêm điều ngộ nhận ấy; nhiều người nghĩ rằng: điều mà một tập đoàn cứ điểm thiết lập vội vã và yếu hơn nhiều còn làm được, thì chắc chắn Điện Biên Phủ cũng sẽ làm được chẳng khó khăn gì. Người ta không hiểu rằng những trường hợp đó khác nhau rất xa. Nhưng dù thế nào và lý do ra sao, thì sự lạc quan thái quá ấy đã là nguyên nhân gây ra một sự chểnh mảng nào đấy trong công tác chuẩn bị phòng ngự. Về phần tôi, tôi lúc tin lúc lo. Khi ngồi tại nhiệm sở ở Sài Gòn, tôi lo lắng nhiều hơn. Nhưng khi ra Hà Nội, trước thái độ tự tin của chỉ huy và bộ tham mưu ở đấy, hay lên Điện Biên Phủ, tiếp xúc với quân lính thì nỗi lo của tôi lại tiêu tan. Đặc biệt là trong đêm dự lễ Noel với tập đoàn quân tại Điện Biên Phủ, trong không khí thoải mái mà mọi người có thể phát biểu ý kiến của mình một cách cởi mở, thái độ lạc quan của họ đã gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ. Mặc dù vậy, một nỗi lo âm thầm vẫn ẩn náu và chất chứa trong tôi. Sau chuyến lên thăm Điện Biên Phủ ngày 19 tháng 2. ông Pleven và Tướng Ely cũng nói riêng với tôi về những cảm tưởng của họ. Trạng thái tinh thần cao của binh sỹ cũng đập mạnh vào tâm tư họ. Tướng Ely hỏi tôi: "Tất cả binh lính đều muốn có giao chiến, nhưng anh, anh có mong không?". Tôi trả lời: "Không. Tôi không mong. Tất cả những gì tôi mong muốn đối với năm nay, đó là đấu hòa". Câu trả lời này là tóm tắt tâm trạng của tôi1. ------------ 1. Câu: "Tôi không mong muốn có cuộc tiến công" chính là câu nói của tôi. Nhưng vài nhà "sử học" lại gán nó hoặc cho ông Pleuen, hoặc cho Tướng Ely. Họ còn bảo hai ông nói câu này đê sửa cái thói lạc quan ngây ngô mà họ gán cho tôi. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 05:43:17 am CHƯƠNG VII TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ Diễn biến trận đánh Lúc sắp xảy ra trận đánh, chúng tôi có khá đầy đủ tin tức về những ý định của Việt Minh. Chúng tôi biết rằng, cụm cứ điếm Béatrice và Gabrielle mà mấy đêm trước Việt Minh đã tiếp cận sát, chắc chắn sẽ bị đánh trước tiên. Và hình như tiếp đó là họ đánh vào khu trung tâm. Một vài dấu hiệu khác cho phép nghĩ rằng Tướng Giáp trù tính sẽ chiếm toàn bộ Điện Biên Phủ trong vòng 5 đến 7 ngày. Đợt một: những ngày 13 và 14 tháng 3 Xẩm tối đêm 13 rạng 14, Việt Minh tiến công Béatrice và kiềm chế Gabrielle. Béatrice thất thủ sau vài giờ chiến đấu. Nguyên nhân của việc mất Béatrice, một cụm cứ điểm mạnh do một tiểu đoàn tinh nhuệ đóng giữ (Tiêu đoàn 3 thuộc Bán lữ đoàn Lê dương 13), trước hết là do cái chết của Tiểu đoàn trưởng Pigot chỉ huy cụm cứ điểm, viên phó của ông ta và sĩ quan liên lạc pháo binh, cũng như của Đại tá Gaucher, chỉ huy khu phòng thủ mà Béatrice trực thuộc; tất cả 4 người này đều bị đạn pháo lọt vào hầm chỉ huy qua lỗ quan sát, trong giai đoạn đổi phương tiến hành pháo hỏa chuẩn bị. Tai họa này làm bộ chỉ huy xao xuyến và sự chỉ huy bị chuệch choạc: pháo binh bắn hú họa, không có mục tiêu chính xác và thiếu sự phản kích từ trung tâm ra. Nhưng mất Béatrice không phải chỉ có thế: tiếu đoàn đóng giữ ở đấy rất thiếu quân số1, thiếu cán bộ (một sỹ quan cho một đại đội) và do phải chờ đợi lâu, tinh thần đã phần nào suy giảm2. Lúc Điện Biên Phủ bị tiến công, tôi đang ở Sài Gòn. Đã dự kiến trước điều này, tôi không ngạc nhiên, cũng không lo ngại. Ngày hôm sau nữa, tôi có một cuộc gặp rất quan trọng ở Sênô về vấn đề Trung Lào. Tôi nghĩ không cần thiết phải bỏ cuộc họp và quyết định ngày 14 đi Sênô, sau đó thẳng ra Hà Nội. Khoảng nửa đêm, tôi được tin Béatrice bị mất, tuy không ngạc nhiên, bởi điều đó đã nằm trong các tình huống dự kiến và tôi cũng đinh ninh rằng sáng sớm ra, chúng tôi sẽ phản kích chiếm lại như đã định3. Và tôi không thay đổi chương trình đi Sênô ngày 14 tháng 3. Đến Hà Nội khoảng buổi chiều, tôi hêt sức ngạc nhiên khi được Tướng Cogny ra đón tôi ở sân bay báo cho biết Béatrice vẫn nằm trong tay đối phương và không có một cuộc phản kích nào được tiến hành cả. Qua chuyện trò với Cogny và cuộc họp tiếp đó với bộ tham mưu Hà Nội, dần dần tôi mới vỡ lẽ. Lý do duy nhất Cogny trình bày với tôi là sương mù đã cản trở mọi chi viện của không quân; tôi đã nói với ông ta lý do ấy không đủ sức thuyết phục vì quân Pháp vẫn có thể và cần phải tiến hành cuộc phản kích với sự chi viện của pháo binh. Sau đó tôi còn biết những tiểu đoàn dùng để phản kích đã bị kìm chân vào một số nhiệm vụ, không thể rút ra được kịp thời và khó tập hợp trong đêm4. ------------- 1. Theo nghiên cứu của Đại tá Rocolle, quân số của III/13 DBLE là 517 người, ít hơn biên chế. Ngày bị đánh (13-3), quân số lại chỉ còn 450 người do rút đi một trung đội để bảo vệ chỉ huy sở của Đại tá De Castries và một trung đội khác đang làm nhiệm vụ ở trung tâm tập đoàn cứ điểm; trung đội này không được gửi về vị trí chiến đấu như đã quy định. 2. Mấy ngày trước trận đánh, đã có một số vụ đào ngủ (4 người trong đêm 12 rạng 13-3). 3. Giữa Tướng Cogny và tôi luôn luôn có quy định: hễ một cụm cứ điếm nào bị mất thỉ lập tức phải dùng đội dự bị (gồm 3 tiếu đoàn dù) phản kích chiếm lại ngay. 4. Các tiểu đoàn dự bị này đã được giao một nhiệm vụ phòng ngự (kiếm soát những khoảng cách giữa các cứ điếm trong khu Trung tâm). Tôi biết việc này qua mấy lần kiểm tra nhưng người ta đã cam đoan với tôi là khi cần, nó sẽ tập hợp được ngay. Tôi đã sai lầm là nếu không chấp nhận tình trạng này (bởi thông thường, các đơn vị dự bị có thể được giao thêm những nhiệm vụ phụ) thì ít nhất củng phải tự mình xem xét để biết chắc các đơn vị này có thể sẵn sàng phản kích hay không. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 06:05:43 am Cuối cùng người ta nói tôi về việc Tướng Giáp đề nghị tạm ngừng bắn vào lúc 7 giờ, lấy cớ cho phép ta lấy thương binh và De Castries đã nhận lời sau khi báo được Cogny đồng ý1.
Tình hình trên rất nghiêm trọng. Việc không tập hợp được các tiểu đoàn phản kích chứng tỏ không những chúng tôi thiếu chuẩn bị sẵn sàng - điều tôi không thể ngờ tới - mà còn thiếu sự phản ứng nhạy bén một cách đáng lo ngại. Việc nhận tạm ngừng bắn lại càng nghiêm trọng hơn nữa. Việt Minh không có thói quen tặng "quà biếu" kiểu như thế này bao giò. Nếu Tướng Giáp đề nghị như thế, hắn phải có lý do mà điều cốt yếu là để ngăn cản chúng tôi phản kích ra Béatrice, điều mà ông ta lo ngại2. Không nghi ngờ gì, chắng riêng bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm mà cả bộ chỉ huy ở Hà Nội cũng có sự giao động3. Đêm 14 tháng 3. có nhiều triệu trứng chắc chắn cụm cứ điếm Gabrielle do Tiểu đoàn 5 Trung đoàn bộ binh 7 (V/7RMT) đóng giữ sẽ bị tiến công vào đêm sau. Trận đánh bắt đầu vào lúc 20 giờ. Đến 22 giờ, pháo binh và hỏa lực được tổ chức chặt chẽ của cụm cứ điểm đã chặn đứng được cuộc tiến công. Nhưng Tiểu đoàn trưởng Mecquenem, chỉ huy cứ điếm, đã phải tổ chức lại đội hình và tung ra gần hết lực lượng dự bị. Vào lúc 2 giờ 30, đối phương đưa thêm lực lượng mới vào tiến công và đã chiếm được mặt Đông bắc. 4 giờ 30, Mecquenem và phó của ông ta bị thương nặng. Do vậy, cũng giống như ở Béatrice, cuộc chiến đấu không người chỉ huy trở nên chuệch choạc và đối phương tràn vào cứ điếm. Tuy nhiên, khoảng một đại đội rưỡi của Pháp vẫn giữ được phần phía Nam của cứ điểm. Vào lúc 5 giờ 30, Pháp tung ra từ khu Trung tâm một cuộc phản kích về hướng Gabnelle, nhưng lực lượng không đủ mạnh. Hơn nữa đơn vị tiến hành lại là Tiếu đoàn dù ngụy số 5 vừa mới nhảy dù xuống4, hãy còn mệt mỏi và địa hình chưa biết. Cuối cùng, lệnh phản kích lại mâu thuẫn nhau, không rõ ràng và rút cục biến thành một cuộc đón nhận số tàn quân ở Gabrielle trở về. -------------- 1. Trích lời trinh bày của Tướng De Castries trước ủy ban thanh tra: "Tảng sáng, Bộ chỉ huy Việt Minh đề nghị tạm ngừng bắn khoảng từ 8 đến 12 giờ đồng hồ ở xung quanh khu vực Béatrice và Dominique (Khu đồi D, E) đê Pháp lấy thương binh. Bộ chỉ huy Hà Nội ra lệnh cho nhận lời, do đó làm mất khả năng phản kích ra Béatrice dưới sự yểm trợ của không quân". 2. Theo Đại tá Rocolle, người đã nghiên cứu vấn đề này, Tướng Giáp lo ngại cuộc phản kích nên đã cho rút gần hết quân ra khỏi Béatrice. Một lý do nữa khiến ông đề nghị tạm ngừng bắn là muốn tranh thủ được buổi sáng 14 để di chuyển pháo nhẹ (cối và pháo không giật) chuẩn bị cho trận đánh Gabrielle dự tính vào đêm sau. 3. Một trong những phụ tá của tôi, sống ở Hà Nội những ngày đầu của trận Điện Biên Phủ, vài năm sau đã viết: "...Mới đầu là cảm giác sợ hãi làm sững sờ bộ tham mưu Hà Nội trước thành công của Việt Minh mà họ không thế ngờ tới... Tôi bị ấn tượng mạnh bởi diễn biến tinh thần của bộ tham mưu lúc này đang tìm cách rũ bỏ trách nhiệm trước một thất bại có khả năng xảy ra, nếu không muốn nói là nhiều phần có thể xảy ra... Cái không khí nặng nề, đầy những lời dọa nạt bóng gió, sao nó trái ngược đến thế với sự lạc quan đầy tự tin và kiên quyết củng của chính những cán bộ chỉ huy này cách đây hai tháng, trước khi trận Điện Biên Phủ bắt đầu". 4. Tiểu đoàn dù ngụy số 5 (5BPVN) là một trong 5 tiểu đoàn thuộc lực lượng dự bị đặt ở Đồng bằng. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 06:18:49 am Tại sao lại khuyết điểm đến thế? Sáng 14 tháng 3, Đại tá De Castries quyết định giao cho Trung tá Langlais, người được phân công chỉ huy đội dự bị và làm nhiệm vụ phản kích, nắm quyền chỉ huy khu Trung tâm thay thế cho Đại tá vừa bị chết. Phải đảm đương hai nhiệm vụ - vừa chỉ huy đội dự bị chuyên để phản kích, vừa chỉ huy khu Trung tâm - Trung tá Langlais đã ưu tiên cho nhiệm vụ sau. Nhất là sau khi mất Béatrice, chỉ huy các cấp đều lo ngại là sắp tới đây Việt Minh sẽ chuyển sang tiến công khu Trung tâm. Nên mặc dù được cấp dưới phản ánh về những điều bất lợi nếu không tích cực phản kích, Langlais vẫn giữ nguyên tại chỗ các tiểu đoàn dự bị là những đơn vị mà nhiệm vụ chính là phản kích và đã quen địa hình. Nhưng dù thế nào, cuộc "phản kích" đã không tìm cách để chiếm cho được Gabrielle mà bằng lòng với việc đi đón tàn quân. Việc thất thủ hai cụm cứ điếm vòng ngoài đã có những hậu quả rất nghiêm trọng. Phía Bắc và Đông bắc tập đoàn cứ điểm bị hở và đối phương đã có thể đưa một bộ phận pháo binh vào gần hơn. Chúng tôi đã bị tổn thất nặng và tiêu hao một lượng rất lớn đạn dược. Lượng dự trữ giảm nhiều và cần phải có một khoảng thời gian để bổ sung. Nếu cho rằng ta có thể thắng trận Điện Biên Phủ, thì qua những ngày đầy tai họa (14 và 15 tháng 3), mọi cơ may để thành công đã không còn nữa1. Trong cuốn Tôi không hối tiếc gỉ hết, tác giả là Đại úy Sergent đã tóm tắt ý kiến của các sỹ quan Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 (lerBEF) như sau: "Nếu toàn bộ BEP cùng đầy đủ tiểu đoàn tiến hành phản kích thì ta đã chiếm lại được Gabrielỉe vào lúc 8 giờ". Tuy nhiên đối phương cũng bị thiệt hại và tiêu hao lớn cả về người và đạn dược tới mức họ không thể tiếp tục tiến công được ngay. Tốì 15 tháng 3, Tướng Cogny gợi ý với tôi nên thay Đại tá De Castries. Trong những trường hợp đại loại như những gì Pháp vừa trải qua thi đương nhiên đổ tất cả mọi tội xuống đầu "một ngưòi ở cấp thấp hơn nhưng lại đủ tầm cõ để quy trách nhiệm" - như người ta thường nói một cách hóm hỉnh - thì quả là một điều rất cám dỗ. Nhưng tôi luôn luôn cho rằng những phản ứng kiểu như vậy do hèn nhát nhiều hơn là do ý thức về quyền hành thực sự của mình. Còn xa De Castries mới là người duy nhất phải chịu trách nhiệm chỉ huy lực lượng dự bị, đã chôn chân các tiểu đoàn dù dùng để phản kích chặt tới mức không gỡ ra nổi, đã không chuẩn bị một cách nghiêm chỉnh đế tập hợp quân dù lại và đã không tiến hành cuộc phản kích ra Gabrielle một cách thực sự, đốì với cấp bậc của ông, há chẳng là người cũng đang phải chịu phần lớn trách nhiệm hay sao? Còn Cogny, ông ta đã không chuẩn bị đầy đủ cho trận đánh và việc ông nhận tạm ngừng bắn2 chứng tỏ ông cũng hoang mang chẳng kém gì De Castries và Langlais. Còn những gì liên quan đến tôi thì tôi tự trách mình đã quá tin cậy vào một thuộc cấp mà đã biết rõ là yếu kém. Sau khi ngẫm nghĩ tôi đi tới kết luận là hoặc tôi phải cùng một lúc thay Cogny, De Castries và hoặc cứ để tất cả nguyên vị tại chỗ. Nhưng De Castries và Langlais, cả hai đều là những ngưòi lính chiến đã nhiều lần trải qua thử thách. Sự giao động của họ vừa qua chỉ là tạm thời và do bị chuyển biến quá đột ngột từ lạc quan sang lo lắng. Ngoài Cogny, không ai đủ tiêu chuẩn về cấp bậc cũng như niên hạn để thay ông (mà những tiêu chuẩn này tiếc thay không dễ dàng bỏ qua). Hơn nữa Cogny hiểu biết rất kỹ về Đồng bằng và ít nhất về mặt này, tôi có thể tin tưởng được. Thế là tôi quyết định không thay một ai và giao cho Tướng Bodet phó của tôi, vẫn thường trực tại Hà Nội, nhiệm vụ giúp đỡ và kiểm tra Tướng Cogny và Tướng Dechaux khi tôi vắng mặt ở đây. ------------ 1. Tin tức và những nghiên cứu sau này chứng tỏ nếu những cuộc phản kích ra Béatrice uà Gabrielle được thực hiện thì gần như chắc chắn nó đã thành công. Như trên đã nói, sáng 14 Việt Minh đã rút gần hết quân khỏi Béatrice. Còn ở Gabrielle, một bộ phận quan trọng quân Pháp vẫn giữ được phần phía Nam cứ điểm đến sảng 15, dưới quyền chỉ huy rất kiên quyết của Đại úy Grandre. Chỉ đến khi nghe trên máy VTD Trung tá Langlais lệnh cho cái gọi là "quản phản kích" đi "đón tàn quân" thì Grandre mới cho rút lui. 2. Tướng Cogny nói rằng, sau khi tôi trở về Sài Gòn sáng 14-3, ông đã được tham mưu trưởng của tôi là Tướng Gambiez, qua dây nói, đồng ý cho nhận tạm ngừng bắn. Ngay nếu có thực thì điều đó chứng tỏ ỏng không biết gì về chức trách của ông. Với chức trách của mình, Tướng Gambiez không đủ quyền hạn để ra một quyết định như thế và Cogny không nên tìm cách núp mình sau sự đồng ý của Pháp. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 11:54:21 am Tôi không hối tiếc gì về quyết định này. Cả De Castries và Langlais sau đó đều nhanh chóng lấy lại tinh thần và tôi khắng định rằng trong những trận chiến đấu sau này, không một ai có thể làm hơn họ. Còn về cách điều khiến trận đánh của Cogny, chỉ có một trường hợp nghiêm trọng cần phải phê phán mà sau này tôi sẽ nói đến. Và tôi không nghĩ rằng, vào tình hình của chúng tôi ở thời điểm ngày 15 tháng 3, việc thay thế ông sẽ có thể làm thay đổi được kết quả cuối cùng của trận đánh.
Trong những ngày tiếp theo, có nhiều biếu hiện hoang mang giao động trong hàng ngũ chúng tôi ở Điện Biên Phủ. Đại tá chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm, một sỹ quan cao cấp rất thạo việc và tự trọng, thấy những dự đoán về sử dụng pháo binh của mình bỗng đổ vỡ, và không thể chịu đựng được sự nhục nhã mà ông cho là thuộc phần trách nhiệm của mình, đã tự vẫn. Nhiều vụ đào ngũ đã xảy ra ở nhiều đơn vị: Bắc Phi, Việt Nam và đặc biệt là Thái. Những kẻ đào ngũ trốn vào những căn hầm tự đào lấy ở dọc sông Nậm Rốm. Đến cuối trận đánh, nơi ấy đã biến thành một "khu dân cư" với vài trăm "cư dân", sống bằng những thứ cướp đoạt được. Người ta gọi chúng là "những con chuột sông Nậm Rốm". Trong những đơn vị chất lượng trung bình hoặc chỉ huy lỏng lẻo, nhất là những đơn vị đông lính Việt Nam, tinh thần tỏ ra tồi tệ. Chỉ trong ít ngày, hai tiếu đoàn Thái đã bỏ chạy. Ở Isabelle vào cuối trận đánh, xảy ra hiện tượng kháng lệnh ở ngay một tiểu đoàn Algeri. Sau nhờ sự kiên quyết kết hợp với sự mềm dẻo của chỉ huy cụm cứ điểm là Trung tá Lalande, mà sự việc đã được giải quyết và không gây hậu quả nghiêm trọng, song hiện tượng xấu này đã nhiều người biết1. Trái lại ở những đơn vị khá, sỹ quan và binh lính đã nhanh chóng lấy lại tinh thần và chỉ vài ngày sau. không còn tình trạng nao núng như lúc mới bị đánh. Từ đó cho đến khi kết thúc, các đơn vị này đã đứng vững trước những trận chiến ác liệt và chính nhờ vào họ - rủi thay lại không nhiều lắm - một tập đoàn cứ điểm còn chống trụ được. Đợt 2: từ 16 đến 30 tháng 3 Từ 14, Tướng Cogny yêu cầu tôi cho phép ông được nắm quyền điều động ba trong số năm tiểu đoàn thuộc lực lượng dự bị để có thể phản kích chiếm lại các cụm cứ điếm đã mất. Tôi đồng ý cấp ngay Tiểu đoàn dù ngụy số 5 và Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 đã được ném xuống Điện Biên Phủ ngày 14 và 16 tháng 3. Nhưng Đại tá De Castries, lo ngại đối phương có thể đánh ngay khu trung tâm, đã dùng gần hết lực lượng dự bị của mình để củng cố thế bố trí và do đó không còn đủ quân để tiến hành một cuộc phản kích mạnh mẽ. Đạn dự trữ cũng vơi đi nhiều. Hơn nữa thời tiết xấu đã gây trở ngại cho không quân hoạt động trong ba ngày. Sau khi tham khảo ý kiến De Castries, Cogny quyết định thôi không phản kích và tôi chỉ còn cách là đồng ý. Do ngày 18 tháng 3, Tiểu đoàn ngụy Thái số 32 bỏ chạy khỏi một phần cụm cứ điếm Anna - Marie, mặt Tây Bắc của khu trung tâm cần phải tổ chức lại: bỏ Anna -Marie và nhập những gì còn lại của cụm cứ điểm này vào Huguette. Khu Trung tâm cũng được củng cố lại, vòng ngoài của nó được nốì liền tạo thành một tuyến liên tục nhằm chặn đốì phương đang tìm cách tiến về phía sân bay. Giữa các Trung tâm và cụm Isabelle, Pháp vẫn giữ được liên lạc hàng ngày nhưng trong những điều kiện ngày càng khó khăn vì đốì phương đang tìm cách chia cắt giữa hai phần này của tập đoàn cứ điếm. Pháp tiến hành một cuộc phản kích ra khu làng phía tây khu Trung tâm khoảng 2000m. Cuộc phản kích do Tiểu đoàn trưởng Bigeard chỉ huy đã thành công rực rỡ, Pháp thu được nhiều súng máy cao xạ của đối phương. Tuy bị hỏa lực phòng không đối phương cản trở, việc thả dù tiếp tế vẫn được tiến hành bình thường. Tuy nhiên, vận chuyên thương binh đi ngày càng khó khăn. Chúng tôi chỉ có thể thực hiện được bằng cách dùng máy bay vận tải và máy bay trực thăng đỗ xuống bất ngờ và dừng lại ở sân bay trong thời gian ngắn. Những rồi ban ngày không làm được, việc đỗ máy bay xuống chỉ có thể làm được trong đêm. Song cũng chỉ được ít ngày rồi phải bỏ hắn. Chiếc trực thăng đã bị hạ trong lần cất cánh ngày 23 tháng 33. Chuyến chuyên chở cuối cùng là vào ngày 26 tháng 3, mang theo được vài thương binh. Đốì phương tìm cách xâm nhập ngày càng sát vào tập đoàn cứ điếm. Chiến hào của họ xuất hiện khắp xung quanh nhất là mặt phía Đông. Cả phản pháo lẫn ném bom của Pháp đều không bịt miệng được pháo phòng không và pháo mặt đất của Việt Minh. Phần tôi, ở Hà Nội đến ngày 28 tháng 3, chỉ thỉnh thoảng vắng mặt khi cần đi kiểm tra Đồng bằng và một vài lần ngắn ngủi sang Lào, vào Tây Nguyên và khu vực hành quân Atlante. Sau đó tôi trở vào Sài Gòn. ------------- 1. Ngày 26-4, Tướng Cogny gọi điện cho tôi báo có chuyện từ chối không đi chiến đấu ở Isabelle. De Castries đề nghị Cogny cho họp tòa án binh và Cogny xin lệnh tôi. Tôi trả lời chỉ De Castries ở ngay tại chỗ là có thể quyết định được nhưng tôi sẽ chịu trách nhiệm về tất cả những gì De Castries định làm. Vài giờ sau, Cogny gọi điện báo cho tôi là sự việc không đến nỗi nghiêm trọng như đã nói lúc đầu và nhờ sự bình tĩnh kiên quyết của Trung tá Lalande, tất cả đã trở lại trật tự. 2. Các tiểu đoàn Thái, tuy yếu kém nhưng do thông thuộc địa hình nên vẫn được để ở Điện Biên Phủ để sử dụng vào những hoạt động bên ngoài tập đoàn cứ điếm. Tôi đã có lệnh cho thay các tiếu đoàn này nhưng cho đến ngày bị đánh, lệnh vẫn không được thi hành. 3. Trong chuyến này có Trung tá Gambiez, con trai Tướng Gambiez, tham mưu trưởng của tôi. Trung úy bị thương ở Điện Biên Phủ, được chuyển về nhưng đã bị chết khi máy bay trúng đạn. Được tin con chết nhưng Gambiez không ngừng công việc, chứng tỏ một nghị lực đáng khâm phục. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 11:59:43 am Đợt 3: Từ ngày 30 tháng 3 đến 5 tháng 4 Đêm 30 tháng 3. tôi được báo Việt Minh đã tiến hành một đợt công kích dữ dội vào khu Đông Điện Biên Phủ và khu vực này đã sứt mẻ nặng. Cần có mặt tại chỗ, tôi quyết định quay ra lập tức. Máy bay cất cánh lúc 21 giờ và đến Hà Nội lúc quá nửa đêm. Tướng Cogny mọi khi vẫn ra đón tôi tại sân bay, lần này không có mặt. Và cũng không có cả ở văn phòng. Tham mưu trưởng của ông nói với tôi vì quá mệt, ông đã đi nghỉ. Tôi thức cả đêm đó tại chỗ làm việc, từng giờ theo dõi diễn biến cuộc chiến ở Điện Biên Phủ. Vào 5 giờ sáng, tôi nhiều lần gọi dây nói đến nhà riêng của Cogny. Mới đầu ngưòi ta trả lời ông đang ngủ nhưng đến khi tôi ra lệnh gọi ông dậy thì được trả lòi ông không có nhà. Mãi 8 giờ, mới thấy ông xuất hiện. Tôi gặp riêng ông và kịch liệt khiển trách ông về việc cả đêm bỏ vị trí chỉ huy đến nỗi không nắm được một tý gì về diễn biến của cuộc chiến. Ông trả lòi tôi, đêm có biết thì ông cũng chẳng làm gì được cho Điện Biên Phủ và nghĩ rằng vì thế mình có thể đi nghỉ được. Cứ đành cho là như thế đi và phải tạm gác sang một bên những đánh giá về tinh thần, về ý thức, thì điều đó còn có thể tất được đổi với ông vào lúc bắt đầu buổi tối, nhưng còn những giờ đầu buổi sáng thì sự vắng mặt của ông chắc chắn là không thể chấp nhận được, vì khi ấy người ta đã phải ra lệnh cho không quân mà ông vẫn vắng mặt. Cuộc nói chuyện diễn ra rất gay gắt và tôi báo cho Cogny là khi nào trận Điện Biên Phủ kết thúc, dù tốt hay xấu, tôi cũng thay ông. Tôi cũng đòi hỏi ông phải tuyệt đối giữ kín sự thay đổi trong mối quan hệ giữa ông và tôi và không được để điều đó ảnh hưởng một chút nào đến công việc. Chỉ có những người thân cận nhất của hai chúng tôi biết phong thanh có chuyện gì đó giữa chúng tôi, tuy nhiên dù nghiêm trọng đến đâu sự cố trên cũng không làm ảnh hưởng gì đến diễn biến của trận đánh1. Ở Điện Biên Phủ, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt từ 31 tháng 3 đến 4 tháng 4, một số đơn vị Pháp phải phản kích tới bảy lần để giành lại vị trí đã mất. Nhưng hai cứ điểm vẫn còn nằm trong tay đối phương, ở đấy họ bố trí súng cối nặng, pháo không giật và súng máy cao xạ, chỉ cách sân bay và trận địa pháo của chúng tôi khoảng 1500m. Phía Tây Bắc, do sự tan rã của một tiểu đoàn Thái khác (tiểu đoàn 2) chúng tôi phải co bớt lại nên ở đấy, đốì phương đã đưa được pháo binh vào gần. Công việc thả dù tiếp tế ngày càng khó khăn và phải vất vả lắm chúng tôi mới duy trì được lượng đạn dự trữ cần thiết. Ngày 3 và 4 tháng 4, một tiểu đoàn dù thứ ba (Tiểu đoàn 2/Trung đoàn dù số 1 - RCP) được ném xuống Điện Biên Phủ để bù vào những tổn thất và củng cố thế phòng ngự. Đợt 4: Từ ngày 5 tháng 4 đến 1 tháng 5 Từ ngày 5 tháng 4, do bị tổn thất quá dự kiến và thiếu đạn dược, đối phương phải ngừng tiến công ồ ạt, nhưng mỗi đêm họ lại đào trận địa tiến vào gần hơn. Tới ngày 1 tháng 5, trận địa của họ tổng cộng các loại đã đạt tới khoảng 400km. Hàng ngày chúng tôi phải đánh quyết liệt để nới bớt vòng vây nhưng họ cứ lấn dần và buộc chúng tôi phải co lại. Pháo phòng không của họ mỗi ngày một tiếp cận khiến việc thả dù tiếp tế ngày càng khó khăn. Pháo đất thì gần như liên tục quấy rối khiến việc thay quân, liên lạc cũng như thả dù trở nên nguy hiếm và tốn kém. Ngày 11 và 12 tháng 4, lại một tiếu đoàn dù thứ tư (Tiểu đoàn dù lê dương số 2) được ném xuống và nhờ có nó Pháp đã chiếm lại được một điếm tựa ở khu đồi phía Đông sau một trận phản kích rất quyết liệt. Tuy bị hỏa lực phòng không đối phương cản trở và phạm vi của tập đoàn cứ điểm bị thu hẹp, hàng ngày chúng tôi vẫn thả được trung bình 100 tấn hàng các loại, ngoài ra còn tiếp viện thêm được một số pháo thủ và kỹ thuật viên. Trong thời kỳ này, việc điều trị quân y trở nên cực kỳ khó khăn bởi số thương binh đã vượt xa khả năng chăm sóc chữa chạy các tập đoàn cứ điểm dù rằng nó đã được trù tính một cách hết sức rộng rãi2. Trong những ngày cuối tháng 4, mưa làm cho hầm hố bùn lầy nhão nhoét và có một số hầm bị sập đổ. Những mưa cũng gây khó khản rất lớn cho việc tiếp tế của đối phương (chúng tôi biết được chắc chắn điều này qua giải mã tin địch). -------------- 1. Tôi buộc phải kể lại sự cố này vì nó đã bị ông Juỉes Roy, rõ ràng là theo ý kiến của Tướng Cogny, kể lại một cách hoàn toàn sai sự thật trong cuốn ''Trận Điện Biên Phủ" của ông. 2. Khả năng điều trị quân y của Điện Biên Phủ được tính theo kinh nghiệm của Nà Sản nhân lên gấp 3,5 lần. Từ 13-3 đến 7-5, 3.000 thương binh được chữa chạy ở Điện Biên Phủ, trong có khoảng 1.000 ca phải làm phẫu thuật. Tỷ lệ thương binh chết sau đó là 12%. Tông số người chết đến ngày 7-5 là khoảng 1.520. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 12:03:19 pm Đợt 5: Tông công kích và tập đoàn cứ điểm sụp đổ Ngày 1 tháng 5, chiến hào đốì phương đã trực tiếp tiếp xúc với chúng tôi. Quân số của họ được bổ sung và còn có thêm đầy đủ lực lượng dự bị. Dự trữ đạn cũng đã có đủ. Đối đầu với họ lúc này, chúng tôi chỉ có những đơn vị mệt mỏi và rất thiếu hụt quân số. Một phần pháo binh đã bị phá hủy và đạn cũng rất thiếu. Việt Minh bắt đầu tổng công kích. Sau một ngày chiến đấu, khắp xung quanh khu Trung tâm đều bị đánh chiếm. Những cuộc phản kích của chúng tôi chỉ khôi phục được một phần tình hình. Đứng trước thế phải lựa chọn, hoặc chứng kiến cuộc chiến đấu sẽ nhanh chóng kết thúc, hoặc còn cố thủ được nó rất ít ngày bằng cách tăng cương lực lượng, theo yêu cầu của Tướng Cogny, tôi quyết định ngày 2 tháng 5 sẽ ném xuống Điện Biên Phủ tiểu đoàn dù thứ 5 - Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 (1BPC), nhưng do khu vực nhảy dù đã bị thu hẹp nên chỉ ném xuống được nửa tiểu đoàn. Sau mấy ngày tương đổì yên tĩnh từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 5, đột nhiên đêm mồng 6 rạng ngày 7, tập đoàn cứ điếm lại bị tiến công dữ dội. Cùng lúc ấy, đốì phương dồn dập pháo kích vào Isabelle và phá hủy gần như toàn bộ cụm pháo của chúng tôi. Từ đó đến sáng, tình hình trở nên tuyệt vọng và đối phương vẫn không ngừng tấn công. Khu Trung tâm mất lúc 17-19 giờ ngày 7 tháng 5. Không có sự đầu hàng toàn bộ nhưng mất nơi nào thì nơi ấy ngừng chiến đấu. Về vấn đề này, tôi đã ra những mệnh lệnh rõ ràng, dứt khoát1. Cogny: "Ông bạn của tôi, chắc chắn là phải kết thúc bây giờ rồi, nhưng không được đầu hàng. Chuyện ấy cấm đấy. Cũng không được kéo cờ trắng. Cứ đế cho cuộc chiến tự nó tắt đi. Nhưng không đầu hàng. Nếu làm thế là tự anh làm hỏng những gì tốt đẹp anh đã làm từ trước đến nay". De Castries: "Vâng, thưa trung tưóng. Nhưng tôi chỉ muốn bảo vệ thương binh". Cogny: "Phải! Nhưng tôi cũng có lệnh. Tôi không có quyền cho phép anh đầu hàng. Hãy cố gắng làm tốt hơn. Nhưng không để việc này kết thúc bằng một lá cờ trắng. Những gì anh làm đã quá tốt nên không thể làm thế được đâu. Hiếu chứ, ông bạn?". De Castries: "Vâng, thưa Trung tướng". Đến tối, đội quân ở Isabelle định mở đường chạy sang Lào nhưng không có kết quả. Chúng tôi mất khoảng 16.000 người, trong đó 1.500 chết và 4.000 bị thương. Tính đơn vị, thiệt hại của chúng tôi gồm 16 tiểu đoàn (trong có 7 tiểu đoàn dù), hai tiểu đoàn pháo 105 và một đại đội 105 và một đại đội 155, một tiểu đoàn xe tăng và một số đơn vị binh chủng và bảo đảm khác. So với đạo quân viễn chinh, thiệt hại này chiếm 9% và so với tổng số quân ở Đông Dương thì chiếm 3,5%. Tổn thất của Việt Minh thì khó đánh giá được chính xác. Một nghiên cứu sau trận đánh dẫn đến những con số tối thiểu sau đây: 20.000 người bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó 8.000 đến 10.000 người chết. Những nghiên cứu gần đây nhất lại cho rằng có từ 25.000 đến 30.000 bị loại khỏi vòng chiến, trong đó 10.000 đến 12.000 chết là gần với sự thật hơn. Về số lượng, tổn thất của đối phương lớn hơn so với với chúng tôi rất nhiều, về chất lượng, tổn thất của họ cũng không kém, bởi nếu chúng tôi mất những đơn vị có chất lượng cao như quân dù, lê dương, Bắc Phi thì họ cũng mất một phần quan trọng các Sư đoàn xung kích và nhiều cán bộ ưu tú. -------------- 1. Đoạn trích cuộc điện đàm dưới đây giữa tướng Cogny và tướng De Castries chứng tỏ De Castries đã nhận được lệnh cấm đầu hàng của tôi. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 12:18:23 pm Hoạt động không quân Trong thời kỳ diễn ra trận Điện Biên Phủ, lực lượng không quân ở Đông Dương như sau: Không quân vận tải có 100 chiếc C47 Dacota, thêm vào đó là 16 máy bay dân dụng Mỹ C119 (Packets) có các phi công của Đoàn "Hồ bay" của Tướng Chenaul lái theo hợp đồng vừa ký kết. Một số máy bay dân dụng các kiểu của hàng không nội địa Đông Dương cũng được huy động. Máy bay ném bom (của không quân và hải quân) có 168 chiếc 48 B.26, 8 Privaters và 112 tiêm kích - ném bom các loại như Hellcat Beercat và Corsair). Lực lượng này sau đó dần dần lên tói 227 chiếc. Thực ra, do mất mát hỏng hóc các thứ, không quân Đông Dương, chưa bao giờ có hơn 90 máy bay vận tải quân sự và 175 máy bay ném bom. Gần hết số máy bay vận tải quân sự cũng như số C119 của Mỹ đã được sử dụng cho Điện Biên Phủ, còn các mặt trận khác thì do máy bay dân dụng bảo đảm. Còn về ném bom thì hơn 2 phần 3 máy bay là thường trực chi viện cho Điện Biên Phủ; phần còn lại - gồm phần lớn những máy bay do đặc điếm sử dụng hoặc tình trạng máy móc không thể dùng được ở Điện Biên Phủ - nên chi viện cho các mặt trận khác. Lại phải tính cả tỷ lệ máy bay cần bảo dưỡng (tỷ lệ này rất cao do thiếu nhân viên sửa chữa) nên so với nhu cầu, số máy bay vận tải và ném bom sử dụng thường ngày cho Điện Biên Phủ là quá thấp. Nhiều khó khăn khác còn làm giảm thêm hiệu quả hoạt động của không quân chi viện cho Điện Biên Phủ. Máy bay chỉ có thể đậu được ở các sân bay Đồng bằng - nơi duy nhất được thiết bị tương đối tốt, ngoại trừ một vài chiếc đậu ở những đưòng băng rất xấu của Viêng Chăn và Cánh Đồng Chum1. Thế nhưng Đồng bằng lại ở quá xa để không quân ở đấy có thể chi viện đắc lực cho Điện Biên Phủ như nhu cầu đòi hỏi. Địa hình máy bay phải qua là rừng rậm núi cao. Thời tiết thường xấu ("mưa phùn" Đồng bằng, những đám mây nguy hiểm trên đường bay, "sương mù khô" ở lòng chảo Điện Biên Phủ). Tình trạng tồi tệ và phương tiện thông tin liên lạc của Pháp lại càng làm tăng thêm những khó khăn trên. Khó khăn chính là cự ly quá xa, khoảng 350 km. Nếu đánh ngắn ngày vối một đối phương không có pháo phòng không thì còn có thể chấp nhận được, nhưng đánh dài ngày với một đối - phương có hỏa lực phòng không mạnh và hiệu quả thì thật là trở ngại quá lớn. Thêm vào những khó khăn có tính chất kỳ thuật nói trên là diễn biến ngày càng xấu của cuộc chiến trên mặt đất. Với tất cả những lý do trên, trong bất kỳ một giai đoạn nào của trận đánh, không quân đã không đóng được vai trò quyết định như chúng tôi hy vọng. Từ đầu chí cuối, việc đánh phá giao thông chỉ thu được những kết quả đáng nản lòng. Chúng tôi không chặn được đối phương bố trí quân xung quanh Điện Biên Phủ cũng như chẳng cản được một cách đáng kể việc tiếp tế đạn lên mặt trận của họ. Sự chi viện trực tiếp cho binh sỹ mặt đất của Pháp cũng có những tính toán sai lầm. Pháo binh Việt Minh, ẩn sâu trong hầm và chỉ tổn thương khi nào bị bắn trúng trực tiếp, đã không bị phá hủy hoặc bị vô hiệu hóa một cách có hiệu quả. Do cây cốỉ dày đặc nên Pháp dùng bom đạn napan cũng ít kết quả. Khả năng thám thính và quan sát cũng kém hiệu lực vì địa hình rừng núi phức tạp, đối phương lại khéo ngụy trang và có hỏa lực phòng không mạnh. Vì vậy máy bay trinh sát đã không hướng dẫn được đắc lực cho pháo binh và máy bay ném bom. Bằng việc chở tăng viện và tiếp tế, không quân vận tải đóng vai trò chính trong việc chi viện cho Điện Biên Phủ. Lượng vận chuyển của nó đã vượt xa mức yêu cầu ban đầu. Nó đã phải tiến hành nhiệm vụ trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp. Rủi thay kết quả những nỗ lực của nó đã bị giảm đi nhiều do khu vực thả dù ngày càng bị thu hẹp và khó có khả năng thu nhặt dù được đều đặn. Tuy nhiên, lượng dù tiếp tế chỉ bị mất không đến 20% và đối phương cũng chỉ đoạt được rất ít. Trong trận Điện Biên Phủ, tổn thất của không quân, kể cả không quân của Hải quân, là 36 chiếc vừa bị bắn rơi vừa bị phá hủy trên mặt đất. Bị thương do pháo phòng không là 150 chiếc. Người bị chết và mất tích lên đến 70. ------------------ 1. Trước khi tôi đến, những sân bay này chắng được cải tạo gì cả đê săn sàng bảo vệ hữu hiệu cho Lào. Khi bắt đầu nhận chức, tôi đã xin kinh phí để sửa chừa nhưng không được giải quyết. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 01:19:09 pm Điều khiển trận đánh Có thể điểu khiển trận Điện Biên Phủ khác với cách đã làm không? Người ta có nên, như đã làm, là tăng cường cho tập đoàn cứ điểm và kéo dài một cuộc chiến đấu có vẻ như vô vọng không? Hay nên rút sớm hơn? Hoặc từ ngoài đánh vào để giải vây cho nó? Nhiều câu hỏi thường đặt ra và tôi cố gắng trả lời nó. - Tăng cường và kéo dài chiến đâu Như người ta đã biết, việc mất Béatrice và Gabrielle đã làm cho tinh thần quân lính Pháp ở Điện Biên Phủ bị giao động nghiêm trọng: từ lạc quan thái quá, họ rơi vào trạng thái bi quan, vả lại, thế bố trí bị phá vỡ một mảng khiến người ta lo ngại tập đoàn cứ điểm sẽ bị bóp nghẹt. Vậy xét cả về mặt tinh thần cũng như về phương diện chiến thuật, chúng tôi cần phải phản ứng nhanh. Do tiềm lực không quân chúng tôi yếu nên muốn tập hợp đủ lực lượng và phương tiện để tiến hành một cuộc hành quân giải vây thì phải mất ít nhất 15 ngày. Thế nhưng điều đáng nghi ngờ là liệu tập đoàn cứ điểm có thể cầm cự được tới ngày đó không? Cho nên tăng cường lực lượng cho Điện Biên Phủ là biện pháp giúp nó tăng thêm sức phòng thủ và chứng tỏ với những người đang chiến đấu ở đấy là họ không bị bỏ rơi. Vậy là đi đến quyết định trước hết hãy cho ba rồi bốn tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng cường cho Điện Biên Phủ. Sau đó, sẽ thường xuyên tăng viện quân lên để bổ sung cho những tổn thất. Để có thể dành ra những tiểu đoàn dù cuối cùng cho hành động giải vây thì số quân tăng viện nói trên phải lấy trước tiên ở những người đã có bằng nhảy dù, rồi sau đó chọn cả những người tình nguyện đã được tập luyện qua ở mặt đất1. Số người tình nguyện đã vượt xa mức yêu cầu: chỉ cần lấy không đến 500 người thì đã có tới 1.800 người tình nguyện (trong đó 800 Pháp, 450 lê dương, 400 Bắc Phi, 150 Việt Nam). Trong số họ có cả những thư ký, người chạy giấy, những người đã đến hạn hồi hương nhưng tình nguyện phục vụ thêm2. Đến cuối trận đánh, một tiếu đoàn dù được ném xuống, cho phép tập đoàn cứ điếm cầm cự thêm vài ngày nữa. Đôi khi ngưòi ta hỏi: tại sao lại hăm hở cố kéo dài cuộc chiến như thế? Trong quân đội có những truyền thông thiêng liêng mà từ bỏ nó có nghĩa là chấm dứt sự tồn tại của Quân đội ấy. Không chịu bó tay chừng nào còn chưa dùng hết cách luôn luôn là một trong những truyền thống của quân đội Pháp. Những chiến sỹ bảo vệ Điện Biên Phủ, bằng bất kỳ giá nào, cũng phải giữ vững nó. Nhưng có khi phải quyết định kéo dài chiến đấu để giữ vững Điện Biên Phủ - một quyết định mà tôi rất cực lòng khi phải chấp nhận - tôi chỉ có một lý do duy nhất vì danh dự nhà binh không? Không phải chỉ có thế, mà còn có sự đòi hỏi của nhiều lý do cụ thể khác nữa. Trước hết, người ta chỉ thua một trận đánh khi người ta từ bỏ ý định giành chiến thắng. "Mười lăm phút cuối cùng" thường đem lại thắng lợi. Thế mà tôi có những lý do để hy vọng đến cùng: sự can thiệp của không quân Mỹ, mùa mưa đến sớm3, sự suy sụp của tinh thần đối phương (theo nguồn tin chính xác thì vào nửa cuối tháng 4, có những dao động sa sút nghiêm trọng trong một số đơn vị Việt Minh - như sau này Tướng Giáp đã nhắc đến trong nhiều bài viết của ông). Vả lại tôi không loại bỏ khả năng (chương viết về đình chiến sẽ nói rõ tại sao) có thể có "ngừng bắn" và khi ấy thì việc giữ vững Điện Biên Phủ sẽ là một con chủ bài loại một cho các nhà thương thuyết của Pháp ở Geneve. Một lý do khác nữa là nếu cố gắng cầm chân được Việt Minh ở Điện Biên Phủ đến tận mùa mưa lớn, như vậy họ sẽ không còn đủ thòi gian để quay về tiến công Đồng bằng4. Lý do này, theo Cogny là cần thiết, như trong thư ngày 3 tháng 5 ông viết cho tôi: "Việc kéo dài thòi gian cầm chân chủ lực Việt Minh (ỏ Điện Biên Phủ) có tầm quan trọng chủ yếu đối với việc bảo vệ Đồng bằng. Ngay cả khi không kể những sự tăng cường mà thời gian đó cho phép, chúng tôi vẫn được lợi là do bị mưa cản trở, Việt Minh không thể nhanh chóng quay trở về và tiến công lớn ở Đồng bằng... Việc kéo dài sự kháng cự ở Điện Biên Phủ trong những tuần tới (ít nhất tới tận ngày 20 tháng 5 nếu có thể) đối với vấn đề này ở Đồng bằng sẽ có một giá trị không sao đánh giá hết được". ---------------- 1. Theo gợi ý của các chỉ huy quân dù ở Điện Biên Phủ, Cogny đã đề nghị tôi cho thả xuống tập đoàn cứ điểm những quân tăng viện không phải lính dù và tôi đã đồng ý. Đó là một vấn đề tranh luận gay gắt giữa Trung tá Langlais, chỉ huy quân dù ở Điện Biên Phủ và Đại tá Sauvagnac, chỉ huy bộ đội không vận ở Đông Dương và là người không tán thành biện pháp trên. 2. Nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là một hành động anh hùng mà người ta không có thái độ nào khác là phải khâm phục. Thế mà có một nhà báo đã tả những người nhảy dù này là "tái xanh tái xạm, cắn răng mà chịu đựng" và đã gọi họ là "những vị anh hùng được quăng xuống bừa bãi và chẳng có cách nào khác là để bị giết chết”. Đây là một hành động phạm tội và tôi đã xin Chính phủ phải đưa ra xét xử trước tòa án binh. Nhưng Chính phủ đã không chấp nhận mặc dù có nhiều người khác cũng đồng tình với tôi về sự buộc tội đó. 3. Với hy vọng mỏng manh là gây mưa sớm để cản trở sự vận chuyển của Việt Minh, tôi đã xin từ Paris sang một số chuyên gia làm mưa nhân tạo. Họ đã thử nhưng không kết quả. Nhiều năm sau, người ta đã tìm ra được những biện pháp có hiệu quả và người Mỹ đã sử dụng. 4. Trong báo cáo ngày 25-3-1954, Phòng 2 Bộ tham mưu Hà Nội đánh giá khả năng Việt Minh có thể trụ lại ở Điện Biên Phủ như sau: "Không có khó khăn gì lớn đến cuối tháng 4, tháng 5 thì khó khăn và sau đó thì rất bấp bênh". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 01:22:20 pm - Di tản Có lẽ có thể rút Điện Biên Phủ vào tháng 12 khi có tin một bộ phận lớn chủ lực Việt Minh có khả năng sẽ lên Tây Bắc. Nhưng phải làm trước ngày 10 tháng 12 bởi sau ngày ấy, Sư đoàn 316 đi đầu của đối phương đã tới sát rồi. Thế nhưng vào ngày 10 tháng 12, tôi chỉ biết có khoảng 2 Sư đoàn Việt Minh lên Tây Bắc, song chưa khắng định được chắc chắn là 2 Sư đoàn này đều lên Điện Biên Phủ hay có một bộ phận sẽ tiến sang Cánh Đồng Chum. Nguy cơ đe dọa tập đoàn cứ điếm chưa bộc lộ hết tầm cỡ của nó và những gì Pháp biết được đến lúc ấy cũng chưa đủ để quyết định phải di tản. Phải đến cuối tháng 12 chúng tôi mói thấy hết nguy cơ bị đe dọa nhưng lúc đó nhiều đơn vị đổi phương đã tới gần bên, không thể nói chuyện di tản mà không bị tổn thất nặng nề, cả bằng đường bộ lẫn đường không1. Hơn nữa, dù quan trọng đến đâu, sự tăng cường viện trợ của Trung Quốc lúc ấy cũng chưa thật ồ ạt như khi Việt Minh sắp tiến công và trong quá trình tiến công. Vậy là vấn để di tản không được đặt ra. Vả lại, di tản khỏi Điện Biên Phủ cũng có nghĩa như từ bỏ việc bảo vệ Lào, hoặc bảo vệ nó mà không chiến đấu, hoặc quay về với giải pháp bảo vệ Lào bằng cách phòng thủ ở Luang Prabang và Viêng Chăn, một giải pháp chắc chắn là vô hiệu như trên tôi đã nói tại sao. Làm thế tức là từ bỏ nhiệm vụ. Uy tín của nước Pháp sẽ suy giảm và điều đó sẽ dẫn đến thua cuộc chiến tranh. Khi Việt Minh đã bắt đầu tiến công mà muốn mở lối thoát ra thì chắc chắn không tránh khỏi bị tiêu diệt gần như toàn bộ. Y định thoát vây này cũng đã được dự kiến - dưới cái tên hành quân Albatross trong trường hợp không thể kéo dài kháng cự được nữa. Tướng De Castries dự định tiến hành cuộc hành quân này bằng cách chia lực lượng thành ba bộ phận, rút theo ba hướng: Đông nam, Nam và Tây nam; số thương binh và vài đơn vị bảo vệ sẽ ở lại dưới quyền chỉ huy của chính ông ta. Từ phía Lào, lực lượng ở đấy sẽ tiến về hướng Điện Biên Phủ, chia làm hai hoặc ba chặng, để đón những người chạy thoát khỏi tập đoàn cứ điểm. Sáng ngày 7 tháng 5, nhận thấy thua đến nơi rồi, Tướng De Castries, được sự đồng ý của Tướng Cogny và tôi, quyết định đến đêm sẽ rút nhưng Việt Minh đã khẩn trương đẩy mạnh tiến công và đến chiều thì toàn bộ khu Trung tâm đã thất thủ. Đội quân ở Isabelle bỏ chạy lúc trời tối nhưng tất cả các hướng đều bị chặn. Chỉ lẻ tẻ vài chục người chạy thoát được sang Lào. --------------- 1. Trong trả lời phỏng vấn năm 1956 của ông Jean France, Tông biên tập tờ Paris Match, Tướng Giáp cho rằng: với quân đội Pháp, việc di tản Điện Biên Phủ là không thể thực hiện được. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 01:24:12 pm - Giải vây: Mưốn giải vây cho Điện Biên Phủ, người ta có thể tính hai cách hoặc bằng đường bộ hoặc bằng đường không. Hành động đơn thuần bằng đường không đòi hỏi những phương tiện vượt quá xa khả năng của Pháp. Duy nhất chỉ có một quân đội nào có không lực mạnh hơn chúng tôi gấp bội mới có thể hy vọng đạt kết quả. Vì thế một sự can thiệp ồ ạt, to lớn của không lực Hoa Kỳ đã được dự tính. Và đây là sự việc diễn ra thế nào đối với tôi. Tướng Ely, lúc ấy đang có công vụ ở Washington, vào những ngày đầu tháng 4, đã cử một sỹ quan sang báo cho tôi biết, do Trung Quốc can thiệp vào Điện Biên Phủ nên Mỹ cũng có lý do chính đáng để can thiệp. Là người tán thành chủ trương này, ngày 5 tháng 4, Bộ trưởng Foster Dulles trong một bài diễn văn vang dội, đã tố cáo tính chất can thiệp trực tiếp của Trung Quốc cho Việt Minh. Tướng Ely hỏi ý kiến tôi về việc này và tôi trả lời sự can thiệp ồ ạt của không quân Mỳ có thẻ cứu nguy cho Điện Biên Phủ. cả ông cao ủy (mà tôi báo cho biết), cả tôi đều không ai nghĩ rằng một hành động của không quân Mỹ ở Việt Nam lại có nguy cơ gây ra một cuộc chiến tranh lớn: phe cộng sản chẳng vì một sự cố kiểu này mà lao vào một cuộc chiến tranh mà trong thời kỳ ấy họ không muốn. Chính phủ cũng đồng quan điểm như tôi và yêu cầu Mỹ can thiệp. Cuộc can thiệp này - mang mật danh là Vautour - được nghiên cứu chi tiết với các chỉ huy không quân Mỹ ở Thái Bình Dương. Nó có thể sử dụng khoảng 300 máy bay ném bom xuất phát từ các tàu sân bay và 60 máy bay phóng pháo hạng nặng, xuất phát từ Philippines, do sân bay của Pháp ở Đông Dương không đủ điều kiện để bảo đảm cho việc sử dụng các loại này. Để bảo đảm an toàn cho đạo quân ở Điện Biên Phủ, không quân chỉ đánh ồ ạt ở vùng kế cận tập đoàn cứ điểm, nhưng việc đánh phá tuyến giao thông và đặc biệt là căn cứ tiếp tế Tuần Giáo thì hoàn toàn có thể làm được và theo ý kiến của các tướng Mỹ, nó sẽ rất có hiệu quả. Chiến dịch sẽ được báo trước 72 giờ trước khi tiến hành (Chưa bao giờ có chuyện dự định dùng bom nguyên tử). Nhưng rốt cuộc, lệnh thi hành chẳng thấy ban bố". Và như thường xảy ra ở thế giới phương Tây, sự việc vỡ lở. Một số nghị sĩ - phần lớn không nắm được vấn để - tỏ ra "xúc động", xôn xao ở Washington và Paris, tác động đến chính phủ. Đương nhiên là báo chí tha hồ loan tin. Và do dự hồi lâu, Tổng thống Eisenhower từ chối không can thiệp nữa. Đê che giấu sự "rút lui" của mình, Mỹ tuyên bố chỉ có thể can thiệp trong khuôn khô một hành động chung của các nước phương Tây. Để kiếm cớ, người ta hỏi ý kiến Anh, vì thiếu Anh thì không thể có mặt trận thống nhất (của phương Tây) ở châu Á được. Người ta yêu cầu Anh chấp nhận và tham gia, dù chỉ tượng trưng thôi cũng được, vì người ta biết trước rằng Anh sẽ từ chối, về hoạt động giải vây cho Điện Biên Phủ bằng lực lượng mặt đất, có một số phương án tỏ ra có thể làm được: hoặc thả một số tiểu đoàn dù xuống phá hoại giao thông của Việt Minh, có hoặc không có sự hỗ trợ của quân "du kích"; hoặc chỉ dùng lực lượng "du kích" làm nhiệm vụ phá hoại đó. Phương án thả quân dù xuống phối hợp với "du kích" phá hoại ở khu vực "đèo những người Mèo" (chắc Navarre muốn nói đèo Pha Đin. ND), như Đại tá Crevecoeur, chỉ huy lực lượng ở Lào. đã gợi ý với tôi song đáng tiếc là không thể làm được, vì không quân Pháp không đủ khả năng vừa tiến hành nó, vừa tiếp tục chi viện cho Điện Biên Phủ. Còn chỉ dùng "biệt kích" để phá hoại thì muốn đạt hiệu quả, hoạt động này cần phải được tiến hành ở một quy mô khá lớn, song với hiện trạng quân số và trang bị của "biệt kích" Pháp lúc bấy giờ, thì điều đó không thể làm được. Thực sự có hiệu quả để giải thoát cho Điện Biên Phủ chỉ có thể là những cuộc hành quân, hoặc từ Bắc Lào đánh sang, hoặc từ Đồng bằng đánh lên hậu phương Việt Minh. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 01:29:36 pm Từ Lào đánh sang, từ tháng 12 năm 1953, một cuộc hành quân lấy tên là Condor đã được chuẩn bị. Ta dự kiến đưa lực lượng đóng ở Thượng sông Nậm Hu tiến xuống khu vực Nga Na Son (cách Điện Biên Phủ 25 km về phía Nam), ở đấy có những bãi thả dù xấu nhưng dùng được, tảng cường cho nó thêm quân dù, rồi tiến sang Điện Biên Phủ phá vòng vây. Có nhiều khó khăn đấy, nhưng cuộc hành quân này có thể thực hiện được.
