Báo cáo của quân Mỹ về hoạt động ở khu vực Chư Tan Kra từ 20/3 đến 2/4/68:
Báo cáo của tiểu đoàn 3, trung đoàn 8, sư đoàn 4 BB
21/03/68 – 02/04/68
1. Dạng hoạt động: Tác chiến phòng ngự căn cứ hỏa lực của tiểu đoàn 3/8 và các cuộc hành quân tấn công liên quan.
2. Thời gian: 21/03/68 đến 02/04/68.
3. Vị trí: Tọa độ YA 939913.
4.Chỉ huy và điều hànhTiểu đoàn 3/8 sư đoàn 4 BB hoạt động dưới sự điều hành của lữ đoàn độc lập 173 ĐBĐK tới 19h00 ngày 30/03/68, sau đó đặt dưới sự chỉ huy của lữ đoàn 3 sư đoàn 4 BB.
5. Sĩ quan báo cáo: Trung tá D.M. Malone, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/8 sư đoàn 4 BB.
6. Lực lượng tham giaa. Tiểu đoàn bộ 3/8 BB.
b. Đại đội A tiểu đoàn 3/8 BB.
c. Đại đội B tiểu đoàn 3/8 BB.
d. Đại đội C tiểu đoàn 3/8 BB.
e. Đại đội D tiểu đoàn 3/8 BB.
f. Đại đội E tiểu đoàn 3/8 BB.
g. Trung đội 2 đại đội A tiểu đoàn 4 CB.
h. Đại đội C tiểu đoàn 6/29 PB (chi viện trực tiếp).
i. Sau 08h15 ngày 26/03/68 lực lượng gồm:
• Đại đội B tiểu đoàn 1/8 BB.
• Đại đội D tiểu đoàn 1/8 BB.
7. Lực lượng yểm trợa. Đại đội C tiểu đoàn 1/92 PB (tăng cường chi viện chung). Đây là đơn vị pháo xe kéo 155mm. Đại đội C bắn khoảng 2000 đạn chi viện cho hoạt động của tiểu đoàn 3/8. Trong đó 571 viên được sử dụng trong phòng ngự căn cứ hỏa lực. Chi viện của đại đội này là hoàn hảo. Pháo bắn trong quá trình phòng ngự căn cứ hỏa lực rất nhanh chóng, đúng lúc và chính xác. Trong suốt cuộc tấn công pháo bắn chi viện ở cự ly gần. Khi quân BV bắt đầu ngừng đánh và rút lui, pháo được chuyển làn bắn nhằm khống chế đường rút lui và những chỗ nghi ngờ là điểm tập kết. Trong giai đoạn sau, đạn văng mảnh điều khiển (COFRAM – Control Fragmentation Ammunition) 155mm cũng bắn vào những nơi nghi ngờ có quân BV tập trung ở phía tây bắc căn cứ hỏa lực.
b. Đại đội D tiểu đoàn 5/22 PB (chi viện chung): đại đội pháo 8 inch này bắn khoảng 500 viên đạn chi viện. Chủ yếu để phá công sự của đối phương. Trong trận tấn công của quân BV vào căn cứ hỏa lực, 46 viên đạn đã được bắn vào điểm cao 1198 phía bắc căn cứ để ngăn chặn.
c. Đại đội A tiểu đoàn 3/319 PB: ngoài đại đội chi viện trực tiếp cho tiểu đoàn 3/8 BB thì đây là đại đội duy nhất yểm trợ bằng pháo 105mm. Đại đội A bắn khoảng 500 viên đạn trong chiến dịch. Nagy 30/04/68 đại đội này rời khu chiến và được thay thế bằng đại đội A tiểu đoàn 2/9 PB. Trong phòng ngự đại đội A tiểu đoàn 3/318 bắn chi viện bằng kỹ thuật sử dụng góc bắn cao dọc theo mặt bắc chu vi phòng thủ. Hạn chế về tầm bắn đã gây cản trở cho hoạt động của đại đội.
d. Đại đội A tiểu đoàn 2/9 PB: đại đội này không có mặt cho tới khi thay quân cho đại đội A tiểu đoàn 3/318 ngày 30/04/68. Đại đội bắn khoảng 500 viên chi viện cho các hoạt động tấn công và bắn phản pháo súng cối đối phương.
