Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Năm, 2024, 01:23:19 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 531903 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #60 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2010, 02:20:28 am »

(tiếp)
Cuộc xung đột lịch sử xung quanh các đảo ở biển "Nam Trung Hoa", từ ban đầu và nay vẫn tiếp tục mang đặc tính là cuộc đối đầu trực tiếp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng cùng với nó, trong những năm gần đây, khu vực các đảo quần đảo Trường Sa đã trở thành vấn đề tranh cãi chủ quyền giữa 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Malaysia, Philippin và Brunei. Mặc dù có kích thước rất nhỏ, các đảo của quần đảo Trường Sa lại có ý nghĩa chiến lược quan trọng từ điểm nhìn tồn tại trữ lượng lớn dầu mỏ và khí đốt. Trên các đảo đều không có cư dân thường xuyên sinh sống và hiện nay nó được sử dụng làm khu vực hoạt động đánh bắt cá.
Các sự kiện chủ yếu diễn ra trong vòng 15-20 năm trở lại đây xung quanh các hòn đảo nhỏ bé của quần đảo Trường Sa, có tính chất rất nghiêm trọng. Chúng ta hãy điểm qua những thông tin ngắn gọn về thời kỳ này, trong đó có sự kiện năm 1988 có liên quan đến hạm đội.
Vào năm 1987, Trung Quốc đã nắm bắt được một cơ hội thích hợp để thâm nhập thực sự vào vùng này của biển "Nam Trung Hoa": LHQ yêu cầu họ thiết lập một trạm nghiên cứu khoa học tại quần đảo Trường Sa để quan trắc khí tượng, đây là nhiệm vụ trong khung chương trình toàn cầu về nghiên cứu đại dương. Kế tiếp là sự phản đối và tuyên bố của Bộ ngoại giao Việt Nam về sự xâm phạm lãnh hải Việt Nam của các tàu chiến Trung Quốc. Trong tuyên bố ngày 20 tháng 2 năm 1988, đại diện bộ ngoại giao Việt Nam chỉ ra rằng "hoạt động quân sự của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa (Spratly) đe dọa sự an toàn của Việt Nam và các nước láng giềng trong khu vực, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa".
Mặc dù sự ngăn cản bằng mọi phương tiện và biện pháp của Hải quân Việt Nam đối với công việc xây dựng và di chuyển của các tàu Trung Quốc, trong tháng 3 năm 1988 với sự hỗ trợ của Hải quân CHND Trung Hoa, trạm nghiên cứu khí tượng đã được xây dựng. Ngày 14 tháng 3 năm 1988, một cuộc xung đột vũ trang đã xảy ra với sự tham gia của các tàu chiến của Trung Quốc và Việt Nam (trong đó có các tàu của vùng 4 Hải quân CHXHCN Việt Nam) ở bãi đá ngầm Johnson (Trung.-"Sinh Koi"). Kết quả là CHND Trung Hoa đã chiếm được 6 bãi đá ngầm và san hô thuộc quần đảo Spratly, cắm được cờ của mình ở một khu vực cách xa lục địa Trung Hoa. Bằng cách đó, Trung Quốc đã tạo được một bàn đạp lợi hại kiểm soát các đảo khác thuộc quần đảo Spratly.
Tháng 11 năm 1991, sau 18 tháng kể từ khi xảy ra xung đột căng thẳng Việt-Trung, như cả 2 phía đều đánh giá, đã có "bình thường hóa hoàn toàn" quan hệ giữa 2 nước. Trong điều kiện Liên Xô tan rã, yếu tố "tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa" đã mang ý nghĩa chiến lược quan trọng.
Tháng 2 năm 1992, đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc ban hành "Luật về lãnh hải và vùng đặc quyền", theo đó các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ nước CHND Trung Hoa. Bắc Kinh đã ký hợp đồng với công ty dầu lửa Mỹ "Crestone Energy" cho phép nhượng quyền thăm dò lô thềm lục địa cách bờ biển Việt Nam 250km, nhưng cách bờ biển Trung Quốc 1300km.
Ngày 19 tháng 4 năm 1994, chính phủ Việt Nam ký với tổ hợp quốc tế gồm các công ty Mỹ, Nhật, Nga hợp đồng khai thác mỏ dầu tại thềm lục địa Nam Việt Nam. Phía Trung Quốc liền tuyên bố rằng họ coi hợp đồng đó là trái phép vì mỏ dầu đó nằm ở thềm lục địa Spratly. Trước đây, Bắc Kinh chưa hề bao giờ tuyên bố yêu sách về lô thềm lục địa đó.
Tháng 6 năm 1994, Quốc hội Việt Nam ra nghị quyết phê chuẩn Công ước của LHQ về luật biển, trong đó lại khẳng định một lần nữa chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Paracels (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa).
Giữa năm 1994, người Trung Quốc bắt đầu tiến hành thăm dò tài nguyên trong khu vực và đi vào vùng đặc quyền kinhtế của Philippin. Tháng 10 năm 1994, lực lượng cảnh sát biển Philippin bắt giữ và trục xuất khỏi vùng đặc quyền kinh tế của họ 55 ngư dân Trung Quốc, những người đã đặt các mốc chủ quyền Trung Quốc trên nhiều bãi đá ngầm sau khi đã xây dựng trên đó những công trình quản lý có cấu trúc nhẹ và đơn giản.
Năm 1995 đã có sự thỏa thuận giữa CHND Trung Hoa và Việt Nam về việc bắt đầu mở ra các cuộc đối thoại để tìm cách cùng nhau khai thác các nguồn tài nguyên của quần đảo.
Năm 2004 Việt Nam mở rộng hoạt động du lịch ra các vùng lãnh hải còn đang tranh cãi.
Năm 2005 một lần nữa Việt Nam tuyên bố về chủ quyền trên các hòn đảo của quần đảo Trường Sa.
Năm 2008, Philippin ra tuyên bố "sẽ chiến đấu đến thủy thủ cuối cùng và người lính thủy quân lục chiến cuối cùng vì chủ quyền các đảo Spratly".
Mặc dù lịch sử dài dặc các cuộc xung đột lãnh hải này, ngày hôm nay chưa có một lối thoát thực sự khả dĩ cho vấn đề phức tạp trên. Quyết định cuối cùng cho bất kỳ cuộc tranh chấp nào, chỉ có thể đạt được bằng con đường hòa bình mà tiền lệ về các giải pháp trái chiều cho nó là chưa có.
Cùng lúc đó, cả Trung Quốc và Việt Nam ngày nay đang tăng cường lực lượng hải quân của mình. Trong vấn đề trên, căn cứ Cam Ranh-căn cứ hải quân cũ của hải quân Xô viết và hải quân Nga đóng một vai trò rất quan trọng đối với Việt Nam.  