Từ ngày 15 tháng 3, quan tâm chính của tôi là tiến hành cuộc hành quân Condor. Nhưng lại vẫn vấp phải khó khăn vì thiếu phương tiện không quân. Vì cuộc chiến ngày càng ác liệt nên để bảo đảm dự trữ chiến đấu cần thiết cho Điện Biên Phủ, Pháp đã phải huy động gần hết khả năng vận tải cho chiến trường này. Tuy nhiên vào đầu tháng 4, tôi quyết định tiến hành mở cuộc hành quân Condor vào khoảng ngày 15. Thì ngày 12, Tướng Cogny đề nghị tạm hoãn để tiếp thêm dự trữ cho Điện Biên Phủ. Sau ngày 15 tháng 4, không quân lại bị thu hút vào việc đó nhiều hơn nữa nên tôi phải xếp cuộc hành quân lại. Vả lại, nếu có làm, thì kết quả cuộc hành quân cũng rất đáng ngờ. Bởi chúng tôi, cần phải huy động cho nó khoảng từ 15 đến 20 tiếu đoàn, nhưng lúc ấy tối đa cũng chỉ huy động được có 7. Mà như thế thì không đủ sức để giải vây cho Điện Biên Phủ. Cùng lắm là khiến đốì phương phải dành bớt lực lượng ra đối phó và nới lỏng sức ép, tạo điều kiện cho tập đoàn cứ điếm cầm cự đến mùa mưa đó. Tuy nhiên quân Pháp ở Lào1 cũng tiến ra lập được một căn cứ hành quân, nếu không dùng được cho côngđo thì cũng dùng làm nơi để đón quân ở Điện Biên Phủ trường hợp nếu họ chạy thoát ra được. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, các đơn vị nói trên vẫn ở nguyên tại chỗ và nếu hành quân Albatross được thực hiện thì họ có thể làm được vai trò cứu trợ của mình. Còn phương án từ Đồng bằng đánh lên chỉ có thể nhằm phá giao thông vận tải của đối phương, vì Điện Biên Phủ quá xa, chúng tôi không thể tính chuyện đem quân đến tận nơi để phá vỡ vòng vây của họ. Vì thế trước đây khi phát hiện khối đại quân Việt Minh tiến lên Tây Bắc, tôi đã chỉ thị cho Tướng Cogny hãy đề đạt những phương án đánh vào hậu phương Việt Minh mà chúng tôi có thể làm được. Để đánh từ Đồng bằng lên, nằm ở tầm tay chúng tôi là đường vận chuyến giữa Thái Nguyên và Yên Bái. Những kinh nghiệm cho thấy rằng, hệ thống giao thông của Việt Minh rất cơ động và gồm nhiều đường phụ, nên nếu muốn đạt hiệu quả lâu dài thì không thể chỉ đặt các "nút chặn" trên các đường ấy là xong, mà còn phải lấn rộng ra xung quanh các nút chặn ấy. Muốn làm thế phải có lực lượng đông và mạnh. Vả lại, nghiên cứu các đường vận chuyển của Việt Minh và khả năng vòng tránh của họ, thì những mục tiêu có giá trị nhất là những điếm nút giao thông của Tuyên Quang và Yên Bái. Vậy hành động duy nhất có hiệu quả là tiến công lên khu vực Yên Bái - Tuyên Quang, lập ở đấy một căn cứ hành quân nốì liền với Đồng bằng bởi một cầu hàng không hoặc bằng đường bộ. Giải pháp thứ nhất được đánh giá là không thể thực hiện được, bởi theo các chỉ huy không quân, thì địa hình ở đấy không có điểu kiện để thành lập một căn cứ không quân. Còn giải pháp chỉ dùng đường bộ thì những yêu cầu về người và phương tiện mà Tướng Cogny đề ra đã vượt quá khả năng của Pháp. Trong những ngày cuối tháng 4, Tướng Cogny có đề nghị với tôi cho mở một cuộc hành quân lên Phủ Đoan. Tuy có tiết kiệm hơn, nhưng nó vẫn đòi hỏi quá nhiều phương tiện. Hơn nữa, hiệu quả lại không lấy gì làm chắc chắn vì nó không đánh trực tiếp vào tuyến vận chuyển của đối phương2. Tuy nhiên Tướng Cogny vẫn nằn nì xin cho mở hành quân và đề nghị tôi cho lấy thêm cả quân trên toàn Đông Dương - nhưng trừ lực lượng của ông ta. Việc lấy quân ấy có nguy cơ gây thảm hại chung cho toàn cục nên với cương vị là người chịu trách nhiệm chung, tôi không thể mạo hiếm như thế. Vậy là tôi đã từ chốì3 và tôi không có gì phải hốì tiếc: nếu tôi chấp nhận thì cũng chắng cứu được Điện Biên Phủ mà Đông Dương thì bị phó mặc vào tay Việt Minh. Trong việc điều khiển cuộc chiến Điện Biên Phủ, đây là sự bất đồng duy nhất giữa Tướng Cogny và tôi. ---------------- 1. Dưới quyền chỉ huy của Đại tá Then, phó của Đại tá Crevecoeur, gồm: 4 tiểu đoàn chính quy do Trung tá Godard chỉ huy và quân phụ lực (phần lớn là "du kích” thuộc lực lượng GMI của Đại tá Trinquier). 2. Đảy chỉ là sự sao chép đơn giản cuộc hành quân Lorraine (11-1952) tuy cũng tới được Phủ Đoan, nhưng không thu được kết quả gì có ý nghĩa chiến lược. 3. Trong cuộc phỏng vấn của France, Tổng biên tập báo Paris Match, vào năm 1954 Tướng Giáp cho rằng, với lực lượng Pháp có lúc bấy giờ, một cuộc hành quản từ Đồng bằng đánh lên là không có khả năng đạt kết quả. Để chứng minh cho nhận định ấy, ông Giáp đã nhắc lại thất bại của cuộc hành quân Lorraine năm trước. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 01:35:01 pm Nguyên nhân thất bại ỏ Điện Biên Phủ Nguyên nhân đầu tiên tôi nghĩ đến - và đã nhiều lần nhắc tới - là điều kiện địa hình của tập đoàn cứ điểm: Chúng tôi ở trong khu lòng chảo, còn đối phương thì chiếm lĩnh các điếm cao vây quanh1. Tình hình này tất nhiên khiến phòng ngự của chúng tôi rất khó khăn nhất là từ khi đối phương có được những phương tiện hỏa lực mạnh hơn rất nhiều lần so với dự kiến. Nhưng dù ở vị trí như thế nào và hỏa lực đối phương mạnh đến đâu, tập đoàn cứ điểm không phải không thể phòng ngự được. Trước khi bị tiến công, không một chỉ huy nào của tập đoàn cứ điểm cũng như không một vị khách am hiểu nào lên thăm lại đánh giá nó như thế. Vả lại, trong Đại chiến 1914-1918, nhiều vị trí phòng thủ cũng trong tinh trạng bị khống chế tương tự mà vẫn chống trụ được trong nhiều tháng. Nhiều nguyên nhân thất bại khác cũng được tìm kiếm trong những khuyết điểm mà chỉ huy các cấp của Pháp phạm phải. Thực vậy, trong nhận thức và tổ chức phòng thủ, cũng như trong chuẩn bị và chỉ huy chiến đấu, Pháp có thể nêu lên những sơ suất và sai lầm nghiêm trọng. Việc phân bố lực lượng của tập đoàn cứ điếm giữa khu Trung tâm và các cụm cứ điếm vòng ngoài rõ ràng là kém: lực lượng phòng thủ ở Beatrice và Gabrielle quá yếu. Những đơn vị yếu kém đã không được thay thế bằng các đơn vị mạnh hơn lấy ở Đồng bằng lên trước khi xảy ra trận đánh. Một số trận địa không được xây dựng đủ vững để chông lại hỏa lực của pháo binh và súng cối hạng nặng của đối phương. Việc chuẩn bị chiến đấu chống lại pháo binh và phòng không đối phương không được tiến hành đầy đủ, do các chuyên gia của Pháp quá lạc quan, đã gán ghép cho họ những nhận thức của chính mình và đánh giá thấp khả năng của họ. Các bộ tham mưu ở Hà Nội đã tổ chức hiệp đồng rất tồi các hoạt động giữa mặt đất và trên không. Cuối cùng và trên hết là việc không thi hành các cuộc phản kích trong những ngày 14 và 15 như kế hoạch đã dự kiến, điều đó đã làm tiêu tan mọi hy vọng thắng lợi. Những thiếu sót và sai phạm trên, một phần thuộc về chỉ huy tập đoàn cứ điểm, một phần thuộc về không quân, nhưng phần chủ yếu thuộc về chỉ huy lục quân ở Bắc Bộ, nơi có trách nhiệm chuẩn bị và điều khiển trận đánh. Đương nhiên, với tư cách là tổng chỉ huy tôi là người phải chịu trách nhiệm chung. Tuy nhiên dù nặng đến đâu, tôi cho rằng những nguyên nhân trên chưa phải là những nguyên nhân quyết định2. Mà những nguyên nhân chính yếu của việc thất thủ Điện Biên Phủ là ở chỗ khác. Nguyên nhân sâu xa là sự yếu kém chung của chúng tôi về lực lượng và phương tiện: đơn vị thì quá thiếu quân số, quá bị "vàng hóa" cán bộ lại vừa thiếu vừa yếu, một số đơn vị chất lượng kém; lực lượng cơ động có khả năng giải thoát cho tập đoàn cứ điểm thiếu và khả năng không quân quá thấp. Ở Điện Biên Phủ, chúng tôi phải trả giá cho cuộc chiến tranh mà từ trước đến giờ chúng tôi tiến hành bằng một "cái giá rẻ mạt", và trước sức mạnh ngày càng gia tăng của Việt Minh, nó đã dẫn chúng tôi đến miệng hố của thất bại. Tuy nhiên thất bại này không phải không thể tránh được: một sự thức tỉnh, một nỗ lực vươn lên là có thể giúp chúng tôi tránh khỏi. Thất bại này cũng không phải là sắp xảy ra đến nơi vì Việt Minh chưa phải đã đủ sức để đánh bại chúng tôi. Nhưng quyết định tai hại về việc họp Hội nghị Geneve vào một thời điểm bất lợi nhất - tức là vào lúc ván bài của Pháp không thể kịp điều chỉnh gì nữa - đã hoàn toàn làm thay đổi mọi căn cứ của vấn đề. Từ một mục tiêu thuần túy quân sự, đối thủ của chúng tôi đã biến Điện Biên Phủ thành một mục tiêu chủ yếu là chính trị, đáng giá với mọi hy sinh, bởi việc mất nó sẽ dẫn đến sự "sụp đổ tinh thần của nước Pháp", mà Tướng Giáp đã nêu trong một chỉ thị của ông ta. Không có Geneve thì Bộ chỉ huy Việt Minh - năm trước đã tránh không dám tiêu hao khốì đại quân của họ trong một trận đánh kéo dài ở Nà sản hoặc một cuộc tiến công vào Cánh Đồng Chum - năm này chắc họ sẽ không dại gì mạo hiểm chuốc lấy tổn thất nặng nề cho khối đại quân của họ chỉ để giành lấy một thắng lợi không có tính chất quyết định và do đó sẽ tự đặt mình vào một vị trí bất lợi để tiếp tục chiến tranh. Không có Geneve, Việt Minh cũng sẽ không được Trung Quốc viện trợ, mà cho đến lúc bấy giờ Trung Quốc còn e ngại có thể sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh lớn. Chính Geneve, cung cấp cho Việt Minh khả năng giành hòa bình nhanh chóng và thắng lợi, dẫn Việt Minh tới chỗ dám mạo hiểm tất cả để giành bằng được chiến thắng rực rỡ nhất chớp lấy một cơ may chính trị không ngờ tới. Chính Geneve đã giúp cho Việt Minh có thế mạnh trong thương lượng, đã nhận được viện trợ ồ ạt mà chẳng phải lo ngại gì cả, do đó đã làm cho phương tiện của Việt Minh đột ngột vượt trội hơn phương tiện của Pháp vào đúng thời điểm quyết định nhất. Chính là vào ngày quyết định họp Hội nghị Geneve mà số phận của Điện Biên Phủ đã được định đoạt. ----------------- 1. Vấn để này, có quá nhiều người tranh cãi, sẽ được xem xét đầy đủ hơn ở phần phụ lục. 2. Trong cuốn "Tại sao Điện Biên Phủ", Đại tá Rocolle có ý kiến khác về vấn đề này. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:22:03 pm Những hậu quả của Điện Biên Phủ Trong 56 ngày, những người bảo vệ Điện Biên Phủ đã chứng tỏ với thế giới bản lĩnh chiến đấu của những chiến sỹ Camerone, Sidi Brahim và Verdun vẫn luôn luôn là bản lĩnh chiến đấu của quân đội chúng tôi. Binh chủng không quân và không quân của Hải quân cũng chiến đấu anh dũng chẳng thua kém gì Lục quân. Dù thất trận, một trang sử mới huy hoàng đã được viết trong lịch sử quân đội chúng tôi. Có lúc nó đã làm thức tỉnh ý thức dân tộc trong đông đảo người Pháp. Một Chính phủ, nếu xứng đáng với cái tên gọi ấy, hắn đã biết khai thác sự thức tỉnh ấy. Nhưng những chiến sỹ Điện Biên Phủ của chúng tôi không chỉ cứu vãn danh dự mà còn tránh cho Lào khỏi bị xâm lăng. Lôi kéo khối chủ lực cơ động của Việt Minh khỏi Đồng bằng cũng như khỏi miền Trung và Nam Đông Dương, họ đã ngăn không cho đối phương giành được ở một điểm thực sự là cốt tử cái chiến thắng lẫy lừng mà họ cần ở hội nghị Geneve. Họ đã giáng cho đối phương những tổn thất nặng nề khiến đốì phương trong nhiều tháng nữa chưa thể tiến hành ngay những đòn đánh quyết định. Các chiến sỹ của tập đoàn cứ điểm đã hoàn thành đầy đủ mọi nhiệm vụ của mình. Tên tuổi của họ sẽ được ghi vào lịch sử truyền thông của những khu pháo đài lớn mà trong mọi thời, nhiệm vụ chính của nó là chặn đứng đổi thủ trên hướng tiến chủ yếu và giam chân những lực lượng đối phương đông mạnh hơn họ trước chân tường của pháo đài. Trong lịch sử, nhiều pháo đài như thế đã thất thủ nhưng đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Song chỉ một mình nó thôi thì cũng chưa có một pháo đài nào đủ sức dẫn đến sự kết thúc chiến tranh. Rủi thay chiến tranh Đông Dương không giống như những cuộc chiến tranh khác. Đó là một cuộc chiến tranh mà chưa bao giờ nước Pháp cảm thấy có lợi ích quốc gia, mà người ta cứ để cho nhân dân nghĩ rằng nó vô nghĩa, rồi chán nản mỏi mệt và một ê kíp thiếu kiên nhẫn trong chính giới chỉ đợi chờ để tìm “cờ” là kết thúc nó. Vậy phải chăng những hậu quả của việc Điện Biên Phủ thất thủ lại hết sức trầm trọng như người ta đánh giá vê thất bại mà chúng tôi vừa phải gánh chịu1. ---------------- 1. Về phương diện quản sự, thất bại ở Điện Biên Phủ không trầm trọng bằng thất bại ở Cao Bằng. Ở Điện Biên Phủ, chúng tôi mất 16 tiếu đoàn có chất lượng ngang với 7 tiểu đoàn bị mất ở Cao Bằng. Tính theo tỷ lệ so với tổng quân số ở Đông Dương, tổn thất này không phải là lớn hơn quá nhiều so với tổn thất ở thời kỳ Cao Bằng. Ở Cao Bằng và nhất là do di tản vội vã khỏi Lạng Sơn, Việt Minh đả chiếm được nguyên vẹn Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:27:10 pm CHƯƠNG VIII TIẾP THEO DIỆN BIÊN PHỦ Từ lúc cảm thấy trận Điện Biên Phủ có thể chuyển sang chiều hưóng xấu, với sự đồng ý của ông cao uỷ, tôi đã báo cho chính phủ biết. Tôi cũng lưu ý Chính phủ tình hình về việc tập đoàn cứ điếm có thể mất và gợi ý một số biện pháp đối phó. Ngày 16 tháng 3, một bức điện về vấn đề này đã được gửi đi. Trong quá trình trước khi diễn biến trận đánh, ông Dejean và tôi đã nói rõ quan điếm này trong nhiều thư và điện, về phần tôi, đi đôi vối những thư tin chính thức, tôi còn gửi nhiều thư riêng cho ông Mar Jacquet, Thống chê Juin và Tướng Ely. Những quan điểm đó tóm tắt như sau: “Nếu mất Điện Biên Phủ, chiến cục 1953-1954 sẽ chịu thất bại nặng nề về chiến thuật nhưng cứu nguy được cho Lào và tránh cho Đồng bằng Bắc Bộ cũng như Nam Đông Dương những thất bại quan trọng hơn có thể dẫn đến thảm hoạ. Hơn nữa, khối chủ lực cơ động tác chiến của Việt Minh cũng sẽ bị tiêu hao, nếu không hơn thì ít nhất cũng ngang Pháp. Cho nên sẽ không có chuyện thất bại không thể cứu vãn nổi. Nhưng mất Điện Biên Phủ sẽ gây ra một cú “sốc” tâm lý rất ghê gớm. Vậy nên dự kiến trước một sự suy sụp tinh thần của nước Pháp, sự suy sụp có thể dẫn đến việc nước Pháp sẽ phải chấp nhận hoà bình với bất kỳ giá nào, tuy điều đó không đúng với thực trạng và tình hình quân sự1. Muốn vậy, nước Pháp và các Quốc gia liên kết cần phải khẳng định một cách mạnh mẽ quyết tâm tiếp tục chiến tranh và thông báo ngay những biện pháp cần thiết, về phương diện chính trị, quyết tâm đó cần phải được thể hiện bằng một sự chuẩn bị về tâm lý cho dư luận2. Trong lĩnh vực quân sự, nó phải được thực hiện ở việc giữ vững thế bố trí của Pháp trên toàn Đông Dương và tăng thêm quân tiếp viện. Điều này chẳng cản trở vì việc tìm kiếm hoà bình bằng thương lượng bởi rủi thay nó đã được tiến hành, nhưng trước hết nó không làm cho Pháp phải thương lượng trong một bầu không khí "thất bại chủ nghĩa". Tuy chẳng nghe theo những điều tôi gợi ý và cũng không trả lời nữa, nhưng sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, thái độ của Chính phủ đối với tôi và các thư riêng của các nhân vật chính trị và quân sự có thẩm quyền viết cho tôi đều tỏ ý chấp nhận quan điểm của tôi. Điều này đã được những phát biểu của thủ tướng ngày 13 tháng 5 trước Quốc hội chứng tỏ, bởi nó được trích ra hầu như toàn bộ những thư từ mà tôi đã nói rõ quan điếm của tôi về những vấn đề trên: Diễn biến tình hình sau thất bại Điện Biên Phủ càng củng cố thêm những ý kiến mà tôi đã phát biểu trong khi trận đánh còn đang diễn ra. Thật vậy, tập đoàn cứ điểm vừa mất đi trên tất cả các mặt trận sức ép của Việt Minh giảm đi trông thấy, điều đó chứng tỏ họ đã kiệt sức và không còn đủ khả năng để khuếch trương thắng lợi vừa giành được. Tình hình đó cho phép chúng tôi làm điều mà từ trước đến nay không làm được, đó là tập trung lực lượng để đương đầu với đối phương, đặc biệt là đương đầu với một cuộc tiến công có thể xảy ra ở Đồng bằng Bắc Bộ. ----------------- 1. Trong một bức thư ngày 21-4, nói về tình hình khi sắp họp ở Geneve, tôi viết: “Việc tập đoàn cứ điểm đã chống chọi được 40 ngày, bây giờ chắc sẽ làm giảm bớt trầm trọng hơn những hậu quả do việc có thể mất nó gây ra, đồng thời củng làm giảm nhẹ cả những hậu quả vật chất. Việc mất những đơn vị có chất lượng quả là một đòn đau cho ta nhưng đối với Việt Minh, do bị cầm chân ở Điện Biên Phủ và bị tổn thất nặng nề, các Sư đoàn của họ củng đả quá chậm để có thể tiến sang Lào hoặc có đủ sức mạnh để quay về tiến công Đồng bằng một cách mạnh mẽ. Hậu quả của thất bại Điện Biên Phủ sẽ chỉ nặng nề hơn nếu như trong lúc này nước Pháp và Việt Nam quốc gia nản lòng bỏ cuộc”. 2. Ông Dejean và tôi đã đề nghị Chính phủ cho công bố như sau: a) Việc Điện Biên Phủ thất thủ là một thất bại chứ không phải là một thảm hoạ; số quân ở Điện Biên Phủ mới chỉ chiếm 4% tổng quân số ở Đông Dương; b) Thất bại ở Điện Biên Phủ đã được bù lại một cách xứng đáng: nó đả cứu được Lào, giữ được Đồng bằng và cho phép ta có thể đương đầu với sự tiến công của đối phương ở miền Trung Đông Dương; c) Tổn thất của Việt Minh lớn hơn ta nhiều, muốn khôi phục lại, họ còn phải tốn thời gian; d) Nếu không đạt được hoà bình trong danh dự ở Geneve, ta cần phải tiếp tục chiến tranh. Mất một tập đoàn cứ điểm không có nghĩa là ta phải bỏ cuộc. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:30:37 pm Ở Bắc Lào, đối phương phải ngừng các chiến dịch và điều lực lượng trở về khu vực Điện Biên Phủ.
Ở Đồng bằng Bắc Bộ, họ có vài hoạt động ở khu phía Nam, nhưng không còn uy hiếp được giao thông của Pháp giữa Hà Nội và Hải Phòng. Chúng tôi đã điều được 3 binh đoàn cơ động lấy ở Trung và Hạ Lào về Bắc Bộ để sẵn sàng ứng phó. Ở Hạ Lào cũng vậy, hoạt động của đốì phương trên tuyến Sài Gòn - Sênô giảm nhiều. Điều đó bớt gánh nặng của chúng tôi và chúng tôi có thể điều về Đồng bằng Bắc bộ một binh đoàn cơ động. Ở Campuchia, các tiểu đoàn Việt Minh bớt hoạt động và rút một phần về nước. Ở Việt Nam, tình hình trở lại yên tĩnh và tình trạng "ruỗng nát" giảm bớt. Ở khu vực Atlante và trên Cao nguyên, Việt Minh đã ra khỏi xung quanh An Khê và chỉ đánh phá giao thông. Ở Trung Việt. Việt Minh có tăng cường hoạt động chút ít vì phải đối phó với lực lượng của Pháp điều từ khu vực Atlante tới. Vậy là, trên toàn Đông Dương, Pháp nắm được tình hình trong tay. Ngay trước mắt, chưa có một nguy cơ nào trầm trọng cả. Mặt khác, ở khu vực Điện Biên Phủ, đối phương tập hợp cơ động tác chiến của họ và bắt đầu tiến về Đồng bằng. Sau khi tập đoàn cứ điểm bị mất, giữa Pháp và Việt Minh đã có những cuộc thương lượng để họ trả cho tôi những thương binh nặng. Việt Minh đưa ra điều kiện và không quân Pháp phải ngừng hoạt động trên những trục đưòng mà họ có thể chuyển quân về Đồng bằng. Chúng tôi không thể nào chấp nhận đòi hỏi quá lợi cho họ như thế. Được sự đồng ý của Chính phủ, tôi đã từ chối. Việt Minh bắt đầu rút khối đại quân từ ngày 13 tháng 5. Trong khoảng từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 6, họ phải đưa được các Sư đoàn về những khu vực nghỉ ngơi và tập kết ở xung quanh Đồng bằng. Không quân Pháp đã làm chậm cuộc chuyển quân của họ, buộc họ chỉ có thể hành quân vào ban đêm hay những lúc xấu trời, nhưng dù sao Pháp cũng không thể cắt đứt được đường hành quân đó. Vậy là trên nguyên tắc, Việt Minh chỉ có thể tiến công Đồng bằng từ ngày 20 tháng 6 trở đi, nhưng cho đến lúc đó chưa có một triệu chứng nghiêm trọng nào biểu hiện ra. Trái lại, nhiều tin tức cho biết rằng, cả về tình trạng bị tiêu hao của các đơn vị Việt Minh và cả về ý đồ của họ, tình hình của đối phương đã cho phép Pháp nghĩ rằng họ không có khả năng gây nguy hiểm. Vậy là không hề bi quan, tôi đã nhìn nhận như thế về tình hình lúc ấy cũng như về tình hình sắp tới trước mắt. Đến giữa tháng 5, Chính phủ còn đánh giá tình hình với cách nhìn tương đốì đúng đắn. Chúng tôi đã chịu một thất bại hết sức nặng nề về chiến thuật, nhưng về chiến lược thì được trả giá xứng đáng. Trong cuộc chiến tranh này, Pháp không thua cuộc và tất cả là tuỳ thuộc vào sự vững vàng của tinh thần nước Pháp. Nhưng đến nửa cuối tháng 5, mặc dù tình hình quân sự không có gì diễn biến bất lợi, không khí chính trị bỗng đột ngột thay đổi, phần lớn là chịu ảnh hưởng của một chiến dịch báo chí. Trước đây, ngay giữa lúc Việt Minh đang đánh Điện Biên Phủ, báo chí đã đóng một vai trò tai hại mà Tướng De Castries trong một báo cáo đã đánh giá như sau: "Nếu trong những ngày đầu cuộc chiến, báo chí đã làm cho cả thế giới biết đến sự tích anh hùng của các binh sỹ ở Điện Biên Phủ, động viên tinh thần của họ thỉ trái lại từ giữa tháng 4, nó đã bắt đầu phá hoại tinh thần của họ bằng những bài báo và những buổi phát tin đầy bi quan. Nó còn làm cho đối phương hiểu rõ được cách bố trí và lực lượng, quan điểm của chúng ta về chiến tranh, những ý đồ và niềm hy vọng của chúng ta". Trong những tuần cuối của cuộc chiến và sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, chiến dịch báo chí đạt tới một quy mô rất rộng lớn. Nguyên nhân chính là tại Hà Nội, tình hình trầm trọng đi bao nhiêu thì Tướng Cogny lại bi quan bấy nhiêu. Ám ảnh bởi nỗi lo đại quân của Việt Minh sẽ ào xuổng tấn công Đồng bằng, rồi dân chúng ở đây sẽ tổng nổi dậy và trù tính cả việc sẽ di tản Hà Nội, Tướng Cogny đã có những ý kiến, những lời nói không hay, hoặc để mặc xung quanh bàn tán, rồi những lời nói, những bàn tán ấy được các phóng viên khoái săn tin giật gân - ông để mặc cho họ làm - đã lan truyền đi và thế là gây nên ở Pháp một làn sóng rộng rãi tinh thần thất bại chủ nghĩa. Tình hình ở Đồng bằng được mô tả như một bi kịch và cứ như chúng tôi đang đứng trước một thảm hoạ chung. Đây là vài ví dụ lấy trong hàng chục bài báo. Ngày 16 tháng 5, một tờ báo viết: "Hai tiểu đoàn Việt Minh đang có mặt tại Hà Nội, cải trang thành dân chài và lái xe tắcxi". Ngày 25 tháng 5 một báo khác đưa tin: "Hà Nội đã 3 phần 4 bị bao vây bởi 100.000 Việt Minh; họ đã bịt kín các ngả đường, trừ có ban ngày". Thế nhưng đó là tình hình có từ nhiều năm trước: "sự ruỗng nát" của Đồng bằng, tình trạng không thể đi lại ở đó ban đêm, sự có mặt của những đội quân ngầm Việt Minh ở Hà Nội. Nhưng người ta lại mô tả tình hình đó như là mới có, do thất bại ở Điện Biên Phủ gây ra và có khả năng dẫn tới một thảm hoạ sắp mới. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:36:46 pm Ngày 23 tháng 5, nhiều báo đăng một bức điện - nói là điện của Tướng Giáp gửi cho quân đội - đưa tin "sắp xảy ra một cuộc tiến công vào Hà Nội". Người ta còn cho độc giả biết "nội dung đích xác" của bức điện như sau: "Sẽ chiếm Hà Nội ngày chủ nhật 23 tháng 5, bất kể tổn thất như thê nào. Ký tên "Giáp". Cái gọi là "bức điện" này hoàn toàn chang căn cứ vào đâu cả.
Hầu hết các báo đều viết về cái được coi là "trận giao chiến ở Phủ Lý" và mô tả nó như màn dạo đầu của cuộc tổng tiến công vào Đồng bằng. Nhưng thực ra đó chỉ là một số trận đánh có tính chất địa phương, chẳng có ý nghĩa gì về chiến lược. Trong một tờ báo lớn ngày 20 tháng 5, người ta viết: tinh thần dân chúng bị giáng một đòn nặng nề và "trạng thái tâm lý ấy có thể biến thành một sự hoảng loạn". Thế nhưng thực tế làm gì có tình trạng tâm lý ấy. Trái lại, dân chúng ở Đồng bằng hoàn toàn yên tĩnh. Đối vối người dân Bắc Bộ, xứ Thái gần như một xứ sở lạ, nên việc Điện Biên Phủ bị thất thủ chỉ có một tiếng vang yếu ớt. Đối với người Pháp, đương nhiên có lo lắng hơn, nhưng không có một chút biểu hiện nào hoảng sợ và ngay cả việc di tản phụ nữ và trẻ em cũng rất hiếm. Về phần tôi, tôi đã làm tất cả để ngăn chặn tình trạng thất bại chủ nghĩa. Ngay từ ngày 30 tháng 4, tôi đã nhắc nhở Tướng Cogny rằng: "Trong những lúc khó khăn, bổn phận của người chỉ huy không chỉ là gương mẫu về kỷ luật và sự bình tĩnh mà còn đòi hỏi các thuộc cấp của mình cũng phải như thế". Tôi cũng báo Tướng Cogny rằng, tôi sẽ coi ông ta là người phải chịu trách nhiệm nếu còn để tình trạng trên tồn tại1. Ông ta đã trấn tĩnh lại và đã có biện pháp cần thiết. Nhưng rủi thay, điều xấu nhất vẫn xảy ra và bây giờ Pháp tràn ngập một sự hoảng loạn thực sự. Mối hoảng loạn này có từ các chính giới Pháp và nó lại được nhân rộng thêm lên bởi một số người nhân dịp chúng tôi bị thất bại về quân sự, càng muốn kết thúc chiến tranh bằng bất kỳ giá nào - điều đã trở thành mục tiêu của họ. Tướng Ely, được cử sang công cán ở Đông Dương, tới Sài Gòn ngày 18 tháng 5. Ông cho tôi biết vấn đề Điện Biên Phủ, dù nghiêm trọng thế nào, vẫn được chính phủ hoàn toàn hiểu biết, thông cảm và tuyệt đối tin cậy ở tôi, và ông sang đây là có mục đích truyền đạt cho rõ chỉ thị của Chính phủ. Đó là một chỉ thị về tác chiến, trong đó có một số biện pháp tôi phải thực hiện như sau: 1) Mục tiêu chính là từ nay - "hơn tất cả mọi quan tâm khác" - là bảo vệ quân đội viễn chinh; 2) Ổn định tình hình ở miền Nam và Trung Đông Dương, chuẩn bị để khi cần, sẽ chuyên về phòng thủ ở vĩ tuyến 18. 3) Co bốt ở Đồng bằng Bắc Bộ "bước đầu là về vùng "đồng bằng hữu ích" (khu vực Hải Phòng - Hà Nội) và nếu cần thì bước thứ hai chuyến về cố thủ Hải Phòng". Ely nói rõ với tôi, theo tinh thần của Chính phủ, là bước một (bỏ khu Nam và Tây Đồng bằng) cần phải được thực hiện trong một thời gian ngắn (10 đến 15 ngày). Bước hai (bỏ Hà Nội và co về Hải Phòng) sẽ chỉ được tiến hành khi nào có lệnh Chính phủ, hoặc bị đối phương uy hiếp quá mạnh. Tôi trả lời Tướng Ely là tôi chưa hoàn toàn đồng ý với những chỉ thị ấy. Tôi đồng ý là từ nay phải ưu tiên coi trọng việc bảo vệ an toàn cho đạo quân viễn chinh, nhưng tôi phản đối cái tinh thần quá tuyệt đốì hoá cụm từ "hơn tất cả mọi quan tâm khác" mà hiểu theo nghĩa đen là nó sẽ biện bạch cho tất cả mọi sự rút bỏ của chúng tôi. Tôi cũng đồng ý về lợi ích của việc từ nay cần phải tập trung nỗ lực chính vào miền Nam và Trung Đông Dương làm trong sạch và ổn định khu vực này. vả lại đây cũng là những quan điểm mà từ trước, chính tôi đã nói nhiều lần. Tôi công nhận cần phải trù tính rút bỏ một vài nơi ở Đồng bằng - trong chừng mực chúng tôi buộc phải làm khi không đủ tăng viện - và đây cũng chính là điều tôi đã đề nghị trong một bức thư gần đây. -------------- 1. Trong thư ngày 21-4, tôi đã trình bày với Tướng Ely về những rắc rối do cách xử sự của Tướng Cogny gây ra và đề nghị cho thay ông ta ngay sau khi Điện Biên Phủ vượt ra khỏi cơn nguy biến. Trả lời tôi ngày 28-4, Tướng Ely đồng ý tạm giữ Cogny một thời gian và sẽ giải quyết vấn đề này trong thời gian ngắn nhất. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:42:52 pm Trái lại tôi cho rằng việc ưu tiên rút bỏ một số khu vực (khu Nam và Tây Đồng bằng) theo như Chính phủ chỉ thị sẽ có những hậu quả tai hại: mất nguồn nhân lực quan trọng nhất để tuyển quân1 huỷ hoại thế bố trí chiến trường, nhưng nguy hiếm nhất là làm sa sút tinh thần của mọi người tới mức mà tôi không thể tiếp tục cuộc chiến được nữa. Những nhà đàm phán của chúng tôi ở Geneve sẽ bị bó tay, không còn một chút quyền tự do hành động.