e. AC-47 vũ trang và pháo sáng (Spooky): Spooky chi viện gần bằng hỏa lực và pháo sáng dọc theo khu vực tây bắc, tây và nam chu vi phòng thủ. Trong một số trường hợp, các phi vụ không kích và pháo kích đã gây cản trở cho viện thả pháo sáng liên tục. Quân BV tận dụng điều này để tăng cường hỏa lực và cơ động trong bóng tối. Để khắc phục, súng cối 81mm trong biên chế được sử dụng trong khoảng giữa những lần pháo sáng thả từ máy bay.
f. AC-47 thả pháo sáng (Moonglow): duy trì pháo sáng liên tục sau khi Spooky rời đi. Mặc dù các máy bay này không có súng minigun 7,62mm nhưng pháo sáng được cung cấp đầy đủ.
g. Tập đoàn không quân 7/13: Toàn bộ chiến dịch được 43 phi vụ không kích chi viện. 14 phi vụ được thực hiện trong trận phòng ngự căn cứ hỏa lực và 5 trong số đó tiến hành trong điều kiện tầm nhìn hạn chế, với pháo sáng từ Spooky và Moonglow. Các phi vụ còn lại để yểm trợ hoạt động tấn công và đánh các vị trí có quân BV đã biết. Tiểu đoàn yêu cầu 15 phi vụ trinh sát và nhận được 8. Các phi vụ này nhằm vào những nơi nghi ngờ là căn cứ hay điểm tập kết của quân BV. Mọi yêu cầu về không quân đều là ngay lập tức và thời gian phản ứng có sự chênh lệch đáng kể. Phản ứng đối với binh sĩ đang giao chiến là khoảng 30’. Không kích theo yêu cầu vào các mục tiêu chuẩn bị trước trễ khoảng 5 tiếng. Một chú ý là trong trận phòng thủ căn cứ hỏa lực đã có sự chi viện gần và liên tục. Các vụ không kích cách phía tây chu vi phòng thủ 200-300m trong điều kiện rất bất lợi.
h. Đại đội C tiểu đoàn 6/29 PB: đại đội này bắn khoảng 1500 viên. Chủ yếu để chi viện các hoạt động tấn công, bắn chuẩn bị và bắn chế áp. Trong trận phòng thủ căn cứ hỏa lực đại đội bắn khoảng 30 viên đạn Beehive. Đại đội đã bắn thẳng vào các đơn vị BV tấn công. 1 khẩu pháo đã bị quân BV chiếm nhưng sau đó đã được chiếm lại bằng cuộc phản kích của các pháo thủ và nhân viên tiểu đoàn bộ. Đại đội tiếp tục bắn trong quá trình phòng thủ với ít nhất 2 khẩu, mặc dù bị hỏa lực uy hiếp.
g. Nhận xét chung về các đơn vị hỗ trợ: tất cả các đơn vị đã yểm trợ đáng kể. Pháo binh bắn chính xác và phản ứng mau lẹ theo yêu cầu của đơn vị. Dường như các phi công và kiểm sát tiền tuyến (Forward Air Controller) dường như đã bất chấp điều kiện thời tiết bất lợi khi chi viện trong phạm vi phòng thủ 200m. 3 phi vụ tiếp tế và nhiều phi vụ tải thương ngay sau khi trời sáng rất đáng được khen ngợi. Việc tiếp tế và tải thương được tiến hành dưới hỏa lực súng bộ binh, súng cối và rocket dữ dội. Các phi công trực thăng đã kiên nhẫn và nỗ lực để đáp ứng mọi yêu cầu của binh sĩ.
8. Tình báoa. Khu vực tác chiến: địa hình khu vực là tiêu biểu ở cao nguyên Trung phần. Cây cối mọc dày và rừng 2 hoặc 3 tầng khá phổ biến. Nước dồi dào và thường xuyên có suối. Thời tiết ấm áp và ẩm, không có mưa. Vào sáng sớm sương mù hạn chế tầm nhìn chỉ còn ½-2km và giữ nguyên như thế trong cả giai đoạn.