Tôi nói thêm rằng về phương diện quân sự, những cuộc rút lui ấy không những chưa cần thiết đối với tình hình trước mắt mà nó còn tỏ ra nguy hiểm. Bởi nếu biết chúng rút lui - mà việc này khó qua khỏi mắt họ - Việt Minh có thể sẽ tiến công Đồng bằng. Trong lúc lực lượng đang bị hao mòn, chắc họ sẽ không dám tiến công nếu không thấy chúng ta nao núng rút quân. Ý kiến này của tôi được Tướng Cogny hoàn toàn ủng hộ; nhận thấy những tai hoạ mà ông lo sợ đã không xảy ra hoặc trước mắt có thể xảy ra, ông ta đã lấy lại được bình tĩnh2. Tôi trình bày như sau ý kiến của tôi về đánh giá tình hình và những biện pháp cần làm. Trước mắt, liệu đối phương có khả năng mở một cuộc tiến công vào Đồng bằng từ 20 tháng 6 trở đi? Khả năng này là khó xảy ra, bởi một phần họ đã mệt mỏi và bị tổn thất nặng, phần khác mùa mưa sẽ không cho phép họ đánh lớn. Nhưng nếu cuộc tấn công xảy ra thì nó sẽ gây cho chúng tôi những khó khăn, song không phải là những nguy hiểm với điều kiện là chúng tôi không tỏ ra có ý định rút lui. Vậy không những lúc này chúng tôi "có thể" mà còn "cần thiết" phải giữ nguyên toàn bộ Đồng bằng. Trái lại trong tương lai, tôi cho rằng tình hình sẽ trở nên rất đáng lo ngại. Quả vậy, nếu đàm phán ỏ Geneve thất bại, đến đầu mùa đông chúng tôi sẽ phải đương đầu với một khối cơ động tác chiến Việt Minh được tổ chức lại và có sức mạnh mới nhờ được viện trợ lớn. Chúng tôi cần phải sẵn sàng chờ đợi một tình hình là hình thức tác chiến kiểu như Việt Minh đã làm ở Điện Biên Phủ sẽ rộng mở, nếu chưa phải trên toàn Đông Dương, thì ít nhất là cũng trên phần phía Bắc vĩ tuyến 18, nơi mà ỏ đây một hệ thống đường xá phát triển sẽ giúp cho đớì phương vận chuyển tiếp tế thuận tiện. Vậy là ngay từ mùa hè, chúng tôi đã phải có biện pháp để sang thu là có thế đối phó với tình hình tác chiến mới nói trên, hình thức tác chiến chắc chắn sẽ xảy ra nếu như chiến tranh tiếp diễn. Cần phải hành động ngay từ bây giờ, coi như Geneve chắc chắn sẽ phải thất bại, bởi phía Việt Minh, chắc họ sẽ không ngừng chuẩn bị cho cuộc chiến. Muốn vậy, tôi thấy nước Pháp cần phải gửi thêm tăng viện mà tôi nói trong báo cáo. Số tăng viện này lớn đấy, nhưng còn xa nó mới vượt quá khả năng của nước Pháp. Gửi tăng viện sớm là tạo cơ may tốt nhất cho chúng tôi giành được một nền hoà bình thích đáng ở Geneve. Trường hợp hội nghị thất bại, số quân trong khi chờ đợi sự can thiệp của Mỹ, mà trong trường hợp này chắc sẽ có nhiều khả năng xảy ra. Xuất phát từ những nhận định trên, tôi đề ra một kế hoạch để tiến hành trong mùa hè như sau: kiên quyết giữ vững những vị trí hiện tại (không có nghĩa là không có những điều chỉnh chi tiết); chuẩn bị để đến đầu mùa thu, có thể rút bỏ một số nơi xét thấy cần phải rút trong trường hợp Geneve thất bại, mà chiến tranh vẫn tiếp diễn và viện binh Pháp nhận được trong mùa hè lại không đủ để giữ tất cả. Để thực hiện kế hoạch trên và làm cho nó ăn khớp với một số điều trong chỉ thị của Chính phủ mà tôi nhất trí, tôi dự kiến một số biện pháp như sau: - Ở tất cả mọi nơi, quân đội viễn chinh sẽ được tập trung lại, miễn làm nhiệm vụ chiếm đóng - nhiệm vụ từ nay sẽ giao cho quân đội các Quốc gia liên kết. Tất cả các đơn vị của quân đội viễn chinh sẽ trở nên cơ động. - Bộ chỉ huy Việt Nam sẽ phụ trách những khu vực không quan trọng, đặc biệt là những khu vực dự kiến sẽ bỏ. Biện pháp này phù hợp với mong muốn từ lâu của chính quyền Việt Minh, và có cái lợi là để cho họ chịu trách nhiệm về những cuộc rút bỏ cuối cùng, chừng nào mà họ thấy không tự mình giữ được. Nó cũng cho phép những người Việt Nam chuẩn bị - như họ nói là có ý định - cuộc chiến tranh du kích chống lại Việt Minh ở những vùng phải rút bỏ. -------------- 1. Đặc biệt những khu công giáo Nam Đồng bằng là những khu tuyên quân tốt nhất của Pháp (nhất là đối với những đơn vị dù). 2. Từ 10-5, Tướng Cogny đã tuyên bố với các nhà báo là: ông nghĩ rằng sẽ không có sự uy hiếp nào nghiêm trọng đối với Đồng bằng cho đến trước tháng 9. Ngày 11 tháng 5, tôi điện cho Tướng Ely: "Hoàn toàn đồng ý với Cogny. Phản đối mọi cuộc rút quân được tiến hành từ lúc này và với tinh thần ưu tiên." Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:47:13 pm Trên những cơ sở đó, sẽ tiến hành như sau:
Ở Đồng bằng Bắc Bộ, quân viễn chinh sẽ tập trung ở khu vực Hà Nội - Hải Phòng mà bảo vệ khu vực này sẽ trở thành nhiệm vụ chính của họ. Khu Nam và Tây sẽ chỉ có quân Quốc gia bảo vệ, nhưng điều đó không loại trừ việc đôi lúc quân viễn chinh vẫn có thê can thiệp nếu việc làm này không ảnh hưởng gì tới nhiệm vụ của họ. Tất cả mọi đồn bốt không cần thiết sẽ được rút hoặc giao cho những quân phụ lực đóng giữ - những đơn vị này có thể "lẩn biến" đi nếu họ bị tiến công. Tại miền Trung Đông Dương, sẽ thiết lập dựa vào triền núi dọc vĩ tuyên 18 một cái đập chắn để bảo vệ cho miền Trung và Nam Đông Dương. Việc thành lập đập chắn này sẽ được xúc tiến ở Lào. Khu vực Atlante sẽ giao cho bộ chỉ huy Việt Nam. Và nếu có thể được, quyền hành của chúng tôi ở đây vẫn cần được duy trì, trong khi chờ đợi, có thêm viện binh để mở rộng chiếm đóng nếu như chiến tranh tiếp diễn. Vậy là kế hoạch này, trong khi không làm tình hình quân sự trầm trọng thêm, còn cho phép chúng tôi chờ đợi, hoặc một cuộc đình chiến nếu thoả thuận được ở Geneve thất bại. Nó giành cho những nhà ngoại giao Pháp tất cả các con chủ bài để đạt tới hoà bình trong vinh dự. Nó lại không làm tổn hại gì đến cục diện quân sự trong trường hợp phải tiếp tục chiến tranh. Trước khi trở về Paris ngày 23 tháng 5, cá nhân Tướng Ely đã đồng ý vối kế hoạch của tôi và ông cho rằng nó không có gì trái ngược vói những chỉ thị của Chính phủ mà ông đã chuyển đạt cho tôi1. Theo yêu cầu của tôi, ông đã viết giấy xác nhận sự đồng tình của ông (tuy phải công nhận là với những lời lẽ khá nhập nhằng, nước đôi). Mặt khác, tôi còn phát biểu với Tướng Ely rằng dù sau này thế nào - hoà bình hay tiếp tục chiến tranh - vẫn cần thiết là từ nay ở Đông Dương, quyền hành chính trị và quân sự nên được giao thống nhất vào tay một tổng tư lệnh và người này sẽ được Chính phủ uỷ quyền một cách rộng rãi trong giao tiếp đốì với Mỹ. Tôi còn nói thêm rằng chính ông ta đã là người xứng đáng hơn cả để đảm đương chức vị ấy. Tôi cũng nói với ông là việc thay thế đó nên được tiến hành ngay sau khi các chiến dịch lớn đã kết thúc, nghĩa là vào khoảng tháng 7. Chưa bàn tính gì đến tương lai, Tướng Ely trả lời tôi rằng, về phần ông ta, ông phản đối tất cả mọi thay đổi nhân sự lúc này chừng nào mà tình hình còn chưa được ổn định. Điều đó cho phép tôi nghĩ ông sẽ ủng hộ kế hoạch của tôi trước chính phủ và dành cho tôi thời gian để thực hiện kế hoạch đó khi nó đã được chấp nhận. Nhưng Tướng Ely vừa về tới Pháp thi báo chí đã ầm ĩ loan tin về một kế hoạch hoàn toàn khác mà Tướng Ely sẽ đệ trình Chính phủ. Kế hoạch này dự tính nhiều cuộc rút bỏ quan trọng và ngay tức khắc ở Bắc bộ và những nơi khác. Tất cả các "chiến lược gia - sa lông" của Nghị viện và các "nhà quân sự tài ba" của các báo - vì báo nào chẳng có nhà quân sự sành sỏi của riêng mình, mặc dầu họ thường là người ít biết nhất về vấn đề Đông Dương và dù thế nào đi nữa, là về thực tế tình hình - đều khẳng định một cách không thể chối cãi được về sự cần thiết của những cuộc rút bỏ ấy. Không nghi ngờ gì, Tướng Ely đã bị làn sóng hoảng loạn ấy tác động tới. Và chắc ông cũng bị ảnh hưởng bởi Tướng Salan, người đã theo ông sang Đông Dương và là người tán thành ưu tiên cho rút lui. Nhưng trước tiên tôi cho rằng ông đã phải ngả theo ý định của chính phủ, lúc ấy đã phải bận tâm trước một cuộc thảo luận rất khó khăn của Quốc hội sắp tới và cũng muốn loan báo cho mọi người biết là Chính phủ cũng "đã làm được một cái gì đó". Mặc dù thế nào và tuy được nghe những dư luận khiến tôi biết là giữa giải pháp rút bỏ và giải pháp kiên quyết bám trụ. Chính phủ ngày càng nghiêng về giải pháp thứ nhất, tôi vần không một chút thay đổi về đường lốì mà tôi đã xác định. Tôi chỉ yêu cầu chính phủ, hoặc chính thức cải chính tin đồn là sắp gọi tôi về, hoặc thay đổi ngay tức khắc. Ngày 25 tháng 5, tôi hạ lệnh thi hành kế hoạch mà tôi đã đề ra. Trong một cuộc họp ở Sài Gòn có sự hiện diện của ông cao uỷ, các quan chức Việt Nam được thông báo về kế hoạch và họ đều nhất trí. Cuối tháng 5, trong một vòng đi kinh lý các chiến trường, tôi đã gặp gỡ các chỉ huy và làm cho họ hiểu rõ các mệnh lệnh. Tôi nhận thấy tinh thần các sĩ quan Pháp rất vững vàng và qua tiếp xúc với họ, tôi vững tin là Pháp có thể duy trì được tình hình đến cuối mùa hạ. "Vết đen" được báo hiệu ở mọi nơi là tinh thần của quân đội Việt Nam. Sự sa sút của họ bắt đầu từ khi họp hội nghị Berlin lại bị tác động bởi thất bại ở Điện Biên Phủ, ngày càng tiến triển một cách đáng lo ngại. Nhưng ở mọi nơi tôi đều được khuyên rằng mọi cuộc rút lui, nhất là lại được quyết định từ phía Pháp, đều có những tác động rất tai hại. Đặc biệt là Tướng Cogny, ông khắng định điều đó. Ông báo cho cao uỷ và tôi biết, vài ngày trước khi trả lòi câu hỏi của Tướng Ely, ông khẳng định là cho đến trước tháng 9, hoàn toàn không có sự đe doạ nào nghiêm trọng đối với Đồng bằng và với những phương tiện hứa sẽ cấp hoặc đã được cấp (ba binh đoàn cơ động), ông có thể đương đầu với mọi tình hình có khả năng xảy ra. Tướng De Bofors, chỉ huy khu Tây Nguyên và khu vực Atlante, cũng phản đối mọi cuộc rút lui tức khắc. --------------- 1. Theo hồi ký của ông Laniel thi chính những chỉ thị này do Tướng Ely thảo ra. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:51:32 pm Ngày 30 tháng 5, tôi gửi chính phủ một bức điện - không ngờ đó lại là bức điện cuối cùng - tóm tắt vài nét về tình hình chung. Sau khi báo cáo tình hình các chiến trường, tôi kết luận: "Nỗ lực của đối phương đã giảm đi nhiều, trừ vài hoạt động mới ở Trung Việt Nam. Còn nghi ngờ là liệu Việt Minh có tấn công lớn vào Đồng bằng hay không. Nếu có thì phải từ ngày 20 tháng 6 trở đi, khi đại quân Việt Minh từ Điện Biên Phủ trở về có thể bắt tay vào nhiệm vụ. Nếu xảy ra thì với tương quan lực lượng và sự tập trung của quân Pháp, ta có thể tin tưởng ở cuộc đọ sức. Bộ chỉ huy Việt Minh hình như chưa quyết định đánh hay không và điều đó còn tuỳ thuộc nhiều vào việc họ đánh giá quyết tâm của chúng ta" (Xem nguyên văn bức điện ở phụ lục số 1).
Ngày 3 tháng 6, tôi được biết Tướng Ely thay ông Dejean và tôi kiêm nhiệm cả nhiệm vụ cao uỷ và tổng tư lệnh. Nội dung bức điện, do Thủ tướng ký, nói rõ: "Tôi mong ông hãy... thi hành những biện pháp thích hợp với những chỉ thị mà Tướng Ely đã truyền đạt cho ông". Câu này chứng tỏ chính phủ đã chấp nhận giải pháp rút lui. Ngày 8 tháng 6, tôi chính thức thôi nhiệm vụ tổng chỉ huy, không quên nhắc với Tướng Ely rằng quyết định rút lui của chính phủ thực là tai hại. Ngày 15 tháng 6, khi tôi lên máy bay trở về Pháp, mọi nhận định của tôi về tình hình - như đã nói trong điện ngày 30 tháng 5 đều chưa có điều gì bị bác bỏ. Trước mắt vẫn chưa xảy ra một đe doạ trầm trọng nào cả. Ngay sau ngày tôi đi, người ta đã chuẩn bị để tiến hành những cuộc rút lui quan trọng mà trước đây tôi đã từ chối. Trên Tây Nguyên, vào cuối tháng 6, Pháp rút tập đoàn cứ điểm An Khê - một vị trí then chốt đóng vai trò chiếc nhọt độc thu hút lực lượng Liên khu 5, cũng tựa như Điện Biên Phủ thu hút đại quân Việt Minh. Thiếu vũ khí nặng, lực lượng Việt Minh Liên khu 5 không đủ khả năng đánh chiếm An Khê và bộ chỉ huy của họ cũng không hề nghĩ tối điều này. Bất chấp ý kiến không tán thành của Tướng De Bofors, chỉ huy Tây Nguyên, việc rút An Khê vẫn được quyết định. Giữ An Khê là binh đoàn cơ động số 100 (GM 100), mà nòng cốt là tiểu đoàn Triều Tiên, một tiểu đoàn rất vững, được chỉ huy tốt và giỏi chiến đấu phòng ngự. Nhưng việc rút lui của nó là một cuộc hành quân rất mạo hiểm; đưòng thì khó khăn, lại không giữ được bất ngờ (vì Việt Minh đã biết được ý định rút nó trước nhiều ngày). Kết quả là GM 100 đã bị tấn công và mất toàn bộ ban chỉ huy, 1 tiểu đoàn pháo, 250 xe và một số quân là 1.200 người. Được rảnh tay, lực lượng Việt Minh Liên khu 5 tràn xuống phía Nam, làm cho tình hình trở nên rất khó khăn. Chỉ vài ngày nữa là kết thúc hội nghị Geneve, chúng tôi đã biếu không một thắng lợi cho Việt Minh. Việc di tản ở khu Nam Đồng bằng Bắc Bộ mà Tướng Cogny cũng như tôi đều phản đối, được tiến hành từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 7 dưới cái tên "hành quân Auvergne". Tiếp đó là vài cuộc di tản tương tự, kém quan trọng hơn, dẫn đến cuộc tông di tản về khu vực Hà Nội - Hải Phòng. Tất cả các cuộc hành quân ấy đều được tiến hành trôi chảy nhưng dẫn tới sự tan rã hàng loạt các đơn vị Việt Nam và cuộc di tản của công giáo Đồng bằng trong những điều kiện rất cơ cực. Đối phương không có hành động gì đáng kể để ngăn chặn chúng tôi rút quân và trong những cuộc giao tranh mà họ tiến hành, rõ ràng họ tỏ ra yếu hơn chúng tôi. Hầu như ở khắp cả, họ chỉ hạn chế trong việc đuổi theo mà không kiên quyết tấn công, điều đó chứng tỏ họ chưa sẵn sàng đế mở một cuộc tiến công lớn vào Đồng bằng, một cuộc tiến công có khả năng gây nguy hiếm cho Pháp. Trên phần còn lại của Đông Dương, không có một cuộc tiến công nào lớn, còn những trận xảy ra (đặc biệt ở Trung và Hạ Lào) thì lại diễn biến có lợi cho chúng tôi. Ở Thượng du Bắc Bộ và Thượng Lào, quân "du kích" của Pháp còn tăng cường hoạt động và thu được những thắng lợi có tính chất địa phương. Mô tả lại một cách rất vắn tắt diễn biến tình hình quân sự kể từ lúc tôi rời Đông Dương cho tới lúc ký kết hiệp định là như vậy đấy. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 08:57:03 pm CHƯƠNG IX ĐÌNH CHIẾN Khi tôi sang cầm quyền ở Đông Dương, nước Pháp chẳng có một kế hoạch gì về hoà bình cũng như về chiến tranh. Điều đó hoàn toàn khác với đối phương. Với Việt Minh, mục đích chiến đấu là giành độc lập hoàn toàn cho đất nước, gạt bỏ quyền bá chủ của Pháp đối với Đông Dương. Nhưng ý thức được những khó khăn khi phải sống một mình đương đầu vối Trung Quốc mà theo kinh nghiệm lâu đời, họ rất ngán chủ nghĩa bá quyền của ông bạn láng giềng, nên ít nhất trong một thòi gian, họ sẵn sàng muốn ở lại với khối Liên hiệp Pháp nhưng chỉ ràng buộc với nhau bởi những mối liên hệ rất lỏng lẻo về kinh tế và văn hoá. Với nhận thức sâu sắc: chiến tranh là một tổng thể thống nhất, trong đó chính trị và chiến lược quyện chặt vào nhau, nên trong khi vẫn tìm cách đánh thắng bằng quân sự, Việt Minh vẫn còn tìm mọi cơ hội do chính trị đưa đến để đạt được mục đích của họ. Hình như cho đến mùa hè 1953, Việt Minh chưa nghĩ là họ có thể thắng trận trước 1955 hay 1956. Về phương diện quân sự, họ còn phải mất một hoặc hai năm nữa mối có thể tiến công lớn để giành thắng lợi quyết định, nếu như viện trợ vẫn giữ ở nhịp độ tương tự như những năm trước, về phương diện chính trị cũng vậy, tình hình chưa cho phép họ có những hy vọng sớm: tuy ngày càng chán ghét chiến tranh, dư luận Pháp vẫn chưa chín muồi tới mức bỏ cuộc để lập lại hoà bình. Thê mà đột nhiên, vào mùa thu 1953, xuất hiện những triệu chứng về sự chuyển hướng trong các xem xét của Chính phủ Việt Minh. Triệu chứng đầu tiên là việc đề ra kế hoạch tác chiến mới nhằm mục tiêu là nước Lào. Chúng tôi phát hiện ra ý định này vào những ngày đầu tháng 11. Sau đó ít lâu là ông Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đàm phán để nhanh chóng lập lại hoà bình, trực tiếp thương lượng với nước Pháp. Vậy nguyên nhân tại sao mà những nhà lãnh đạo Việt Minh tin chắc là có thể thoả thuận để lập lại hoà bình nhanh chóng và họ rất có lợi khi đề xưóng ra việc ấy? Nguyên nhân một phần là thuộc về quân sự. Việc thực hiện "kế hoạch Navarre" đã khiến đốì phương lo ngại sâu sắc; tin tức điện đài của họ cũng như nhiều nguồn tin khác của Pháp đã xác nhận điều đó. Việc Pháp giành lại quyền chủ động, được thể hiện bằng các hoạt động tiến công trong mùa hè 1953; sự phát triển của các quân đội liên kết; việc tổ chức khối quân cơ động và nhất là mối lo sợ từ nay chúng tôi đã có một kế hoạch hoàn chỉnh nhất quán để điều hành chiến tranh, - tất cả những cái đó đã làm cho lãnh đạo Việt Minh cảm thấy nguy cơ là họ có thể bị chúng tôi vượt qua. Cũng chắc chắn rằng, do rất nhiều "rò rỉ" tin tức của Pháp ở Đông Dương và ở Pháp, họ đã biết là chúng tôi có rất nhiều khó khăn trong chiến cục 1953 - 1954, nhưng khi vượt qua được bước hiểm nghèo đó, thì sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong chiến cục tiếp theo. Và họ tự nhủ, tốt hơn là ngay trong năm nay phải cố gắng giành lấy những thắng lợi quân sự có khả năng khai thác, khuếch trương nó về mặt chính trị. Nhưng dù những lý do quân sự có quan trọng đến đâu chăng nữa thì quyết định nhất vẫn là những lý do chính trị. Lý do chủ yếu là Việt Minh đã phát hiện ra rằng, vào mùa hè 1953, dư luận công chúng Pháp, và nhất là ở nghị viện Pháp, đã bất bình với cuộc chiến ở Đông Dương tới mức như thế nào1. Một căn cứ quan trọng khác đối với các nhà lãnh đạo Việt Minh là họ biết rất rõ, tiếp theo "Tuyên bố1 ngày 3 tháng 7, các cuộc đàm phán giữa nước Pháp và các Quốc gia liên kết về vấn đề thực hiện quyền độc lập của các quốc gia này đã diễn ra trong những điều kiện "tế nhị" như thế nào. Thực vậy, trong quan hệ giữa Pháp và Quốc gia liên kết, một cuộc khủng hoảng đã xuất hiện và nó gây trở ngại cho một nỗ lực lớn về chiến tranh. Trái lại, nếu hiệp định được ký kết, các Quốc gia liên kết - nhất là Việt Nam với ý thức về quyền độc lập đã đạt được của mình, có lẽ sẽ khai thác được ở đó một nguồn sức mạnh cần thiết để gia nhập chiến tranh một cách mạnh mẽ hơn, thực sự hơn. -------------- 1. Sau khủng hoảng nội các kéo dài - hậu quả của việc nội các Renè Mayer sụp đổ (tháng 5-6-1953) - ông Mendès France người thuộc phe chủ hòa với bất kỳ giá nào, đã được đa số Quốc hội đồng ý cử ra lập Chính phủ mới. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:01:14 pm Tất cả dường như xác nhận rằng vào cuối 1953 đầu 1954, tình hình bên phía chúng tôi, nhìn cả về chính trị và quân sự, sức chổng đỡ tỏ ra yếu kém hơn nhưng rồi sau đó tình hình lại dần dần được cải thiện.
Chính từ cách nhìn nhận chung như vậy, cả chính trị và quân sự, mà không nghi ngờ gì bắt đầu từ 1954, Việt Minh đã cố tìm kiếm hoà bình bằng thương lượng. Lợi ích của họ là chấm dứt những sự thù địch; hơn thế nữa, tin chắc vào ưu thế so với chúng tôi về tuyên truyền, ngoại giao và hoạt động chính trị, họ có tất cả mọi lý do để hy vọng giành được hoà bình. Một cơ hội đã xuất hiện mà họ cần triệt để khai thác. Đánh dấu bước mở đầu sự khai thác ấy là sự thay đổi kế hoạch quân sự và những lời tuyên bố của ông Hồ Chí Minh. Câu trả lời chính thức của chính phủ Pháp với ông Hồ Chí Minh là một lời từ chối, nhưng được ngụy trang bằng sự chấp nhận trên nguyên tắc kèm theo những điều kiện mà chắc chắn Việt Minh sẽ gạt bỏ. Đó chẳng qua chỉ là sự dung hoà hai khuynh hướng đang chia rẽ chính phủ: Một bên là phản đốỉ thương lượng (trong đó có ông Laniel và nhất là ông Bidault), một bên là muốn tiếp xúc với đối phương (trong đó có ông Paul Raynaud và ông Marc Jacquet). Trên mọi phương diện, sự kết hợp giữa chính trị - quân sự đã được Việt Minh tiến hành với một sự khéo léo bậc thầy. Về quân sự, Việt Minh đặt chúng tôi trước một vấn đề mà họ biết là hóc búa nhất: đó là vấn đề bảo vệ Lào. Họ để tôi chỉ có thể lựa chọn giữa hai giải pháp, mà cả hai giải pháp đều đáng sợ như nhau: hoặc bảo vệ người bạn đồng minh và dấn sâu vào một công việc nguy hiểm, hoặc bỏ rơi bạn và chấp nhận việc khổì Liên hiệp Pháp bị giáng đòn chết tươi trước khi nó kịp ra đời. Về chính trị, mục đích của cuộc vận động của Việt Minh là phá hoại tinh thần của nước Pháp và các Quốc gia liên kết. Đối với dư luận Pháp, vẫn là bài ca muôn thủa: cuộc đấu tranh vô ích, hao người tổn của, hy sinh chỉ để béo bở cho người Mỹ, v.v... Người ta "khoe", nếu hoà bình, nước Pháp vẫn giữ được những quyển lợi nhất định về kinh tế, văn hoá và có thể cả về chính trị: quyền lợi của Pháp vẫn được cứu vãn, vậy tại sao phải tiếp tục chiến tranh? Chiến dịch tuyên truyền của Việt Minh lại được sự phụ họa tích cực của một số chính trị gia Pháp, những người muốn nhảy ra nắm quyền bằng cách ủng hộ hoà bình bất kể đó là thứ hoà bình như thế nào. Đốì với các Quốc gia liên kết, Việt Minh tuyên truyền có hoà bình là có độc lập và người Pháp phải ra đi. Việt Minh úp mở cho họ biết là bất kỳ giá nào người Pháp cũng phải sửa soạn để bỏ cuộc và thương lượng với Việt Minh. Quân đội các Quốc gia Việt Nam là mục tiêu chính của chiến dịch tuyên truyền này. Trong cuộc vận động tuyên truyền của mình, Việt Minh còn có cái lợi là Pháp có con bài gì thì họ đều biết và nắm chắc, còn phía họ thì mọi con bài đều được giấu kín. Trước ngón "võ kín" của Việt Minh, miếng võ của chúng tôi lại lúng túng hơn bao giờ hết. Các nhà lãnh đạo của chúng tôi sợ đàm phán nhưng lại cảm thấy rồi một ngày nào đấy nó sẽ đặt ra, bởi dư luận không thể chấp nhận việc gạt bỏ đề nghị của đối phương mà không có sự bàn bạc gì cả. Vả lại, họ còn phải lo cho những cuộc bầu cử sắp tới và đấy là mối quan tâm chủ yếu của họ. Vậy có thể mở những cuộc đàm phán như thế nào mà không đến nỗi quá nguy hiếm? Đàm phán trực tiếp với đối phương hay giải quyết sự việc Đông Dương trong khuôn khổ một cuộc đàm phán quốc tế. Phương pháp thứ nhất có những cái lợi chắc chắn. Đương nhiên nước Pháp không thể đàm phán với Việt Minh mà không có sự thoả thuận của Chính phủ Việt Nam, nhưng chắc họ sẽ đồng ý tham gia và đó là giải pháp tốt nhất đối với cả Pháp và Việt Nam. Đối với Việt Nam, đây là cả hai bên (quốc gia và Việt Minh) thống nhất lại với nhau. Còn nước Pháp thi chỉ có lợi, vì khi đóng vai trò trọng tài - hay ít nhất là trung gian - giữa hai bên ho sẽ có thể duy trì được sự hiện diện của mình ở Đông Dương. Đàm phán trực tiếp sẽ có một cái lợi lớn khác là có thể tiến hành nó một cách bí mật, có nghĩa là sẽ ít nguy cơ gây tác động đối với tinh thần dân chúng và quân đội. Nhưng đàm phán trực tiếp cũng gây phiền phức lớn là có nguy cơ "đụng chạm" người Mỹ. Đối với người Mỹ, chiến tranh Đông Dương chỉ là một dạng của cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa cộng sản. Chấm dứt chiến tranh và đàm phán với Việt Minh không có sự tham gia của Mỹ, chúng tôi sẽ bị buộc tội là đào ngũ khỏi mặt trận chống cộng phương Tây. Tuy nhiên, Mỹ không thể đòi hỏi chúng tôi phải giành chiến thắng ở Đông Dương trong khi chính họ, với phương tiện ưu thế hơn chúng tôi gấp bội, họ lại không thắng trận ở Triều Tiên. Vì vậy chắc họ cũng có thể đồng ý với một giải pháp có khả năng cứu vãn được phần chủ yếu của những quyền lợi của phương Tây. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:04:22 pm Họp hội nghị quốc tế sẽ có những bất lợi ghê gớm. Nó có vẻ đầy kịch tính và gây nguy hại đối với tinh thần quân đội, đồng thời lại tạo cơ hội cho đối phương đẩy mạnh tuyên truyền tối mức tối đa. Nó còn khuyến khích Việt Minh ra sức giành những chiến thắng vang dội hơn nữa. Còn với chúng tôi, quyền chủ động hành động sẽ rất bị hạn chế bởi lúc nào cũng phải tính đến những ý đồ của Mỹ rồi của Anh. Cuối cùng, phía sau Việt Minh là bóng dáng của người Trung Quốc, người Nga.
Nhưng các nhà chính trị và ngoại giao của chúng tôi chỉ trông thấy những cái lợi, mà phần lớn đó chỉ là những ảo tưởng. Họ tưởng rằng sự nâng đỡ của Mỹ và Anh sẽ giúp chúng tôi vượt qua được những trở ngại mà Liên Xô, Trung Quốc sẽ dựng lên để ngáng trở thành công của đàm phán. Họ tự ru ngủ bằng hy vọng hão huyền là có thể lôi kéo được Trung Quốc bỏ rơi Việt Minh bằng cách đưa ra một số quyền lợi kinh tế hay quyền lợi khác để mồi chài: đó chính là "tư tưởng lớn" của các ngài ở đường Orsay (ám chỉ Bộ ngoại giao - ND) mà thời kỳ ấy, nó phải thực tế đến cực độ. Nói gọn lại, hôm sau ngày ông Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đàm phán hoà bình, lập trường của chính phủ Pháp - lập trường duy nhất mà một Chính phủ thiếu người cầm đầu có uy tín lại chia rẽ nội bộ có thế có được - là lẩn tránh, nếu lẩn tránh được, những cuộc đàm phán, và nếu đó là điều không thể tránh khỏi thì tốt hơn là tiến hành nó trong khuôn khổ của một cuộc hội nghị quốc tế. Vậy là trước một đối phương có kế hoạch nhất quán, bằng cách vừa đánh thắng về quân sự, vừa gây sức ép về chính trị để buộc Pháp phải đàm phán thì chúng tôi chỉ bám hờ vào những chỗ dựa chênh vênh cả về quân sự - mà chúng tôi đang dấn sâu vào một chiến cuộc rất khó khăn - cũng như về chính trị - mà ở đấy cách xử sự của chúng tôi tỏ ra bấp bênh do dự. Vào những tháng 11, 12 năm 1953 và tháng 1 năm 1954, Việt Minh đẩy mạnh hoạt động kết hợp giữa chính trị và quân sự. Người ta nhận thấy hoạt động quân sự của họ đã bị chững lại vào ngày 15 tháng 1. Và chúng tôi có thể hy vọng sau khi đánh vào Điện Biên Phủ, mà với những phương tiện như đã biết rõ thì chắc không thể thành công, Việt Minh sẽ phải giảm dần và ngừng các chiến dịch tiến công khi mùa mưa tới. Ngược lại, Việt Minh đã thành công lớn trên mặt trận đấu tranh chính trị. Ở Pháp, xu hướng đàm phán tiến những bước dài. Ở Đông Dương, chính phủ các Quốc gia liên kết lo lắng tự hỏi liệu họ có bị chúng tôi bỏ rơi không và tìm thấy ở đó thêm một cái cớ nữa để lẩn tránh nỗ lực chiến tranh. Cuối tháng giêng, hội nghị Berlin khai mạc và chính vào dịp ấy chính phủ Pháp đã đưa ra sáng kiến mà sau này nó sẽ đem lại thắng lợi cho Việt Minh. Cảm thấy không thể lẩn tránh được lâu hơn nữa các cuộc đàm phán, chính phủ Pháp đã kiên quyết đàm phán trong khuôn khổ quốc tế, cách thức đàm phán mà họ cho là có lợi hơn. Chính nhờ ông Pleven, lúc ấy có mặt ở Đông Dương, mà tôi biết ông đã "chấp nhận" nguyên tắc triệu tập một cuộc hội nghị về Viễn Đông, trong đó sẽ "nêu" lên vấn đề Đông Dương. Những ai sẽ tham dự hội nghị? Ông Pleven hình như không tính đến sự có mặt của Việt Minh. Cả Trung Quốc cũng còn phải xem đã. Và thời gian sẽ kéo dài bao lâu? Ông hình như cũng không biết nốt. Những gì ông nói với tôi khiến tôi có cảm tưởng đó chỉ là một hội nghị cỡ nhỏ, kéo dài độ dăm ngày và việc chúng tôi đến dự họp cũng chẳng qua để làm hài lòng dư luận công chúng và chứng minh cho họ thấy rằng lúc này để đạt tới một nền hoà bình trong vinh dự là điều không thể làm được. Cùng lúc này, Tướng Juin gửi cho tôi một thư riêng; thư càng làm cho tôi hiểu rằng hội nghị chỉ đại để như trên, bởi ông nói xa xôi là hội nghị sẽ diễn ra không có mặt của Việt Minh. Sau đó tôi hoàn toàn mù tịt về những gì đang được chuẩn bị không một lúc nào người ta hỏi ý kiến tôi xem hội nghị sẽ có khả năng tác động thế nào đến tình hình quân sự. Mãi tới tháng 3 tôi mới được biết - và chắc cả ông cao uỷ cũng không biết gì sớm hơn tôi rằng thực sự thế nào là hội nghị Geneve: sự tham dự của Việt Minh, tầm cỡ và tính chất quan trọng của nó, thời gian có thể kéo dài bao lâu. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:08:47 pm Tôi phản đối một cách quyết liệt. Trong một bức điện, tôi dùng chữ "tai hoạ" để xác định tính chất của cái quyết định họp vào một lúc đang tiến hành những chiến dịch lớn như thế. Trong bức thư ngày 23 tháng 3, tôi viết: "Có một điều chắc là hội nghị Geneve, và chỉ mình nó, đã làm cho Chính phủ Việt Minh, vào ngày 20 tháng 1, quyết định đẩy mạnh chiến tranh trong khi nó đang có chiều hướng giảm dần. Chính vì muốn chưng ra trước hội nghị một tấm bản đồ chiến sự có lợi tối đa mà Việt Minh đã lao vào tiến công Điện Biên Phủ, bất chấp mọi tổn thất". Trong một bức điện ngày 1 tháng 4, tôi viết như sau: "Ngay sau hôm việc họp Hội nghị Geneve được loan tin, theo chứng cứ chắc chắn, chúng ta biết Việt Minh đã quyết định bằng mọi cách phải gây áp lực với hội nghị và tiếp tục tăng sức ép tới cùng, nghĩa là đến cuối tháng 5 và có thể sau đó nữa. Quyết định này đã chi phối toàn bộ tình hình quân sự... Việc tăng cường chiến tranh được dựa vào sự gia tăng ồ ạt của viện trợ Trung Quốc. Nó gây khó khăn cho ta do việc buộc chúng ta phải tổng giao chiến sớm... Không nghi ngờ gì, Bộ chỉ huy Việt Minh muốn tìm cách giành thắng lợi quyết định trước khi hội nghị kết thúc hay ít nhất cũng là những chiến thắng vang dội để buộc chúng ta phải đàm phán theo ý định của họ".
Tiếc thay, những lời phản đối ấy tới nơi quá chậm để có được tác dụng. Nó chỉ đạt được kết quả duy nhất là làm Chính phủ khó chịu, mếch lòng1. Việt Minh đã đạt được mục đích. Hoà bình chỉ còn tuỳ thuộc vào họ. Thực vậy, Việt Minh thừa biết khi cuộc họp được tiến hành, có sự tham gia của hàng chục các nhà ngoại giao và hàng trăm nhà báo, nước Pháp sẽ khó lòng từ chối những điều kiện được đưa ra - nhất là khi ấy lại kèm theo một thất bại nặng nề của Pháp mà người ta sẽ khai thác đê phá vỡ tinh thần nước Pháp. Chúng tôi cúi đầu chui vào bẫy. Trong thời kỳ giữa khi hội nghị Berlin kết thúc (18-1) và hội nghị Geneve khai mạc (26-4), người ta thấy Việt Minh tăng cường nỗ lực trên mọi phương diện. Từ ngày 20 tháng 1, bộ chỉ huy Việt Minh đã tiến hành mọi hoạt động để đưa chiến tranh đến đỉnh cao: từ giữa tháng 3, tấn công trên tất cả các mặt trận vói nỗ lực chính nhằm vào Điện Biên Phủ; chấp nhận những tổn thất ghê gớm và thi hành những biện pháp khắc nghiệt để đương đầu với tình hình; chuẩn bị sẵn sàng để kéo dài chiến tranh, nếu cần thiết, ngay cả đến mùa mưa. Tất cả là để nhằm "gây sức ép với hội nghị", như được viết rõ ràng trong mọi mệnh lệnh, chỉ thị. Nỗ lực về chính trị cũng không kém. Bên Pháp, mục tiêu của Việt Minh là mở rộng trong dư luận chung nỗi ám ảnh về nguyện vọng hoà bình. Tình hình Điện Biên Phủ càng xấu thì chiến dịch của phe thất bại chủ nghĩa càng được đẩy mạnh, ở Paris và Thuỵ Sĩ, giữa Việt Minh và phe hoà bình bằng bất cứ giá nào, các đại diện tăng cường tiếp xúc. Ở Việt Nam, mở một đợt tuyên truyền ngày càng mạnh mẽ nhằm vào dân chúng và quân đội của Pháp: Việt Minh thắng là cái chắc, Pháp sẽ bỏ cuộc, những tốt đẹp của "chế độ dân chủ nhân dân"... Quân đội là mục tiêu chính của cuộc tuyên truyền: hô hào sỹ quan và binh lính đào ngũ chạy sang với Việt Minh, hứa hẹn nếu họ đào ngũ tập thể thì toàn đơn vị sẽ được gia nhập vào quân đội nhân dân. Kèm theo hứa hẹn là những doạ nạt nếu không chịu nghe. Phía Pháp đi đến Hội nghị không một sự chuẩn bị. Quyết định đầu tiên là phải xác định lập trường của chúng tôi vê cách thức chấm dứt chiến tranh. Hai ý kiến khác nhau được đưa ra. Một là bằng "ngừng bắn" thuần tuý có tính chất quân sự và việc này cần được bàn bạc tại chỗ. Hai là đàm phán ở Geneve để đi đến một hiệp định gồm những bảo đảm về chính trị, quân sự và chỉ chấm dứt chiến tranh chừng nào đạt được những bảo đảm này, ít nhất là trên lý thuyết. Trả lời câu hỏi của Ely, tôi nghiêng về giải pháp thứ nhất sau khi cân nhắc kỹ lưỡng. Lập luận của tôi như sau. Về phương diện quân sự, việc mở hội nghị Geneve đã gây ra một tình hình tai hại. Nó làm tan rã quân đội Việt Nam. Nó khiến Việt Minh quyết định chiến thắng bằng mọi giá và Trung Quổc gia tăng viện trợ tới mức vượt quá những gì Pháp dự kiến. Nó tạo ra ở Điện Biên Phủ những điều kiện khiến việc Pháp mất tập đoàn cứ điếm là điều có thể xảy ra. Căn cứ vào tình hình như vậy, chúng tôi chẳng thể làm gì hơn, phải tìm cách rút ra từ đàm phán những gì chúng tôi đã phải trả giá. Một cuộc ngừng bắn sẽ có thể cứu được Điện Biên Phủ và ổn định tình hình quân sự. ---------------- 1. Một sỹ quan bộ tham mưu của tôi đi công tác ở Paris viết trong báo cáo: "Ông Bidault tỏ ý tiếc rằng, trong một vài báo cáo của tổng chỉ huy Đông Dương, ông ta có vẻ như coi việc họp hội nghị Geneve là nguyên cớ chính và phải chịu trách nhiệm về việc Việt Minh tiến công Điện Biên Phủ và đẩy mạnh chiến tranh". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:10:57 pm Thêm vào đó, theo tôi, còn một lý do quan trọng nữa. Giữa tháng 4. nghĩa là lúc cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đang trong thời kỳ quyết liệt, người phụ trách cơ quan, tình báo của Pháp ở Đông Dương cho tôi biết: Chính phủ Việt Minh đề nghị thương lượng với tôi một cách nghiêm túc để chấm dứt chiến sự. Làm trung gian là một nhân vật quan trọng có xu hướng quổc gia, có liên lạc với Việt Minh mà cơ quan mật của Pháp biết rất rõ đánh giá là đáng tin cậy. Nhân vật đề nghị cuộc tiếp xúc cho biết ông ta có đủ chứng cứ xác đáng để chứng tỏ mình là người đại diện cho Chính phủ Việt Minh và đề nghị muốn thảo luận với một người đại diện cho chính tôi. Ông ta cũng ngỏ ý tốt hơn là không nên để ông cao uỷ biết gì về việc này.
Cùng ngày biết tin, tôi đã gửi cho Tướng Ely một bức điện tuyệt mật. Tôi nói những lý do vì sao Việt Minh muốn tìm cách tiếp xúc với Pháp, trong đó có nguyên nhân chính là họ sợ chiến tranh sẽ bị "Triều Tiên hoá" - nghĩa là Mỹ sẽ can thiệp kéo theo cả Trung Quổc vào vòng chiến. Tôi cũng nói Việt Minh có thể đưa ra những gợi ý: thành lập một chính phủ quốc gia không do cộng sản chi phối (hay ít ra cũng tạm thời không chi phối) và gạt bỏ ảnh hưởng của cả Mỹ lẫn Trung Quốc. Tướng Ely chuyển cho tôi trả lời của Chính phủ. Như mọi lần, nó không rõ ràng và có tính chất hoãn binh: tôi được phép bí mật giữ tiếp xúc nhưng không trả lời những câu hỏi có thể nêu ra. Cũng bằng như bảo tôi hãy xếp xó việc ấy lại. Vài ngày sau, người đại diện cho Việt Minh nói trên đi Geneve cùng với phái đoàn của Chính phủ ông ta. Người đứng làm trung gian của chúng tôi cũng được cử đến đấy để nếu có thể được thì nối tiếp đàm phán. Nhưng từ đây công việc đã vượt khỏi tay tôi và chắc nó đã bị bỏ. Tuy nhiên nó cũng làm tôi thêm khẳng định rằng, một cuộc thương lượng trực tiếp và bí mật, tiến hành tại chỗ và trên cơ sở thực trạng tình hình quân sự, sẽ có lợi hơn là một hội nghị họp công khai ở Geneve, trong một không khí hoảng sợ, thất bại chủ nghĩa và đầy những "mưu đồ" chính trị. Quan điểm của tôi không được ai chia sẻ, cả Tướng Ely, cả các ngài Bộ Ngoại giao. Tôi tin chắc rằng trong tình hình lúc bấy giờ, chúng tôi đã bỏ lỡ một dịp để chấm dứt chiến tranh với những điều kiện đã xấu hơn đối với nước Pháp như đối với Việt Nam, nếu so với những gì sau đó người ta thực hiện. Cuộc thảo luận sơ bộ giữa ngừng bắn hay họp để đi đến một hiệp định ở Geneve đã kết thúc với phần thắng thuộc về giải pháp thứ hai. Bây giờ cần xác định tiếp: hoà bình mà người ta muốn đạt tới là một thứ hoà bình như thế nào? Có thể dự kiến hai hình thức: hoặc là duy trì một nước Việt Nam thống nhất, có một chính phủ "liên hiệp quốc gia", trong đó có đại diện của hai bên tham dự; hoặc là chia cắt đất nước theo "kiểu Triều Tiên". Giải pháp thứ nhất có thể dẫn đến nguy cơ đáng kể - nếu không muôn nói là chắc chắn - là chính phủ "liên hiệp" đó sẽ bị cộng sản không chế. Nhưng nếu tính đến sự ngán sợ của Việt Minh khi phải đặt mình hoàn toàn phụ thuộc vào Trung Quốc thì người ta rất có lý khi nghĩ rằng có thể thiết lập ở Việt Nam một chế độ theo "kiểu Titô". Những va chạm gần đây giữa Matxcơva và Bắc Kinh càng làm cho phương án đó có thể thực hiện được. Dù sao chăng nữa, giải pháp này cũng là giải pháp duy nhất cho phép nước Pháp đóng vai trò trung gian giữa các xu hướng khác nhau của Việt Nam và tự khắng định mình là một bức thành chống lại những mưu đồ của Trung Quốc và Mỹ, do đó tạo cho Pháp một cơ hội để có mặt ở Đông Dương. Giải pháp này tất nhiên đòi hỏi chúng tôi phải gạt được Mỹ. Điều đó không phải là loại trừ nếu công tác ngoại giao của chúng tôi thuyết phục được Mỹ, làm cho họ hiếu rằng một nước Việt Nam thống nhất và trung lập - dù là trung lập tương đối - sẽ bảo vệ Đông Nam Á tốt hơn một Nam Việt Nam thân Mỹ nhưng phó mặc cho sự uy hiếp của một Bắc Việt Nam chắc chắn là cộng sản, mạnh và năng động hơn, lại được Trung Quốc và Liên Xô nâng đỡ. Ngược lại, giải pháp chia cắt theo kiểu Triều Tiên có cái lợi là duy trì được ở Nam Đông Dương một vùng lãnh thổ về lý thuyết là được bảo vệ an toàn khỏi ảnh hưởng cộng sản, và ở đây có thể có những căn cứ của phương Tây - nghĩa là của Mỹ. Phương án này được Mỹ tán thành, cả Anh cũng vậy, vì theo con mắt của họ, nó bảo vệ cho Malaysia. Một sự bối rối lớn bao trùm các Quốc gia liên kết. Campuchia nằm toàn bộ ỏ phía Nam, trước mắt không phải đối phó với vấn đề gì nghiêm trọng. Trái lại, đối với Lào, việc chia cắt Việt Nam sẽ là một tai hoạ cho phần phía Bắc của họ; phần đất này chịu ảnh hưởng của Pathét Lào, sè bị phó mặc cho cộng sản Bắc Việt. Ở Việt Nam, nếu có một số người Nam Kỳ vốn ghét dân Bắc Kỷ - do gờm cái tính năng động và chịu khó chịu khổ của những người này - mà chừng nào tán thành việc chia cắt thì không còn nghi ngờ gì nữa, đại bộ phận dân chúng đều tán thành việc thống nhất đất nước. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:13:18 pm Việt Minh chắc chắn là muốn thống nhất đất nước, điều luôn luôn là một trong những đòi hỏi chủ yếu của họ. Nhưng mong muốn trước hết của họ là ký được hiệp định, cho nên trong trường hợp gặp khó khăn quá lớn, họ có thể sẵn sàng chấp nhận một sự chia cắt tạm thời trước mắt đem lại cho họ những điều lợi.
Trước hết là lợi về quân sự. Đối với hai bên đối địch, trọng tâm lực lượng là ở ngoài Bắc. Dồn chúng tôi ra khỏi miền Bắc, Việt Minh giành được ở chúng tôi một nhượng bộ có lợi hơn so với việc họ nhượng bộ khi chúng tôi phải rút khỏi miền Nam. Bởi ở miền Nam, họ chỉ có ít quân chính quy nhưng lại có một số lớn quân địa phương và du kích mà bề ngoài họ có thể giải tán nhưng thực tế bên trong thì họ vẫn giữ lại. Về chính trị, việc chia cắt đất nước không phải không có lợi cho Việt Minh. Nó cho phép họ ngay lập tức lên địa vị một quốc gia có tổ chức và được chính thức công nhận. Nó cho họ có thời gian để "tiêu hoá thắng lợi" và chuẩn bị để sau đó giành lại miền Nam, điều mà họ quyết tâm làm bằng đủ mọi cách. Còn nước Pháp, họ hoàn toàn chẳng biết mình muốn gì. Họ hình như không biết rằng giải pháp chia cắt sẽ loại họ hoàn toàn ra khỏi Đông Dương, hai miền Việt Nam sẽ đối địch nhau và Mỹ sẽ can thiệp. Họ hình như không hiếu rằng đối với họ, nước cờ duy nhất có giá trị để chơi là thống nhất nước Việt Nam. Bên phe các nước phương Tây, trước khi họp hội nghị Geneve, vấn đề hoà bình là đối tượng bàn luận tranh cãi ở khắp nơi công cộng và nó trở nên rối rắm đến cao độ. Không một dự án, một kế hoạch, một mâu thuẫn chính kiến nào mà không được báo chí trình bày, phân tích tỷ mỉ và càng gần ngày họp thì báo chí càng sôi nổi lên cao giọng. Những tin tức đáng lo ngại ở Điện Biên Phủ, những tiết lộ về khả năng có thể can thiệp của không quân Mỹ, sự lùi bước của Mỹ khi họ bị đẩy tới chân tường, kế hoạch của Mỹ - làm ở phút chót và rõ ràng là đế che đậy sự lùi bước đó - về một liên minh ở Đông Nam Á, tất cả những cái đó đã phơi bày sự hốt hoảng của phương Tây, nó mới đối nghịch làm sao với sự bình tĩnh, kiên quyết và giữ bí mật của Việt Minh. Chính là vì đối với họ, Geneve đã là một thắng lợi to lớn. Họ đã dẫn dắt chúng tôi tới bước phải ngồi vào đàm phán, trong khi đó với Pháp, chỉ riêng việc phải ngồi vào bàn với những bất lợi về tình hình của chúng tôi lúc đó đã là một thất bại trông thấy trước. Một bức điện ngày 31 tháng 3 của Chính phủ Việt Minh (do Pháp giải mã) viết: "Hội nghị Geneve, biểu hiện cho sự chán ghét chiến tranh và sa sút tinh thần của đối tượng, là một thắng lợi của Việt Minh. Vậy trong khi Mỹ tìm cách phá hoại hội nghị, Việt Minh cần phải ủng hộ nó và tìm cách truyền bá trong hàng ngũ đối phương nguyện vọng muốn lập lại hoà bình. Để đạt mục đích ấy, trong khi khai thác thắng lợi quân sự và tình trạng chính trị rối ren ở Pháp, chúng tôi phải tìm cách làm đối phương ngày càng mất tinh thần và vì thế, cần phải mở một chiến dịch tuyên truyền và phát động một đòn tiến công về chính trị quy mô lớn". Chỉ mãi đến giữa tháng 4, tức hai tuần trước khi họp hội nghị chính phủ mới hỏi ý kiến ông cao uỷ và tôi về những điều kiện trong đó chúng tôi xét thấy có thể được để ký một hiệp định ở Geneve. Về phần tôi, trước đây tôi bị phớt lờ bao nhiêu thì bây giờ người ta dồn dập hỏi tôi bấy nhiêu, thôi thì đủ thứ câu hỏi, vừa lộn xộn vừa mâu thuẫn nhau. Câu hỏi chính và cũng là vấn đề khó khăn nhất là việc tập kết quân đội của hai bên. Đương nhiên việc tập kết này là dự kiến trước của giải pháp chính trị mà người ta có ý hướng tới. Nếu là tập kết từng phần trong từng khu vực thì có nghĩa là người ta muốn phương án thống nhất đất nước. Còn ngược lại, nếu mỗi bên đều tiến hành tập kết lớn theo một đường ranh giới nào đấy, Việt Minh ở phía Bắc, Việt Nam "quốc gia" ở phía Nam, thì điều đó sẽ làm cho tình trạng chia cắt là không thể tránh khỏi. Là người tán thành phương án giữ nguyên thống nhất đất nước, cả ông cao uỷ và tôi đều đề nghị công thức tập kết từng phần. Trong từng vùng Bắc, Trung, Nam, mỗi bên đều phải tập kết lực lượng vào một số khu vực được phân định ranh giới tuỳ theo tình hình quân sự của ngày đình chiến và tình trạng đó phải được giữ ổn định. Một giải pháp như thế (được gọi là "da báo") đương nhiên có khó khăn khi thực hiện nhưng có thể khắc phục được. Dựa vào những cơ sở đó, chúng tôi gửi về nước những báo cáo chi tiết mà sau đây là những nét chính. Ở Bắc Việt Nam, chúng tôi giữ Hà Nội, Hải Phòng, đường sắt - bộ giữa hai thành phố đó cũng như phần đất phía Bắc của nó, bao gồm cả khu duyên hải. Chúng tôi cũng giữ phần lớn khu phía Tây của Hà Nội. Còn Việt Minh thì tập kết ở khu Nam và một phần khu Tây đồng bằng. Các khu công giáo thì trung lập. Đối với các dân tộc thiểu số ở vùng Thượng du còn trung thành với Pháp thì có một số biện pháp nhất định để bảo vệ, giữ gìn ho. Ở Trung Việt Nam, chúng tôi giữ tất cả những vùng chúng tôi đã chiếm đóng. Việt Minh tập kết trong 2-3 khu vực. Khu Atlante và Tây Nguyên sẽ chia đôi theo tuyến Quy Nhơn - An Khê - Plâycu: Pháp phía Nam, Việt Minh phía Bắc. Ở Nam Việt Nam, Việt Minh sẽ tập kết trong 3-4 khu vực dính dáng đến các chiến khu cũ của họ và họ vẫn giữ bán đảo Cà Mau. Ở Lào và Campuchia. họ phải rút những nơi mà họ đã chiếm. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:21:55 pm Chắc chắn Việt Minh sẽ chẳng chịu những đề nghị này nhưng tôi tin rằng, nếu phái đoàn Pháp kiên quyết bảo vệ nó ở Geneve, thì nó vẫn có thể làm cơ sở cho những cuộc tranh cãi. Ngoài ra, dự kiến phương án chia cắt Việt Nam sẽ chiếm ưu thế, Bộ ngoại giao có hỏi tôi nếu cắt thì cắt ở đâu. Tôi trả lời là Việt Minh dự kiến sẽ đấu tranh để cắt ở vĩ tuyến 16 (theo nguồn tin chắc chắn mà chúng tôi biết1, nhưng "ta chỉ có thể chấp nhận đường ranh giới ỏ vĩ tuyến 18", biên giới duy nhất chúng tôi có thể tổ chức phòng thủ được.
Khi bắt đầu họp hội nghị, tôi lại hoàn toàn không biết gì về những cuộc đàm phán tuy rằng hiệp định đình chiến phải do tổng tư lệnh hoặc người đại diện ký kết. Tuy tôi được phép cử một người đại diện đến Geneve nhưng người này không có quyền thông tin trực tiếp với tôi tình hình. Cái danh "đại diện cho tổng tư lệnh" của ông ta chẳng qua chỉ là một cái danh hão còn trên thực tế thì phái đoàn của Bộ ngoại giao mới chính là người từ đầu chí cuối tiến hành đàm phán mà chưa bao giờ thèm hỏi ý kiến tôi. Vậy là tôi chỉ được biết bập bõm hội nghị đã diễn ra trong những điều kiện như thế nào nhưng chừng đó cũng đủ để tôi hiếu rằng, cái kiểu đàm phán như thế thì chỉ có thể dẫn đến kết quả xấu. Để kết quả có thể khác hơn, chúng tôi cần phải làm cho địch hiểu là chúng tôi kiên quyết chỉ đàm phán với những điều kiện thoả đáng đối với chúng tôi và với Việt Nam quốc gia. nếu không chúng tôi sẽ tiếp tục chiến tranh với sức mạnh được tăng cường hơn. Thái độ này chỉ có thể đạt được kết quả nếu có một số điều kiện nhất định. Thứ nhất là tình hình quân sự của Pháp không bị sa sút nghiêm trọng. Thế nhưng những cuộc rút bỏ vội vã và vô ích ở Cao nguyên và nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ đã làm cho điều kiện trở nên xấu đi. Chúng tôi cũng cần phải chuẩn bị tích cực để gửi quân tăng viện từ Pháp và Bắc Phi sang - theo như tôi yêu cầu - và loan tin nó sẽ được cấp tốc gửi sang, bất kể là tình hình hội nghị xoay chuyển như thế nào. Về nguyên tắc, người ta cũng có chuẩn bị quân tăng viện, nhưng chất lượng quá tồi mà báo chí lập tức nêu lên ngay, trong khi đó thì thời hạn xuất phát của nó lại ấn định quá xa. Việc gửi tăng viện sang Đông Dương (mà nhờ có nó đảm nhiệm cho một số nhiệm vụ chủ yếu, quân Pháp có thể dôi ra được 15-20 tiểu đoàn quân cơ động mạnh) được bàn cãi công khai và dự định sẽ tiến hành trong trường hợp đàm phán ở Geneve thất bại. Nhưng việc làm này chẳng doạ được Việt Minh, vì họ thừa biết Quốc hội và dân chúng Pháp rất ngán cái chuyện đổ thêm người thêm của vào chiến tranh; hơn thế nữa, lại đưa nó ra một cách công khai và gắn liền với thất bại của hội nghị thì điều đó chỉ càng làm cho Việt Minh hiếu rằng chúng tôi muốn hoà bình bằng bất cứ giá nào2. Để cuộc đàm phán tiến triến thuận lợi cho Pháp, cần phải làm cho Việt Minh và cả Trung Quốc thấy nguy cơ Mỹ sẽ can thiệp nếu hội nghị thất bại. Nhưng trước khi đàm phán thực sự tiến hành, người ta đã đem nguy cơ này ra doạ từ lâu rồi: người ta còn nhớ Mỹ đã đề nghị cho không quân cứu Điện Biên Phủ rồi sau đó lại "rút lui" như thế nào. Việt Minh thừa hiểu là trước mắt, chưa có gì đáng lo ngại về phía Mỹ cả. Nhưng hơn tất cả mọi sự, đàm phán có kết quả hay không là tuỳ thuộc vào thái độ của các nhà ngoại giao của chúng tôi. Họ cần phải làm cho Việt Minh và phe cánh cảm nhận được ở chúng tôi một ý chí sắt đá là không phải thứ hoà bình nào chúng tôi cũng chấp nhận. Song ở Geneve, phái đoàn Pháp đã phơi bày một sự bi quan đen tối nhất. Trong khi cần trình bày thất bại ở Điện Biên Phủ với đúng thực chất của nó, nghĩa là một thất bại có tính chất chiến thuật, đương nhiên là trầm trọng đấy, nhưng không phải là làm suy yếu những khả năng chiến lược của chúng tôi, thì các nhà ngoại giao Pháp, chẳng buồn giữ mồm giữ miệng, thổi phồng tầm quan trọng thất bại của Pháp, gán cho nó những hậu quả mà nó không có và nhắc đi nhắc lại cho ai muốn nghe rằng "người ta không đàm phán khi thất bại". Không một lúc nào họ tìm cách giành lợi thế bằng cách khai thác những điểm yếu chắc chắn là có của đối phương: nỗi lo ngại của Việt Minh đối với chủ nghĩa bá quyền Trung Hoa, những tổn thất, sự mệt mỏi của binh lính, nguyện vọng hoà bình của Việt Minh - mà tất cả những điểu này thì rõ ràng ai cũng biết3. -------------- 1. Trong đàm phán ở Geneve, Việt Minh đòi phân ranh ở vĩ tuyến 13 và ông Mendès France hí hửng là đã đòi được họ phải chấp nhận vĩ tuyến 17. Thế nhưng (theo nguồn tin chắc chắn của Pháp và Hồi kỷ của Khrusov cũng công nhận như thế) chưa bao giờ Việt Minh hy vọng đòi có thể cắt được ở nam vĩ tuyến 16 và chắc chắn họ sẽ chấp nhận vĩ tuyến 17, thậm chí vĩ tuyến 18. Họ đòi 13 là nhăm tạo một "thắng lợi" cho ông Mendès France - người mà họ muôn thấy giữ vững chức thủ tướng. 2. Hy vọng dọa Việt Minh bằng việc gửi quân tăng viện, chính phủ đã ra lệnh cho số quân này tiêm chủng (quy định bắt buộc khi ra hải ngoại). Nhưng quá hiểu biết chúng tôi, Việt Minh đã chẳng bị lừa vì cái mẹo trẻ con này. 3. Trong cuộc họp quốc hội ngày 20-12-1954, để chứng minh cho những điều khoản đả ký kết, ông Mendès France đưa ra một bức tranh như sau về tình hình Đông Dương lúc chớm họp ở Geneve: "Toàn bộ đạo quân chủ yếu của ta đang đứng trước nguy cơ bị tiến công lớn từ Hà Nội đến Sài Gòn, và cùng với sự uy hiếp từ hướng Tây, chúng ta cũng khó bảo vệ khu cố thủ Hải Phòng. Cùng lúc ấy, tình hình đâu đâu cũng xấu, dù là Trung Kỳ, An Khê hay Đà Nẵng, Nam Kỳ. Ớ Campuchia, tình hình trở nên nghiêm trọng. Nam Lào cũng tuột khỏi tay ta" chúng ta đang bị một thảm hoạ đe doạ. Đạo quân viễn chinh có nguy cơ bị dồn vào một cái đó và bị tiêu diệt”. (Trích trong bài đảng trên tờ nước Pháp - Buổi chiều ngày 21-12-1954). Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:26:32 pm Nếu còn một dịp nay để thoát ra khỏi chiến tranh một cách thoả đáng thì việc ông Mendès France lên làm thủ tướng đã làm nó vĩnh viễn biến mất.
Cùng với ê kíp Laniel là sự ra đi của cái ê kíp cuối cùng của một loạt chính phủ, từ tám năm hay đã tìm một giải pháp vinh dự cho chiến tranh, nhưng do nhu nhược và thiếu nhất quán, nên đã tỏ ra bất lực để giành được. Với ê kíp mới, đó là những người thuộc phe "hoà bình trên hết" lên cầm quyền. Việt Minh đặt nhiều hy vọng vào những người này: với họ, Việt Minh tin rằng sẽ đạt được những điều kiện có lợi. Thực vậy, các nhà lãnh đạo mới của Pháp sắp chứng minh những hy vọng của Việt Minh là đúng. Trong thất bại của Pháp, họ cũng phải chịu trách nhiệm không kém những người trước đó, bởi bằng những bài viết, những diễn văn và những lá phiếu của họ, họ đã làm bó tay những người chớm có ý định hành động mạnh mẽ. Và nhất là với cái thứ hoà bình được quảng cáo om sòm, họ đã kích thích đối phương kiên trì đấu tranh và đó là một trong những con chủ bài lợi hại của đối phương. Nhưng họ lại muốn đóng vai trò những người cứu tinh. Thế là họ trình bày trước công luận tình hình quân sự ở Đông Dương như là một tình trạng tuyệt vọng và như vậy cần phải nhượng bộ những đòi hỏi của Việt Minh. Còn "Lời cam đoan" trứ danh của ông Mendès France "Tôi sẽ đem lại hoà bình trước ngày 20 tháng 7, hoặc tôi sẽ từ chức" chỉ tổ càng kích thích đối phương đòi hỏi nhiều hơn. Quả vậy, Việt Minh thừa biết là ông Mendès France sau bao lâu mong mỏi mới nắm được chức thủ tướng nên ông không thể để mất chiếc ghế đó và vì thế, ông sẽ nhân nhượng họ tối đa để hội nghị khỏi thất bại. Thương lượng trong những điều kiện như vậy thì có khác gì phó mặc chúng tôi vào tay Việt Minh. Sau nhiều lần do dự, Việt Minh đã quyết định đưa ra phương án chia cắt tạm thời Việt Nam. Họ làm vậy không phải vì phương án này có lợi cho họ, mà vì nó có khả năng dẫn tới kết quả và đó là phương án có thể được các bên dự Hội nghị dễ dàng chấp nhận nhất. Thế là chúng tôi vội nhảy bổ vào đề nghị đó, đề nghị cho phép ký kết được nhanh chóng, mà hình như chẳng hề đếm xỉa đến những hậu quả tai hại chắc chắn sẽ xảy ra đối với nước Pháp cũng như với các Quốc gia liên kết. Vậy đối với Việt Minh, hiệp định Geneve có phải là một thắng lợi ngoại giao hoàn toàn vượt quá mong đợi của họ hay không? Một cán bộ chính trị Việt Minh theo Pháp sau khi đình chiến đã phát biểu: "Giới lãnh đạo Việt Minh cho rằng đình chiến là một thắng lợi rực rỡ của công tác ngoại giao của họ; những điều kiện đạt được là không ngờ tới và không có quan hệ gì với tình hình quân sự. Dư luận chung có thể tóm tắt như sau: các nhà ngoại giao Việt Minh đã đòi hỏi nhiều hơn lên để mong đạt được một ít, như kết quả cuối cùng là họ lại giành được nhiều hơn so với điều họ mong đợi". Đánh giá đó đã được hoàn toàn công nhận vào mấy năm sau. Trong Hồi ký nói về những nhượng bộ của Pháp ở Geneve, ông Khrusov viết: "Thú thực là khi tin đến tai, chúng tôi há hốc miệng vì hài lòng và vui sướng. Chúng tôi không bao giờ hy vọng đến thế1'. Chắc ngưòi ta có thể bảo, Hồi ký của Khrusov về nhiều điểm là không đáng tin cậy. Nhưng người ta không thấy rằng trong trường hợp này, ông ta có lợi lộc gì để xuyên tạc sự thật? Trong cuốn Đông Dương hấp hối và một số bài viết của tôi, tôi đánh giá hiệp định Geneve là một sự "đầu hàng". Đã vài lần, người ta trách tôi về điều đó: Với độ lùi thời gian của nhiều năm tháng và dưới ánh sáng những hậu quả mà hiệp định đã gây ra cho nước Pháp và các Quốc gia liên kết, ngay đến tận giờ, tôi vẫn chưa thấy có chữ nào khác đúng hơn. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:43:54 pm CHƯƠNG X BƯNG BÍT SỰ THẬT Ba ngày sau thất thủ Điện Biên Phủ, tôi đã gửi cho Tướng Ety một bức thư, trong đó tôi đặt vấn đề về việc nắm quyền chỉ huy của tôi ở Đông Dương. Tôi nói, đối với người sẽ nắm quyền chỉ huy trong những tuần sắp tới, dù đê tiến hành thương lượng hay tiếp tục chiến tranh, cũng cần phải để cho người ấy có một quyền hành không thể bác bỏ được. Tôi nói thêm: "Nếu chính phủ vẫn để tôi giữ chức, thì họ cần phải giúp tôi thực hiện được quyền hạn trong những trường hợp khó khăn... Còn nếu vì những lý do chính trị hay những lý do này khác mà Chính phủ không cần đến tôi thì tôi cho là nên thay tôi ngay tức khắc, bởi không thể để tôi trong một tình trạng lập lờ, như cái kiểu bị án treo, nghĩa là không có thực quyền gì cả". Ely không viết thư trả lời song, ngày 18 tháng 5 có việc sang Đông Dương, ông đã nói với tôi là đã đề đạt ý kiến của tôi lên chính phủ và chính phủ vẫn tin cậy giữ tôi ỏ cương vị như cũ. Tuy nhiên người ta chẳng nói gì trên phương diện công khai và đã có những lời đồn đại về việc thay đổi. Ngày 19 tháng 5, khi Tướng Ely đã trở về Pháp, tôi gửi cho ông một bức điện xác nhận bức thư của tôi nói trên và kết luận như sau: "Có thể sắp tới 15 ngày nữa, tôi sẽ có một trận giao tranh quyết liệt, vậy lúc này tôi cần phải được hoặc xác định quyền chỉ huy của tôi một cách rõ ràng, không nước đôi gì cả, hoặc thay tôi ngay lập tức". Câu trả lời đến với tôi bằng bức điện ngày 4 tháng 6 do ông Laniel ký: "Hội đồng bộ trưởng vừa quyết định, trong điều kiện chính trị, quân sự hiện nay, cần phải tập trung toàn bộ quyền hành dân dự và quân sự ở Đông Dương trong tay một người. Để đảm nhiệm chức vụ, vừa cao uỷ vừa tổng chỉ huy, Chính phủ đã quyết định chọn Tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng quăn đội Pháp... Trước khi nhiệm vụ của ông kết thúc, tôi cần nói với ông rằng chính phủ không quên những nỗ lực to lớn mà ông đã thực hiện trong khi nắm quyền chỉ huy. Ông biết rằng trước mọi người, tôi luôn tỏ lòng cảm phục những cống hiến của ông và khắng định tình đoàn kết giữa Chính phủ và bên chỉ huy quân đội, trong những lúc thuận lợi củng như những lúc khó khăn. Khỉ ông trở về, tôi sẽ lưu ý Bộ trưởng Quốc phòng trao cho ông một nhiệm vụ mới mà đương nhiên ông sẽ được hỏi ý kiến trước". Câu nói về tình đoàn kết giữa Chính phủ và bên chỉ huy quân đội đã làm tôi xúc động. Tôi tự hỏi: có phải ông Laniel là một nhà chính trị khác thường, sẵn sàng dám nhận vê mình mọi trách nhiệm? Những tương lai đã nhanh chóng xoá tan đi những ảo tưởng ấy. Ngày 8 tháng 6, Tướng Ely tới Sài Gòn. Trong Hồi ký của ông, ông nói là tôi đã báo cáo với ông một tình hình "có lẽ là lạc quan hơn so với lần ông qua hồi tháng 5". Đúng là như vậy vì từ khi ông qua đây lần trước, tình hình đã tiến triển một cách sáng sủa hơn và chứng minh hoàn toàn cho sự tin tưởng mà tôi đã có lần biểu lộ. Tướng Ely gửi cho Chính phủ một bức điện đề nghị trao cho tôi chức chỉ huy việc phòng thủ diện địa lãnh thổ (Commandant de la Défense en Suríace du Territoire) mà ông biết là đang còn khuyết. Trả lời đến với tôi trước khi tôi rời Sài Gòn: Chính phủ sẽ trao nhiệm vụ cho tôi khi tôi trở về nhưng, do tình hình chính trị hiện tại, lúc - này chính phủ chưa thể quyết định ngay được. Ngày 8 tháng 6, tôi bàn giao công việc cho Tướng Ely. Ngày 10, ông Dejean và tôi qua Nông Pênh chào từ biệt nhà vua Campuchia và ngày 11 chúng tôi đến luôn Luang Prabang, được vua Lào, Thái tử Savang và Thủ tướng Suvana Phuma tiếp đón. Các vị đã tiếp đón tôi một cách hết sức nồng nhiệt và qua đó tôi có thể hiểu được các nhà lãnh đạo Lào đã rất biết ơn quân đội Pháp, bằng cuộc chiến ở Điện Biên Phủ, đã cứu nước Lào. Ở Sài Gòn, trong những ngày 12, 13, 14 tháng 7 chúng tôi đến từ biệt hoàng thân Bửu Lộc, Thủ tướng chính phủ Việt Nam (Hoàng đế Bảo Đại đang ở Pháp), bác sĩ Quát - Bộ trưởng Quốc phòng và Tướng Hinh, Tổng tham mưu trưởng. Cuộc đón tiếp diễn ra rất hữu nghị. Thời gian còn lại, chúng tôi đến thăm các bệnh viện, tiếp đón và đến chào từ biệt những cộng sự trực tiếp của chúng tôi. Ngày 15 tháng 6, lúc 12 giờ 30, tôi rời Sài Gòn bằng chuyến bay thường kỳ của hãng hàng không Pháp (Air France), ra tiễn có Tướng Ely và một số quan chức khác. Trong những tuần cuối cùng tôi ở Sài Gòn, tại Quốc hội Pháp đã diễn ra những cuộc tranh luận đầy sóng gió về vấn đề Đông Dương. Nội các Laniel bị đổ và ông Mendès France được cử ra lập Chính phủ mới. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:47:01 pm Ngày 16 tháng 6, tôi về tới Paris. Ngay lập tức tôi được biết một "sự thật chính thức" đang được dựng lên: tình hình Đông Dương là tuyệt vọng; chúng tôi đang đứng trước một thảm hoạ lớn mà chỉ có hoà bình tức khắc mối giúp chúng tôi tránh khỏi; chiến tranh đã thất bại do sai lầm quân sự; bây giờ là các nhà chính trị, ngoại giao phải nhảy ra cứu nguy, cố vớt vát chút gì đó còn có thể vớt vát được...v.v. và v.v...
Đương nhiên, tôi là mục tiêu của những loạt công kích dữ dội nhất. Chưa xác định được ngay nguồn gốc tự đâu, nhưng tôi đã nhanh chóng nhận thấy phần lớn những lời công khai đều xuất phát từ ông Laniel và một vài người trong chính phủ cũ của ông. Vậy là tôi tránh đến thăm họ. Chỉ một người tôi tiếp xúc là ông Marc Jacquet. Cách đây vài tuần, ông đã bị ông Laniel buộc phải "từ chức" vì có chứng cứ là ông đã quan hệ với phe đối lập. Vài ngày sau khi tôi trở về Pháp, ông mời tôi đến chơi. Cay đắng vì vừa bị gạt bỏ. ông nói ông luôn giữ tình đoàn kết đối với tôi, và nếu còn giữ chức, ông sẽ phản đối việc thay tôi. Ông tỏ vẻ bất bình về những lời người ta công kích tôi và cam đoan kiên quyết ủng hộ tôi. Đã quá quen biết ông nên tôi không lấy gì làm trọng những lời lẽ ấy và quả nhiên ngay sau đó, thái độ của ông đã tự phủ định chúng. Chẳng mấy ảo tưởng là sẽ có kết quả, nhưng tôi xét thấy có bổn phận phải trình bày với tân chính phủ ý kiến của tôi vể thực trạng tình hình Đông Dương. Tướng Ganeval, người tôi khá quen biết, lúc ấy là bí thư về quân sự cho phủ tổng thống nước cộng hoà. Ông đã thu xếp cho tôi được gặp Tổng thống Coty. Tổng thống đã tiếp tôi rất ân cần, gần như xin lỗi về việc đã thay tôi, điều mà ông coi là "chẳng những bất công mà còn không cần thiết nữa". Tôi trình bày với ông rất chân thật những gì tôi nghĩ về tình hình Đông Dương. Ông tỏ ra rất ngạc nhiên và bố rối khi biết tình hình Đông Dương, qua mô tả của tôi, là kém trầm trọng hơn nhiều so với những gì ông hình dung và trước mắc chưa hề có một đe doạ nghiêm trọng nào đối với an toàn của đạo quân viễn chinh. Khi tôi tỏ ý lấy làm lạ rằng không có một ai trong chính phủ mới muốn hỏi ý kiến tôi thì ông trả lời là lúc này cũng rất tế nhị đối với họ nếu phải đương đầu với những ý kiến trái ngược nhau giữa hai ông tổng chỉ huy cũ và mới. Tôi đã có nhiều cuộc trao đôi với Tướng Koenig, lúc này là Bộ trưởng Quốc phòng trong Chính phủ Mendès France. Ông cũng rất bối rối với an ninh của quân viễn chinh bởi điều này không ăn khớp với nhận định của Chính phủ mới mà ông là thành viên. Tôi đến thăm có tính chất thủ tục ông Jaegues Chevalier, Bộ trưởng Bộ chiến tranh mà lúc này tôi là người thuộc quyền. Nhân cơ hội này, tôi cũng phát biểu ý kiến của tôi về tình hình Đông Dương và phản đối tinh thần bỏ cuộc cũng như hoảng sợ đang ngự trị ở các giới chính trị. Rủi thay cho tôi! Bởi tôi không biết chính ông là một trong những người trong Chính phủ hăng hái ủng hộ nhất cho chủ trương hoà bình bằng bất cứ giá nào. Chúng tôi đã có những lời bài bác nhau không lấy gì làm nhã nhặn lắm. Tôi cũng đến gặp Tướng Blane, Tham mưu trưởng lục quân và Tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân. Với Tướng Blane, ngưòi mà tôi mới biết trước đâu ít lâu, tôi đã có những quan hệ rất thân tình từ chuyến ông sang công cán Đông Dương vào tháng giêng, tháng hai. Trong thời kỳ đang diễn ra trận Điện Biên Phủ, ông gửi cho tôi một bức thư với lời lẽ rất nồng nhiệt, nói rằng "cá nhân ông, ông tin chắc là trận đánh sẽ kết thúc bằng thắng lợi không thể chối cãi được của chiến đấu phòng thủ" và nói thêm: "Dù tình hình thế nào chăng nữa, tôi vẫn luôn gần ông và bảo vệ ông với tất cả những gì quyền hạn cho phép". Nhưng thái độ của ông lúc này lại rất khó hiểu. Tướng Fay cũng vậy, mặc dù chúng tôi với nhau là bạn cũ rất lâu và chính ông trước đây, đã là thành viên "phái đoàn Pleven" sang kiểm tra Đông Dương ông đã cam đoan hoàn toàn ủng hộ tôi. Tôi hiểu là cả hai đều trước hết muốn lảng tránh khỏi bị những khiến trách về Điện Biên Phủ rơi vào đầu. Và từ đấy tôi không tìm cách gặp lại các vị nữa. Tướng Koenig có nói với tôi về ý định tạo cho tôi cơ hội gặp ông Mendès France. Tôi chờ đợi hoài mà không thấy được triệu đến, nhưng tôi cũng không lấy gì làm lạ, bởi chắc những ý kiến của tôi đã trình bày với ông thủ tướng trước đây về thực chất tình hình quân sự chỉ tổ gây phiền nhiễu cho ông, vì tôi đã rõ quan điểm lập trường mà ông xác định từ lâu. Chỉ với Thống chế Juin là tôi được đón tiếp với niềm thông cảm, hiểu biết. Trong tất cả mọi người tôi được tiếp xúc, ông là người duy nhất, do dày dạn kinh nghiệm trước kẻ thù, đã hoàn toàn hiểu được các vấn đề đặt ra với tôi. Hơn nữa, trong thời gian tôi ở Đông Dương, qua rất nhiều thư riêng; ông là người tôi thường xuyên trao đổi về những ý định cũng như những khó khăn của tôi. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:50:10 pm Sau lần gặp ông khi trở về Pháp, ông có viết thư cho tôi, trong đó quan điếm của ông đối với sự kiện Điện Biên Phủ có thê tóm tắt bằng một đoạn trích sau đây: "Tôi luôn luôn cho rằng người ta không thể trách cứ ông về việc đã chiếm Điện Biên Phủ, cả việc đã thiết lập ở đấy một trong những tập đoàn cứ điểm - mà thuần tuý xét về chiến lược - thì ít đáng tin cậy đấy, trong khi ông không có một cách nào khác là buộc phải làm thế để hoàn thành một nhiệm vụ được giao là bảo vệ Lào. Tôi luôn luôn nghĩ rằng, ngay dù làm thế nào, công việc vẫn có thể tiến triển tốt đẹp, thậm chí còn chắc chắn có lợi cho ta, nếu những người bạn Mỹ vui lòng trợ giúp chúng ta về không quân chiến lược. Điện Biên Phủ sẽ có thể là một thắng lợi và mọi sự sau đó hoàn toàn thay đổi. Đó là hai điểm chính yếu giũ bỏ hoàn toàn cho ông mọi trách nhiệm. Phần còn lại, nghĩa là những gì diễn ra sau đó trong một trạng thái xấu về tinh thần do tác động của thất bại Điện Biên Phủ, thì thực ra không có gì đáng nói. Nó đã thuộc về các nhà lãnh đạo và thật đúng đắn là trong những hoàn cảnh ấy, ông đã tỏ ra vừng vàng và tìm cách đương đầu lại".
Tuy nhiên, theo tôi biết chắc do hoài nghi kết quả sẽ chẳng đi đến đâu, Thống chế Juin đã không có cuộc vận động nào với chính phủ để chứng minh cho họ hiểu rằng chủ trương bỏ cuộc mà họ ngày càng dấn sâu vào là không nên. Vào giữa tháng 7, nhận thấy đã làm tất cả những gì có thể làm để giúp các nhà chính trị và quân sự hiểu rõ tình hình, tôi ra vùng bờ biển nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ ngơi ấy đã cho tôi điều kiện để viết một báo cáo - dù chẳng ai đòi hỏi, nhưng tôi thấy là có trách nhiệm - về công việc chỉ huy của tôi ở Đông Dương. Cũng lúc này tôi mới có dịp để nói về tình hình riêng của tôi, điều mà trước đây tôi ít chú ý. Tình hình đó là "rất bất tiện". Tôi hiểu rằng, khác với những thất bại về chính trị, ngoại giao, tài chính hay kinh tế, thường dẫn đến hậu quả nhiều khi còn nặng nề hơn thua một trận đánh, nhưng người mắc lỗi lại ít khi bị hề hấn, thì đối với những thất bại về quân sự, người làm đều phải trả giá. Tôi coi cuộc đời binh nghiệp của tôi vậy là kết thúc và tôi không có gì phải phẫn nộ, bởi đó là những cái rủi song có thể là những cái cao cả của nghề nghiệp. Nhưng nếu tôi không bao giờ nghĩ đến việc lẩn tránh những trách nhiệm về chiến lược và chiến thuật ở Điện Biên Phủ thì tôi cũng không chịu để bị người ta buộc tội một cách vô cớ về những lỗi lầm mà tôi không phạm phải cũng như chồng chất lên vai tôi những trách nhiệm chính trị hay quân sự thuộc thẩm quyền của Paris1. Khi sự việc được quên đi, do kín miệng tôi cũng sẽ được thưởng một cái chức gì đó không quá đập vào mắt thiên hạ. Nhưng tính nết của tôi và nhất là sự kính trọng của tôi đối với quân đội đã chống lại, không cho phép tôi xử sự như thế - tôi quyết định chỉ làm việc khi nào những lời người ta buộc tội tôi phải được phân xử rõ rệt. Tuy biết ít có cơ may để đi đến kết quả, tôi kết luận cách duy nhất để làm việc này là xin được điều trần trước một uỷ ban điều tra. Tôi nói chuyện với Thống chế Juin và Tướng Koenig. Thống chế Juin gay gắt khuyên can tôi. Ông nói: tất cả các nhà chính trị đều có lợi khi họ ”chụp được cho anh một cái mũ" - vả lại anh sẽ không kiếm đâu ra một uỷ ban điều tra có đủ dũng khí để "nói ngược lại", chưa nói là nó còn được "chọn để chống lại anh". Còn Tướng Koenig thì tán thành song ông lưu ý là tôi chỉ có quyền yêu cầu lập một uỷ ban điều tra chừng nào tôi bị thi hành một kỷ luật nào đó. Mà đó phải là trường hợp khi người ta từ chổi không giao cho tôi cái chức mà chính phủ trước đây đã hứa hẹn. Thế là Tướng Koenig và tôi thống nhất sau khi tôi nghỉ phép xong, ông sẽ đề nghị giao cho tôi một chức vụ tương ứng với cấp bậc của tôi và nếu Chính phủ từ chối (điều này tôi gần như chắc chắn) thì tôi sẽ đưa ra yêu cầu lập uỷ ban điều tra. Giữa tháng 8, Tướng Koenig cho tôi biết ông Chevalier, Bộ trưởng Bộ chiến tranh, đã phân phối việc bổ nhiệm tôi và ông ấy tuyên bố là từ chối "giao cho tôi bất kỳ một vị trí chỉ huy nào". Thái độ hằn thù của ông Chevalier thì tôi không còn lạ gì. Tôi biết ông không thể nào tha thứ cho tôi về việc, một lần đến thăm ông, tôi đã gọi lập trường của chính phủ ở Hội nghị Geneve là lập trường của "thất bại chủ nghĩa”. -------------- 1. Sau khi tập đoàn cứ điểm thất thủ, trả lời các nhà báo, tôi tuyên bô: Không ai khác ngoài tôi là người phải chịu trách nhiệm về việc lựa chọn Điện Biên Phủ và chỉ đạo trận đánh. Từ sự xác nhận trách nhiệm của tôi về chỉ đạo chiến dịch, nhiều nhà báo đã nâng nó lên thành một sự thú nhận công khai về phạm tội. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:52:24 pm Dù sao đi nữa, điều kiện Tướng Koenig đặt ra để chấp nhận yêu cầu lập uỷ ban điều tra của tôi đã có đủ. Và lập tức tôi yêu cầu ngay, lòi lẽ như sau: "Tôi hân hạnh được yêu cầu thành lập một uỷ ban điều tra có đủ tư cách để đánh giá những công việc chỉ huy của tôi, hiểu biết những điều kiện chiến đấu của binh lính theo mệnh lệnh của tôi và xem xét tổng thể diễn biến cuộc chiến tranh ở Đông Dương từ lúc tôi bắt đầu chỉ huy cho đến khi nó kết thúc". Nhưng giữa chừng thì Tướng Koenig thôi giữ chức trong chính phủ và yêu cầu của tôi không được trả lời. Tôi lại nhắc lại lần nữa trong thư ngày 22 tháng 10.
Vài ngày trước đó, Thống chế Jum mời tôi lại và cho biết ông được giao trách nhiệm khuyên tôi "vì lợi ích của quân đội" hãy từ bỏ yêu cầu lập uỷ ban điều tra. Tôi cần nói thêm rằng ông làm việc này không mấy nhiệt tình, chỉ nhắc lại những gì trước đây đã nói với tôi: rằng, đứng về phía lợi ích cá nhân tôi thì ông nghĩ là tôi đã lạc đường. Cuối cùng ngày 26 tháng 10 tôi nhận được một bức thư do ông Chevalier ký, nói rằng: "Trả lời các thư ngày 12 tháng 8 và ngày 22 tháng 10 năm 1954 của ông, tôi có hân hạnh báo ông là chúng tôi không có ý định lập một uỷ ban điều tra về vấn đề chỉ huy của ông ở Đông Dương, tuy trước đây đã có tiền lệ, nhưng một thủ tục như thế là không có cơ sở pháp lý và không hợp thức". Đây là một trả lời cuối cùng và dứt khoát. Chính phủ còn tìm cách bưng bít không muốn cho uỷ ban Đông Dương của Quốc hội nghe tôi trình bày. Thực vậy, uỷ ban này cũng đang tìm cách tự gán cho mình những "quyền hạn về điều tra" đế sau đó được nghe tôi nói. Tất cả đều được làm để ngăn cản không cho tôi trình bày trước uỷ ban vì điều đó sẽ kịch liệt phản bác lại cái mà người ta gọi là "sự thật" về Điện Biên Phủ. Cách người ta làm thật là khôn khéo: tôi sẽ được quyền nói, nhưng nghe tôi lại là "phân ban quốc phòng của uỷ ban tài chính" (Sous-commission de Défense Nationale de la Commisson des Finances), một cơ quan hoàn toàn không có một tư cách nào để phân xử về những công việc chính trị - quân sự ở Đông Dương. Chủ tịch của phân ban này lại biết khéo léo tránh không đề cập đến những vấn để cấm kỵ, ví dụ như tác động của Hội nghị Geneve đối với Điện Biên Phủ và tình hình quân sự sau khi Điện Biên Phủ bị thất thủ. Tôi tự hỏi, thế thì việc trình bày trước một uỷ ban chang có một chút dính dáng gì đến vấn đề này là có ý nghĩa ra sao. Một thời gian sau, tôi hiểu đó chỉ là một kiểu làm "xiếc" mà thôi. Thực vậy, tôi được biết có một báo cáo (ngày 15 tháng 12 năm 1954, do ông chánh văn phòng ký) trong đó có "lưu ý ông Mendès France" về những "nguy hiểm nghiêm trọng" mà uỷ ban Đông Dương có thể gây ra nếu uỷ ban này được nghe Tướng Navarre trình bày. Báo cáo cũng nói là Chủ tịch phân ban quốc phòng của Uỷ ban Tài chính chỉ có thể ngăn được việc này bằng cách cho vài người của uỷ ban Đông Dương biết là Phân ban sắp nghe Tướng Navarre nói. Báo cáo nhấn mạnh cần phải có "quyết định dứt khoát ngay từ chiều nay" về vấn đề trên. Ngày 16 tháng 12, tôi được báo sáng 17 có mặt tại phân ban quốc phòng của uỷ ban tài chính. Trong hoàn cảnh không có điều kiện trình bày trước một tổ chức xét xử có thẩm quyền, tôi chuẩn bị để rời quân ngũ. Nhưng tôi có ý định, khi nào trở về cuộc sống dân sự, tôi sẽ viết và cho ra mắt một cuồn sách trong đó nói lên những gì mà tôi cho là sự thật. Tôi tự hạn định thòi gian là vài tháng và bắt tay vào chuẩn bị. Nửa đầu tháng 1 năm 1955, một nhà báo tự nguyện cho tôi một cơ hội để nêu lại vấn đề lập uỷ ban điều tra. ông Lucien Bodard, phóng viên ở Đông Dương của tờ Nước Pháp - Buôi chiều, đã viết một loạt bài về sự việc Điện Biên Phủ. Những bài này sai sự thực và cay độc đối với tôi đến nỗi tôi không thể không phản ứng lại. Khi được ông Temple Bộ trưởng Quốc phòng tiếp tôi đã yêu cầu ông cho lập uỷ ban điểu tra. Rất chán ngán nhưng ông cũng hứa sẽ "bênh vực tôi", song rồi ông cũng chẳng làm gì cả. Tôi lặp lại yêu cầu trên bằng thư song cũng không có trả lời. Giữa chừng, tôi đã thoả thuận với ông Benuvin, Giám đốc tờ Ngày của nước Pháp (Jours de France) về một cuộc phỏng vấn sẽ đăng trên tuần báo của ông. Nó đã ra mắt ngày 20 tháng 1 và kết thúc bằng việc báo tin sắp tới, trong một tờ báo lớn hàng ngày (tò Phigaro mà tôi đã tiếp xúc), sẽ đăng một bài trình bày tỉ mỉ cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đã được tiến hành trong những điều kiện như thế nào. Hôm sau, tôi nhận được một bức thư của Bộ trưởng chiến tranh Chevalier, mòi tôi đến gặp ông gấp để cho biết lý do tại sao tôi làm "trái vối những quy định của điều lệnh kỷ luật, đã bỏ qua không xin phép ông". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:54:25 pm Tôi chuẩn bị trả lời ông thì có phái viên của Thủ tướng đến báo cho tôi biết, theo lệnh ông, tôi không được công bố những bài viết như đã báo trước. Tôi trả lời rằng trước sự bất lực của Chính phủ mà mặc dù đã có lời hứa của Bộ trưởng Quốc phòng, không ai bảo vệ tôi, thì tôi tự xét thấy mình có quyển đứng ra tự bảo vệ. Vài giờ sau, một cú điện thoại báo ngày mai ông Mendès France hẹn gặp tôi.
Cuộc gặp gỡ diễn ra không mấy dễ chịu. Ông Mendès France nói rằng tôi đã hành động một cách không bình thưòng khi tiến hành cuộc phỏng vấn với báo Ngày của nước Pháp, rằng ông không muốn khiển trách tôi theo như đề nghị của ông Chevalier, nhưng ông cũng cấm tôi không nên đi xa hơn nữa trong việc tiết lộ với báo chí. Tôi trả lời, tôi buộc phải làm thế vì Chính phủ "bất lực" (tôi đã dùng chữ này) vừa từ chối yêu cầu uỷ ban điều tra của tôi, lại vừa không bảo vệ tôi. Thủ tướng khẳng định ông không hề biết về yêu cầu lập uỷ ban điều tra. Nhưng theo nguồn tin chắc chắn, tôi được biết lá thư từ chối lập uỷ ban này do ông Chevalier ký đã được gửi đi với sự đồng ý của ông. Và tôi cũng không giấu là tôi biết điều này. Để kết luận, ông Mendès France nói bây giờ ông sẵn sàng cho lập uỷ ban điều tra và báo tôi biết, uỷ ban này sẽ do Tướng Catroux - trước đây ít lâu vừa được tặng Bắc đẩu bội tinh hạng nhất - cầm đầu. Trước khi từ biệt thủ tướng, tôi đưa ông một tờ trình (và một nhân bản nữa gửi Bộ trưởng Quốc phòng), trong đó tôi đề nghị uỷ ban điều tra có những câu trả lời về một số vấn đề như sau: 1) Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ và khả năng về lực lượng, phương tiện, có cần tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ hay không? Nếu không thì cần làm gì khác? 2) Chiến dịch Điện Biên Phủ có thể và cần phải được tiến hành khác với như đã làm không? Đặc biệt: người ta có thể và cần phải, đến một lúc nhất định, di tản tập đoàn cứ điểm hay không? Có cần phải kéo dài cuộc kháng cự, nhất là việc tăng cường cho Điện Biên Phủ bằng thả dù hay không? Có thể giải toả cho Điện Biên Phủ bằng một cuộc vận hành quân trên bộ hoặc bằng đường không hay không? Đã mắc phải những lỗi lầm nghiêm trọng nào trong chuẩn bị và tiến hành chiến dịch và nó thuộc vào cấp nào? 3) Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh có được biết chính xác về tình hình hay không? Có được báo về những nguy cơ có thể thất trận và hậu quả kéo theo hay không? 4) Bộ tham mưu lục quân, hải quân, không quân đã làm những điều cần thiết để tăng cường cho đạo quân viễn chinh hay chưa, trong phạm vi yêu cầu của Tổng chỉ huy ở Đông Dương và đã được chính phủ quyết định. 5) Trận Điện Biên Phủ đã tác động như thế nào đối với việc bảo vệ Lào, bảo vệ đồng bằng và đối với tình hình chung của Đông Dương. Cũng trong tờ trình này, tôi yêu cầu ý kiến của uỷ ban điều tra sẽ được thông báo công khai. Sau hôm tôi gặp ông Mendès France, các báo đã đăng một thông báo của chính phủ. Thông báo nói rõ, sau khi từ Đông Dương trở về, tôi đã yêu cầu lập một uỷ ban điều tra và yêu cầu này đã bị khước từ. Nhưng khước từ này - tôi nhắc lại là có tính chất dứt khoát - lại được trình bày trong thông báo một cách không đúng là chỉ có tính chất tạm thời và được biện minh là do chính phủ còn muốn "hoàn toàn hiểu được tình hình" và "có trong tay những báo cáo cần thiết'' của chính tôi cũng như của các tướng dưới quyền tôi mà chính phủ đã yêu cầu (thực ra làm gì có yêu cầu này đâu). Tiếp đó thông báo cho biết về việc lập một uỷ ban nhưng không nói đến yêu cầu của tôi là công khai cho mọi người biết về ý kiến của uỷ ban điều tra. Tuy nhiên, thế là tôi cũng đã được hài lòng. Bằng cách dung doạ, trong tám ngày tôi đã đạt được cái mà từ nhiều tháng nay tôi đã uống công đòi hỏi công lý. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:56:16 pm Uỷ ban điều tra Ít lâu sau cuộc gặp tôi của ông Mendès France, chính phủ của ông bị đổ và nội các của ông Edgar Faure lên thay. Trong nội các mới, Tướng Koenig làm Bộ trưởng Quốc phòng. Việc chỉ định thành viên của uỷ ban điều tra và giao nhiệm vụ cho nó thuộc về nội các mới. Như trên đã nói, dưới thời ông Mendès France, chức chủ tịch uỷ ban được giao cho Tướng Catroux. Sự lựa chọn này làm tôi lo ngại. Một thời gian dài ở Marốc, tôi là thuộc cấp của ông và được ông tin cậy quý mến. Sau 10 năm dứt đoạn, ông và tôi lại nối được quan hệ sau ngày nước Pháp được giải phóng và mối quan hệ ấy ngày càng trở nên tốt đẹp. Lúc tôi được chỉ định sang Đông Dương, ông đã góp với tôi những lòi khuyên bảo, viết một bài khen ngợi tôi và thậm chí - như về sau tôi mới biết - còn hy vọng tôi sẽ yêu cầu ông "bảo trợ" cho tôi về mặt chính trị ở hậu phương Paris (lúc này ông chưa nhận nhiệm vụ gì). Sau khi ở Đông Dương trở về, tôi đã gặp ông nhiều lần và đã trình bày cặn kẽ với ông về sự việc Điện Biên Phủ. Ông tỏ ra rất thông cảm với tôi. Vậy tôi tin rằng, với cương vị là chủ tịch uỷ ban điều tra, ông sẽ có những xem xét thuận lợi cho tôi. Nhưng quá hiểu biết tâm tính ông, một người rất nhạy cảm với những lý lẽ chính trị, tôi e ngại là ông khó cưỡng nổi những sức ép mà chắc chắn người ta sẽ tác động đối với ông. Nhiệm vụ của ủy ban điều tra (Do nghị định của Bộ quốc phòng ngày 31 tháng 3 năm 1955 xác định) khác hắn cái mà tôi yêu cầu. Thực vậy, nó chỉ phát biểu ý kiến về sự chỉ đạo những chiến dịch dẫn đến cuộc chiến ở Điện Biên Phủ, về chuẩn bị và chỉ đạo tiến hành trận Điện Biên phủ, cũng như về trách nhiệm của các cấp chỉ huy ở Đông Dương. Vậy là so với đề nghị của tôi, nó chỉ giải quyết những vấn đề về trách nhiệm của bản thân tôi và các thuộc cấp của tôi. Ngoài ra còn là một phạm vi rộng những "khu vực cấm". Đặc biệt, uỷ ban điều tra đã không có đủ thẩm quyền để xem xét mặt chính trị của chiến tranh, một vấn đề không thể tách rời với mặt quân sự của chiến tranh. Từ đó, nó không có quyền xem xét những tác động của hội nghị Geneve đối với các hoạt động quân sự. Hơn nữa, ngay trong lĩnh vực quân sự, quyền hạn của nó cũng bị giới hạn. Đặc biệt những vấn đề như: trách nhiệm của các Bộ chỉ huy lục quân, không quân đối với chiến tranh Đông Dương, tình hình quân sự thực tế ở Đông Dương sau thất bại Điện Biên Phủ - các vấn đề này đều được đặt ra khỏi phạm vi điều tra của uỷ ban. Tôi định rời quân đội ngay lập tức và từ chổi không ra điều trần trước một uỷ ban mà quyền hạn bị hạn chế đến thế. Nhưng Tướng Koenig đã khuyên can tôi, cho rằng từ chối như thế là bất lợi cho tôi vì người ta có thể dễ dàng nói rằng: trước kia tôi yêu cầu lập uỷ ban điều tra là vì đinh ninh chẳng ai cho lập, nhưng nay khi đã được đồng ý thì tôi lại tìm cách lẩn tránh để khỏi bị xét xử. Tôi đành phải nhẫn nhục vậy. Ngay khi được chính thức chỉ định, Tướng Catroux mời tôi đến gặp và yêu cầu tôi cung cấp cho ông tất cả những tài liệu mà tôi có. Nhưng vì không chú ý sưu tập tư liệu cho bản thân, nên tôi chỉ có một ít. Cũng nhân dịp gặp gỡ này tôi đề nghị Catroux không cần nghiên cứu những điều kiện trong đó đã diễn ra bản thân trận Điện Biên Phủ cũng như trách nhiệm của những chỉ huy trực tiếp ở đấy. Tôi nói, tôi sẽ xin chịu trách nhiệm về tất cả những gì đã diễn ra ở Điện Biên Phủ và nếu cần, tôi sẽ chứng nhận yêu cầu đó trên giấy. Lý do của sự thỉnh cầu này là vì tôi biết ở Điện Biên Phủ đã có những sai lầm của một số cấp chỉ huy và những sa sút của một số đơn vị. Nếu những chuyện ấy được đề cập đến thì tôi không thể không nói ra và như vậy tôi sẽ rơi vào tình trạng chẳng hay hớm gì của một tướng đổ lỗi cho cấp dưới cho rằng những sai lầm và sa sút ấy, tuy ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả của cuộc chiến, nhưng không phải là quyết định, tôi nghĩ tốt nhất là không nói đến nó nữa. Catroux không trả lời tôi và uỷ ban đã chọn một cách giải quyết lập lờ: uỷ ban sẽ nghiên cứu, nhưng qua loa thôi, chi tiết của những trận đánh và sẽ nghe một số nhân chứng song không hỏi gì đến tôi về những trận đánh đó. Dù đối với tôi, giải pháp ấy quả là bất lợi vì nó không cho phép tôi đính chính những lời trình bày không đúng - nhưng tôi cũng không khiếu nại gì cả. Uỷ ban điều tra gồm Tướng Catroux, chủ tịch, Tướng Magnan lục quân; Tướng Valanh không quân; Đô đốc Lemeunier Hải quân và một thành viên dân sự là toàn quyền Le Boudeg; không một người nào trong họ đã đương đầu với kẻ thù, với cương vị chỉ huv cao và độc lập và cũng chưa hề phải đối mặt với những vấn đê khó khăn phức tạp như những vấn đề tôi đã gặp phải ở Đông Dương. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 09:58:42 pm Những vấn đề phải xem xét cũng rất phức tạp, đòi hỏi uỷ ban phải có một ê kíp làm việc gồm những sỹ quan hiểu biết thông thạo về Đông Dương và được phân công để nghiên cứu từng vấn để. Nhưng người ta đã không làm thế như vậy, làm sao có thể tiến hành công việc một cách nghiêm túc.