b. Tình báo đến trước chiến dịch: Nguồn tin tình báo duy nhất trước trận quân BV tấn công căn cứ hỏa lực là SPAR (?) và báo cáo từ trinh sát vô tuyến. Nguồn tin được cung cấp bởi lữ đoàn 173 ĐBĐK và trại LLĐB Polei Klieng. Thông tin này cho thấy có sự chuyển quân của đối phương từ tây sang đông xuyên qua khu vực hoạt động của tiểu đoàn. Không có dấu hiệu tấn công nào, tuy nhiên đường mòn mới, công sự, mạng lưới dây thông tin đã được phát hiện trong vòng vài giờ sau cuộc tấn công cho thấy sự hiện diện của 1 tiểu đoàn BV phía bắc và 1 tiểu đoàn BV phía nam căn cứ hỏa lực.
c. Tình báo trong chiến dịch: Đơn vị tham dự trận tấn công là trung đoàn 209 BV được hỗ trợ bởi 1 số đơn vị pháo binh và trợ chiến không rõ. Ít nhất 2 tiểu đoàn của trung đoàn 209 tham chiến trực tiếp. Tài liệu và báo cáo thu được cho thấy họ được tăng cường 1 đơn vị hỏa lực nặng và tân binh từ các trung đoàn 32, 312 và 24 BV. 1 chi tiết đặc biệt là trên thực tế trung đoàn 209 vừa mới tới chiến trường. Đơn vị này được trang bị tốt 1 cách khác thường. Súng phun lửa, mũ sắt và quân trang đã được tìm thấy. Các trang bị tỏ ra còn mới và bảo quản tốt. Súng phun lửa được xung kích sử dụng để đột phá các công sự phòng thủ và yểm trợ xung phong vào vị trí pháo binh. Lính BV có vẻ khỏe mạnh và được chăm sóc tốt.
d. Thông tin của đối phương: Ngày 27/03, đại đội B càn quét khu vực bắc và tây căn cứ hỏa lực, qua đó tin rằng chủ lực đối phương đã rút lui. Đại đội B hạ được 1 lính BV đang mắc dây ở phía bắc căn cứ 200m. Lính BV này mang theo dây, điện thoại, ăng ten điện đài và máy thu phát cầm tay. Dây bổ sung được tìm thấy nằm song song với phía trước chu vi phòng thủ và chạy về phía bắc tới 1198. Trước đó ngày 22/03 đại đội B tiểu đoàn 1/8 BB cũng phát hiện dây nằm ở phía đông căn cứ, có vẻ được mắc nhiều ngày trước cuộc tấn công.
e. Vũ khí hóa học: Qua kiểm tra các tử sĩ BV hôm 26/03 đã tìm thấy nhiều lựu đạn CS của BV. Mỗi lính BV mang 1 mặt nạ phòng độc 2 mảnh truyền thống. Ngày 27/03 hơi CS đã xuất hiện trong chu vi phòng thủ và được đại đội pháo binh và đại đội C báo cáo lại. Đây là đạn CS, tuy nhiên không xác định được rõ là hơi CS đó đến từ đạn cối vẫn đang bắn vào lúc đó hay từ lựu đạn CS đang được đốt ở phía ngoài. Ngày 29/03 đại đội D tiểu đoàn 1/8 BB và đại đội A thu được 1 bàn đế cối 82mm và 8 viên đạn ghi rõ mác CS. Ngày 01/04 súng cối đã gây cháy nổ đạn trong căn cứ. Đạn cối tiếp tục nã trong quá trình cháy. Ngay sau khi ngọn lửa bùng lên 1 lượng lớn hơi CS đã phủ lên căn cứ. 1 lần nữa nó có thể là từ đạn dược của quân Mỹ đang bị cháy, tuy nhiên kho đạn của quân Mỹ không chứa đạn CS nào.
9. Nhiệm vụ: Nhiệm vụ của tiểu đoàn 3/8 BB là thiết lập căn cứ hỏa lực tại tọa độ YA 939913 và tìm kiếm, ngăn chặn đối phương di chuyển về phía đông tới Polie Klieng và TX Kontum.
10. Kế hoạch chiến dịch:
a. Giai đoạn 1 (20/03/68): đại đội A và D đột kích vào tọa độ YA 939913 để chiếm lĩnh và chuẩn bị địa hình cho việc thiết lập căn cứ hỏa lực 14 (FSB 14).
b. Giai đoạn 2 (21/03/68): căn cứ hỏa lực triển khai tại tọa độ YA 939913, các đơn vị bắt đầu tuần tra về phía bắc, tây và nam. Đại đội B được không vận tới khu vực và làm nhiệm vụ phòng vệ căn cứ.