Tướng Catroux giao cho Tướng Magnan nghiên cứu những vấn đề chiến thuật thuộc lục quân, và Tướng Valanh, những vấn đề thuộc không quân. Còn ông thì nghiên cứu những vấn đề chính trị mà ông đã chuẩn bị kỹ lưỡng và những vấn để chiến lược, không thể tách rời khỏi chính trị, nhưng do quá trình công tác của ông, ông cũng không được thông thạo lắm về những vấn đề này. Như người ta đã biết, mặc dù bị gạt ra khỏi phạm vi điều tra của uỷ ban nhưng những vấn đề chính trị vẫn được Tướng Catroux coi là có bổn phận phải xem xét, song chỉ trong chừng mực cần thiết để xác định những trách nhiệm về quân sự. Vậy là ông có nghiên cứu bối cảnh chính trị của sự kiện Điện Biên Phủ, nhưng chú ý không phán xét gì về những nhân vật chính trị dính dáng đến sự việc dù bất kỳ dưới danh nghĩa nào. Sự cẩn tắc ấy buộc ông phải có thái độ lập lờ về một vấn đề cơ bản là làm rõ việc Pháp có cần bảo vệ hay không bảo vệ nước Lào. Thái độ ấy dẫn tới việc từ chổi không đê cập đến một vấn đề chủ yếu khác - mặc dù tôi đã có đơn yêu cầu hắn hoi - đó là vấn đề: quyết định tham dự hội nghị Geneve của Chính phủ đã tác động như thế nào tới chiến lược của Việt Minh. Thái độ ấy cũng ngăn ông không đề cập đến việc nghiên cứu tình hình quân sự Đông Dương sau khi Pháp mất Điện Biên Phủ, và kết luận xem, có phải tình hình ấy đã làm cho việc Pháp phải rút bỏ một phần đồng bằng và cao nguyên, rồi sau đó phải vội vã ký kết hoà bình là điều không thể tránh khỏi hay không? Nỗi e ngại quá lấn sân về chính trị đã làm cho toàn bộ công việc của Tướng Catroux bị sai lệch đi. Còn những vấn đề chiến lược, thực tế là nó không được nghiên cứu. Tướng Catroux chỉ hạn chế trong việc đưa ra một số ý kiến của vài chứng nhân, nhưng không xác định rõ đúng sai. Trong những điều kiện như vậy, uỷ ban điều tra có thể đưa ra những kết luận không có giá trị nghiêm túc đối với những vấn đề chính yếu mà sự kiện Điện Biên Phủ đặt ra. Uỷ ban điều tra bắt đầu công việc vào đầu tháng 5 năm 1955. Ngày 20 tháng 5, tôi được thẩm vấn về: tôi được giao nhiệm vụ trong những điều kiện nào; cách thức bàn giao công việc giữa Tướng Salan và tôi ra sao; lý do gì khiến tôi quyết định chiếm Điện Biên Phủ và chấp nhận giao chiến ở đấy; chuẩn bị và khởi đầu cuộc chiến thế nào; và một vài quyết định của tôi trong quá trình cuộc chiến. Catroux cho biết sẽ còn tiếp tục hỏi tôi nữa. Nhưng thực ra chỉ có lần đó thôi, còn sau này người ta chỉ yêu cầu tôi cung cấp cho họ một số thông tin, thuyết minh và bình luận, viết trên giấy. Về phía tôi, tôi chủ động gửi cho uỷ ban một bản viết về "những tác động quân sự của Hội nghị Geneve". Biết rằng Catroux không muốn để cập đến vấn để gai góc này, với bài viết trên, tôi muốn dẫn ông ta tới chiến trường. Nhưng tôi cũng không nhận được trả lời. Uỷ ban còn nghe trình bày của một số nhân vật dân sự và quân sự dính dáng đến sự việc Điện Biên Phủ. Nội dung ra sao tôi không được thông báo, nhưng phần lớn những thuộc cấp cũ của tôi đều nói cho tôi biết uỷ ban đã hỏi họ những gì và họ đã trả lời ra sao. Tuy nhiên khi có một bất đồng quan trọng nào giữa một nhân chứng và tôi, thì tôi cũng được hỏi, bằng viết ra giấy. Đó là trường hợp đã xảy ra với Tướng Cogny (độc 3-4 lần) và ông Mare Jacquet. Trong lần trình bày đầu tiên trước uỷ ban, Tướng Cogny đã gửi cho họ một báo cáo, nhan đề là "Bất đồng về Điện Biên Phủ", trong đó ông lặp lại những luận điểm do ông dựng lên và mớm cho giới báo chí khi ông bắt đầu nhận thấy mọi việc chuyển sang chiều hướng xấu. Uỷ ban cho tôi biết và yêu cầu tôi trả lời bằng giấy. Trong các lần trình bày, Cogny tiếp tục phát triển các luận điếm trên và yêu cầu uỷ ban chứng thực cho cái mà ông mạo xưng là bất đồng chiến lược giữa ông và tôi. Song uỷ ban đã từ chối. Còn với ông Marc Jacquet, cựu Quốc vụ khanh phụ trách quan hệ với các Quốc gia liên kết, uỷ ban có nghe ông một lần và sau đó uỷ ban đã hỏi tôi về một số điểm do cuộc hội kiến này nêu lên. Tóm tắt như sau: Ông Marc Jacquet không chịu trách nhiệm gì hết và cũng không biết gì hết, tuy nhiên ông đã thấy được tất cả. Luận điểm của ông Marc Jacquet đã chẳng gây ấn tượng gì lớn đối với uỷ ban vì trong báo cáo của uỷ ban, họ đã không đếm xỉa gì đến. Ngoài ông Marc Jacquet, theo tôi biết, uỷ ban không nghe thêm một nhân vật chính trị nào thuộc số người có trách nhiệm với chiến tranh Đông Dương. Hơn nữa, uỷ ban cũng chẳng hỏi đến các tham mưu trưởng Lục quân, Không quân, Hải quân và cả Tổng tham mưu trưởng Quân đội, Tướng Ely. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 10:02:13 pm Ông này là nhân vật quân sự nắm tình hình vững nhất mà uỷ ban có thể tìm hiểu. Qua thư từ điện tín thường xuyên trao đổi giữa ông và tôi, lại mấy lần sang Đông Dương, ông Ely đã theo dõi sự việc Điện Biên Phủ từ đầu chí cuối, qua tất cả các giai đoạn cũng như nắm từng chi tiết của nó. Không một chút do dự, ông đã thường xuyên chấp nhận nó. Tôi đinh ninh rằng, dù được triệu đến hay không, ông sẽ đến uỷ ban để làm chứng cho tôi. Những tôi đã vỡ mộng khi thấy ông không đến1. Không phải tôi nghĩ đến việc muôn ông chia sẻ trách nhiệm cùng tôi về những quyết định chiến dịch: trách nhiệm ấy, tôi xin chịu hoàn toàn; nó không thay đổi gì cả dù ông chấp nhận hay không chấp nhận những quyết định của tôi. Song nếu làm chứng trước uỷ ban về sự chấp nhận của ông, Tướng Ely sẽ cung cấp cho uỷ ban một yếu tố rất quan trọng để đánh giá những quyết định ấy, điều mà theo tôi là cần thiết đối với uỷ ban.
Ngày 1 tháng 12 năm 1955, qua một bức thư, Tướng Catroux thông báo cho tôi biết là qua lần nghe tôi trình bày cũng như các bản viết trả lời của tôi, uỷ ban đã "được làm sáng tỏ một cách thoả đáng" về sự việc, và như vậy, uỷ ban thấy không cần thiết phải nghe tôi nữa. Tôi báo đã nhận được thư song vẫn bảo lưu những trường hợp "nếu tôi hoặc thuộc cấp của tôi bị buộc phải chịu trách nhiệm về những vấn đề mà tôi không có dịp đế giải thích đầy đủ". Đó chính là trường hợp của khá nhiều điểm mà sau này báo cáo kết luận của uỷ ban điều tra phải ghi nhận lại. Tuy nhiên, tôi cũng không được triệu đến lần nào nữa. Sự kết thúc vội vã này của uỷ ban điều tra là do lúc bấy giờ Catroux bị bận rộn vào công việc chính trị của Chính phủ - do việc Quốc vương Mahomet V quay trở lại Marốc - đã không còn thời gian để tập trung vào nhiệm vụ của uỷ ban và cũng không muốn đụng chạm đến những vấn đề chính trị mà ông e ngại sẽ bị lôi cuốn vào nếu tôi lại được trình bày. Báo cáo của uỷ ban điều tra được đệ trình lên Chính phủ vào tháng 12 năm 1955. Dự án đầu tiên trong đó gần như không có một chỉ trích nào đối với những gì tôi có liên quan đã được báo cáo chính thức lên Chính phủ, nhưng sau đó nó đã được sửa đổi lại theo một chiều hướng bất lợi cho tôi. Trước hết, báo cáo xác định cái mà nó gọi là "những trách nhiệm của các cấp" và nêu ra những "gợi ý về việc sử dụng Tướng Navarre và Cogny". Những "trách nhiệm" quy cho tôi gồm những "sai lầm", trong đó một số được xác định có tính chất "chiến lược", có thể quy tụ vào những điểm sau: Trước hết, khi biết Chính phủ đã từ chối một phần lớn yêu cầu tăng viện về lục quân và không quân thì lẽ ra tôi phải xem xét lại kế hoạch của tôi. Trong khi ehưa biết chắc chắn những "ý định thực sự" của Chính phủ về việc bảo vệ Lào thì trước khi tiến hành nhiệm vụ đó, tôi cần phải hỏi Chính phủ cho rõ đã. Sau đó, nếu không thể trách tôi về việc đã chiêm Điện Biên Phủ để chặn đường Việt Minh sang Lào thì cũng thấy rằng quyết định chấp nhận tổng giao chiến ở đấy của tôi là sai lầm. Cuối cùng là lẽ ra tôi phải cố gắng giải toả cho tập đoàn cứ điểm bằng một cuộc hành quân từ bên ngoài vào, lấy lực lượng từ khu vực Trung Lào và khu vực Atlante. Nhưng, theo uỷ ban điều tra, trong những điều kiện chính trị mà tôi tiến hành nhiệm vụ chỉ huy lúc bấy giò thì trách nhiệm của tôi là không mấy trầm trọng. Về những gì liên quan đến Tướng Cogny, uỷ ban liệt kê những cái mà ông gọi là mâu thuẫn về nhận thức chiến lược giữa ông và tôi. Uỷ ban tuyên bố ngay cả khi một số chỉ trích được xác minh là đúng thì nó chỉ là những "lời nói sai" (nói hậu), dưới một hình thức "không thể chấp nhận được" và "có mục đích rõ ràng là cá nhân". Uỷ ban cũng nêu lên nhiều sai lầm nghiêm trọng của Tướng Cogny trong quá trình chuẩn bị và điều hành trận đánh Điện Biên Phủ. Uỷ ban tỏ ra khá nghiêm khắc đối với Tướng Dechaux, chỉ huy không quân tham gia chiến dịch. Còn đối với Tướng De Castries, uỷ ban cũng nêu một số sai lầm của ông ta trong chuẩn bị và chỉ huy trận đánh, song xét trong điều kiện có nhiều khó khăn to lón mà ông phải đương đầu, uỷ ban thấy đó là những sai lầm đáng được tha thứ. Tiếp đó, uỷ ban điều tra chuyển sang xem xét cái mà họ gọi một cách kín đáo là "trách nhiệm của cấp lãnh đạo chiến tranh", một chuyển ngữ khéo léo để nói về những trách nhiệm của cấp chính phủ. ----------------- 1. Tướng Ely trở về Pháp tháng 6-1955, nghĩa là ông có mặt ở Pháp khi uỷ ban tiến hành công việc điều tra. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 10:04:30 pm Chương này được viết với những lời lẽ rất thận trọng, khôn khéo. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ ra một vấn đề là chính phủ chưa một lúc nào lãnh đạo chiến tranh. Nhiều dẫn chứng được đưa ra: chính phủ chưa bao giờ xác định rõ những mục đích của chiến tranh; tổng chỉ huy chưa bao giờ nhận được" cả chỉ thị lẫn chỉ dẫn về những gì liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ Lào; kế hoạch chiến lược đã được công nhận "ngầm", nhưng "sự chấp nhận ấy đã không được ghi lại dưới hình thức của một quyết định"; phương tiện cần thiết cho thực hiện kế hoạch không được chấp nhận toàn bộ; khối lượng và chủng loại của các phương tiện ấy chỉ được thông báo khi chiến dịch Điện Biên Phủ đã được tiến hành; quyết định chiếm Điện Biên Phủ và chấp nhận giao chiến ở đấy không được cấp lãnh đạo chiến tranh nhận xét hoặc có ý kiến bảo lưu; những tăng viện yếu ớt về không quân đã được gửi đến quá chậm để có thể "tác động đến kết quả của trận đánh".
Nhưng uỷ ban vẫn nín lặng về những cái chính yếu nhất. Uỷ ban không đả động gì đến những hậu quả về quân sự do việc chính phủ đề nghị họp Hội nghị Geneve; chỉ dám nhận xét một cách chung chung về nguyên tắc là người tướng tổng chỉ huy cần phải được thông báo về đường lối chính trị và những mục tiêu của chính phủ - điều đó được hiểu ngầm là ở đây, chính phủ không mắc phải lỗi này. Báo cáo cũng nín thinh không nói về những hậu quả của Điện Biên Phủ, không đề cập đến vấn đề đánh giá xem với thất bại của trận đánh, hoặc Pháp có đáng phải rút bỏ nhiều vùng đất đai và ký kết hoà bình với những điều kiện bất lợi như vậy không? Mặc dù đã hết sức cẩn thận và không mạo hiếm đi vào lãnh địa chính trị, nhưng kết luận của uỷ ban điều tra vẫn khoét một lỗ hông lớn vào lâu đài của "sự thật chính thức". Đó là điều ít lâu sau Tưống Catroux đã nói với tôi. Như ông viết cho tôi, báo cáo của ông "đã khơi ra những nỗi đắng cay thất vọng của chúng tôi về Đông Dương, đặc biệt là nêu lên kết cục bi đát của cuộc chiến, sự bất lực của chính phủ trong lãnh đạo chiến tranh". Trong một phụ lục của báo cáo, uỷ ban điều tra cũng đề xuất ý kiến về số phận dành cho tôi và Tướng Cogny. Về tôi, uỷ ban đề nghị: chấm dứt thời kỳ tôi không được nhận một nhiệm vụ có tính chất hành động thực sự và như đã hứa với tôi, giao cho tôi một nhiệm vụ mới. Về Tướng Cogny, uỷ ban kết luận: "Tuy có một số phẩm chất xuất sắc" nhưng ông hãy còn "thiếu kỉnh nghiệm và chưa được đào tạo cho hoàn chỉnh để có khả năng chỉ huy ở những bậc cao", cho nên "trước khi giao cho ông chỉ huy ở cấp cao hơn, hãy đế cho ông chỉ huy một sư đoàn, nơi ông có thể đi sâu hơn nữa về những vấn đề chiến thuật". Khi tôi biết báo cáo của uỷ ban điều tra đã được trình lên chính phủ tôi yêu cầu được thông báo. Bộ trưởng Quốc phòng, lúc ấy là Tướng Billote đã từ chối. Ông viết cho tôi: "Cho đến khi có quyết định mới của chính phủ, báo cáo này chỉ có tôi biết". Thế mà vài ngày sau, nhiều tờ báo đã có nội dung của báo cáo và tình cờ mới lạ lùng làm sao, những phần họ có được lại là những phần chống lại tôi. Tháng 1 năm 1956, tôi lại một lần nữa yêu cầu được thông báo. Bộ trưởng Quốc phòng, lúc này lại là ông Borgès Maunoury, tiếp tôi, nhưng vẫn từ chối viện cớ là thủ tướng đã quyết định báo cáo phải được giữ bí mật vì nó có thê gây ra những "rối ren, lộn xộn" nếu bị tiết lộ. Ông Borgès Maunoury khẳng định với tôi báo cáo chỉ có ba bản, do tổng thống, thủ tướng và ông ta giữ. Tôi không giấu ông là tôi biết báo cáo đang được chuyển tay ỏ nhiều toà soạn báo và tôi biết những đoạn quan trọng. Tôi yêu cầu ít nhất là cho công bố một thông báo, nêu lên những điểm chính. Sau khi cho tôi biết những kết luận của uỷ ban là "có lợi cho tôi nhiều hơn", ông Bộ trưởng báo ông quyết định cử tôi là thành viên của Hội đồng chiến tranh tốì cao và có ý định sẽ giao cho tôi một chức vụ khi có nơi nào còn thiếu. Tôi trả lời tôi chỉ có thể nhận việc khi nào những kết luận của báo cáo về tôi được công bố. Đương nhiên tôi cũng không nói với ông là tôi không có ý định thực sự muốn đảm nhiệm chức vị ấy là khi nào được cử giữ chức, tôi sẽ rời quân đội ngay. Chính phủ chẳng những che giấu những kết luận của uỷ ban điều tra mà còn chẳng đếm xỉa đến nó và đôi khi còn làm trái lại. Như Tướng Cogny, người bị phán xét nặng nề nhất, thì lại được giao những chức vụ quan trọng. Tôi cũng không khiếu nại gì về chuyện ông ta đủ hay không đủ khả năng đảm trách những chức vụ ấy - vì ý kiến đánh giá trình độ nghề nghiệp của ông ta của tôi còn đỡ nghiêm khắc hơn ý kiến đánh giá của uỷ ban - nhưng tôi chỉ không chấp nhận việc phong chức phỉnh phờ cho ông như thế sẽ càng làm tăng thêm sức nặng cho những lời ông ta đã tung ra và còn tiếp tục tung ra để chỉ trích tôi. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2016, 10:06:44 pm Tướng Catroux cũng thấy "chướng tai gai mắt" về không ít việc làm của chính phủ đối với những kết luận báo cáo của ông. Trong thư gửi một người bạn quen biết chung, ông viết: "Tôi hiểu là Navarre rất phẫn nộ về cái trò tránh né của Chính phủ và về những ưu ái của Chính phủ đối với Cogny, người thực ra phải chịu trách nhiệm nặng nề về những đắng cay của chúng ta". It lâu sau, ông viết cả cho tôi: "Tôi biết anh đã nắm được những đề nghị của uỷ ban khi kết thúc điều tra. Với anh, là đề nghị giao một nhiệm vụ chỉ huy. Còn với Cogny là sự cần thiết phải được thử thách trong những cương vị chỉ huy phụ, trước khi được giao một trách nhiệm chính thức. Borgès Maunoury đã làm ngược lại những gợi ý ấy, giao cho Cogny những chức vị như anh đã biết. Tôi đã phản đối những quyết định ấy, quyết định vừa không có căn cứ vừa trái ngược với những kết luận của uỷ ban".
Tháng 6 năm 1956, tôi gửi Bộ trưởng Quốc phòng (vẫn ông Borgès Maunoury một bức thư trong đó tôi lưu ý ông về những tổn hại về tinh thần gây ra cho tôi, việc không chú ý gì đến những kết luận của uỷ ban điều tra. Tôi lại một lần nữa yêu cầu cho công bố báo cáo và nếu trong trường hợp không thể được thì đưa ra một thông báo đủ rõ đế "những trách nhiệm về chính trị và quân sự mà uỷ ban đã đưa ra ánh sáng được xác định một cách rõ ràng". Thư này không được trả lời. Tháng 7, tôi lại viết thư yêu cầu, đồng thời đề nghị xin gặp Thủ tướng Guy Mollet. Ong Borgès Maunoury mời tôi đến và giữa ông và tôi đã nổ ra một cuộc tranh luận khá sóng gió. Tôi kiên quyết đề nghị ông cho tôi gặp thủ tướng vì tôi biết ông ta núp bóng sau thủ tưóng để khước từ yêu cầu của tôi. Ngày 6 tháng 8 năm 1956, tôi được gặp ông Guy Mollet. Tôi trình bày vối ông về những tổn hại tinh thần gây ra cho tôi do việc chính phủ từ chối không cho công bố những kết luận của uỷ ban điều tra và cũng chẳng buồn đếm xỉa đến những kết luận ấy. Tôi báo trước với ông là tôi có ý định, nếu yêu cầu của tôi không được chấp nhận, tôi sẽ rời quân đội và tự tôi sẽ phơi bày trước công luận sự việc Điện Biên Phủ. Ông Guy Mollet khẳng định ông không biết gì về những vấn đề tôi vừa nói và kết thúc cuộc gặp gỡ bằng một lời hứa chính thức sẽ có quyết định về việc này trong 15 ngày nữa. Tôi rời phòng làm việc của ông với hy vọng thê là cuối cùng tôi cũng thoát khỏi cái vòng bưng bít này. Nhưng rồi chẳng có gì cả. Hàng tuần rồi hàng tháng sau, vẫn không thấy tăm hơi một quyết định nào. Tôi quyết định rời quân đội mà không chờ đợi nữa. Ngày 12 tháng 10 năm 1956, tôi đệ đơn lên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong đó nói rõ lý do như sau: "Từ khi uỷ ban điều tra, do tôi đề nghị thành lập, đệ trình báo cáo lên Chính phủ, tôi đã nhiều lần yêu cầu cho tôi được biết về báo cáo và đề nghị cho công bố công khai những nét chủ yếu của nó. Nhưng đề nghị của tôi đã không được chấp nhận. Mặt khác, gần như không một kết luận nào của uỷ ban được người ta coi trọng và về một số mặt nào đấy, người ta còn làm ngược lại. Tiếp tục làm việc trong những điều kiện như vậy, đối với tôi, có nghĩa là chấp nhận một tình trạng có thể làm cho dư luận công chúng củng như Quân đội bị lầm lẫn về tình hình thực tế của thất bại Đông Dương". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:15:56 am Vụ án lộ bí mật Trong khi uỷ ban điều tra đang tiến hành công việc, tôi được gọi đến làm chứng về "Vụ án lộ bí mật". Sự việc này là một mớ bòng bong nhiều việc khác nhau nhưng chung quy lại là mọi sự "rò rỉ" đều dẫn tới hậu quả khiến cho Việt Minh biết được tin tức. Về danh nghĩa chính thức, nó chỉ là việc khám phá xem có những chân rết tình báo nào lén lút hoạt động cho Việt Minh và việc này đã được các chính phủ kế tiếp nhau tiến hành. Thực tế, "Vụ án lộ bí mật" là một cái gì đó trầm trọng hơn. Đó là vén một góc bức màn che phủ bầu không khí ruỗng nát về tinh thần và sự phản bội trong đó đã diễn ra cuộc chiến tranh Đông Dương: thâm nhập của cộng sản trong toàn bộ máy Chính phủ; liên hệ ngay trong chiến tranh giữa một số nhân vật chính trị với nhân viên của đối phương; lơ là, cẩu thả, ba hoa ngay ở cấp cao nhất của nhà nước; hoàn toàn thiếu nghiêm túc trong các cơ quan giữ gìn bí mật; tiết lộ tin làm lợi cho kẻ thù, mà việc này vẫn được dung thứ nếu không muốn nói là có sự đồng loã của cấp trên cao. Trong toàn bộ những "rò rỉ" của 'Vụ án", có một vụ đã xảy ra trong thời kỳ tôi đang chỉ huy ở Đông Dương nhưng lại là vụ nặng nhất bởi chắc chắn đối phương đã rút ra cho họ những điều có lợi về chiến lược. Đó là vụ mà tôi đã nói trong tờ báo Người quan sát, ngày 30 tháng 7 năm 1953 đã cho đăng bài "Về một cuộc chiến đấu đáng hoài nghi" trong đó đã tiết lộ tất cả những gì bàn bạc về việc bảo vệ Lào ở Hội đồng Quốc phòng ngày 24 tháng 7 năm l953. Tôi được gọi đến trước cơ quan điều tra để thẩm vấn về vai trò của bài báo ấy đối với quyết định tiến công Lào của Việt Minh. Tôi trả lời là tất cả mọi việc đều diễn ra cứ y như bộ chỉ huy đổi phương đã nắm chắc được ý định của chúng tôi. Tuy nhiên, tôi cũng nói thêm đó không phải là lý do duy nhất thúc đẩy Việt Minh tiến công Lào. Vài ngày sau, tôi lại được gọi đến và được biết ông Bộ trưởng Quốc phòng, khi được hỏi có sự rò rỉ của bộ về vấn đề trên không, thì ông trả lời rằng không1. Toà hỏi tôi có giữ nguyên lời khai cũ hay không, vì nó trái ngược với lời khai của ông Bộ trưởng. Tất nhiên, tôi vẫn khẳng định lời khai của tôi. Nhưng lời khai của ông Bộ trưởng đã dẫn tới việc tách vụ tiết lộ tin của tờ Nước Pháp -Người quan sát ra khỏi "Vụ án lộ bí mật" và những tác giả của vụ tiết lộ tin này chỉ bị đưa ra xét xử trước một cấp không mấy quan trọng, đó là toà án tiểu hình. Thật chang khác gì đưa từ vụ "đánh đập gây thương tích" sang vụ "giấy séc không có bảo chứng", như ông Bidault nói trong lời khai. Nói trước toà, uỷ viên công tố đã kết luận: "Thế là tên tội phạm lớn nhất đã thoát khỏi tay ông!". Mặc dù vụ tờ báo Người quan sát được tách khỏi, tôi vẫn bị gọi đến làm chứng vể "vụ án". Tồi vẫn giữ những lời như trước đây đã khai. Trả lời một câu hỏi đặt ra cho tôi, tôi lại có dịp nói rằng, ỏ Pháp, những sơ hở lộ liễu và sự bội phản đã lớn tới mức mà tôi không dám báo trước cho Paris về những cuộc hành quân của tôi vì chắc chắn rồi thể nào nó cũng đến tai Việt Minh. Lời nói ấy của tôi đã gây một ấn tượng nhất định. Tôi thêm rằng, tuy những "rò rỉ" đã giúp đỡ rất nhiều cho Việt Minh nhưng còn xa nó mối là nguyên nhân độc nhất và nguyên nhân thất bại của chúng tôi. Tuy nói thế nhưng tôi cũng không ngăn được một số lớn báo chí cho rằng việc tôi nêu lên những rò rỉ ấy là nhằm bào chữa cho thất bại. Từ nhiều tháng nay, như đã nói, tôi đang chuẩn bị để cho ra một cuốn sách khi nào tôi rời khỏi quân đội. Vì vậy, vừa mới trở về cuộc sống dân sự, tôi đã bật đèn xanh cho nhà xuất bản in sách của tôi. Chuyện ấy đã lộ ra một đạo luật cấm mọi viên chức và quân nhân, nếu không được phép, thì không được ra sách nói về bất kỳ những gì do công việc của họ mà họ được biết. Tôi liền báo cho nhà xuất bản cho ra sách gấp, trước khi luật được ban bố và đầu tháng 12 tháng 1956, cuốn "Đông Dương hấp hối" ra mắt người đọc. ---------------- 1. Khi trả lời không, ông Bộ trưởng đã dựa vào cơ sở pháp lý là chính thức về luật pháp, nước Pháp không phải đang tiến hành chiến tranh ở Đông Dương. Những cuộc hành quân quân sự ở đây chỉ là những "hành quân cảnh sát”. Bộ quốc phòng có cớ để coi những việc ấy không liên quan gì đến họ. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:19:12 am Sách ra mắt đã gây một sự ồn ào nhất định và tôi biết chính phủ đang cho nghiên cứu để xem có thể trừng phạt tôi thế nào. Nhưng sau đó họ đã thôi và quyết định tìm cách "trị tôi một cách gián tiếp".
Trong cuốn sách, đương nhiên tôi tránh không chỉ trích bất kỳ thuộc cấp nào của tôi về hành động quân sự của họ và cũng không gán cho họ bất kỳ trách nhiệm nào về thất bại ở Điện Biên Phủ. Đối với Tướng Cogny, tôi cũng giữ nguyên tắc ấy như đối với mọi người khác. Nhưng thấy Cogny đã đưa ra công khai cái mà tự ông mạo xưng là bất đồng chiến lược giữa ông và tôi, nên tôi cho rằng mình có quyền vạch rõ, khi sự việc bắt đầu chuyển sang chiều hướng xấu, ông đã có thái độ như thế nào đế khéo léo phủi tay, lẩn trách trách nhiệm. Mặt khác, đối với sự thật, tôi không có quyền im lặng về sự bi quan hoảng sợ mà ông đã tỏ rõ sau khi Điện Biên Phủ thất thủ và đó chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra một sự hoảng loạn vô lý tràn lan trong dư luận lúc bấy giò. Trong cuốn Đông Dương hấp hối, một số đoạn đã nói một cách hoàn toàn khách quan về hai lỗi lầm đó của Cogny. Ở giới lãnh đạo chóp bu, người ta cho Tướng Cogny biết nếu ông ta kiện tôi thì người ta sẽ bênh vực ông và tạo cho ông mọi điểu kiện dễ dàng. Thế là ít ngày sau khi cuốn sách ra mắt, cả nhà xuất bản và tôi đều nhận được thông báo cấm ra sách của toà. Nhà xuất bản vội đình chỉ phát hành sách đến nỗi chỉ còn một số cuốn được bán ở vài cửa hiệu mà sách đã đến tay. Vậy là chính quyển đã giành được bàn thắng đầu tiên và để phát huy thắng lợi, họ còn "khuyên" một số câu lạc bộ và các thư viện quân đội không nên mua, cũng như không nên lưu hành cuốn sách này nữa. Khởi đầu tấn công, Tướng Cogny kiện nhà xuất bản và tôi về tội vu không. Rồi, thay đổi ý định, ông chuyển sang kiện chúng tôi theo luật dân sự (Điều luật 1382): tất nhiên kiện chúng tôi về tội "xúc phạm nhân cách" sẽ thuận tiện hơn nhiều so với việc nói trước toà là những đoạn sách tôi lên án ông ta là vu khống. Tháng 3 tháng 1957, toà án dân sự Seine đưa vụ án ra xét xử. Tôi đã bác đơn của Cogny và bắt ông phải trả án phí. Mặc dù vậy, nhằm xoa dịu tình hình, tôi nhận trong lần xuất bản sau sẽ để trắng những đoạn lên án Cogny. Nhưng phải đến 1958, sách mới được xuất bản và khi ấy thì sự quan tâm của công chúng đã giảm rất nhiều. Giới cầm quyền chính trị đã đạt được mục tiêu của họ: sách của tôi chẳng những phát hành ít đi nhiều mà còn rất chậm nữa. Bộ máy bóp nghẹt đã làm việc rất hiệu nghiệm. Dù lưu hành rất ít ỏi so với khả năng nó có thể có, cuốn Đông Dương hấp hối đã đưa đến cho tôi hàng trăm bức thư, đương nhiên có những thư để xỉ vả tôi, nhưng đại đa số là để khen ngợi tôi đã nêu rõ sự việc Điện Biên Phủ thật sự là như thế nào. Tôi đặc biệt xúc động về những lá thư, có rất nhiều, của các cựu chiến binh Đông Dương ở tất cả mọi cấp đã từng chiến đấu ở đây, hoặc có hoặc không dưới quyền tôi. Trong những thư nhận được, tôi chỉ xin nêu một thư, đó là thư của Tướng De Gaulle viết cho tôi. Ngày 4 tháng 2 năm 1957 Navarre thân mến Tôi đã đọc một cách rất chăm chú, đầy hứng thú và không khỏi không xúc động cuốn Đông Dương hấp hối của anh. Cách anh trình bày và đánh giá những sự kiện tất nhiên xuất phát từ tinh thần trách nhiệm của anh. Tuy nhiên, tôi không trách anh đã cho ra cuốn sách này. Trong tình trạng đất nước ta hiện nay, tôi cho rằng việc nắm được dư luận là điều cần thiết. Thế nhưng, khi mà sự bưng bít và dối trá là luật lệ của chế độ hiện hành, thỉ dư luận đó chỉ có thể được là nhờ sự phản ánh trực tiếp của những người đã điều hành những công việc lớn. Dù thế nào đi nữa, cái gương của anh thêm một lần nữa chứng tỏ: sự chỉ huy, dù thế nào, cũng không thể đi tới thắng lợi nếu không có sự lãnh đạo, giúp đỡ và ủng hộ của một Chính phủ thông nhất, trước sau như một (...) De Gaulle Tôi cũng là một đối tượng được một số nhóm và đảng phái nhăm nhe. Nếu thích cái trò đó thì chắc chắn tôi đã thấy ở đây một dịp để "làm chính trị". Các chiến dịch báo chí, mà cuốn sách của tôi và tiếp đó là vụ kiện đã cung cấp thêm một món ăn mới, còn tiếp tục trong nhiều tháng. Nhưng dần dần nó cũng nhạt đi bởi sự việc Điện Biên Phủ không còn sáng giá nữa. Hơn nữa, cuộc "chiến tranh Đông Dương lần thứ haifí có chiều hướng kéo dài và người Mỹ đang sa lầy ở đấy. Những nhà bình luận ác ý nhất bây giờ cũng cảm thấy khó lòng tiếp tục phán xét như hồi chúng tôi đang còn trong cuộc rằng, để giành thắng lợi thì chúng tôi "chỉ cần làm thế này hoặc thế kia thôi", trong khi người Mỹ với những phương tiện cao hơn chúng tôi đang còn thua cuộc. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:22:15 am PHỤ LỤC 1 ĐIỆN NGÀY 30-5-1954 CỦA TƯỚNG NAVARRE GỬI VÊ PARIS Điện này báo cáo tình hình đến ngày 30 tháng 5, ba tuần sau khi mất Điện Biên Phủ. Ở Đồng bằng: Việt Minh, không đợi tập hợp khối chủ lực cơ động tác chiến, đã có nỗ lực đặc biệt ở vùng Phủ Lý và một vài đồn bốt ỏ khu Nam. Lực lượng phòng thủ của chúng tôi ở Phủ Lý đã được tăng cường và chúng tôi đã tiến hành hai cuộc hành quân giải toả ở khu vực này. Đoạn giao thông Hà Nội - Hải Phòng tương đổi yên tĩnh, do sự có mặt của đại bộ phận lực lượng cơ động của chúng tôi. Những cuộc thay quân và tập trung quân theo quyết định mới đây của chính phủ đã được bắt đầu từ ngày 27 tháng 5 và được tiếp tục trong những điều kiện thuận lợi. Đã tăng cường cho đồng bằng hai binh đoàn cơ động lấy từ Lào về và hai tiểu đoàn dù mới tăng viện từ Pháp sang. Ở Bắc Lào: Có lúc người ta lo ngại một hoạt động có tính chất địa phương của Việt Minh đánh vào tuyến phòng thủ vòng ngoài của Mường Sài và Nậm Bạc, nhưng tình hình này đã sáng tỏ do việc phát hiện nhiều tiếu đoàn chủ lực đối phương đã chuyển quân lên phía Bắc. Tuy nhiên vẫn còn 3 tiểu đoàn - trong có 1 tiểu đoàn chính quy nhưng đã xộc xệch - ở gần Nậm Bạc và hình như đang tìm cách đánh đuổi Pháp ở đấy. Để rút binh đoàn cơ động số 7 khỏi Nam Lào, tôi đã điều từ phía Bắc về đấy phần lớn lực lượng TFEO (lực lượng Pháp ở Viễn Đông), ở phía Bắc chỉ còn 2 tiểu đoàn TFEO. Ở Trung Lào: Một lực lượng, chủ yếu là phụ lực quân và các đơn vị Lào, đã được bố trí để làm tuyến ngăn chặn từ dãy đá vôi đến Na Phào. Khi nào việc phòng thủ tương đối ổn định, tôi nghĩ có thể rút nốt binh đoàn cơ động cuối cùng ở đấy để tuỳ theo tình hình, làm lực lượng dự bị hoặc điều về đồng bằng. Ở Nam Lào: Đốì phương không có triệu chứng hoạt động lớn nên tôi có thể rút để điều về Bắc Bộ binh đoàn cơ động số 7 hiện đang làm nhiệm vụ bảo vệ đường số 13. Ở Campuchia: Nhân sự thụ động của Quân đội Hoàng gia, bộ đội đối phương đã có vài hoạt động, đặc biệt ở vùng biên giới giáp Lào. Trên cao nguyên và khu vực Atlante: Tình hình không có gì thay đổi. Việc thay quân được chỉ thị tháng vừa rồi đã được tiến hạnh thuận lợi, và lợi dụng đối phương không hoạt động, tôi đã điều được về Trung phần Việt Nam một bộ phận TFEO hãy còn đang hành quân ỏ đây. Ở Trung phần Việt Nam: Việt Minh đánh mạnh ở khu vực Đà Nẵng, hạ nhiều đồn bốt. Tôi đã tăng cường cho căn cứ Đà Nẵng, một trong những nơi quan trọng trong hệ thống phòng thủ hiện thời của chúng tôi. Khu vực Đồng Hới cũng bị uy hiếp, tôi đã điều tới đây binh đoàn cơ động số 10 lấy từ khu vực hành quân Atlante. Nam Việt Nam: Hiện yên tĩnh, và tình trạng ruỗng nát tăng mạnh từ tháng 1 nay có vẻ ổn định dần. Đã có những thoả ước được ký kết hoặc đang thương lượng giữa các thủ lĩnh giáo phái với chính phủ quốc gia. Tôi hy vọng nó sẽ dẫn đến sự sáp nhập quân giáo phái với quân chính phủ, do đó cho phép giải quyết phần nào vấn đề tuyển quân cho quân lực quốc gia hiện thời đã gần như bị đình lại. Kết luận: Nỗ lực của đối phương giảm nhiều, trừ ở Trung phần Việt Nam có vài hoạt động mới. Chưa rõ đối phương có mở tiến công quyết định hay không. Nếu có thì phải từ ngày 20 tháng 6 trở đi, ngày mà khối chủ lực tác chiến của Việt Minh từ Điện Biên Phủ trở về có thể sẵn sàng hành động. Trong trường hợp này, tương quan lực lượng và việc tập trung quân đang tiến hành của chúng tôi sẽ cho phép chúng tôi có thể yên tâm mà đương đầu với họ. Điểm yếu của chúng tôi là tinh thần của dân chúng và quân đội quốc gia đang bị giảm sút một cách đáng lo ngại do ảnh hưởng của Hội nghị Geneve và thêm vào đó là thất bại của chúng tôi ở Điện Biên Phủ. Hình như Bộ chỉ huy Việt Minh chưa có quyết định về việc tiến công hay không. Điều đó còn tuỳ thuộc nhiều vào việc họ đánh giá sự quyết tâm của chúng tôi như thế nào. Ký tên: Navarre Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:28:50 am PHỤ LỤC 2 LỜI CHÚ VÊ NHỮNG HẬU QUẢ QUÂN SỰ CỦA HỘI NGHỊ GENEVE Trong báo cáo tổng hợp và buổi trình bày ngày 20 tháng 5 năm 1955 của tôi trước uỷ ban điều tra, tôi đã khẳng định quyết nghị của Hội nghị Berlin ngày 18 tháng 2 năm 1954 - mà ông cao uỷ và tôi đều không được hỏi ý kiến quyết định sẽ mở một cuộc họp để thảo luận vấn đề hòa bình ở Đông Dương là một sự kiện tai hại, bởi nó đã làm cho tình hình quân sự mà cho đến lúc ấy chúng tôi gần như nắm trong tay đã bị rơi vào một ngõ cụt. Những so sánh dưới đây giữa tình hình trước và sau ngày 18 tháng 2 năm 1954 là những lý lẽ chứng minh cho lời khắng định của tôi. Trước ngày 18 tháng 2 năm 1954 - Sự phát triển của quân đội các Quốc gia liên kết và của quân đội Việt Nam nói riêng, tuy không được như ý, nhưng cũng diễn ra tương đối bình thường (đánh giá hơi lạc quan của phái đoàn Pleven) - Về tác chiến, tình hình chung là khá thuận lợi. Chúng tôi có thể hy vọng sẽ "thủ hòa" trong chiến cục 1953-1954 (kể cả chiến dịch Atlante). Tiến công của Việt Minh đứng lại trên các hướng phụ và có một số triệu chứng giảm xuống (Trung Lào). Tôi dự định sẽ phân công trên các mặt trận ấy (báo cáo của tôi ngày 25 tháng 2). - Ở Điện Biên Phủ, gần như chắc chắn Việt Minh sẽ tiến công (vì ít nhất họ phải cố gắng giành được một thắng lợi để gây ảnh hưởng), nhưng họ chỉ có khả năng tiến hành một trận giao chiến trong thời gian ngắn. Thực vậy: a) Theo tin tức rất đáng tin cậy, lượng đạn của họ mà chúng tôi đã nắm được số lượng khoảng chừng sẽ không tăng nữa (trong đó theo tin chắc chắn, lô hàng đạn pháo cuối cùng là loại đạn bảo quản xấu). b) Chúng tôi biết Việt Minh ấn định mức thương vong cao nhất của họ là khoảng từ 6000 đến 8000. c) Nhiều nguồn tin chắc chắn cho biết Việt Minh không có ý định giữ khối chủ lực tác chiến của họ trên Thượng du (Tây Bắc) quá ngoài tháng 5. Dù trường hợp thế nào, họ cũng không chuẩn bị để làm điều đó. Tình hình quân sự vậy là không xấu và ở Điện Biên Phủ, chúng tôi dự kiến trận đánh với niềm lạc quan. Chúng tôi nghĩ rằng trận đánh này diễn ra sẽ khó khăn hơn so với Nà Sản. Có thể đối phương sẽ chiếm được một hoặc hai cụm cứ điểm, nhưng tổn thất về người và tiêu hao về đạn dược của họ sẽ nhanh chóng đạt tới mức cao nhất mà họ dự kiến. Ngay dù cho chúng tôi không khôi phục được những cụm cứ điểm đã mất thì họ cũng không thể đánh chiếm được toàn bộ tập đoàn cứ điếm. Vào giữa tháng 5 hoặc quá chút ít, đại bộ phận khối chủ lực tác chiến của Việt Minh sẽ phải rời khỏi Thượng du. Sau ngày 18 tháng 2 năm 1954 - Một nỗ lực tuyên truyền chưa từng thấy, gắn với Hội nghị Geneve và lấy nó làm chủ đề, đã được tiến hành đối vối quân đội quốc gia Việt Nam (về vấn đề này, chúng tôi có một tài liệu mà tôi đã tóm tắt nội dung trong báo cáo tuyệt mật ngày 31 tháng 3). Kết quả là: ngừng tuyển quân, đào ngũ ồ ạt, từ chối đi chiến đấu và phá hoại trang bị, nhục mạ cán bộ người Pháp có khi đi tới chỗ xâm phạm thân thế người Pháp). Từ đầu tháng 3, quân đội quốc gia Việt Nam bước vào tình trạng tan rã. - Nhiều cuộc nghe điện đài địch (đáng tiếc là không giải mã được nên chỉ có thể phán đoán về ý định tác chiến của họ) cho chúng tôi biết rằng: a) Có thể họ sẽ mở một cuộc tổng tiến công thực sự từ 15 tháng 3 (việc này hình như được quyết định ngày 23 tháng 2), nhằm mục đích cải thiện "bản đồ chiến sự" của họ trước khi họp Hội nghị Geneve và đặc biệt nhằm "hỗ trợ cho mặt trận chính Điện Biên Phủ". Tăng cường các hoạt động này có mục đích là "gây áp lực đối với hội nghị". b) "Mọi hoạt động còn tiếp diễn chừng nào hội nghị còn họp", tức là "ít nhất cũng tới cuối tháng 7" và phải "vượt qua mọi khó khăn do mùa mưa gây ra" để cuộc chiến đấu không bị ngừng lại. c) Thắng lợi ở Điện Biên Phủ là cần thiết để "hỗ trợ" cho phái đoàn Việt Minh trong quá trình hội nghị. Về mặt trận Điện Biên Phủ: a) Ngày 23 tháng 2 (năm ngày sau Hội nghị Berlin ), đại đoàn 308 bất thình lình rời Nậm Bạc trở về Điện Biên Phủ (ít nhất cho đến ngày này hành động ấy chưa được trù tính vì số người và đạn dự định tăng cường cho 308 đã quay trở lại). b) Nhiều đơn vị bổ sung, lấy ở lực lượng dự trữ và lấy ngay ở cả quân địa phương của đồng bằng, được cấp tốc điều lên Điện Biên Phủ. Quân số lên tới 25.000 ngưòi, điều đó chỉ rõ mức thương vong mà Việt Minh quyết định chấp nhận. c) Nhiều phương tiện mới vượt biên giới Trung-Việt: một trung đoàn cao xạ, hai tiểu đoàn pháo 105, những "dàn pháo hỏa tiễn Stalin". Việc tổ chức trung đoàn cao xạ lúc nó vượt biên giới (vói nhiều nhân viên sử dụng người Trung Quốc) chứng tỏ việc điều đơn vị này lên Điện Biên Phủ là được quyết định một cách đột ngột, hay ít ra là cũng sớm hơn dự định. d) Nhịp độ tiếp tế đạn tăng mạnh mẽ (so với thời kỳ từ đầu tháng 12 đến đầu tháng 3, thì nhịp độ tiếp tế trong thời kỳ từ đầu tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 gấp 3 -4 lần). Súng đạn bây giờ được gửi thẳng từ Trung Quốc đến Tuần Giáo không cần có kế hoạch định trước (ngược hắn lại với điều đã làm trước ngày 18 tháng 2). Xe cộ chạy suốt ngày đêm (thường bật đèn). Đối với tôi, không nghi ngờ gì nữa là Hội nghị Geneve đã khiến viện trợ Trung Quốc tăng ồ ạt và Việt Minh quyết định phải giành lấy một thắng lợi dù phải trả bất cứ giá nào. Kết quả là chiến tranh được mỏ rộng, làm hư hại đến cục diện chung, giam chân quân lính ở khắp mọi nơi, và trong một chừng mực nào đó, thu hút tất cả lực lượng không quân chúng tôi, và làm thay đổi tính chất của trận Điện Biên Phủ. Chúng tôi phải chịu đựng một trận đánh theo kiểu hao mòn, một trận đánh giúp cho Việt Minh giành thắng lợi, mà nếu đánh ngắn ngày thì họ không dám hy vọng thành công. Khẳng định này, tôi đã phát biểu nhiều lần trong các thư từ và điện tín của tôi, ngay từ lúc mới bắt đầu cho đến suốt cả quá trình trận Điện Biên Phủ. Và nó chỉ càng được củng cố qua những tin tức tôi nhận được về sau. Paris, ngày 11 tháng 6 năm 1955 Ký tên: Navarre Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:32:45 am PHỤ LỤC 3 TRANH LUẬN VÊ ĐIỆN BIÊN PHỦ Ít có những sự kiện đương đại nào đã làm tốn nhiều giấy mực như sự kiện Điện Biên Phủ. Nhiều bài vở về vấn đề này đã xuất hiện trên báo chí Pháp và nước ngoài, báo hàng ngày hàng tuần, cũng như trong tạp chí quân sự và nhiều tạp chí khác. Về Điện Biên Phủ, nhiều nhân vật xa hay gần có dính dáng đến đều dành một phần hay toàn bộ các hồi ký của họ viết về nó. Nhiều công trình nghiên cứu - hay gọi là công trình nghiên cứu - đã được thực hiện. Tất cả các thứ "văn chương" ấy đã khơi lên nhiều cuộc tranh cãi, trong đó bao trùm là những lời chỉ trích như người ta thường thấy khi đó là một cuộc chiến thất bại. Cái thì dựa trên những sự kiện có thật, cái thì căn cứ vào những lời đồn thổi; có cái đưa ra với thiện chí, nhưng có cái cốt để giật gân, hoặc thiên vị hoặc vì lợi lộc; một vài cái do những tác giả có thẩm quyền và hiếu biết viết ra, nhưng phần lớn là "tác phẩm của các nhà văn" thiếu hiểubiết, hoặc chưa có đủ trình độ cần thiết để đưa ra những ý kiến đáng giá. Vì vậy. sự kiện Điện Biên Phủ đã bị rồi tinh rối mù lên và méo mó đến nỗi người ta không tài nào hiểu được nó. nếu không biết đến những tranh luận mà nó đã khơi lên. Do đó, tôi thấy cần thiết phải xem xét những luận điếm chính và phát biếu rõ quan điếm của tôi. Tất nhiên người ta có thê nghĩ rằng: là tác giả chính của thảm họa Điện Biên Phủ, nên tôi khó mà nói được thật khách quan. Có thể là như vậy. Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng hết mức để giữ được khách quan và hạn chế tới mức cần thiết những tranh luận. Song cũng khó tránh khỏi, vì nếu hoàn toàn tránh việc này thì chẳng khác gì chơi trò gian lận lịch sử. Người đọc cũng có thể rút ra những ý kiến riêng. Nhưng ít nhất cũng phải có đủ can đảm đọc hết những gì tôi viết, bởi những lập luận tôi đưa ra khá dài, nhiều khi có tính chất chuyên môn và đôi khi "dễ sợ". Chính vì thế, và khi việc phân tích đòi hỏi phải nhắc lại, nên tôi đưa những tranh luận đó vào phần phụ lục. Những ai không đủ hứng thú hoặc chán cái kiểu tranh cãi này thì có thể gấp cuồn sách này sau khi đọc hết chương cuối. Bình luận về những bình luận Tôi bắt đầu bằng điểm lướt qua những bình luận của sách báo viết về Điện Biên Phủ mà tôi sẽ phải dựa vào, bởi đó là khởi nguồn của những cuộc tranh luận, là nơi mà những tranh luận tìm thấy những thông tin hay những bình luận ban đầu. Nó không nhiều; phần lớn còn lại là sao chép hoặc bóc tem rồi thay nhãn khác, thêm bớt ít nhiều dấm ót. Giá trị của những luận đề, bình luận và phán xét mà người ta thấy ở đây tùy thuộc một phần rất lớn vào nhân cách, vào sự tinh thông và động cơ của các tác giả của nó, tôi sẽ nói thẳng thắn những gì tôi nghĩ về những cái đó. Bởi tại sao sự phê phán lại chỉ có một chiều? Những bài báo, ngoại trừ một vài bài, phần lớn đăng trên tuần báo hay tạp chí, thường là tác phẩm của nhà báo không có một chút tinh khôn và do không tự mình có thông tin, nên họ chỉ dành làm cái việc là dựa vào các tin điện thông tấn rồi cải biên, thêm thắt hoặc sao chép lại của đồng nghiệp. Nhưng vẫn làm ra vẻ đây là tác phẩm của cá nhân mình, họ thường nhồi nhét vào các bài báo ấy bằng những chi tiết lượm lặt được bất cứ ở đâu, hoặc bằng trí tưởng tượng của chính mình. Có vài bài trong số ấy lại có dụng ý sẵn, hoặc theo chiều hướng mong muôn của tờ báo in bài của họ, hoặc do những tác giả viết theo định kiến sẵn, hoặc theo gợi ý của một nhân vật chính trị hay quân sự nhằm tuyên truyền cho một luận điểm nào đấy. Nhiều nhà báo đã chủ yếu lấy tư liệu trong các bài viết của các phóng viên ở Đông Dương - những người này cậy mình có mặt ở Đông Dương trong thời kỳ Điện Biên Phủ, đã tự phong cho mình sự uyên bác, rằng cái gì về vấn đề này họ cũng biết. Ví dụ điển hình nhất của loại cuối cùng này là loạt bài của ông Lucien Bodard đăng trên báo Nước Pháp - Buổi chiều năm 1995 mà như tôi đã nói ở trên, nó đã cho tôi cơ hội để nêu lại vấn đề lập một uỷ ban điều tra mà chính phủ đã từ chối tôi. Những bài báo ấy là một mớ hổ lốn những điều không đúng, ở đấy, ông Bodard đã đóng vai trò người phát ngôn cho ông bạn là Tướng Cogny. Ông đã đưa hoàn toàn những luận điếm của Tướng Cogny, điểm thêm gia vị là những chuyện xoi mói, ngồi lê đôi mách từng lan truyền trong giới thông tấn ở Đông Dương thời kỳ trong và sau trận Điện Biên Phủ. Đánh lạc hướng dư luận về Điện Biên Phủ là những bài viết của các nhà báo có xu hướng thân Việt Minh. Để làm việc này, một số" người đã dùng nhiều thủ đoạn, như chỉ sử dụng những gì có lợi cho lập luận của mình và bác bỏ người khác, trích dẫn thì khéo léo cắt xén, tóm tắt thì lọc lừa, ý kiến cá nhân thì được trình bày như những điều được coi là xác thực v.v... Ông Jean Lacouture, chuyên gia cỡ lớn ở Đông Dương - mặc dù ông thường hay nhầm lẫn - đã tự giành được vị trí quan trọng trong lĩnh vực trên. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:37:11 am Tham gia vào việc bóp méo sự kiện Điện Biên Phủ, cùng với giới báo chí, còn có phát thanh và vô tuyến truyền hình.
Không một buổi phát nào của họ để cập vấn đề một cách nghiêm túc. Những người trình bày hoàn toàn không hiểu gì về những vấn đề mà họ điều khiển việc bình luận, tranh cãi. Quan tâm chính của họ là luôn luôn làm thế nào trình diễn được những "nhân chứng" hay những bình luận gia có khả năng gây được ấn tượng mạnh. Đó, hoặc là những nhà báo được mệnh danh là các "chuyên gia", đơn thuần chỉ vì họ có biết ít nhiều về Đông Dương trong thời kỳ Điện Biên Phủ; hoặc là những nhà chính trị hay tướng lĩnh đến đài để diễn giải về các luận điểm của họ; hoặc là những người đã tham gia chiến đấu, trong đó phần lớn đều chân thật nhưng đối với sự việc, họ chỉ có những hiếu biết và tầm nhìn hạn hẹp cục bộ, còn lại là những người rõ ràng chỉ muốn thanh minh hay tô vẽ những hành động của họ. Đôi khi cảm biết trước như vậy, tôi đã từ chối tham gia những buổi phát như thế, bởi nó quá sơ lược đơn giản và vô bổ. "Thư tịch học" về Điện Biên Phủ còn gồm những mảng Hồi ký. Có cuốn viết hoàn toàn về sự kiện, có cuốn chỉ đề cập một phần. Vài cuốn do những người đã từng chiến đấu viết, còn lại là của những nhân vật quân sự hay chính trị ít hay nhiều có dính dáng đến sự kiện. Trong số sách của những người đã trực tiếp chiến đấu có ba cuổn đáng phải kể: cuốn Điện Biên Phủ của Tướng Langlais, cuốn Vì một mảnh vinh quang của Tướng Bigeard và cuổn "Chúng tôi đã ở Điện Biên Phủ" của Thiếu tá Pouget1;. Hồi ký của Tướng Bigeard rõ ràng là gây được sự quan tâm và lợi ích nào đấy đối với không khí của cuộc chiên đấu ở Điện Biên Phủ mà trong đó ông đóng một vai trò quan trọng. Tiếc thay trong cuốn sách, ông đã không có những giải thích thoả đáng về việc thiếu chuẩn bị và không thực hiện kế hoạch phản kích trong hai ngày đầu chiến đấu, mà ông là người có trách nhiệm thi hành. Hơn nữa, khi đề cập đến những vấn đề chính trị và chiến lược thì với cương vị của ông lúc bấy giờ, ông hoàn toàn không có điều kiện để hiếu biết, cho nên ông cũng không thể đưa ra được những nhận xét đáng giá. Là một tiểu đoàn trưởng hồi ấy, Tướng Bigeard là một trong những chiến binh cừ khôi nhất trong chiến tranh Đông Dương. Cái "một mảnh vinh quang" mà ông đòi hỏi là rất xứng đáng, song nó sẽ càng có giá trị hơn nếu ông không để cho một sự quảng cáo mà ông thường khuyên khích thổi phồng ông. lên một cách quá đáng. Để hiếu biết những chi tiết về trận Điện Biên Phủ, Hồi ký của ông tỏ ra rất thú vị, bổ ích vì trong trận đánh này, tuy không đến mức độ là một "Người hùng" như một số kẻ bợ đỡ muốn bốc thơm, ông quả đã đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, nhận xét về những vấn đề tầm cỡ cao hơn thì cách nhìn của ông thường rất đơn giản. Jean Pouget, lúc bấy giờ đại uý, là sỹ quan tuỳ tùng của tôi ở Đông Dương đến đầu năm 1954. Ông đề nghị tôi được ra chỉ huy một đại đội thuộc tiểu đoàn dù và sau đó ông đã cùng đơn vị nhảy xuống Điện Biên Phủ vào những ngày cuối của cuộc chiến đấu. Cuốn sách của ông gồm hai phần. Phần thứ nhất tương ứng với thời kỳ ông còn ở cạnh tôi, do đó ông có nhiều thông tin về những công việc thuộc cấp của tôi. Trừ vài chi tiết, những gì ông viết đều khá chính xác. Phần thứ hai kể một cách chân thực về giai đoạn cuối của trận Điện Biên Phủ, trong đó ông là một trong những người chiến đấu quả cảm nhất. Trong những Hồi ký do các nhân vật chính trị hay quân sự viết, có thể kể theo thứ tự thời gian: cuốn Thảm hoạ Đông Dương của ông Joseph Laniel (Le Drame Indochinois, Ổ.Laniel), cuốn Đông Dương trong cơn bão tố của Tướng Ely (Llndochine Dans la Tourmente, général Ely), và cuối cùng cuốn Việt Minh, địch thủ của tôi của Tướng Salan (Viet Minh, Mon Adversaire, général Salan). Ong Joseph Laniel cho ra đời cuốn sách vào năm 1957 với đồng thời hai mục đích là trả lời về những điểm bất bình của tôi đối với các nhà cầm quyền chính trị mà tôi đã nêu trong cuốn Đông Dương hấp hối và để truyền bá trong công chúng những luận điểm mà chính ông đã dựng lên sau Điện Biên Phủ thất thủ hòng cố gắng rũ trách nhiệm của ông cũng như của Chính phủ ông đứng đầu lúc đó. Cuốn sách của ông đầy rẫy những sai sót, lầm lẫn, mâu thuẫn, những lời bóng gió có dụng ý, những trích dẫn bị cắt xén và nhiều những điều bóp méo sự thật khác. Dưới đây nữa, tôi sẽ có dịp tranh luận với ông về những luận điểm mà ông bảo vệ. Trong cuốn sách của mình, Tướng Ely kể lại những sự kiện ở Đông Dương mà ông có liên quan, mới đầu với cương vị là Tổng tham mưu trưởng quân đội, trong khi tôi là Tổng chỉ huy (ở Đông Dương) và sau này là Cao uỷ kiêm Tổng chỉ huy ở Đông Dương sau khi tôi rời đất nước này. Sự kiện Điện Biên Phủ chiếm phần lớn trong câu chuyện của ông vì, nếu không phải là một trong những người chủ chốt, thì trong sự việc này ông cũng đóng một vai trò quan trọng. ------------ 1. Langlais, "Diên Biên Phu"; Bigeard "Pour une parcelle de gloire"; Pouget, "Nous étions à Dien Bien Phu ". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:39:25 am Là một cố vấn quân sự mà ý kiến rất được Chính phủ lắng nghe, ông có ảnh hưởng rất lớn đến những quyết định mà Chính phủ chấp nhận hoặc gạt bỏ. Ông lại hai lần sang Đông Dương, trước và sau trận Điện Biên Phủ, và chính ông là người mà tôi thường trao đổi những vấn đề quan trọng. Vì vậy ông đã biết tất cả mọi việc.
Đương nhiên do vị trí của ông, ông có nhiều gắn bó với Chính phủ và cũng đồng quan điểm với Chính phủ trong cách nhìn mọi việc. Vì thế tôi cũng phải rất thận trọng khi nói về cách trình bày một số vấn để của ông; đặc biệt như vấn đề bảo vệ nước Lào, việc tăng viện, việc đàm phán ở Geneve, việc rút quân khỏi đồng bằng Bắc Bộ hay miền Trung Đông Dương sau khi tôi về nước. Tôi cũng phải ghi nhận rằng, trong cuốn sách của ông cũng như trong cuộc đi điều tra (ở Đông Dương) ông thường tránh nêu việc ông đã luôn luôn chấp nhận, phê chuẩn những quyết định của tôi về vấn đề Điện Biên Phủ. Trong tập II Hồi ký của Tướng Salan, người ta thấy có nhiều đoạn nói về Điện Biên Phủ. Có nhiều đoạn tôi thấy cần phải bàn luận. Chẳng hạn như tôi không thế nhất trí vói Salan về đánh giá những gì có liên quan đến tình hình quân sự như trong bàn giao của ông cho tôi vào tháng 5 năm 1953 và trong đó ông đã mô tả tình hình tốt hơn là thực tế vốn có. Tôi cũng không thể đồng ý với ông về những gì ông viết về vấn đề bảo vệ nước Lào, cũng như về tình hình quân sự sau khi Điện Biên Phủ thất thủ. Hình thành một mảng sách khác là những cuốn sách có tính chất lịch sử, hay có vẻ là lịch sử, viết chuyên về trận Điện Biên Phủ hay chỉ viết một phần về Điện Biên Phủ. Phần lớn những cuốn sách này là của các nhà báo và thật tội cho lịch sử, họ đã đưa vào lịch sử cả những thủ thuật của kiểu viết phóng sự. Hoặc giả đó là những sưu tầm, cóp nhặt cả những thông tin đã được sao chép lại rồi nhào nặn thêm cho có vẻ mới. Tôi sẽ không nói những cuốn sách loại này, chỉ nêu những cuốn sách nào có thông tin lấy ở những nguồn chính thức - dù rằng xấu hay tốt - và những thông tin ấy, do sự tinh thông và danh tiếng của tác giả, có thể có ảnh hưởng nào đấy đến dư luận. Năm 1959, Tướng Catroux cho ra mắt cuốn Hai màn của tấn thảm kịch Đông Dương (Deuxaetes du Drame Indochinois) trong đó phần hai bàn về Điện Biên Phủ. Thực ra phần này chỉ là tóm tắt bản báo cáo của uỷ ban điều tra mà ông làm chủ tịch và tôi đã nói những gì tôi nghĩ. Năm 1960, dưới tên - tuổi của hai ông Jean Lacouture và Philippe Devilles, cuốn Kết thúc một cuộc chiến tranh (La Fin D'une Guerre) được xuất bản kể lại những sự kiện chính trị và quân sự dẫn đến sự kết thúc của cuộc "chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất". Đây là một cuốn sách "tỏ thái độ rõ rệt về chính trị" đến cao độ. Các tác giả thực sự đã phục vụ vô điều kiện cho đường lối chính trị do ông Mendès France thể hiện và tác phẩm này là một bài hát ca ngợi cho vinh quang của đường lối ấy. Trong cuốn sách, người ta đã tạo dựng, cắt xén một cách vô cùng thoải mái những sự kiện, những văn bản khi những cái này không "khớp" được với những luận điểm mà họ muốn truyền bá. Sự kiện Điện Biên Phủ chiếm một phần lớn trong cuốn sách, nhưng đầy rẫy những lầm lẫn và những điều sai sự thật. Năm 1963, thư tịch về Điện Biên Phủ được làm giàu thêm - nếu có thể nói như vậy - một cuốn sách đồ sộ, lấy tên là Trận Điện Biên Phủ (La Bataille de Dien Biên Phu) của ông Jules Roy. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:41:35 am Ông Jules Roy là một cựu sỹ quan cao cấp của Không quân. Sau một thời gian ở Đông Dương, mà ỏ đấy ông không có một trách nhiệm nào về tác chiến, ông đã rời quân ngũ với lý do, theo ông nói, là chán ghét cuộc chiến tranh tội lỗi của nước Pháp. Quay về cuộc sống dân sự, ông trở thành nhà báo và nhà văn, và đứng về phe những người ủng hộ về tinh thần cho Việt Minh chống lại đồng đội cũ của ông. Vài năm sau, ông lại ủng hộ Mặt trận giải phóng dân tộc Algeri, những kẻ đã ám sát đồng bào ông.
Trong cuốn sách của ông, mới đầu ông là người phát ngôn của Tướng Cogny mà ông không giấu giếm là đã từng cộng tác chặt chẽ với nhau, và sau đó là cho những nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, những người đã tạo dễ dàng cho ông lấy những tin tức có lợi cho việc tuyên truyền của họ. Trận Điện Biên Phủ là điển hình của loại sách có dụng ý không hay về mọi phương diện. Người ta có thể nhặt ở đấy hàng trăm những lầm lẫn, những điều sai sự thật và mâu thuẫn đủ loại đủ cỡ. Nhưng là công trình "nghiên cứu" đầu tiên có vẻ lịch sử về vấn đề Điện Biên Phủ và được tuần báo Tin nhanh (L'Express) quảng cáo ầm ĩ nên nó đã gây ấn tượng mạnh. Nhiều nhà báo cần có bài đã sục tìm ở cuốn sách trên, và còn tìm nhiều nữa những gì cần thiết cho việc "sưu tầm tư liệu" của họ. Năm 1966, ra đời cuổn sách viết bằng tiếng Anh sau dịch ra tiếng Pháp của ông Bernard Fall nhan đề là "Địa ngục trên một mảnh đất vô cùng nhỏ hẹp" (Hell in a very Smalỉ Place). Tác giả, một nhà báo Pháp - Mỹ, khá quen biết Đông Dương (mà ở đây ông đã bị chết trong thòi kỳ chiến tranh của Mỹ) đã tập trung công sức và cuộc chiến Điện Biên Phủ, nhìn ở góc độ của những người trực tiếp chiến đấu. Ông đã hỏi nhiều nhân chứng và tham khảo nhiều tư liệu. Cuốn sách của ông phản ánh cuộc chiến một cách khá chính xác. Tiếc thay, do thiếu thẩm quyền và nhất là thiếu những thông tin có giá trị, nó lại rất yếu về phương diện chiến lược. Thực vậy, Bernard Fall đã không tham khảo những người chịu trách nhiệm chính về vấn đề này và chỉ tổng hợp phân tích ý kiến của những sách đã xuất bản, kể cả những sách thiếu nghiêm túc. Năm 1968, ra mắt cuốn Tại sao Điện Biên Phủ? (Pourquoi Diên Biên Phu?) của Đại tá Rocolle. Đây là một cuốn sách nghiên cứu duy nhất, đầy đủ và có giá trị nhất về Điện Biên Phủ được xuất bản từ trước đến nay. Đại tá Rocolle, tốt nghiệp sỹ quan tham mưu và nguyên là giáo sư ỏ Học viện chiến tranh, có bằng về Khoa học chính trị, đã tham gia chiến tranh Đông Dương, mới đầu ở đơn vị rồi sau về Bộ tham mưu ở Sài Gòn. Công việc ở Bộ tham mưu đã cho phép ông hiểu rất rõ về Điện Biên Phủ, tuy không dính dáng trực tiếp vào đấy. Thòi kỳ ngay sau ký kết hiệp định đình chiến, ông là trưởng phòng Tác chiến, do đó ông có điểu kiện hiếu rất chính xác về tình hình quân sự sau khi Điện Biên Phủ thất bại. Ngoài ra Rocolle đã từng viết nhiều công trình lịch sử và sau này rời quân đội, ông đã trở thành giáo sư sử học. Vậy là ông có ba danh vị: người từng cầm súng chiến đấu, sỹ quan tham mưu và nhà sử học. Cuốn sách của ông cho một cách nhìn hoàn toàn chính xác về sự kiện Điện Biên Phủ, cả về kế hoạch quân sự và chính trị. Trong cuốn sách, đối với tôi, chỉ có hai ba điểm không mấy quan trọng cần trao đổi thêm. Là một luận án tiến sĩ được trình bày thành công, nhưng đọc nó hơi khô khan, do tác giả làm vói một ý thức lương tâm đầy đủ và với những trích dẫn rất phong phú. Do tính chất khô khan ấy và cũng chẳng có sự quảng cáo nào nên nó không được phổ biến rộng rãi trong công chúng mà thói thường thì người ta thích đọc loại lịch sử được tiểu thuyết hoá hơn. Đáng chú ý nhất là một loạt bài đăng trong tạp chí của hải quân, tờ "Mỏ neo Vàng Badây" (L'Ancre d'Or Bazeilles) của Tướng Nyo đặt dưới cái tên khiêm tốn là "sách tóm tắt về chiến tranh Đông Dương" (Mémento sur la Guerre d'Indochine). Tướng Nyo, vốn hiểu biết sâu về Đông Dương, đã sưu tầm và tập họp một khối lượng quan trọng về tư liệu. Sự kiện Điện Biên Phủ chiếm một chỗ lớn trong công trình nghiên cứu của ông và được nghiên cứu một cách rất khách quan, cả về phương diện chính trị và quân sự. Tóm lại, sách báo nói về Điện Biên Phủ được xuất bản từ trước đến nay (ngoại trừ một số rất ít được phô biến) đã chứa đựng một tỷ lệ lớn những sai lầm và xuyên tạc sự thật có dụng ý, vì thế nó đã đầu độc dư luận công chúng một cách nghiêm trọng về những gì có liên quan, chẳng những đối vối chính bản thân cuộc chiến ở Điện Biên Phủ, mà còn với cả những điều kiện trong đó kết thúc giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Đông Dương. Những ai quan tâm đến vấn đề này có thể tìm thấy ở những trang dưới đây những gì giúp cho họ giải bớt được sự độc hại ấy. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:42:58 am Xoi mói và ngồi lê đôi mách Trong những tuần sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, thông tấn báo chí đầy rẫy những "chuyện bịa" vô cùng huyền hoặc. Trận đánh đã được quyết định và tiến hành ngược lại với ý kiến của tất cả mọi người, có những sỹ quan đã quỳ xuống trước tôi để can ngăn; sau trận đánh, có những đơn vị nào đấy đã từ chổi diễu binh trước tôi; có những sỹ quan đã gửi cho tôi một khẩu súng ngắn vối lòi khuyên nên tự tử đi cho rồi: tôi hoàn toàn mù tịt về quân đội đến nỗi có lần gắn mê đay khen thưởng ai đó, tôi đã cài ngược mặt trái ra ngoài v.v... Còn về Tướng De Castries thì có dư luận ông đã xin chuyển sang quân đội Mỹ với nguyên cấp bậc trong quá trình trận đánh, ông đã bỏ chỉ huy và dành phần lốn thời gian để gọi điện thoại cho vợ. Sau Điện Biên Phủ, tình hình quân sự tuyệt vọng đến nỗi Tướng Giáp đã loan báo cuộc tiến quân long trọng của ông vào Hà Nội chỉ ngày mai hoặc ngày kia. Cần phải chờ đợi những "đòn Điện Biên Phủ mới" ở khắp Đông Dương v.v... Vài tuần sau, phần lớn những "tác phẩm" kiểu như trên đã chết yếu vì quá ư ngu xuẩn và đã biến mất trên những cột báo. Ông Bodard còn cố kéo dài cuộc sống của chúng trong những bài viết hồi tháng giêng năm 1955, sau đó chúng lịm tắt để rồi lại được hồi sinh một lúc nào đấy với cuốn sách của ông Jules Roy. Một số chuyện ngồi lê đôi mách khác, do bề ngoài có vẻ ít huyễn hoặc phi lý hơn nên đã sống dai dẳng hơn. Ví dụ như cho rằng, thua ở Điện Biên Phủ là do tôi không có kinh nghiệm chiến tranh và tôi chỉ là một anh "sỹ quan bàn giấy". Thường thường, nhận xét đi đôi với sự so sánh giữa tôi và Tướng Cogny, một tay được liệt vào loại lính chiến, xông xáo. Những kẻ đồn thổi những điều kỳ quặc ấy chỉ cần tìm hiểu về tôi - điều ấy không khó - thì họ sẽ hiểu rằng thành tích trong cuộc đời quân ngũ của tôi, chưa nói đến thời kỳ kháng chiến (chống Đức) đã không thua kém bất kỳ một thuộc hạ nào của tôi và đặc biệt đối với Tướng Cogny thì nó còn vượt rất xa. So sánh sự nghiệp giữa tôi và Cogny thì tôi chưa bao giờ làm việc ở một văn phòng bộ nào, trong khi đó ông ta đã từng làm việc lâu ở một trong những văn phòng đó. Sự so sánh giữa Cogny và tôi còn lan ra cả đến những người cộng sự của hai chúng tôi. Cogny có vẻ như biết tạo một ê kíp cũng thích xông xáo chiến trận như ông ta, còn tôi thì chỉ có xung quanh mình toàn loại "ký quèn" hệt như tôi. Ở đây cũng chỉ cần tìm hiểu sơ qua là có thể biết: phó của tôi là Tướng Bodet, đã từng là một phi công chiến đấu xuất sắc, là Tướng Gambiez, từng là tiểu đoàn trưởng xung kích có một quá khứ vinh quang trong chiến tranh ở Ý, Pháp và Đức, và sau này ở Đông Dương, đã chỉ huy xuất sắc một chiến trường khó là Liên khu đồng bằng Bắc Bộ. Còn phó tham mưu trưởng phụ trách tác chiến của tôi là Đại tá Berteil, (do công việc phải thường xuyên ở cạnh tôi nên ông là người bị đả kích mạnh nhất và được người ta mệnh danh là "vị mưu sỹ" của tôi), ông chính là người đã chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh trong suốt cuộc chiến ở Ý và tỏ ra là một sỹ quan tài giỏi bậc nhất. Ngoài ra, văn phòng của tôi do Đại tá Revol phụ trách và Bộ tham mưu của tôi, so với văn phòng và Bộ tham mưu Hà Nội thì còn vượt xa. Chỉ có điều là ở chỗ tôi, người ta không được chu đáo lắm đối với giới báo chí. Một chủ để khác nữa của các chuyện ngồi lê đôi mách là việc "tôi ngồi xa chiến trường": theo câu chuyện thì hình như tôi gắn mình vào chiếc ghế phô tơi đặt ở Sài Gòn, thành phố của hậu phương, trong khi lẽ ra tôi phải có mặt ở Hà Nội, nơi được coi là "thành phố của tiền tuyến". Nếu những kẻ đặt điều bịa chuyện ấy chịu khó tìm hiểu về sử dụng thời gian của tôi trong thời kỳ Điện Biên Phủ, họ sẽ dễ dàng thây rằng, trong 57 ngày của trận đánh, quá nửa thời gian đó là tôi có mặt ở Hà Nội; tôi lại có mặt ở đấy trong tất cả các thời điểm gay cấn nhất và thòi gian còn lại, tôi đã đến với các mặt trận khác như Trung - Hạ Lào, Tây Nguyên, khu vực hành quân Atlante (Bình Định - Phú Yên) và Nam Kỳ, ở những nơi này, tôi đã có mặt nhiều hơn là ở Sài Gòn, mặc dù ở Sài Gòn tôi có biết bao công việc phải giải quyết. Còn về cái ghế "phô tơi" chỉ huy của tôi thì chủ yếu đó là chiếc máy bay mà ngồi ở đó, tôi đã không ngừng đi khắp chiến trường Đông Dương. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 07:44:49 am Cái "Tôi - đã - bảo - rồi - mà" (Le "Je - L avais - Bien - disme") Sau khi mất Điện Biên Phủ, nhiều người đã nói; hoặc mượn người khác nói hoặc để mặc cho họ nói, là về việc ấy họ đã nhìn thấy trước tất cả. Hiển nhiên đó là những nhà báo rồi, nhưng cũng có những người khác, nhất là những nhà chính trị và tướng lĩnh e ngại rằng hậu quả của thất bại Điện Biên Phủ sẽ giáng đòn vào sự nghiệp của họ. Những cái gọi là tiên tri, tiên đoán ấy đã nuôi béo những cuộc tranh cãi. Trong khi làm người ta ngờ rằng có thể dễ dàng trông thấy trước thất bại, nó đã góp phần làm méo mó rất nhiều trong nhận thức của công chúng về sự kiện Điện Biên Phủ. Vì vậy một trong những "lòi tiên tri" ấy cần phải được bàn cãi. Nhân vật chính và đầu tiên của cái "tôi - đã - bảo - rồi - mà" là Tướng Cogny. Trong vài đoạn của cuốn sách này, tôi đã nói ông có thái độ thế nào và đã truyền bá những luận điểm ra sao khi tình hình bắt đầu chuyện biến xấu. Sự va chạm giữa ông và tôi bắt nguồn từ đấy đã được phô bày rộng rãi trong báo chí và bị bóp méo hoàn toàn về nguyên nhân và kết quả đến nỗi nó được trình bày và coi như một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại. Rất nhiều "điều tâm sự bí mật" mà sau đó Tướng Cogny tiết lộ với các nhà báo đã là nguồn gốc của phần lớn những điều sai sự thật về sự kiện Điện Biên Phủ. Tôi không thể không nói đến những điều đó. Đương nhiên đối với tôi, thật không phải dễ chịu gì khi phải đề cập đến đề tài này - nhất là khi Tướng Cogny nay không còn nữa - nhưng tôi cũng không thấy có cái gì phải ngần ngại. Những va chạm, tranh cãi trong công việc giữa những nhà chính trị. nhà văn, luật sư, nhà khoa học, v.v... đều được coi là bình thường và chính đáng. Vậy tại sao lại không như thế đối vối các nhà quân sự? Những gì tôi sắp nói về vấn đề đã đối lập giữa chúng tôi chỉ nhằm mục đích duy nhất là để hiếu rõ những nguyên nhân đích thực và đưa vấn đề ấy trở lại đúng với kích cỡ của nó, thực ra nhỏ hơn nhiều so với cái mà người ta nói. Tôi đã kể lại như thế nào, do thiếu người để lựa chọn và mặc dù có sự dè dặt nhất định, tôi đã phải chỉ định Tướng Cogny làm chỉ huy lục quân ở Bắc Việt Nam khi tôi mới sang nhậm chức ở Đông Dương. Chúng tôi đốì xử với nhau lịch thiệp, đôi khi thân tình nhưng chưa thể như bạn bè chí cốt, vì tính nết hai người quá khác nhau. Có thể tính nết tôi, có vài điều "đụng" đến Cogny. Còn về phần tôi, tôi không ưa lắm cái cách ông chiều lòng quá đáng giới báo chí, cũng như một vài biện pháp có tính chất quảng cáo của ông đối với quân đội. Tuy nhiên, điểm cuối cùng này đã gây được ảnh hưởng, uy tín cho ông đối với các sỹ quan trẻ - những người mà sự thật thà của họ khiến họ dễ bị lợi dụng. Nhưng tôi cũng mặc để ông làm vì xem chừng nó cũng có hiệu quả. Giữa Cogny và tôi - như thường xảy ra giữa những chỉ huy khác cấp - cũng có một số điểm tranh cãi nho nhỏ nhưng trước khi Điện Biên Phủ bị tấn công không hề có một điểm nào có tính chất nghiêm trọng và cũng không hề có liên quan gì đến những vấn đề chiến lược, chiến thuật. Chúng tôi tuyệt đối nhất trí với nhau về mọi vẻ của cuộc hành quân lên Điện Biên Phủ. Đặc biệt theo đề nghị của Cogny mà tôi quyết định rút bỏ Nà Sản và sau đó đánh chiếm Điện Biên. Và cũng hoàn toàn nhất trí với ông mà tôi chấp nhận giao chiến ở đấy. về các vấn đề: tổ chức tập đoàn cứ điểm, sử dụng lực lượng, phương tiện trang bị gửi lên trên đó - tất tật đều được quyết định giữa sự nhất trí hoàn toàn giữa ông và tôi. Đề tài duy nhất xảy ra tranh luận giữa Cogny và tôi là đưa lực lượng nào lên đóng ở Điện Biên Phủ: Cogny thì muốn không lấy quân thuộc quyền của ông, còn tôi thì đòi đại bộ phận phải là quân của Cogny lấy ở đồng bằng Bắc Bộ, khi ấy đã bớt bị uy hiếp do đại quân của Việt Minh đã lên Tây Bắc. Cuối tháng 2 năm 1954, Cogny, sắp đến hạn hồi hương đã yêu cầu tôi ủng hộ ông trong việc xin ỏ lại Đông Dương cho đến ngày ngã ngũ các cuộc hành quân đang tiến hành và tôi đã chấp nhận giúp đỡ ông. Va chạm đầu tiên giữa chúng tôi xảy ra vào ngày 14 tháng 3 năm 1954. Tôi ngạc nhiên biết bao khi tới Hà Nội, chỉ vài giờ sau khi Điện Biên Phủ bắt đầu bị tiến công và Béatrice bị mất, tôi được biết người ta đã chấp nhận đề nghị tạm ngừng bắn của Tướng Giáp và đã không thi hành kế hoạch phản kích. Những lòi tôi khiển trách Cogny đã mở đầu cho sự huỷ hoại mối quan hệ giữa chúng tôi. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 08:04:02 am Ở Hà Nội từ 14 đến 28 tháng 3, tôi có thể nhận thấy quan tâm chủ yếu của Cogny, lúc này trở nên rất bi quan1 là muốn rút tay khỏi cuộc chơi. Ông dành phần lớn thời gian để biện hộ thanh minh với các nhà báo2 là "ông có muốn việc này đâu".
Tôi đã kể lại như thê nào, khi trở về Hà Nội đêm 30 rạng 31 tháng ba, đúng lúc Việt Minh lại mở đầu đợt tiến công mới vào Điện Biên Phủ, tôi đã thấy ông vắng mặt ở sở chỉ huy và tôi đã kể lại màn va chạm dữ dội diễn ra sáng 31 tháng ba. Từ lúc đó trở đi, đối với các nhân vật chính trị và giới báo chí, Cogny không ngừng ra sức biện hộ, thanh minh về những gì, theo ông nghĩ, là trách nhiệm của ông đối với Điện Biên Phủ, nếu sự việc trở nên xấu. Vào trung tuần tháng tư, lấy cớ kỷ niệm sinh nhật, ông tổ chức một cuộc tiếp đón, trong đó ông mời nhiều nhà báo. Ông trình bày vói họ những ý kiến về một cái được mạo xưng là sự bất đồng chiến lược giữa ông và tôi. Những phát biểu của ông đã được đăng lại trên nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thư gửi về Paris, qua đó muốn giới thượng đỉnh chính trị và quân sự tin vào những lời của ông. Tôi có nhiều hồi âm về điều đó3. Về phần tôi, đối với bất kỳ ai - ngay cả với ông cao uỷ - tôi đều tránh không ám chỉ gì đến tình hình ấy, nhưng ngày 21 tháng 4, trong một bức thư riêng, tôi có cho Tướng Ely biết về thái độ của Cogny và ý định của tôi là nên thay ông ta ngay sau khi những cuộc hành quân chấm dứt. Trả lời tôi, ông Ely nói ông đã biết về những hành động của Cogny và chấp nhận ý kiến của tôi. Trong những ngày cuối của cuộc chiến và sau khi tập đoàn cứ điểm thất thủ, Cogny không ngừng cung cấp cho các nhà báo những tin tức nguy ngập, hãi hùng, đặc biệt nhấn mạnh số phận bi thảm, mà theo ông ta, đồng bằng đang chờ đợi một khi đại quân của Việt Minh dùng sức mạnh tiến vào đấy. Ông là phần lớn nguyên nhân của sự hoảng loạn đang lan rộng ở nước Pháp. Tôi đã phải nhiều lần nghiêm khắc nhắc nhở ông. Sau cùng nhận thấy những tiên đoán bi quan của ông đã không xảy ra, ông đã nhanh chóng trở lại với cách nhìn tình hình một cách lành mạnh hơn. Song lúc đó thì cái xấu đã là sự đã rồi. Sau khi tôi rời Đông Dương, Cogny càng ra sức chỉ trích tôi. Ông viết một báo cáo trong đó gắng chứng minh rằng ông đã bất đồng với chiến lược của tôi, đặc biệt về những gì có liên quan tới Điện Biên Phủ. Ông thường viện dẫn một số lớn bài báo có cùng quan điếm như ông. Ông là người khởi nguồn cho các bài báo của Lucien Bodard tháng giêng 1955, và sau này là chủ mưu chính của cuốn sách của Jules Roy. Về phía tôi, tôi có trả lời một số bài viết quá sai sự thật. Trong cuốn Đông Dương hấp hối, ở hai đoạn, tôi có ám chỉ đến những lời viện dẫn giả mạo của Cogny cũng như sự thiếu can đảm của ông sau khi Điện Biên Phủ sụp đo. Như mọi người đã chứng kiến, những đoạn ấy là nguồn gốc của một vụ kiện mà Cogny đã thua. Trên những nét lớn, luận điểm của Cogny như sau. Ông công nhận ông có dự kiến chiếm đóng Điện Biên Phủ nhưng cho rằng, trong ý thức thì không phải để chiến đấu ở đấy chống những lực lượng lớn. Từ lúc tôi quyết định chấp nhận giao chiến ở Điện Biên Phủ (Cogny đặt điều là quyết định này ngược với ý kiến của ông), thì ông đã dự kiến việc đánh vào hậu phương Việt Minh, nhưng chủ trương đó luôn luôn bị từ chối mặc dù ông đã nhiều lần phản kháng. Luận điểm căn bản của Cogny (về cái được mạo xưng là sự bất đồng căn bản giữa chúng tôi về vai trò, tác dụng của Điện Biên Phủ) là một điều hoàn toàn trái sự thật: Điện Biên Phủ được chiếm vói ý định tức khắc - một ý định chung thống nhất giữa hai chúng tôi là sẽ chấp nhận giao chiến ở đấy nêu đối phương tiến công. --------------- 1. Trong một báo cáo gửi tôi ngày 15-3, Cogny viết: "Cần phải dự kiến khả năng bại trận ở Điện Biên Phủ với việc mất các lực lượng ở đấy. Sự kiện này sẽ có tác động lớn, đặc biệt ở đồng bằng với những hậu quả về các mặt: chính trị, tâm lý, quân sự..." Trong báo cáo ngày 16-3 ông đưa dự đoán khoảng 12 ngày tới sẽ có một Sư đoàn Việt Minh quay về đồng bằng. 2. Công việc chánh văn phòng của Tướng Cogny ở cạnh Tướng De Lattre đả tạo cho ông điều kiện kết bạn thân mật với giới báo chí và học được cách "giật giây”, "mớm lời " cho họ. 3. Sau một chuyến về Paris công tác, một sỹ quan trong bộ tham mưu của tôi đã viết trong báo cáo: "Thái độ của Tướng Cogny bị nghiêm khắc lên án và những lời phát biểu của ông hay ông để các nhà báo phát biểu đều vô cùng đáng tiếc". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 08:14:11 am Chỉ khác nhau giữa hai chúng tôi là về động cơ, về ý định. Với tôi, chịu trách nhiệm chung về Đông Dương, quyết định chiếm Điện Biên Phủ là để bảo vệ Thượng Lào. Thêm vào đó tôi cũng có nghĩ một trận đánh ở Điện Biên Phủ sẽ có thể tránh được một trận đánh nguy hiểm hơn ở Đồng bằng, song điều đó đối với tôi chỉ là thứ yếu. Còn Cogny, chỉ chịu trách nhiệm với chiến trường Bắc Việt Nam và bị ám ảnh bởi một cuộc tiến công của đốì phương vào đồng bằng, ông ta còn coi Điện Biên Phủ là một cái "ung nhọt để thu hút" và làm chuyển hướng tiến công của đối phương.
Cogny và tôi hoàn toàn nhất trí với nhau về việc giao chiến ở Điện Biên Phủ. Có rất nhiều chứng cớ về vấn đề này và đây là những cái chính. Người ta nghĩ thế nào, nếu Cogny có những điểm không nhất trí và cần bảo lưu, thì tại sao ông ta - một người rất quan tâm đến chuyện "giấy tờ" - lại không viết những điều đó lên thành văn bản? Thế mà đã không có một văn bản nào trong đó bộc lộ rõ một tý chút bất đồng. Đặc biệt, Cogny không hể phản đối gì bản chỉ thị ngày 4 tháng 12 năm 1953 của tôi (được thảo với sự cộng tác của chính ông ta) trong đó nói rõ ý định của tôi là chấp nhận giao chiến ở Điện Biên Phủ. Yêu cầu hồi tháng 2 năm 1954 của Cogny được tiếp tục ở lại Đông Dương làm việc dưới quyền tôi là một chứng cớ khác về sự nhất trí giữa ông và tôi. Cũng chắc chắn rằng nếu có sự bất đồng thì hẳn Cogny đã nói với các thành viên của "phái đoàn Plêven" mà nhiều khi vắng mặt chúng tôi, ông đã có nhiều cuộc trò chuyện. Nhưng không thấy ông làm, điều đó có thể rút ra dứt khoát từ những lời báo cáo của ông Plêven trong kỳ họp Quốc hội ngày 8 tháng 6 năm 1954. Trong nhiều thư và điện tín tôi đã kể, Cogny biểu thị ông tin tưởng hoàn toàn vào thắng lợi của trận Điện Biên Phủ. Cái "mưu mẹo" mà ông gợi ý với tôi để kích động Việt Minh tiến công vào tập đoàn cứ điểm, cũng như những lý do ông đưa ra với tôi, ngày 4 tháng 3, để từ chối không nhận những tiểu đoàn bổ sung mà tôi đề nghị cũng là chứng cớ chứng minh cho sự tin tưởng ấy. Cuối cùng cũng nhắc thêm ở đây những lời tuyên bố lạc quan của ông với các nhà báo về triển vọng thắng lợi của trận Điện Biên Phủ, trong thời kỳ Pháp mới chiếm đóng đến khi Việt Minh bắt đầu tiến công. Sau này ông lại biện bạch, đó là để "động viên sỳ khí" quân đội và cũng vì ý thức "kỷ luật". Thế nhưng có ai bắt buộc ông phải làm đâu, hơn nữa nhiều lần tôi còn yêu cầu ông đừng làm thế. Những lời khảng định của Cogny về cái gọi là những cố gắng của ông để thuyết phục tôi tiến công vào hậu phương Việt Minh cũng hoàn toàn dối trá. Thực ra những đề nghị của ông về vấn đề này chỉ là kết quả của việc nghiên cứu những ý kiến của tôi. Về phía ông, những đề nghị ấy luôn luôn dẫn đến việc đòi hỏi phải sử dụng một lực lượng quá lớn mà người ta không thể đáp ứng được, và khi phải từ bỏ những dự án đánh vào hậu phương Việt Minh thì giữa tôi và ông ta, đều luôn luôn có sự nhất trí. Duy chỉ có một lần vào tháng 4 năm 1954, Cogny có một quan điểm khác: như tôi đã nói, ông đề nghị tôi mở một cuộc hành quân lên Phủ Đoan và giữ ý kiến cuộc hành quân ấy có thể thực hiện được. Trong thâm tâm ông thừa hiểu nó chẳng đi đến đâu và cũng chẳng thể cứu nguy được cho Điện Biên Phủ. Đề nghị này của ông chẳng qua chỉ nhằm mục đích biết rằng chắc chắn một ngày nào đấy tôi sẽ bị chê trách về việc này. Nhưng thà thế còn hơn là rồi tôi sẽ phải tự chê trách mình về việc đã để nhiều người chết uổng mạng trong một cuộc hành quân không đem lại kết quả. Cogny đã yêu cầu uỷ ban điều tra chứng thực cho ông cái màn ông cho là sự "bất đồng” giữa ông và tôi. Nhưng uỷ ban đã khước từ, lý do là những phê phán của ông chỉ là "nói hậu" và có dụng ý cá nhân. Sự thật là như vậy. Cho tới trước khi ông cảm thấy tình hình chuyển biến xấu, Cogny đã hoàn toàn nhất trí về việc tiến hành cuộc chiến Điện Biên Phủ. Sau đó ông muốn rũ cái mà ông nghĩ là trách nhiệm của ông. Thật vô ích, bởi đó là những quyết định thuộc cấp của tôi, chỉ riêng việc tôi là người ra những quyết định này cũng đủ chứng tỏ trách nhiệm của ông được vô sự. Chỉ riêng trách nhiệm của tôi là bị đưa vào cuộc, bị thử thách và sợ tôi tìm cách để bắt ông chia sẻ là rõ ràng không hiểu tôi. Tóm lại, và trái ngược với những gì được biết về vụ "va chạm Navarre - Cogny", không hề có nguyên nhân là do khác nhau về chiến lược hay chiến thuật và cũng không hề gây tác hại gì cho cuộc chiến Điện Biên Phủ. Trong số thuộc cấp của tôi, có một nhà "tiên tri nổi tiếng" là Tướng Nicot, hồi Điện Biên Phủ là Đại tá, chỉ huy không quân vận tải. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 08:18:34 am Khi có quyết định thành lập tập đoàn cứ điểm, Nicot có vài nhận xét bằng miệng (và không có mặt tôi) rằng quyết định này sẽ gây cho các đơn vị của ông ta những gánh nặng nhưng không nói là không thể vượt qua nổi1. Trong cuốn sách của mình, Jules Roy đã trình bày ý kiến thuần tuý có tính chất kỹ thuật nói trên như một vấn đề có tầm chiến lược và khen ngợi Tướng Cogny đã "đặc biệt dũng cảm khi dám lưu ý tổng chỉ huy về những nguy hiểm do việc lựa chọn Điện Biên Phủ đặt ra".
Đã lâu tôi cho rằng, đó là một trong nhiều chuyện bịa đặt của ông Jules Roy và đã ngỏ lời với Tướng Nicot là tôi tin rằng ông hoàn toàn xa lạ với điều bịa đặt ấy, mặc dầu nó vẫn được các nhà bình luận thường xuyên nhắc đi nhắc lại và đã gây ra một sự chú ý nào đấy trong giới không quân. Nhưng Tướng Nicot nhận là có nói, trong một lần phát biểu trước vô tuyến truyền hình, tôi tỏ ý lấy làm tiếc cho ông về điều đó. Là một người "tôi - đã - bảo - rồi - mà" có hạng, ông Joseph Laniel trong cuổn Thảm hoạ Đông Dương đã tự gán cho mình những khả năng tuyệt vời về linh tính. Tuy nhiên người ta cảm thấy ông cũng có phần hơi lúng túng. Nói rằng cái gì ông cũng nhìn thấy trước thì quả là chơi dao hai lưỡi: người ta có thể vặn ông vậy tại sao trong trường hợp ấy, với tư cách là Thủ tướng chính phủ và với bổn phận sơ đắng của ông, ông lại không can thiệp? Vì vậy ông đánh con bài mập mờ: ông nói, Điện Biên Phủ đã làm "Chính phủ lo ngại". Thế nhưng ông không bao giờ nói với tôi những điều "lo ngại" ấy, và không những thế, ông còn không trả lời bức thư ngày 1 tháng 1 năm 1954 của tôi, trong đó tôi đã nêu những lo ngại của chính tôi. Tuy vậy cũng có một điểm mà ông Laniel tỏ ra rõ ràng: về linh tính đã khiến ông viết cho tôi trong khi tôi đang ở Paris, vào tháng 7 năm 1954, trong đó ông dặn "trước hết phải bảo đảm an toàn cho quân đội viễn chinh". Ông đã dựa vào cái tưởng là "chỉ thị" ấy để trách tôi về việc quan tâm bảo vệ nước Lào. Nhưng không hề có một điều gì vể vấn đề này đã nói với tôi: cả trong cuộc họp ngày 24 tháng 7 năm 19532 của Hội đồng Quốc phòng, cả trong những dịp chuyện trò riêng. Nếu quả có một mệnh lệnh như thế thì tất nhiên tôi sẽ phải hỏi cho rõ. Nếu điều đó chỉ có nghĩa là phải bảo vệ an toàn cho binh sỹ trong phạm vi tương hợp với nhiệm vụ của tôi thì đó là một nhắc nhở vô nghĩa, đó là điều ABC của nghề nghiệp nhà binh. Nếu ngược lại ông Laniel muốn nói, thà bỏ nước Lào còn hơn mạo hiểm "sự an toàn của quân đội viễn chinh”, thì tôi sẽ bỏ nhiệm vụ, bởi điều đó sẽ dẫn đến việc phải thảo luận lại toàn bộ kế hoạch của tôi cũng như việc từ chức: chẳng ai làm chiến tranh mà lại không muốn mạo hiếm gì cả. Một số thành viên khác của nội các Laniel có trách nhiệm về những sự việc ở Đông Dương, sau khi chuyện đã xảy ra rồi, liền tự khám phá ra rằng chính họ cũng có đầu óc sáng suốt lớn. Ông Paul Raynaud nói rằng ông tỏ ra "lo ngại". Nhưng điều đó cũng không ngăn ông, khi nhận được lá thư ngày 1 tháng 1 năm 1954 của ông, ông đã đánh giá những nhận định tôi viết trong đó là "tiểu thuyết đen". Còn ông Marc Jacquet, phát biểu trước uỷ ban điều tra rằng ông "cảm thấy những nỗi lo sợ". Thật lạ lùng là nếu có điều đó, ông - bộ trưởng phụ trách việc "tổ chức phòng thủ" Đông Dương - ông lại không nói với tôi một tiếng nào. -------------- 1. Thực ra không quân vận tải có thể cung cấp cho tập đoàn cứ điểm nhiều hơn những lời nói ban đầu, và những đòi hồi ấy củng chưa đạt tới mức tối đa, dù rằng việc tổ chức bảo quản và sửa chữa của không quân còn rất tồi. Những đòi hỏi ban đầu đối với không quản vận tải không hề có gì là quá đáng. 2.Ông Laniel đã đưa vào cái mà ông gọi là "biên bản" của cuộc họp đê chứng thực cho những lời nói của ông. Nhưng cuộc họp, không hề có một biên bản nào. "Biên bản" ấy (mà ông Laniel chỉ đưa ra những "trích dẫn" ngắn) chỉ có thê làm lại sau khi sự việc đã xảy ra và tôi củng không được trông thấy. Nội dung ra sao, tôi xin được dè chừng. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 08:56:25 pm Như trên tôi đã nói, có rất nhiều nhân vật dân sự và quân sự đã đến thăm Điện Biên Phủ. Nhiều "sử gia" và nhà báo đã vay mượn ở những vị khách ấy những lời bình luận tỏ ý lo ngại về tình trạng "nằm trong chảo" của tập đoàn cứ điểm. Tất cả cái đó đều sai sự thật. Trên kia tôi đã nói thái độ của các vị khách ấy ra sao. Không một vị nào biểu thị một tý chút lo ngại và ngược lại, phần đông các vị còn nói với tôi là họ kinh ngạc biết bao trước "sự hùng mạnh của các công trình phòng thủ và họ không mấy tin tưởng là Tướng Giáp sẽ dám tấn công vào đây".
Tướng Blane, Tham mưu trưởng Lục quân, là người bị người ta vay mượn những lời đoán tiên tri nhất về số phận của Điện Biên Phủ. Những huyền thoại loan truyền xung quanh những kết luận ông rút ra từ chuyến đi thăm tập đoàn cứ điếm đã thu hút được sự chú ý, nếu không phải trong đông đảo công chúng, thì ít nhất cũng trong giới quân sự, nhất là những cựu binh Đông Dương. Tôi sẽ nói ở đây sự thật về cái đó là thế nào. Trên kia tôi đã nói Tướng Blane đã có ấn tượng tốt đẹp như thế nào về sức mạnh của tập đoàn cứ điểm và đã dùng lời lẽ ra sao để nói với tôi sự tin tưởng của ông. Những điều kiện sử dụng pháo binh đã được đặc biệt trình bày cặn kẽ với ông, bởi ông vốn là dân pháo binh. Ông thấy không có gì phải nói lại, cũng không phản đối việc cho rằng vói khoảng cách xa của các mỏm núi xung quanh, pháo binh Việt Minh khó có thể gây nguy hiểm cho tập đoàn cứ điểm. Tướng Blane cũng không giấu là ông không tin đối phương sẽ tiến công. Trong lúc đang diễn ra trận đánh, ông viết thư nói với tôi: "Tự mình, tôi tin rằng trận đánh sẽ kết thúc bằng một thắng lợi không thế chối cãi được của bên phòng thủ và ở đây, tôi có thể giải thích nó bằng những lý lẽ thực tế". Sau khi trở về Pháp, tháng 6 năm 1954, tôi biết có một "báo cáo" nào đấy, trong đó có dự kiến về việc rút Điện Biên Phủ, đang lưu truyền trong giói chính trị. Nhiều nhà báo đánh giá nó là "tiên tri". Mãi về sau tôi mới được thấy nó lúc ấy mới biết tác giả là Tướng Blane. Trước khi rời Đông Dương, ngày 14 tháng 2, Tướng Blane đã gặp các ông Pleven, de Chevigné cũng như Tướng Ely vừa mới tới. Ông đã báo cáo với họ - nói miệng hay viết tay, tôi không được rõ - về những gì ông đã thấy. Chính báo cáo này sau đó đã trở thành "báo cáo Blane". Chuyến công du của Tướng Blane trùng hợp đúng lúc với cuộc tiến công của Việt Minh vào Luang Prabang và miền Trung Đông Dương và đồng thòi là một đợt tăng cường hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng tôi đang gặp khó khăn ở khắp nơi, trừ Điện Biên Phủ, Tướng Blane có lẽ nghĩ rằng tôi để quá nhiều quân ở đây trong khi các nơi khác lại đang thiếu. Đó hình như là điều ông đã nói với các thành viên của "phái đoàn Pleven", mà không nói gì với tôi. Nhưng sau khi ông trở về Pháp, tình hình trở nên rõ ràng: Tướng Giáp chuẩn bị tiến công Điện Biên Phủ. Báo cáo của Tướng Blane trở nên lỗi thòi bởi được căn cứ vào việc đánh giá sai tình hình. Vì thế, "báo cáo Pleven", thảo vào lúc kết thúc nhiệm vụ của phái đoàn, đã không để ý gì đến "báo cáo Blane", thậm chí còn không nhắc đến1. Đọc "báo cáo Blane", ngưòi ta thấy hiển nhiên tác giả không nghĩ gì đến việc tập đoàn cứ điếm - mà ông đánh giá được "tổ chức một cách xuất sắc" - có thể bị đánh. Thực ra ông cũng có gợi ý có thể lấy bớt quân ở đấy để tổ chức lại lực lượng dự bị - điều đó không có nghĩa rút tập đoàn cứ điếm (vấn đề này lúc ấy không thể đặt ra) mà là làm giảm nhẹ nó về quân số và phương tiện, một điều sẽ là phi lý nếu giả thuyết tập đoàn cứ điểm có khả năng bị tiến công. Trái lại với những gì từng được nói và viết, Tướng Blane đã không dự kiến trước được điều gì sẽ xảy ra ở Điện Biên Phủ. Ngược lại nữa là khác. Ngưòi ta cũng đồn rằng Tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân, trong khi thăm Điện Biên Phủ, cũng dự kiến đến việc di tản. Đó là sai. Như tôi đã nói, lo ngại duy nhất ông nêu ra là khả năng sân bay sẽ bị ngập vào mùa mưa. Có thể tìm thấy câu trả lời tốt nhất cho những người "tôi - đã - bảo - rồi - mà" trong lời phát biểu của ông Pleven trước Quốc hội ngày 8 tháng 6 năm 1954: "Khi một chiến dịch quân sự kết thúc xấu, người ta thấy lập tức mọc lên nhan nhản những nhà "chiến lược - sa lông" và những nhà tiên tri "nói hậu"; họ giải thích rằng họ đã luôn luôn bảo trước nhưng nào họ có bày tỏ ý kiến gì trước đâu... Điện Biên Phủ được chiếm ngày 20 tháng 11 năm 1953... Giữa ngày đó đến lúc Việt Minh bắt đầu tiến công, ngày 13 tháng 3 các nhà tiên tri có thể dễ dàng cho người ta nghe ý kiến mình trong khoảng thời gian ba tháng rưỡi... Cái mà tôi biết, đó là ngày tôi lên thăm tập đoàn cứ điểm, ngày 19 tháng 2, mọi người ở đấy đều rất tin tưởng vào sự bố phòng cũng như những phương tiện của mình và không một ai nghĩ đến việc rút bỏ nó - cái mà tôi biết, không một chỉ huy quân sự nào được hỏi ý kiến lại đề nghị như vậy cả". -------------- 1. Tất cả những gì "báo cáo Pỉeven" lấy được ở báo cáo của Tướng Blane là khả năng tập đoàn cứ điểm có thể bị ngập lụt trong mùa mưa. Nhưng củng chỉ nói thông qua trong một câu ngắn. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:03:38 pm Nước Lào có cần được bảo vệ không? Bây giờ tôi đê cập đến những tranh luận quan trọng nhất, bắt đầu từ vấn đề nước Lào có cần được bảo vệ không? Bởi thực ra đây là vấn đề bao trùm cả Đông Dương. Ở trên tôi đã nói vấn đề này được đặt ra như thế nào giữa tháng 7 tháng 1953, tôi trình lên Chính phủ kế hoạch. Tôi đã giải thích tại sao vấn đề bảo vệ Lào chẳng những không thể lẩn tránh được về mặt chính trị mà còn cần phải được đặt ra vì những lý do quân sự. Tôi cũng đã nói là Hội đồng tham mưu trưởng liên quan, trong khi tìm cách gọt xén những yêu cầu tăng viện của tôi, đã khuyên tôi nên miễn nhiệm vụ đó đi, nhưng sau đó Hội đồng Quốc phòng họp ngày 24 tháng 7 năm 1953 đã không tiếp tục cứu xét về gợi ý này. Đối với tôi, không nghi ngờ gì nhiệm vụ đó có thể làm được. Tôi cũng đã nhắc lại rằng, ngày 28 tháng 10 năm 1953, nước Pháp đã ký với Lào một hiệp ước trong đó cam kết việc bảo vệ Lào. Trong những điều kiện như thế cho nên vào tháng 11 năm 1953, khi thấy Việt Minh hướng cuộc tiến công của họ sang Thượng Lào, tôi đã không chút chần chừ cho tiến hành bảo vệ Luang Prabang, như Tướng Salan đã làm năm trước. Cho đến khi Điện Biên Phủ thất thủ, việc bảo vệ nước Lào là vấn đề không còn phải bàn cãi nữa. Nhưng sự việc thực sự đổi chiều sau khi mất Điện Biên Phủ. Ông Laniel bắt đầu tung ra cái thuyết cho "toàn quyền hành động" với ý nghĩ rằng tôi có thể từ bỏ nhiệm vụ bảo vệ nước Lào. Trong cuốn Thảm hoạ Đông Dương, ông trình bày thuyết ấy tóm tắt như sau1. Chính phủ "hết sức mong muốn" rằng độc lập của nước Lào phải được giữ gìn, nhưng thà "mất nước Lào trong một lúc nào đấy"2 còn hơn là mất cùng một lúc cả nước Lào, cả quân đội viễn chinh. Vì thế, ông Laniel tiếp tục nói, người ta đã để ông tổng chỉ huy tùy quyền lựa chọn có cần hay không cần bảo vệ nước Lào. Còn về hiệp ước ký kết vối nước Lào, ông Laniel viết: "Chẳng nhẽ... giữa lúc đang bàn bạc với họ để xây dựng một quy chế mới nhằm thắt chặt quan hệ giữa Lào vối khối Liên hiệp Pháp, chúng ta lại nói - nhất là lại viết - rằng chúng ta sẽ không bảo vệ nước Lào?". Vậy là, hiểu theo lời ông Laniel, đối với một "quốc gia bạn bè và trung thành", ông đã cam kết một điều mà ông không có ý định giữ lời. Nếu đúng như thế thì quả là một sự phản bội không xứng đáng với nước Pháp. Luận điếm của ông Laniel là không thể bảo vệ được và có đầy đủ chứng cứ. Sau đây là những điểm chính. 1. Cho rằng Chính phủ muốn giao cho một quan chức sở tại quyền đưa ra quyết định - trước hết là có tính chất chính trị rồi sau mới là chiến lược - về việc bảo vệ hay không bảo vệ nước Lào thì quan chức ấy chỉ có thế là ông cao uỷ, đại diện cao nhất của Chính phủ ở Đông Dương và là ngườ "chịu trách nhiệm về vấn đề bảo vệ an ninh ở Đông Dương", chứ không phải là tổng chỉ huy, người chỉ phụ giúp cho cao uỷ về vấn đề ấy. Nhưng đối với cao uỷ Dejean, Chính phủ không hề giao quyền như thế. 2. Thống chế Juin, tham dự cuộc họp Hội đồng Quốc phòng ngày 24 tháng 7 năm 1953, đã rút ra một điều chắc chắn là Chính phủ bắt buộc tôi phải bảo vệ nước Lào. Giữa chừng trận đánh ở Điện Biên Phủ, ông viết thư cho tôi rằng: "Anh vẫn luôn luôn được bảo vệ bởi chỉ thị của anh trong đó quy định việc bảo vệ nước Lào. Anh đã tuân lệnh. Chính phủ đã sai lầm". Và ông còn khắng định trong một bức thư khác trong đó nói rõ là nhiệm vụ của tôi, có "quy định phải bảo vệ nước Lào". ----------------- 1. Tài liệu duy nhất ông Laniel dựa vào để làm căn cứ là một bức thư từ chối không gửi thêm tăng viện cho tôi, nhưng thư đó chỉ đến tay tôi sau khi quân Pháp đã chiếm Điện Biên Phủ được hai tuần. Thư có đoạn như sau: "Ông Tổng chỉ huy cần phải chỉnh kế hoạch sao cho khớp với lực lượng trao cho ông". Nhưng thư củng viết: "Mục tiêu của những hoạt động của chúng ta ở Đông Dương là làm sao để đối phương hiếu rằng họ không thể giành được một thắng lợi quân sự quyết định". Đó cũng là phạm vi nhiệm vụ của tôi. Nhiệm vụ đó chẳng những không thay đổi mà còn được xác nhận. Vậy nó đã quy định nhiệm vụ bảo vệ nước Lào một cách đương nhiên. 2. Chữ "một lúc nào đấy" dùng chỉ để giữ thể diện. Ông Lanieỉ thừa biết rằng, một khi đã bị mất, thì nước Lào không thể nào chiếm lại được. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:13:48 pm 3. Trước khi chiếm Điện Biên Phủ, tôi đã nói để ông Dejean và ông Marc Jacquet biết về sự bắt buộc tôi phải có biện pháp ngay tức khắc để chặn đường tiến của Việt Minh sang Luang Prabang và cũng nhắc lại những khó khăn về việc bảo vệ Thượng Lào. Không một ông nào nói với tôi là có thể từ bỏ nhiệm vụ bảo vệ ấy. Ngược lại, ông Dejean còn trả lời rằng một sự từ bỏ như vậy là "không thể nghĩ tới" vì vừa mới ký hiệp ước với nhau hai tuần trước đây và ông Marc Jacquet cũng đã tuyên bố một cách kiên quyết là nếu Việt Minh tới được sông Mê Kông thì, xét tình trạng dư luận của nước Pháp, chiến tranh sẽ bị thất bại. Những ý kiến đó của ông Jacquet chứng tỏ Chính phủ không hề tính đến việc từ bỏ nhiệm vụ bảo vệ nước Lào1.
4. "Phái đoàn Pleven" có mặt ở Đông Dương trong thời kỳ Lào đang đặc biệt bị uy hiếp (2-1954). Theo lời ông Laniel, ông Pleven được Chính phủ uỷ nhiệm cho phép tôi tuỳ tình hình có thể bỏ nhiệm vụ bảo vệ nước Lào2. Sự uỷ nhiệm đó cho ông Pleven chứng tỏ quyết định ấy thuộc phạm vi thẩm quyền cấp Chính phủ và nó không được giao cho tôi. Hơn nữa, mặc dù tình hình có lúc gay go trong thời gian ông Pleven đang công cán ở Đông Dương, ông cũng không bao giờ nói xa nói gần đến khả năng có thể bỏ nước Lào. 5. Một chứng cớ khác về việc Chính phủ chưa bao giờ từ bỏ ý định bảo vệ nước Lào, ngay cả lúc cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đang ở đỉnh cao nhất: trong một báo cáo đề ngày 28 tháng 4 năm 1954, một sỹ quan trong bộ tham mưu của tôi đi công tác ở Paris trở về, đã viết: "Trong Chính phủ, người ta nghĩ rằng việc bảo vệ nước Lào có thể được xem xét lại". Vê vấn đề bảo vệ nước Lào, uỷ ban điều tra đã chấp nhận một thái độ đầy mâu thuẫn - nếu không muốn nói là thiếu nhất quán - do ý định nửa thì không muốn kết tội tôi, nửa lại muôn tránh phải chạm trán với luận điểm của Laniel. Uỷ ban thừa nhận rằng quyết định về vấn đề Lào là có tính chất chính trị và không thể uỷ nhiệm cho tôi. Uỷ ban xác nhận tôi không nhận được một mệnh lệnh nào cả. Uỷ ban công nhận tôi đã xin ý kiến "những người có đủ tư cách về mặt tổ chức" (tức các ông Jacquet Dejean). Cuối cùng uỷ ban đã kết luận là tôi đã hành động "phù hợp với suy nghĩ của Chính phủ, tuy rằng suy nghĩ này chưa được nói ra". Nhưng uỷ ban đã trách tôi không nắm được "cơ quan chức năng có trách nhiệm". Thế nhưng có cơ quan nào khác là Bộ trưởng các Quốc gia liên kết, ông Jacquet, mà uỷ ban biết là tôi đã xin ông ta ý kiến! Chung quy lại điều duy nhất mà uỷ ban điều tra khiển trách tôi là trước khi chiếm đóng -Điện Biên Phủ, tôi đã không báo cáo cho Chính phủ biết việc đó bằng một bức thư hay một bức điện chính thức. Sở dĩ tôi không làm điều này là vì - với sự đồng ý của ông Jacquet lúc ấy đang có mặt ỏ Đông Dương - tôi biết chắc ở Paris có những sự "rò rỉ" tin tức có lợi cho Việt Minh, do đó nếu việc chuẩn bị nhảy dù xuống Điện Biên Phủ bị lộ thì điều đó sẽ dẫn đến thảm hoạ. Dù thận trọng khôn khéo thế nào, những kết luận của uỷ ban điều tra vẫn tiếp thêm vào những lý lẽ mà tôi vừa nêu trên để chứng tỏ rằng ý định của Chính phủ là phải bảo vệ nước Lào. Nếu tôi không làm thì chính những người vừa trách tôi đã làm (mà trước hết là ông Laniel) sẽ lại buộc tội tôi là đã bỏ nhiệm vụ và phản bội sự cam kết với nước Lào. Không nghi ngờ gì nữa, họ lại sẽ tìm thấy một Uỷ ban - có thể vẫn là uỷ ban này - để khiến trách tôi. -------------- 1. Trước Ủy ban điều tra, ông Jacquet đã từ chối. Nhưng trong baocs cáo của mình, Ủy ban đã không đếm xỉa gì đến việc chối cãi của cựu Bộ trưởng các Quốc gia không liên kết. 2. Nói về cuộc họp của Hội đồng Quốc phòng trước chuyến đi của ông Pleven, ông Laniel biết rằng ông này có đưa ra vấn đề "tình hình có thể dân đến việc ông Tổng chỉ huy sẽ hỏi tại chỗ để muốn biết là vấn đề bảo vệ nước Lào vẫn luôn luôn là một trong những mục tiêu của đường lối chính trị của Chính phủ"... " Có thể trong những ngày tới - ông Pleven nói thêm - ông Navarre sẽ hỏi về Bộ Quốc phòng là có cần phải từ bỏ hay không từ bỏ việc bảo vệ nước Lào. Vậy khi ấy trả lời ra sao?” Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:20:06 pm Có cần tiến hành cuộc hành quân Điện Biên Phủ không và nó có thể thắng lợi không? Trước khi đề cập vấn đề này, tôi cần làm rõ một truyền thuyết rất phổ biến có liên quan đến những lý do dẫn tôi đến quyết định chiếm Điện Biên Phủ. Như đã nói, động cơ duy nhất của tôi là vấn đề bảo vệ nước Lào. Thứ nữa, tất nhiên tôi có nghĩ rằng Điện Biên Phủ sẽ là một cái "ung nhọt để thu hút" lực lượng đốì phương và nếu không ngăn cản được, thì nó cũng có thê làm giảm nhẹ sức tiến công của Tướng Giáp vào Đồng bằng. Nhưng lý do này chỉ là phụ và không tác động gì vào quyết định của tôi. Nhiều tài liệu đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, theo con mắt của vài bình luận gia, sự việc nhìn như thê giản đơn quá và cần phải kể cho các độc giả sao cho câu chuyện hấp dẫn hơn. Thế là họ bịa ra rằng tôi muốn giương một "cái bẫy" cho ông Giáp bằng cách kéo ông ta vào cái "lòng chảo” rất ngon ăn này để tiêu diệt, nhưng rồi chính tôi lại là người bị "sập bẫy". Đó chỉ là những "công trình" tầm phào, không căn cứ đã nổi lên một thời1. Nếu cho rằng cuộc hành quân Điện Biên Phủ không có mục đích gì khác là bảo vệ nước Lào và thêm vào đó là tránh một cuộc tổng tiến công vào đồng bằng, bây giờ ở đây hãy nghiên cứu một loạt những tranh luận xoay quanh vấn đề là tìm hiểu xem, với cuộc hành quân này, việc bảo vệ nước Lào có được bảo đảm hay không? Hay là nó có thể khác. Trước hết tôi nói về một "giải pháp" không cần phải bàn cãi nhiều, bởi nó phi thực tế, nhưng lại thường được nhiều nhà bình luận không am hiểu vấn đề, và đôi khi - điều hết sức ngạc nhiên - là cả một vài người tưởng là thông thạo, nói đến (ví dụ như Tướng Nicot và Tướng Bigeard, trong một cuộc thảo luận trên vô tuyến truyền hình). Giải pháp này chủ trương phải tiến hành giao chiến ở đồng bằng Bắc Bộ, nơi Pháp có hoả lực mạnh (máy bay, xe tăng, pháo binh). Tuy rằng còn có thể tranh cãi (tôi nhớ Tướng Cogny ngại nhất việc đánh ở đồng bằng), nhưng cứ cho là đánh ở đồng bằng có lợi hơn là đánh ở Điện Biên Phủ thì tôi cũng không có quyền lựa chọn: bởi vào lúc Việt Minh quyết định tiến sang Lào thì tất nhiên không phải cứ ỏ lại đồng bằng là có thể cản được họ, mà phải tìm cách giao chiến với họ ở bên ngoài. Bây giờ tôi nói đến những giải pháp đúng đắn hơn. Tôi đã nói những lý do vì sao buộc lòng phải bỏ phương pháp bảo vệ nước Lào một cách gián tiếp, nghĩa là tìm cách giữ chân chủ lực đối phương từ đồng bằng, không để họ tiến lên vùng Thượng du. Buộc phải bảo vệ theo phương pháp trực tiếp, tôi đã chỉ ra những điều kiện đặc biệt khó khăn mà việc này thê hiện; lực lượng Pháp thiếu khả năng để bảo đảm cho nó bằng cách theo kiểu vận động; sự cần thiết phải vận dụng đến biện pháp "con nhím", mặc dù biện pháp này có những bất tiện chúng tôi; không có một chỗ nào khác để đặt "con nhím", ngoại trừ Điện Biên Phủ. Sau cùng, tại sao từ lúc chủ lực Việt Minh đã bố trí xong xung quanh Điện Biên Phủ, những hoạt động có hiệu quả bằng đường không và trên bộ của chúng tôi đánh phá giao thông của họ lại không thể thực hiện được. -------------- 1. Ví dụ như ông Jean Lacouture, trong báo Thế giới ngày 8-5-1974, đã viết như thế nào về những lý do, mà theo ông, đã thúc đẩy tôi cho chiếm Điện Biên Phủ. Ông viết: "Đối phương từ trước đến giờ không thể tóm được"cuối cùng sẽ đến nộp mạng trước những đòn chí tử của những người, theo như người ta nghĩ, có ưu thế hơn về hoả lực. Người ta sẽ "đập nát" chúng. Địa hình ở đây không mấy thuận lợi và quá xa những căn cứ của Pháp chăng? Có thể như vậy. Nhưng nếu Tướng Giáp thấy bố trí của Pháp quá rắn, ông ta sẽ không đến. Vậy nó không cần phải quá mạnh để có thể nhử mồi đối phương, nhưng cũng cần phải đủ mạnh để không bị đập vỡ. Thế là "cái bẫy” được giương lên". Những lời lảm nhảm chiến lược ấy không có lấy một tý sự thật. Gần đây nhất, một nhà báo, tuy không “phịa chuyên hơn người khác, ông Dominique Jamet, viết trong tờ Rạng Đông ngày 15-9-1977: “Trong giai đoạn thứ nhất, Điện Biên Phủ phải là một cái đê chắn sóng mà ở đấy đại quân của đối phương - lực lượng sẵn sàng để tràn về Hà Nội sẽ đến lúc vỡ đầu, là thành trì để thu hút, giam chân và đập tan Việt Minh. Trong giai đoạn thứ hai đó sẽ là căn cứ xuất phát để phản công Việt Minh ở phía Bắc. Thứ nhất là người ta “dễ thờ’ hơn và tranh thủ thời gian đợi đến mùa mưa. Hy vọng cao nhất là đối phương bị kiệt sức, mất tinh thần, phải cầu hòa”. Trong tất cả mọi lý do, lý do duy nhất của việc chiếm Điện Biên Phủ lại bị lờ đi. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:23:40 pm Phần lớn những điếm ấy là mục tiêu của những sự bàn cãi và chỉ trích. Uỷ ban điều tra đã nắm được một phần. Tôi chỉ bàn luận mấy điểm theo tôi là duy nhất đáng được kê dưới đây:
Mói đầu uỷ ban nói: không thể trách tôi đã chiếm Điện Biên Phủ, nơi có tầm quan trọng chiến lược không cần phải bàn cãi. Nhưng điều đáng trách là tôi đã chấp nhận giao chiến ở đấy: Lý ra. tôi phải rút bỏ ngay vào những ngày đầu tháng 12 năm 1953, khi phát hiện ra đại quân của Việt Minh đã tiến lên thượng du. Về lời chỉ trích này, có thể có hai cách trả lời. - Thứ nhất, như người ta đã thấy, đầu tháng 12 tôi vẫn chưa xác định được có lực lượng lớn đối phương tiến lên Điện Biên Phủ và khoảng từ 20 đến 25 khi biết được đại quân của họ thì đã quá muộn. Việc di tản chỉ có thế làm được với những tổn thất lớn, trong khi mối hiểm nguy về một sự đe doạ mà chúng tôi dự kiến chưa lấy gì làm chắc chắn. Trả lời thứ hai là câu trả lời chính, là nếu tôi rút Điện Biên Phủ thì sau đó tôi có thể làm gì? Đánh ở giữa Điện Biên Phủ và Luang Prabang chăng? Thì địa hình không cho phép. Hay đánh ở Luang Prabang? Thì chính uỷ ban điều tra đã thừa nhận là phòng thủ ở đấy còn khó hơn ở Điện Biên Phủ nhiều và hơn nữa, làm thế là để đối phương tới được sông Mê Kông. Còn từ bỏ bảo vệ nước Lào? Thì đó là giải pháp duy nhất và người ta lại trở về với vấn đề đã nêu trước đây: có cần bảo vệ nước Lào hay không? Vậy thì tôi chỉ còn một cách chấp nhận phương án chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Lời chỉ trích khác của uỷ ban điều tra cho rằng trong thời kỳ chuẩn bị trận đánh (theo uỷ ban là tháng 1 và tháng 2 năm 1954), tôi có thể lấy bớt ỏ Trung và Hạ Lào, cũng như ở khu vực hành quân Atlante một lực lượng khoảng hai binh đoàn cơ động để tiến hành một cuộc hành quân đánh thọc sâu vào hậu phương Việt Minh. Trước hết xin trả lời là hai binh đoàn cơ động thì quá ít để đạt kết quả. Ngoài ra, ý kiến đó của uỷ ban đã được đưa ra thiếu sự nghiên cứu về tình hình miền Trung Đông Dương và không hỏi han gì về các chỉ huy chịu trách nhiệm ở khu vực ấy. Nếu chịu khó nghiên cứu tình hình, người ta sẽ thấy là không có bất kỳ khả năng nào ở thời kỳ ấy để lấy quân ở một khu vực hành quân mà tình hình đang rất khó khăn. Mặt khác, nhiệm vụ của không quân cũng rất nặng nề trong thòi kỳ ấy, nhất là do đối phương đang đánh về Luang Prabang. Vì thế chúng tôi không có khả năng chi viện bằng không quân cho bất kỳ một cuộc tiến công nào vào hậu phương Việt Minh. Ngoài ra không phải trước, mà chính trong trận đánh ở Điện Biên Phủ khi hoạt động giải vây tỏ ra có ích, nhưng với điều kiện phải được tiến hành bằng những lực lượng mặt đất và trên không rất mạnh, song đó là điều còn xa tôi mới có. Một giải pháp bảo vệ nước Lào đã được Tướng Salan phác ra trong tập II Hồi ký của ông. Ông viết rằng không thể bảo vệ Thượng Lào chỉ bằng một căn cứ liên hợp không quân - lục quân thiết lập ở Điện Biên Phủ, mà phải bằng cả khu vực tam giác Nà sản - Lai Châu - Điện Biên Phủ. Ông đánh giá rằng, giữa ba căn cứ "có thể chi viện lẫn nhau" ấy, một cuộc hành quân là có khả năng tiến hành được. Tôi tuyệt đối không tin vào giải pháp này, bởi tôi cho rằng "tam giác" nói trên không cho một khả năng thực tế nào để tiến hành cuộc hành quân. Lai Châu, hoàn toàn ở ngoại vi, không che chở được gì cho Lào, hơn nữa lại khó phòng thủ. Còn Nà Sản, cũng không che chở được cho Lào bởi Việt Minh, như tôi đã nói, có thể đi vòng qua. Hơn chăng là sân bay ở đấy có thể làm căn cứ chuyển tiếp (điều này thì tôi biết là không thể bỏ qua). Nhưng cái chính là việc chiếm đóng ba căn cứ tạo thành "tam giác" của Tướng Salan, hay chỉ cần hai trong ba căn cứ đó (Nà sản và Điện Biên Phủ) cũng đủ để bắt buộc chúng tôi phải phân tán lực lượng, hơn cái mức mà Việt Minh cũng phải chịu để ngăn chặn mọi cuộc hành binh trên bộ của chúng tôi giữa các căn cứ ấy. Tôi tin chắc rằng, Tướng Salan nếu còn là tổng chỉ huy vào hồi tháng 11 năm 1953 và muốn thử bảo vệ Lào bằng cách dựa vào "tam giác" của ông, thì rồi cũng phải nhanh chóng rút bỏ Lai Châu và Nà sản để tập trung phòng thủ vào Điện Biên Phủ, căn cứ duy nhất cùng Cánh Đồng Chum có thể bảo vệ được hiệu quả Thượng Lào. Việc điểm lại những "giải pháp có thể: về vấn đề bảo vệ nước Lào sẽ không đầy đủ nêu không nêu vào đây gợi ý của Tướng Nicot viết trong cuốn Sổ tay chiến tranh Đông Dương. Ông viết: "Người ta có thể tự hỏi... liệu có thể tốt hơn không nếu ta xảy dựng một kế hoạch hành động, lấy cơ sở là chỉ chiếm tạm thời Điện Biên Phủ để làm "mồi" nhử đối phương, đồng thời tiến hành nghi binh khéo léo, tất cả là nham đế thu hút lực lượng Tướng Giáp ra xa. Tất nhiên việc rút lui của các lực lượng sử dụng cho một cuộc hành quân như thế, có sự liên hệ với các lực lượng ở Lào, tiến hành không quá sớm mà củng không quá muộn sẽ là một vấn đề tế nhị và cuộc hành quân củng không phải dễ làm, ngay cả khi tập trung lớn và chỉ trong một thời điểm nhất định toàn bộ lực lượng không quân ở Đông Dương. Nếu một cuộc hành quân như thế có thế thực hiện được khi chỉ phải ứng phó với riêng Đại đoàn 316 thì nó lại không thế làm được khi Việt Minh điều thêm các Đại đoàn 308, 312 và 351". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:31:09 pm Gợi ý ấy của Tướng Nicot, mà chính ông đã lưu ý một cách rất khách quan những khó khản to lớn khi thực hiện, tỏ ra khá hấp dẫn nhưng nó lại hoàn toàn không thể làm được. Thực ra, không phải đơn giản chỉ là việc kéo Tướng Giáp lên Điện Biên Phủ rồi chuồn, bởi như vậy ông ta sẽ tiếp tục tiến quân sang Luang Prabang chẳng khó khăn gì và nước Lào sẽ bị mất. Mà phải, một khi chủ lực Việt Minh đã bị thu hút, chúng tôi vừa phải lẩn tránh lại vừa phải đánh mạnh vào hậu phương của họ. Thế nhưng tôi chắng có dù cả quân trên bộ, cả phương tiện trên không, chẳng có đủ chính xác về tin tức tình báo cũng như khả năng linh hoạt trong việc thực hiện - tóm lại là tất cả những điều kiện cần thiết để tiến hành một cuộc hành quân cứ phải nhào lộn như làm xiếc trên dây vậy.
Một chỉ trích thường gặp về cuộc hành quân Điện Biên Phủ khi nói về phương diện chỉ đạo chung là: đánh giá thấp đối phương1. Đó là cái lỗi "muôn thuở" có thể nói về bất kỳ một trận đánh thất bại nào: nếu nó không thành công thì thường là vì đối phương mạnh hơn về mọi mặt vũ khí, phương tiện, tinh thần, trình độ nghệ thuật tác chiến so với mức dự kiến... Điện Biên Phủ cũng không nằm ngoài cái luật chung đó. Nhưng, so với các phương án có thể, thì nó lại là phương án được tính toán kỹ hơn cả về những khả năng của đốì phương, những khả năng đã được biết hay dự kiến vào lúc đưa ra quyết định (11-1953). Chỉ về sau này, những khả năng ấy mới tăng rất mạnh, do việc quyết định tiến hành đàm phán ở Geneve. Thế là tất cả các dự kiến đều bị vượt qua cũng như khi xây một cái cầu trọng tải 10 tấn, người ta có thê dự kiến mức an toàn tới 25-30 tấn, nhưng người ta không thể tính là sẽ có một ngày, cái cầu ấy phải chịu trọng tải 100-150 tấn. Một vấn đề chủ yếu và rất được chú ý tranh cãi bây giờ cần được đưa ra xem xét: vê chiến thuật, Điện Biên Phủ có phải là vị trí có thể phòng thủ được không? Đây là một đề tài mà những người "tôi - đã - bảo - rồi - mà" đặc biệt hay bàn luận đến. Đọc những thứ văn chương tả nó, tùy theo sự tưởng tượng của tác giả, vì nó là "cái lòng chảo", "một vòng tròn những ngọn đồi u tốì", "đấu trường Mác so với Trocadéro"2 một "cái mũ lộn ngược", "hẻm núi ở Ronceveaux3”, v.v... thì câu trả lời chỉ có thể là: không, và tất cả mọi người đều có thể nhận thấy ngay. Vậy tại sao trưóc khi bị tiến công, lại không có một ai rung chuông báo động? Tại sao không có một ngươi nào trong số đã chiếm Điện Biên Phủ, không một vị khách lên thăm viếng, không một người trong số quân phòng thủ lại không lên tiếng lưu ý mọi người về cái mà, như Tướng Langlais đã gọi khi sự đã rồi là "sự lựa chọn tồi tệ về vị trí"? Nếu vị trí đó rõ ràng không thể phòng thủ được, tại sao các chỉ huy có thẩm quyền, các chiến binh lão luyện, ví dụ như các Tướng Ely, Blane, Fay, O' Daniel, Hinh, Coguay, Gilles, các Đại tá De Castries và Pirot, các Trung tá Gaucher, Lalande, Langlais, Tiểu đoàn trưởng Bigeard - chưa nói đến các phó tướng của tôi, các chỉ huy các quân - binh chủng ở Đông Dương và Bắc Bộ, các sĩ quan tham mưu của Sài Gòn và Hà Nội cũng như các sỹ quan Mỹ có nhiệm vụ nghiên cứu các điều kiện sử dụng pháo binh và pháo phòng không, lại không có lúc nào, trong suốt thời kỳ ba tháng rưỡi trước khi tập đoàn cứ điểm bị tiến công, kêu lên: khéo "vỡ mặt" đấy! Tất cả đều có thể dễ dàng làm việc này, hoặc trực tiếp, hoặc theo hệ thống đề đạt lên và với vài người trong họ, đó còn là một bổn phận nữa. Nhưng không có một người nào làm, dù dưới bất cứ hình thức nào. Vậy chẳng nhẽ cùng với tôi, tất cả đều bị lòa cả? Tất nhiên là không? Sự thật Điện Biên Phủ không phải là một vị trí không thể phòng thủ được. Nó đúng là một cái "lòng chảo", nhưng khá rộng và thoáng khiến người ta có cảm giác như trên cánh đồng. Nhiều triền núi bao quanh nhưng ở cách xa nên nó không có vẻ nguy hiểm. Về phần tôi, lần đầu tiên đổ xuống sân bay, ngày 29 tháng 11 năm 1953, tôi có cùng một cảm giác như khi còn là một chuẩn uý trẻ, vào năm 1917, tôi đến một khu vực của mặt trận mà ở đấy đồi núi cũng khống chế ở một khoảng tương tự. Thế mà khu vực ấy đã giữ được nhiều tháng. Bị pháo binh Đức quấy đảo ngày đêm và phải tuân theo những biện pháp đề phòng rất nghiêm ngặt, nhưng không một người nào cho rằng vị trí của chúng tôi là không thể phòng giữ được. Tôi tin rằng, tất cả mọi người ở Điện Biên Phủ - quân đồn trú cũng như khách đến thăm - đều có một cảm giác tương tự như tôi4. -------------- 1. Ví dụ như lời phê phán của ông André Teulières trong cuốn "Chiến tranh Việt Nam, 1965-1975). Đây là một tác phẩm rất nghiêm túc, nhưng trong đó sự kiện Điện Biên Phủ chỉ được nghiên cứu sơ lược. 2. Một thị trấn phòng thủ ở Tây Ban Nha bị quân đội Pháp tấn công năm 1828. 3. Đèo ở Tây Ban Nha. 4. Trong các cuộc phỏng vấn vào tháng 4-5 năm 1956 của các ông Jean Farran, tờ Paris Match, và ông Merry Bronherger, tờ Paris Presse, Tướng Giáp cho rằng: tình thế chiến thuật của Điện Biên Phủ không có gì là phi lý. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:39:35 pm Vậv thực ra, vị trí này giá trị như thế nào?
Để chống lại các lực lượng và phương tiện Việt Minh có được vào đầu năm 1954, nó hoàn toàn có thể đủ sức. Nếu Tướng Giáp tiến công vào khoảng 25 tháng giêng như ông có ý đồ thì chắc chắn ông sẽ thất bại. Nhưng chẳng may cho chúng tôi, ông đã nhận ra điều đó và đây là một trong những lý do khiến ông tạm ngừng tiên công. Từ tháng 2, viện trợ ồ ạt của Trung Quốc do triển vọng của Hội nghị Geneve thúc đấy, đã làm thay đổi một cách cơ bản những điều kiện của sự phòng thủ và làm nó trở nên bấp bênh. Lượng đạn được tăng rất nhiều đã tạo cho pháo binh Việt Minh một sức mạnh không ngờ tới. Tuy nhiên tôi không cho rằng pháo binh Việt Minh có thể đóng vai trò quyết định, theo đúng nghĩa của nó. Phương pháp sử dụng từng khẩu đội riêng lẻ ẩn nấp trong hầm không cho phép họ tập trung hoả lực lớn. Phương thức hoạt động ấy đúng hơn là một kiểu quấy rối liên tục, trong tấn công tăng lên khá mạnh, quả là khó chịu, nguy hiểm, nhất là tác động mạnh về tinh thần nhưng không phải là có ý nghĩa quyết định1. Hoả lực của súng cối và pháo không giật, sử dụng mạnh mẽ làm pháo đi cùng và bắn ở tầm gần trong các cuộc tấn công của họ lại tỏ ra hiệu quả hơn. Nhưng quyết định nhất là pháo phòng không. Sự tham chiến của trung đoàn pháo cao xạ hiện đại, được đưa về vào tháng 3, đã có tính chất quyết định. Nhờ bố trí trên sườn những cao điếm không chế, pháo cao xạ của Việt Minh lại càng phát huy được hiệu lực. Chính xét về phương diện này mà vị thế "lòng chảo" của tập đoàn cứ điểm tỏ ra tai hại. Trong những điều kiện như vậy, chúng tôi có khả năng phòng thủ không? Đại tá Rocolle, rất nghiêm túc trong công trình nghiên cứu của ông, đã tin chắc về điều đó. Ông cho rằng nếu không mắc phải một số sai lầm (ví dụ như hầm hố ẩn nấp chưa được kiên cố, không phản kích ra "Béatrice" và "Gabrielle") thì Điện Biên Phủ vẫn giữ được. Tuy nêu lên những lý do khác, Tướng Langlais cũng đồng ý khi ông viết: "Nếu 10.000 bộ binh ở Điện Biên Phủ cũng chiến đấu hăng hái như một dúm lính Pháp và Lê dương thì dù vị thế bị lựa chọn một cách tồi tệ, trận đánh sẽ không thể bị thất bại". Còn Tướng Bigeard đã có lần tuyên bố trước vô tuyến truyền hình, nếu ở Điện Biên Phủ chúng tôi có mười bốn tiểu đoàn thiện chiến thì sự thể sẽ khác hẳn. Những tranh cãi trước và sau trận Điện Biên Phủ, đặc biệt đối với những ai quan tâm đến vấn đề, chưa gợi ra được một giải pháp thoả đáng nào về việc bảo vệ nước Lào. Điều đó chứng tỏ trong những điều kiện lúc bấy giờ, nhiệm vụ đó quả vô cùng khó khăn đối vối tôi. Giải pháp duy nhất có thể xoay xở mà tôi thấy được là cuộc hành quân Điện Biên Phủ. Cuộc hành quân đó đã thất bại, vì thế thật dễ dàng khi lan truyền rộng rãi trong công chúng rằng: nó là phi lý - và người ta đã không lỡ dịp để nói. Một luận điểm cho rằng - nếu không phải duy nhất thì cũng là chủ yếu - Đông Dương bị mất là do chúng tôi mắc một sai lầm chiến lược đã được hoan nghênh trong giới chính trị và quân đội, những người ít hay nhiều phải chịu trách nhiệm về chiến tranh. Tuyên bố vô tội cho tất cả, luận điểm này đã được các giới vội vã ủng hộ và báo chí cũng nâng đỡ mạnh mẽ. Sau này, lời chứng của một số người trong cuộc, báo cáo của Uỷ ban điều tra, công trình nghiên cứu của một số tác giả hiếm hoi, có hiểu biết và khách quan quan tâm đến vấn đề này đã khôi phục được gần như sự thật. Nhưng nó chỉ được phổ biến trong phạm vi rất hẹp nên chẳng thay đổi được gì mấy ý kiến công chúng. Để kết thúc cuộc tranh luận này, tôi dẫn ra đây ba ý kiến xem xét về cuộc hành quân Điện Biền Phủ của các nhân vật trực tiếp dính dáng đến sự kiện và có thẩm quyền mà không cần phải bàn cãi. Người thứ nhất là Tướng Giáp. Trong cuộc phỏng vấn của ông Merry Bronherger năm 1956, về cuộc hành quân Điện Biên Phủ, Tướng Giáp đã nói: "Người ta bảo rằng cuộc hành quân ấy là ngu xuẩn. Nhưng nó đã được quan niệm đúng... Chúng tôi đã phải ngừng cuộc tiến công sang nước Lào". Người thứ hai là Đại tá Crévecoeur, chỉ huy lực lượng ở Lào. Ông đã phát biểu trước uỷ ban điều tra: "Nếu chủ lực Việt Minh không bị thu hút và giữ chân 5 tháng ở Điện Biên Phủ chỉ bởi 13.000 người chúng ta thì các Sư đoàn của họ sẽ giáng cho lực lượng ta ở Lào những đòn ghê gớm và sẽ làm Lào phải sụp đổ; và đối với đồng bằng, họ sẽ làm cho tình hình dần dần trở nên hiểm nghèo, đến nỗi một ngày nào đó sẽ dẫn đến thảm hoạ Cuối cùng là Tướng Ely. Ong đã viết trong cuốn Đông Dương trong cơn sóng gió: "Tôi thực sự tin rằng, hồi đó nếu tôi là tổng chỉ huy ở Đông Dương tôi sẽ không quyết định như Tướng Navarre2, nhưng ngay đến bây giò, tôi cũng không thể nói được rồi tình hình ở Lào và ở Bắc Bộ sẽ ra sao". Ông nói thêm: "Vả lại, nếu bởi một cơ may quá sức mong đợi, một cơ may nhiều khi có vai trò quyết định đối với chiến tranh, mà Điện Biên Phủ không thất thủ, nếu chỉ cần tập đoàn cứ điếm được giải thoát bởi không quản Mỹ, thì sự lựa chọn của Navarre phải chăng ngày nay sẽ lại được coi như một nét thiên tài? Và những người đã lên án nó, liệu bấy giờ họ có từ chối không phải là "cha đẻ" ra nó không?” ------------ 1. Sau trận đánh, hầm hố ít bị đảo lộn hơn nếu so với mức độ bị phá hoại của một số khu vực tại Mặt trận trong thời kỳ Chiến tranh 1914-1918. Thế mà những khu vực này vẫn chống đỡ được với nhiều cuộc tấn công. 2. Tiếc rằng Tướng Ely không nói ông sẽ quyết định thế nào - bởi dù thế nào cũng phải có một quyết định! Dù sao vào lúc ấy, như người ta thấy, ông đã chấp nhận hoàn toàn cuộc hành quân Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:48:44 pm Không quân có thể cứu nguy cho Điện Biên Phủ không? Tôi đã nói, vê mọi phương diện và trong tất cả các đợt của cuộc chiến đấu, không quân đã gây thất vọng như thế nào? Tôi quy việc kém hiệu quả ấy trước hết là do chúng tôi có ít máy bay và yếu về bảo đảm hậu cần cho không quân. Tuy nhiên, không phải tôi không biết đến sự yếu kém của việc chỉ huy không quân và tôi đã phải quyết định, có sự nhất trí của Tướng Fay, một vài thay thế mà vì không muốn "thay ngựa giữa dòng", tôi đã để hoãn đến cuối chiến dịch, tức là vào mùa hè 1954. Nhưng tôi không đánh giá những yếu kém khá trầm trọng ấy là có ảnh hưởng quyết định tới kết cục của cuộc chiến. Trong cuốn "Tại sao Điện Biên Phủ", Đại tá Rocolle đã nghiên cứu rất nghiêm ngặt về hoạt động không quân. Ông đã tham khảo một số lớn tài liệu, đặc biệt những mệnh lệnh và báo cáo của các phi vụ, và ông đã khẳng định những khuyết điểm và yếu kém trong sử dụng không quân còn quan trọng hơn là tôi tưởng. Những chỉ trích ấy của ông nhằm trước hết các bộ chỉ huy mặt đất và trên không của Hà Nội và cũng rộng ra tới một số cấp thấp hơn. Việc oanh tạc các tuyến giao thông của Việt Minh là quá phân tán (quá nhiều điểm đánh phá với một số lượng nhỏ máy bay). Nhiều phi vụ dành cho Điện Biên Phủ lại bị chuyển cho đồng bằng. Hiệu suất của máy bay ném bom và vận tải tỏ ra quá yếu, ngay cả khi có tính đến tình trạng thiếu máy bay, thiếu người lái và nhân viên bảo quản, sửa chữa. Đại tá Rocolle kết luận: "Không nghi ngờ gì, chỉ cần chặt chẽ một chút nữa thì không quân đã có thể góp phần tốt hơn vào trận đánh ở Điện Biên Phủ"1. Và ông nghĩ rằng, sử dụng tốt hơn, không quân của chúng ta chắc chắn có thể đóng một vai trò quyết định. Tôi không cho rằng có thể đạt tới như thế. Ngay khi được sử dụng một cách hoàn hảo, phương tiện không quân của chúng tôi cũng còn quá yếu. Để giành thắng lợi cho trận đánh, chúng tôi cần phải có một lực lượng không quân mạnh. Tuy nhiên, nghiên cứu của Đại tá Rocolle cũng làm tôi khắng định rằng một sự can thiệp của không quân Mỹ là có vai trò quyết định. Sự can thiệp của Mỹ bị "sẩy thai" sớm ấy đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi. Một sự lẫn lộn, rối rắm mới đầu do một số nhà báo và "sử gia" tranh luận giữa hai sự việc khác nhau: một bên là chiến dịch Vautour - Chim kền kền, một chiến dịch ném bom quy ước mà tôi đã nói ở trên, do Mỹ đề nghị và chính phủ Pháp chấp nhận đã được nghiên cứu đến chi tiết và có thể tiến hành với một thời gian ngắn báo trước; bên khác là một lời tặng mập mờ của ông Foster Dulles cho ông Bidault vào giữa tháng 4 năm 1954 là "cho hai quả bom nguyên tử", và sau đó không thấy nói gì nữa. Về sự việc sau, mãi sau này tôi mối được biết. Trong cuốn Từ cuộc kháng chiến này đến cuộc kháng chiến khác (D'une Résistance à l'autre) ông Bidault kể lại như sau: - Dulles: "Và nếu tôi cho ông hai quả bom nguyên tử". - Bidault: "Tôi trả lời không phải nghĩ ngợi gì lắm. Nếu ném những quả bom ấy xuống khu vực Điện Biên Phủ thì bên phòng ngự cũng phải chịu đựng như bên tấn công. Nếu đánh các đường giao thông ở tận ngọn của nó là Trung Quốc thì có nguy cơ nổ ra chiến tranh lớn". Người ta chỉ còn biết ngạc nhiên về sự "nhẹ nhàng” khinh suất của ngài Bộ trưởng Pháp. Với cương vị của ông ta, ông có thể phản đốì sử dụng bom nguyên tử về phương diện chính trị và đạo lý. Nhưng ông lại duy nhất chỉ đặt những lý lẽ quân sự lên trên. Thế nhưng những lý lẽ ấy lại không có một chút giá trị và chứng tỏ ông Bộ trưởng Bộ ngoại giao mù tịt về quân sự. Có một câu trả lời loại bỏ được tất cả các phản đối của ông: đó là việc tiêu diệt căn cứ Tuần Giáo của đối phương. Căn cứ ấy, nơi mọi tiếp tế của đạo quân đang bao vây Điện Biên Phủ phải phụ thuộc, là ở trên đất Việt Nam, do đó không có gì dẫn đến nguy cơ chiến tranh lớn như ông Bidault lo ngại. Khoảng cách của nó với Điện Biên Phủ cũng như hình thế địa hình cho phép tiến hành ném bom, ngay cả bom nguyên tử, mà không gây nguy hiểm gì cho quân đồn trú ở tập đoàn cứ điểm. Ông Bidault từ chổi dùng bom nguyên tử là hoàn toàn có thể thông cảm được. Nhưng với những lý do ông nêu lên thì nó lại tuyệt nhiên không thể hiểu được. Còn về chiến dịch "Vautour", hiệu quả của nó ra sao đôi lần còn phải bàn cãi. Vậy tôi cần nói về những kết quả mà nó có khả năng cung cấp cho chúng tôi. Mỗi chỗ một tý, tôi đọc thấy người ta nói chiến dịch này là để "nghiền nát" chủ lực Việt Minh tập trung xung quanh Điện Biên Phủ. Một sự phi lý như vậy chưa hề có trong đầu óc tôi. Bởi tất nhiên là mọi cái đều chống lại ý định ấy: Sự phân tán của quân đội và các tổ chức của Việt Minh, công trình bảo vệ của nó, công tác ngụy trang, cũng như cự ly quá gần giữa họ và chúng tôi. --------------- 1. Những phê phán này chỉ nhằm không quân. Còn không quân của hải quân thì được sử dụng tốt hơn. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 09:54:25 pm Khối lượng không quân Mỹ, nếu đặt dưới quyền sử dụng của tôi, tôi sẽ tập trung đánh vào trục đường giao thông của Việt Minh, nhất là căn cứ Tuần Giáo; căn cứ này, dù bố trí phân tán và khéo ngụy trang, cũng sẽ không tránh được kiểu "ném bom rải thảm" mà không quân Mỹ có khả năng làm. Và tôi khẳng định sẽ đạt được kết quả quyết định.
Trong một tác phẩm ra mắt ở Hà Nội năm 19651, Tướng Giáp không che giấu những nỗi lo ngại do khó khăn về tiếp tế gây ra, đặc biệt là về đạn dược. Ông thú nhận, có những ngày một số khẩu pháo chỉ còn có năm, sáu, thậm chí ba viên đạn. Tất nhiên những khó khăn ấy sẽ giải quyết được nếu lực lượng không quân chúng ta mạnh. Kết quả ấy, chiến dịch "Vautour" sẽ có thể đem đến cho chúng tôim. Nhưng như vậy, có thể nói là Tướng Giáp sẽ bị bại trận không? Tất nhiên là không. Song ông ta cũng bị buộc phải ngừng tiến công và chấm dứt bao vây - hay nếu không thì đành bằng lòng với việc dùng một lực lượng bị giảm bớt để kiềm chế? Điều đó đối với chúng tôi sẽ là một thắng lợi lớn về tinh thần và không nghi ngờ gì nó sẽ đem lại cho chúng tôi một nền hòa bình trong vinh dự mà chúng tôi đang tìm kiếm. Cũng như vậy, kết quả đạt được sẽ tránh cho người Mỹ những năm dài chiến tranh, vô cùng hao người tốn của, mà kết cục tai hại của nó đã làm thay đổi lòng tin tuyệt đối của các nước đồng minh đối với họ. Muốn vậy, vào thời điểm tháng 4 năm 1954 nước Mỹ phải có một tổng thống khác chứ không phải là Eisenhower. Ông ta hình như rất ít được thông tin về chiến tranh Đông Dương và hoàn toàn không hiếu gì về nó. Là một nhà quân sự xuất sắc nhưng không phải là một chính trị gia tầm cỡ, ông đã không biết nắm lấy cơ hội này. ---------------- 1. "Góp phần vào việc nghiên cứu Điện Biên Phủ" trong "Nghiên cứu Việt Nam". 2. Người ta có thê bắt bẻ rằng trong cuộc chiến tranh lần thứ hai ở Đông Dương, không quân Mỹ mặc dù cực mạnh củng không ngăn chặn được Bắc Việt sử dụng "đường mòn ’ Hồ Chí Minh" chạy qua Trung và Hạ Lào để chi viện cho cuộc chiến đấu ở Nam Việt Nam. Nếu so với thời gian đang đánh ở Điện Biên Phủ thì tình hình rất khác. Tướng Giáp đã tập trung xung quanh tập đoàn cứ điểm 70.000 người (kể cả bộ đội và dân công) lực lượng này hoàn toàn phụ thuộc vào một con đường giao thông độc đạo, trên một địa hình hiểm trở mà bắt buộc phải vượt qua. So với "đường mòn Hồ Chí Minh” thì ít khó khăn hiểm trở hơn nhiều, và lại còn có thể khắc phục bằng những con đường phụ khác. Điều đặc biệt có tính quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ là ở chỗ Việt Minh nhất thiết phải giành được thắng lợi trước mùa mưa nên mọi việc vận chuyển phải cấp tập, khẩn trương. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 10:01:18 pm Sau khi mất Điện Biên Phủ, tình hình quân sự có đến nỗỉ buộc Pháp phải rút bỏ vội vã Bắc bộ và miền trung Đông Dương, cũng như phải tìm kiếm một nền hòa bình bằng mọi giá không? Vấn đề này cũng là đề tài của nhiều cuộc tranh cãi và thường được trả lời là cần phải làm vậy. Trong chương Sau Điện Biên Phủ, tôi đã mô tả về tình hình xảy ra sau khi tập đoàn cứ điếm thất thủ. Tôi nhắc lại rằng, ngày 30 tháng 5, nghĩa là năm ngày trước khi biết có lệnh gọi tôi về, tôi đã gửi cho chính phủ một bức điện. Sau khi phác qua tình hình chung, tôi đã kết luận rằng Việt Minh, rất mỏi mệt, đã phải giảm hoạt động ở khắp nơi, rằng tính toán một cách lý thuyết nếu từ 20 tháng 6 trở đi, họ có tấn công đồng bằng Bắc Bộ thì ý định đó tùy thuộc trước hết vào việc họ đánh giá quyết tâm của chúng tôi ra sao và cuộc tiến công ấy có bảo đảm chắc thắng không. Cũng trong chương ấy, tôi đã tóm tắt tình hình cuộc chiến ra sao, từ khi tôi trở về nước cho đến ngày đình chiến. Đặc biệt, tôi đã nói về diễn biến các cuộc rút lui của Pháp ở Bắc Bộ và Cao nguyên Trung Bộ theo lệnh của chính phủ - những cuộc rút lui do các người kế nhiệm tôi, Tưóng Ely và Salan thực hiện còn tôi thì phản đối. Về tình hình quân sự sau khi tôi về nước, và do đó có cần thiết phải rút lui không, đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh vấn đề này. Ớ đây tôi chỉ nêu những ý kiến của những nhân vật có thẩm quyền hoặc dính dáng với sự việc mà thôi: Trước hết là ý kiến của ông Laniel, còn giữ chức Thủ tướng tới ngày 12 tháng 6. Ông nói: chúng ta đã "hỏng cuộc" chứ chưa phải bị "thất bại". "Xem xét tình hình một cách sáng suốt" cho thấy "về tất cả mọi mặt, tương quan lực lượng đều không bị phá vỡ" và "con chủ bài tốt nhất của chúng ta vẫn là lực lượng quân sự". Và ông để mọi người hiếu rằng, nếu còn giữ chức, ông sẽ biết khai thác tình hình nói chung là còn khá thuận lợi đó. Bức tranh về tình hình mà ba năm sau ông Laniel vẽ lại hoàn toàn chính xác. Tiếc thay, đó lại không phải là cái mà ông làm ở thời kỳ ấy. Ông và chính phủ của ông đã để bị lôi cuốn vào tâm trạng bi quan đen tối nhất. Chính là trong một bầu không khí hoảng loạn mà những quyết định về việc rút lui đã được chấp nhận và đưa ra cho tôi, và nếu thực hiện theo đúng thời hạn Tướng Ely quy định thì cuộc rút lui ấy sẽ biến thành một cuộc tháo chạy thực sự. Cuộc rút lui này, ngay cả khi không kết thúc bằng một thảm hoạ quân sự1 thì cũng có thể làm mất tinh thần quân đội viễn chinh, làm suy sụp quân đội "quốc gia" Việt Nam và làm chúng tôi không thể nào có được một hòa bình trong vinh dự. Luận điểm của ông Mendès France quả "nổi tiếng" về sự đơn giản của nó: tất cả đã mất hết và ông ta đã cứu vãn được hết. ít nhất đó cũng là điều có thể rút ra từ những lời lẽ của ông trên diễn đàn Quốc hội và trong những bài viết của những kẻ nịnh bợ ông. Còn Tướng Ely, người có nhiều thẩm quyền, lại có quan điểm hay thay đổi. Khi đến Sài Gòn ngày 18 tháng 5, mang những chỉ thị của Chính phủ, rõ ràng bị ảnh hưởng bởi không khí hoảng sợ đang ngự trị ở Paris, ông ta tỏ ra rất bi quan. Thế rồi, dần dần qua tiếp xúc với nhiều chỉ huy các cấp, ý kiến của ông thay đổi và trở nên rất gần gũi với tôi. Sau đó bỗng quay ngoắt lại, hình như bởi Tướng Salan, khi trở về Paris, ông đã đệ trình Chính phủ một báo cáo trong đó mô tả tình hình rất đen tối. Khi lại sang Sài Gòn ngày 8 tháng 6 để đảm đương nhiệm vụ mối, tâm trạng của ông rất thất thường, bấp bênh: ông thấy tôi mô tả tình hình quá lạc quan vậy mà sau này viết trong Hồi ký, ông lại cho rằng "tình hình tiếp tục yên tĩnh". Khi sự "yên tĩnh" đó vẫn tiếp tục, ông trở nên tin tưởng hơn khi trở về Paris ngày 20 tháng 62. Rồi sau đó, sang tháng 7, ông lại quay về với tâm trạng rất bi quan3. -------------- 1. Không nghi ngờ gi, sẽ có thể xảy ra tình hình tương tự như sự sụp đổ hoàn toàn của quân đội Nam Việt Nam năm 1975, do rút lui vội vã và thiếu chuẩn bị khỏi Cao nguyên và vùng duyên hải trung phần. 2. Ông Frédéric Dupont, người thay ông Marc Jacquet làm Bộ trưởng Bộ các Quốc gia liên kết, trong cuốn ''Sứ mệnh của nước Pháp ở Châu Á", đã nói về những thay đổi tâm trạng của Tướng Ely. Ồng viết khi từ Đông Dương trở về lần thứ nhất (cuối tháng 5), Tưởng Ely đã "tường trình với ông một cách khá bi quan về tình hình quân sự", "đã dự kiến phải gấp rút bỏ Hà Nội mà ông không tin có thể giữ được quá 2-3 tuần". Và ông Dupont nói thêm: "Nhưng lần thứ hai trở về (tức giữa tháng 6), Tướng Ely lại có ý kiến bớt bi quan hơn". 3. Trong tập Hồi ký của mình, Tướng Salan cho biết ngày 18-7, Tướng Ely đã gửi cho Chính phủ một bức điện với lời lẽ bi quan đến nỗi những người thân cận ông phải tìm cách làm dịu đi (nhưng ông không nghe). Trong cuốn "Kết thúc cuộc chiến tranh" ông Deuilỉers và Lacouture đã ám chỉ đến bức điện này mà theo các ông là có tính chất quyết định. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 10:04:00 pm Dù sao thì những cuộc rút lui do Chính phủ chỉ thị đều phải thực hiện. Như mọi người đã thấy, trên cao nguyên, cuộc rút lui khỏi An Khê đã kết thúc bằng một thất bại nặng nề. Còn ở đồng bằng, cuộc di tản bắt đầu từ khoảng tháng 7 có thể gọi là một thành công vê mặt "kỹ thuật" và tôi không nghi ngờ gì, nó đã thực hiện tốt bởi Tướng Cogny và bộ tham mưu của ông ta, những người rất sành về cái khoản điều hành những cuộc hành quân kiểu đó. Nó đã được tiến hành trơn tru khiến Việt Minh không kịp ra tay. Trong Hồi ký của mình, Tướng Ely cho đó là nhờ giữ được bí mật tốt. Nhưng theo tôi, thì khó mà hình dung rằng, để chuẩn bị cho một cuộc di tản lớn như vậy, nào chuyển đủ các loại kho tàng, rồi kéo theo biết bao gia đình, bao dân chúng - tất cả những cái đó khó có thể lọt qua được mắt họ. Tôi chắc chắn sở dĩ Việt Minh không đánh là vì họ không còn khả năng.
Trước sau tôi vẫn khắng định, tình hình quân sự sau Điện Biên Phủ còn xa mới đạt tối mức trầm trọng như ở Paris người ta gán cho nó từ sau kết thúc trận đánh, cũng như ở Sài Gòn, sau khi tôi ra đi. Khắng định này dựa vào nhiều thông tin mà ở đây tôi chỉ nêu những cái chính: Trong một chuyến đi thăm Bắc Bộ vào mùa thu 1954 ông Guy La Chambre, Bộ trưởng Bộ các Quổc gia liên kết, có hỏi nhiều chỉ huy các khu và các đơn vị cơ động. Gần như hầu hết, họ đều trả lòi chúng tôi có thể tiếp tục giữ được toàn bộ vùng đồng bằng. Trong một báo cáo về các cuộc hành quân ở đồng bằng từ sau khi mất Điện Biên Phủ đến ngày ngừng bắn, Tướng Cogny công nhận rằng lính của chúng tôi luôn mạnh hơn Việt Minh và ít nhất chúng tôi cũng có thể giữ được Bắc Bộ đến mùa thu. Tướng Cogny còn có những phát biểu, nói rằng ông có thể tiếp tục chiến đấu và "chiến thắng". Nhiều chỉ huy các đơn vị cơ động và các khu đã nói hoặc viết cho tôi rằng từ sau khi mất Điện Biên Phủ cho đến ngày đình chiến, họ cảm thấy Việt Minh đã đến lúc "hết hơi". Có tình hình là từ sau khi trận Điện Biên Phủ kết thúc cho đến ngày ký hiệp định đình chiến, Việt Minh đã phải rút quân ở đồng bằng ra ngoài đẻ nghỉ ngơi nhiều hơn là đưa lực lượng của họ vào - điều đó chứng tỏ họ không có ý định tiến công. Ngoài ra, tôi còn được biết có nhiều tài liệu của Bộ tham mưu Đông Dương, trong đó nói rằng "sau Điện Biên Phủ, các đại đoàn Việt Minh đã suy yếu và không còn đủ sức để tiếp tục mở cuộc tiến công", rằng "Bộ chỉ huy Việt Minh không có khả năng khuếch trương chiến quả ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ", và rằng "trong trường hợp hội nghị Geneve bế tắc, Việt Minh có muốn tiến công lớn thì cũng phải đến mùa thu 1954 mới đủ sức". Cuổi cùng, theo nguồn tin là một vài nhân vật trong bộ chỉ huy tối cao của Việt Minh đã nói với các sĩ quan Pháp trong phái đoàn đình chiến rằng trong mùa hè 1954, họ không trù tính đến một cuộc tiến công nào dù bất cứ ở đâu. Những thông tin trên xác minh rõ những gì tôi biết về tình hình cũng như những khả năng của đối phương vào lúc tôi rời Đông Dương. Do đó tôi có thể nói lên chính kiến của mình như sau: Trái ngược với những khắng định của sự tuyên truyền chính thức và những lời đồn thổi của thông tấn báo chí, quân đội viễn chinh không phải đang trong tình trạng nguy hiếm sau trận Điện Biên Phủ. Những cuộc rút lui vội vã mà chúng tôi tiến hành là hoàn toàn không cần phải đặt ra. Giữa Hội nghị Geneve, chang có lý do gì chính đáng, chúng tôi đã vất hết những chủ bài mà chúng tôi còn đang có. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 10:07:42 pm Geneve Những thương lượng ỏ Geneve cũng làm dấy lên một loạt tranh cãi khác. Như tôi đã nói, thương lượng ở Geneve đã được quyết định mà tôi không được hỏi ý kiến, thậm chí cũng không được thông báo. Tôi đã chứng minh nó tác động nguy hại biết bao đối với cục diện chiến tranh. Tôi cũng đã trình bày quan điểm này đối với quá trình diễn biến cũng như sự kết thúc của nó. Về ba điểm trên, ý kiến của tôi đương nhiên chông đối với ý kiến của các nhà chịu trách nhiệm chính trị về thương lượng và những ngươi cùng hội với họ. Nói rằng tôi không được hỏi, không được biết có nghĩa là tôi chống lại luận điếm mà ông Laniel bảo vệ. Trong cuốn Thảm hoạ Đông Dương, ông Laniel viết: Bộ chỉ huy quân sự ở Đông Dương đã được Chính phủ cho biết ý định là muốn tìm kiếm một nền hoà bình có sự thoả hiệp và việc triệu tập Hội nghị Geneve không phải là một sự đổi mới về chính trị "khiến họ bị bất ngờ". Ong Laniel đã chơi chữ. Cái làm tôi bất ngờ tất nhiên không phải là ý định tìm kiếm hòa bình của Chính phủ mà tôi đã được biết và tán thành, mà chính là ở cái đột ngột quyết định tiến hành thương lượng vào một thời điểm đặc biệt không hợp thời về phương diện quân sự. Mục đích kế hoạch tháng 7 năm 1953 của tôi mà Chính phủ đã phê chuẩn, tôi xin nhắc lại, là khôi phục lại tình hình quân sự sao cho nó có khả năng làm chỗ dựa cho một giải pháp chính trị, có nghĩa là chứng tỏ cho Việt Minh thấy rằng họ không thể giành được thắng lợi trong chiến tranh và họ phải chấp nhận một sự thoả hiệp. Do đó việc khôi phục tình hình quân sự là điều kiện tiên quyết để bắt đầu thương lượng và kế hoạch của tôi, như Chính phủ đã chấp thuận, còn kéo dài tới năm 1955, chứng tỏ rõ ràng rằng, nó không phải được hoạch định để tiến hành thương lượng ngay trong thời gian ngắn. Nhưng ông Laniel đã mở cuộc đàm phán ngay mà không cho tôi biết về ý định của ông. Thái độ đó lại càng không thể chấp nhận được bởi, trong báo cáo sau chuyến sang công cán ở Đông Dương, ông Pleven đã ghi rằng khi được biết về khả năng sắp thương lượng, tôi đã đưa ra ý kiến là không nên làm sớm trước tháng 6 hay tháng 7, tức là trước khi những hoạt động tích cực của Pháp kết thúc. Cảm giác thấy mình đã phạm lỗi lầm lớn khi không cho tôi biết về một quyết định có tác hại ghê gớm đối với tình hình quân sự hẳn có làm cho ông Laniel bối rối, vì thế trong Hồi ký của ông, ông đã tìm cách làm người ta tưởng ông đã bảo cho tôi biết. Ông khắng định rằng ông đã phái Đô đốc Cabanier, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, sang gặp tôi với nhiệm vụ báo cho tôi biết những ý định của ông, Đô đốc Cabanier đúng là có sang Đông Dương vào tháng 11 năm 1953 (lúc vừa chiếm xong Điện Biên Phủ), nhưng chuyến công tác của ông chỉ nhằm mục đích duy nhất là thảo luận về những nhu cầu về lực lượng ở Đông Dương. Không có một lúc nào ông nói gần nói xa về nhiệm vụ chính trị mà ông có trách nhiệm phải nói với tôi. Chẳng những tôi không biết được về những cuộc tiếp xúc giữa Chính phủ và Việt Minh hồi đầu năm 1954 (những cuộc tiếp xúc này chỉ càng khuyến khích Việt Minh phải cố đánh thắng Pháp ở Điện Biên Phủ), mà trong một vài cuộc trao đổi, tôi còn được củng cố thêm quyết tâm và dứt khoát chỉ thương lượng khi nào tình hình được cải thiện. Tháng 1 năm 1954, ông Marc Jacquet cho tôi biết Chính phủ phản đối mọi cuộc thương lượng. Tháng 2 - một cách rất thành thật, tôi tin là như thế - ông Pleven cho tôi hiểu rằng việc "chấp nhận" hội nghị ở Geneve chỉ duy nhất là một cách để "tước vũ khí" phe đốì lập, bằng cách chứng minh với họ rằng lúc này một cuộc thương lượng là chưa có khả nảng. Từ đầu chí cuối, tôi cứ bị lừa phỉnh, đưa đẩy vào sai lầm - tôi nghĩ cao uỷ Dejean cũng vậy, vì giữa chúng tôi có sự liên hệ mật thiết, nếu có gì nghi ngờ hắn ông sẽ báo cáo cho tôi. Tuy nhiên, tôi không buộc tội ông Laniel đã lừa dối tôi một cách có ý thức. Tôi tin rằng vào tháng 7 nảm 1953, khi chấp nhận kế hoạch của tôi, ông và các bộ trưởng của ông đều thực sự phản đối việc mở đàm phán khi tình hình quân sự chưa được cải thiện. Nhưng rồi dần dần, trước sức ép ngày càng tăng của sức chống đối trong quốc hội và trong cả nước, ý định tốt đẹp ấy tan rã. Các thành viên Chính phủ, quan tâm trước hết đến những cuộc bầu cử sắp tói, cũng lần lượt nao núng - người cuối cùng, không nghi ngờ gì ông là Bidault, cho đến tận lúc ấy vẫn còn kịch liệt phản đối mọi tiếp xúc với kẻ thù và mọi sự nhượng bộ. Và ông Laniel đã đi theo "hội" của ông. Chắc chắn nếu biết tình hình phát triển theo chiều hướng như vậy, cách xử sự của tôi sẽ có thể thay đổi. Vào tháng 7 năm 1953, tôi đã đặc biệt nhấn mạnh rằng, nếu không cải thiện trước được tình hình quân sự, thì sẽ không có được một nền hòa bình thoả đáng. Do đó tôi sẽ cố gắng can ngăn Chính phủ không nên thương lượng sớm và trong những điều kiện có khả năng tác động nguy hại đến tình hình quân sự. Nếu Chính phủ vẫn giữ quyết định của mình, tôi sẽ xin từ chức. Trong những chương trước, tôi đã nói hội nghị Geneve đã tác động như thế nào đốì với tình hình quân sự. Tác động ấy hiển nhiên tới mức mà mọi phiền hà rắc rổì của nó cho bất cứ ai cũng được người ta ỉm đi. Ông Laniel không hề đả động tới nó: đọc Hồi ký của ông, người ta có thế tưởng rằng chính trị và các hoạt động quân sự, cả hai đều mảy may chẳng chút liên quan. Uỷ ban điều tra cũng giữ một thái độ thận trọng như thế: vấn để đã quá càng thắng, ấy vậy mà họ vẫn né tránh không xem xét, và họ cũng chẳng buồn ghi vào báo cáo. Còn Tướng Ely, dính dáng rất trực tiếp vào sự việc và, với tư cách cố vấn quân sự của Chính phủ, ông có thể, và không nghi ngờ gì là cần phải lưu ý uỷ ban hãy dè chừng. Trong Hồi ký của ông, khi phân tích những nguyên nhân thất bại của Điện Biên Phủ, ông đã lảng tránh vấn đề. Cùng với độ lùi thời gian, những hậu quả tai hại của triển vọng đàm phán đối với tình hình quân sự ngày càng rõ nét và đến nay, nói chung vẫn còn dè dặt nhưng nó đã được công nhận ít nhiều. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 10:14:20 pm Có những cây bút nhiệt liệt tán thành cuộc đàm phán Geneve ở thời kỳ ấy nhưng sau đó đã hiểu ra những hậu quả của nó đối với tình hình quân sự. Chẳng hạn như trong tạp chí Paris số tháng 7-8 năm 1965, ông André Fontaine đã viết: "Triển vọng của cuộc thương lượng sắp tới đã thay đổi tất cả các dữ kiện của vấn đề. Cơ hội đã đến với Tướng Giáp để giành một thắng lợi vang dội buộc nước Pháp phải cầu xin đình chiến. Ông chỉ cần sau khi cắt đứt Điện Biên Phủ với căn cứ tiếp tế của nó, dùng một lực lượng lớn tiến hành bao vây. Trong phần việc quyết định ấy, ông có thể trông cậy vào người Nga và Trung Quốc đang cung cấp cho ông một cách dồi dào ô tô và pháo binh"
Ngay cả ông Lacouture, một nhà báo thuộc phe ủng hộ đàm phán ở Geneve, cũng đã có lần phát biểu trên vô tuyến truyền hình: "Bước vào thương lượng, phe nào củng muốn có chủ bài bảo đảm. Năm 1954, khi thương lượng bắt đầu, Việt Minh đã chiếm được Điện Biên Phủ". Còn ông Bidault, trước đó kịch liệt phản đối thương lượng nhưng sau đó đã thay đổi ý kiến một cách khá kiên quyết, ông viết trong cuốn Từ cuộc kháng chiến này đến cuộc kháng chiến khác: "Tôi nghĩ cần phải thành thật công nhận răng, triển vọng của cuộc đàm phán đã thúc đấy Việt Minh nhanh chóng tiến công và tăng cường quyết tâm phải có thắng lợi để bảo đảm cho đàm phán". Tuy lời thú nhận đó còn úp mở, nhưng nó cũng chứng tỏ người chịu trách nhiệm về ngoại giao của chúng tôi đã hoàn toàn không lường đến những hậu quả về quân sự khi ông chấp nhận thương lượng. Để bào chữa cho việc thiếu lường trước ấy, ông Bidault nói ông "không được biết có những vị trí được tuyên bố là bất khả xâm phạm sau này lại có thể dẫn đến tai hoạ". Nhưng ông không thể không biết đến bức thư gửi Chính phủ ngày 1 tháng 1 năm 1954 của tôi, trong đó chẳng những tôi không tuyên bố Điện Biên Phủ "bất khả xâm phạm" mà còn tỏ ý lo ngại cho số phận của nó nữa. Việc ông Bidault nói ông không biết gì về thực tế tình hình quân sự lại thêm một chứng cớ nữa để chứng tỏ sự thiếu thống nhất hoàn toàn giữa chính trị và quân sự trong hàng ngũ của chúng tôi. Trong cuốn Tại sao Điện Biên Phủ của Đại tá Rocolle, người ta thấy được một sự phân tích khách quan và chính xác về những hậu quả đối với quân sự của đàm phán ở Geneve: "Từ khi cuộc gặp gỡ ngoại giao ấy được công bố, những dự kiến của ông tôtng chỉ huy bỗng rơi vào một loạt những hệ số sai lầm, bởi Việt Minh ra sức triển khai những nỗ lực vượt qua mọi tính toán. Nếu không có Geneve, liệu Tướng Giáp có dám chấp nhận tổn thất đến thế không, khi mà cuộc tiến công trở nên quá tốn kém? Liệu ông có dám hy sinh bộ phận quân tinh nhuệ nhất của ông không? Nếu không có sự viện trợ ồ ạt thì làm sao ông có thể đổ biết bao nhiêu đạn trong suốt 56 ngày chiến đấu, làm thê nào để tiếp tế cho một đạo quân đông như thế, lấy đâu ra đủ xăng, xe để tổ chức tiếp tế vận tải, lấy đâu ra đủ pháo cao xạ 37 ly để kiểm soát không phận Điện Biên Phủ?". Khác với thất bại quân sự, thất bại ngoại giao hầu như luôn luôn có thể - hay ít nhất cũng trong một thời gian nào đấy - được trình bày trước dư luận như những thành công. Chỉ cần biết tuyên truyền giỏi. Đó là điều đã diễn ra sau Geneve1. Người ta đã tuyên bố rằng những hiệp nghị tháng 7 năm 1954 là một thành công rực rỡ: nó đã cứu được quân đội viễn chinh Pháp, đã không nghi ngờ gì tránh được cả một cuộc chiến tranh nguyên tử2, đã cứu vãn được sự có mặt nào đấy của nước Pháp ở một nước Việt Nam được bảo đảm hòa bình. Chẳng có một chút xíu nào là thật cả. Quân đội viễn chinh không cần phải được cứu. Chiến tranh nguyên tử thì chưa bao giờ có sự đe doạ. Còn sự hiện diện của nước Pháp thì chỉ sau đấy vài tháng là không còn tồn tại nữa. Còn ở Việt Nam, một trong những người ca ngợi Geneve1 đã phác ra một bức tranh thơ mộng về cái mà người ta tưởng là hòa bình. Ông viết: "Sài Gòn đã được giải thoát khỏi những ám ảnh chiến tranh... Và ngày chủ nhật, người ta thấy đi về Mỹ Tho hay Vũng Tàu, những cặp trai gái đạp xe, khăn của cô gái phất phơ theo gió. Cái ngày hòa bình mong đợi đã tám năm nay...". Những cặp trai gái ấy, nếu may mắn ngày nay họ còn sống, chắc họ sẽ phải khâm phục biết bao trước tài phán xét sáng suốt ấy! Thay vì một nền hòa bình người ta cho là được bảo đảm, họ chỉ thấy một cuộc chiến tranh tàn khốc, kéo dài hơn 20 năm sau và hậu quả bi thảm của nó thì còn lâu mới chấm dứt được. -------------- 1. Đó củng là điều xảy ra sau khi ký kết hiệp định Paris giữa người Mỹ và Bắc Việt. Nó được trình bày như một thành công tuyệt diệu của ông Kissinger và đã đem lại cho ông giải Nobel hoà bình. Nhưng thực ra đó chỉ là biểu hiện bước đầu sự từ bỏ nhiệm vụ của Mỹ mà ngày nay người ta đã thấy được hậu quả tai hại của nó đối với toàn thế giới. 2. Luận điểm của một vài kẻ nịnh bợ đối với hiệp định Geneve đặc biệt được ông P. Rouanet bảo vệ trong cuốn Mendès France, nắm chính quyển. 3. Jean Lacouture, "Kết thúc một cuộc chiến tranh", Chương 15, tr.297. Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 10:22:11 pm Chiển tranh Đông Dương có thể kết thúc một cách khác đi không? Quay trở lại Đông Dương sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, rõ ràng việc khôi phục lại "nguyên trạng ngày trước" (hay gần như thế) được coi là mục đích theo đuổi của Đô đốc d'TArgenlieu, phù hợp với ý định của Tướng De Gaulle là một cái mẹo để lừa đối phương, còn theo cách hiểu của Tướng Leclère thì ông cho rằng chúng tôi nên bàn bạc thương lượng với họ để đạt tới một sự thoả thuận, dù sự thoả thuận ấy có tồi tệ chăng nữa. Nhưng tất nhiên một thoả thuận có khả năng vãn hồi được các quyền lợi thiết yếu của nước Pháp chỉ có thể giành được khi mà chúng tôi có những nỗ lực hành động nhất định, cả về chính trị và quân sự1. Rủi thay, về công việc ở Đông Dương, những nhà cầm quyền Pháp luôn luôn chia thành hai phe. Một bên là bằng bất cứ giá nào cũng không thoả hiệp, những người này lại chẳng có tài cán gì để thúc đẩy nỗ lực chiến tranh một cách thực sự. Còn bên kia là những người, hiểu lý lẽ hơn, muốn đi tới một sự thoả thuận, nhưng lại sai lầm ở chỗ là muốn thoả thuận bằng bất cứ giá nào, do đó đã ngăn cản mọi nỗ lực cần thiết và làm cho đốì phương kiên gan hơn. Bất hạnh cho nước Pháp là chưa có một lúc nào, từ ngày giải phóng đất nước cho đến 1954, họ có được một ngưòi đứng đầu nhà nước có khả năng vừa giữ được một nền hòa bình có sự thoả hiệp, lại vừa biết nỗ lực chiến tranh để đạt tới nền hòa bình ấy. Tháng 5 năm 1953, vào lúc tôi nắm quyền Tổng chỉ huy ở Đông Dương thì tình hình ra sao? Phía chúng tôi, chiến tranh diễn ra trong một cung cách điều hành gặp chăng hay chớ, chẳng có một kế hoạch tổng thể của nhà nước. Nó dẫn đến một sự tan rữa sâu sắc về tình hình chính trị ở cả nước Pháp và các Quốc gia liên kết. Còn về tình hình quân sự, mặc dù dần dần xuống cấp nhưng nó cũng còn khá vững. Song, không có một kế hoạch của Chính phủ thì điều không thể tránh khỏi là không có một kế hoạch quân sự nào: người ta tìm cách "kéo dài" chiến tranh hơn là "thoát ra" khỏi nó. Thất bại chiến tranh đã dẫn đến tình trạng là hoặc chúng tôi thua cuộc sau một đại bại về quân sự, hoặc là chúng tôi rã rời, "bị xé tả tơi", điều mà Thống chế Juin lo ngại nhất. Còn Việt Minh, năm này qua năm khác, thế của họ ngày càng được cải thiện, cả về chính trị và quân sự. Bây giờ họ đã có thể hy vọng là sẽ thắng trận, nhưng còn phải trong một thời gian khá xa và với những nỗ lực ghê gớm. Song họ cũng đã rất mệt mỏi. Và ở phía chân trời, đã xuất hiện hai nỗi lo đang đe doạ họ: sự can thiệp của Mỹ và sự can thiệp của Trung Quốc. Cả hai đều khiến họ lo ngại, trong đó lo ngại hơn lại là cái thứ hai. Vì vậy họ bắt đầu mong muốn thiết lập VỚI chúng tôi nền hòa bình mà đôi bên có sự nhân nhượng lẫn nhau. Điều đó tránh cho họ khỏi phải có một sự nỗ lực quân sự cuối cùng có tính chất quyết định, đồng thời lại cùng một lúc tránh được cả sự can thiệp của Mỹ và Trung Quốc. Một sự dàn xếp như vậy có vẻ là được. Nhưng với chúng tôi, có thể để chấp nhận được, nó không thể tiến hành khi chúng tôi đang còn trong thế yếu như thời kỳ mùa xuân năm 1953 và do đó, việc cải thiện lại tình hình quân sự của chúng tôi trước khi thương lượng là một điểu kiện hết sức cần thiết. Đó cũng chính là mục đích của kế hoạch mà tôi đệ trình lên Chính phủ vào tháng 7 năm 1953. Không có vấn đề là đè bẹp Việt Minh - điều đó từ lâu rồi đã không thể làm được - mà chỉ là chứng tỏ cho họ thấy rằng họ không thể đuổi chúng tôi khỏi Đông Dương bằng vũ lực, do đó, họ phải nhân nhượng trên những cơ sở mà chúng tôi có thể chấp nhận được. Để kế hoạch trên có thể thi hành một cách hiệu nghiệm, thì ở Paris cần phải có một Chính phủ có khả năng vừa tiến hành những nỗ lực chiến tranh cần thiết vừa đương đầu được với sức ép của những người thuộc phe muốn thương lượng non. Nhưng ở thời kỳ ấy chèo lái đất nước lại là một Chính phủ quá ư nhu nhược, thiếu thống nhất, hèn yếu nhất. Nó tỏ ra không có khả năng để ra một đường lối mạch lạc, nhất quán, kết hợp được giữa hoạt động chính trị và quân sự. Hậu quả đưa đến là tình trạng rốì ren khủng khiếp khi ký kết ở Geneve, trong đó ngoại giao đã gây tác động dẫn đến thất bại quân sự và đến lượt nó, thất bại quân sự lại gây ra nhiều khó khăn cho ngoại giao. Mặc dù vậy, quân sự vẫn còn giữ được những chủ bài. Tuy gây cho Pháp thất bại rất nặng nề, Việt Minh vẫn không giành được thắng lợi quyết định. Trên toàn Đông Dương, tình hình quân sự của Pháp vẫn vững. Việt Minh cũng suy yếu như chúng tôi và cũng mong muốn hòa bình chẳng kém gì chúng tôi. Nhưng những chủ bài ấy đã bị phá hỏng, bởi việc rút bỏ đất đai một cách vô ích ở Đông Dương, bởi sự hoảng sợ được dung thứ nếu không muốn nói là được khuyến khích ở Paris và cuối cùng là bởi sự vội vã muốn ký kết hòa bình biểu lộ ở một êkíp Chính phủ mới, một êkíp mà ý thức cũng như sự khao khát quyền lực đã che lấp cả những quyền lợi chính đáng của nước Pháp. Tôi tin chắc rằng kế hoạch mà tôi chấp nhận thể hiện cơ may duy nhất của chúng tôi để thoát ra khỏi cuộc chiến tranh Đông Dương trong danh dự. Tôi tin chắc, nếu được thực hiện một cách thực sự ở cấp Nhà nước và nhất là nếu không có đàm phán ở Geneve thì kế hoạch đó sẽ thành công, bởi thất bại ở Điện Biên Phủ sẽ không xảy ra. Và tôi tin rằng, ngay cả sau thất bại Điện Biên Phủ, nếu các nhà thương thuyết của chúng tôi không chán nản bỏ tất cả thì một nền hòa bình thích hợp sẽ có thể đạt tới, sự thống nhất của Việt Nam sẽ có thể giữ gìn và một sự có mặt nào đấy của nước Pháp - mà cả hai bên đều mong muốn hơn hết - sẽ có thể được duy trì ở Đông Dương. ------------ 1. Tháng 12 năm 1946, được cử sang công cán ở Đông Dương, tướng Leclère đã dự kiến điều đình với Việt Minh, nhưng đồng thời ông cũng khuyên gửi thêm quân tăng viện. Ông đã viết:" Sẽ chẳng ích lợi gì khi người ta điều đình trên thế yếu". Tiêu đề: Re: Thời điểm của những sự thật - Henri Navarre Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2016, 10:27:34 pm PHỤ LỤC 4 BẢNG ĐỐI CHIẾU TÊN GỌI CÁC VỊ TRÍ THEO TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG PHÁP Phân khu Bắc (theo quan niệm của ta lúc đó gồm ba trung tâm đề kháng Gabrielle, Béatrice và Anne-Marie), được gọi như sau: Đồi Độc Lập Gabrielle Him Lam Béatrice Bản Kéo gồm Anne-Marie 1 và Anne-Marie 2 nằm tại Bản Kéo Phân khu Trung tâm Những cứ điểm ở phía đông: AI Eỉiane 2 C1 Eliane 1 C2 Eliane 4 A3 Eliane 3 E1 Dominique 1 D1 Dominique 2 D2 và vị trí pháo binh 210 Dominique 6 D3 Dominique 5 505, 505A Dominique 3 506,507 Eliane 10 508,508A, 509 Eliane 12 Những cứ điểm ở phía tây: 105 Huguette 6, trước là Anne-Marie 3 106 107 Huguette 7, trước là Anne-Marie 4 108 206 Huguette 1 208 Huguette 2 310 ' Claưdine 4 311, còn gọi là Căng Na Huguette F, còn gọi là Francoise 311A . Huguette 5 311B Huguette 4 Phân khu Hồng Cúm Isabelle Chú thích: Có một số cứ điểm nằm sát sở chỉ huy (PC) của Đờ Cát ở phía tây-nam và đông-nam khu Trung tâm (thuộc Claudine và Junon) ta chỉ đánh dấu trên bản đồ tham mưu, chưa đánh số. HẾT |