............
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Mười Một, 2010, 02:28:58 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #61 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2010, 12:22:30 pm »

(tiếp: nguồn clubadmiral.ru)
Căn cứ đảm bảo hậu cần-kỹ thuật số 922 và binh đoàn 17

Quân khu Viễn Đông và hạm đội Thái Bình Dương hải quân Nga.


Vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước, các tàu ngầm và tàu mặt nước của hạm đội TBD đã tiến vào các khu vực mới thực hành nhiệm vụ chiến đấu trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Liên quan đến nhiệm vụ này, một vấn đề gay gắt đặt ra là phải xây dựng được một điểm trung gian làm căn cứ thường xuyên nhằm đảm bảo kỹ thuật chuyên ngành và tiếp liệu hậu cần cho các chiến hạm của hạm đội hoạt động trong biển "Nam Trung Hoa" và các chiến hạm từ đó đi ra Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và ngược lại. Cơ quan lãnh đạo chính trị-quân sự cấp cao của đất nước và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang đã xem xét các phương án bố trí các điểm căn cứ như vậy trong biển "Nam Trung Hoa" tại phía nam nước Việt Nam đã giải phóng và tại nước Campuchia đã thoát khỏi chế độ "Khmer Đỏ".
Biển "Nam-Trung Hoa" - một biển nửa kín trải theo bờ biển Đông Nam Á, giữa các bán đảo Đông Dương, các đảo Kalimantan, Palawan, Luxon và Đài Loan. Biển này nằm trong số các vụng biển giữa hai đại dương Thái Binh Dương và Ấn Độ Dương.
Diện tích 3 537 289 km2, độ sâu lớn nhất-5560m. Nhiệt độ nước bề mặt biển vào tháng 2 là 20 độ C ở phía bắc và 27 độ C ở phía nam, vào tháng 8 nhiệt độ đạt đến 28-29 độ C trên toàn diện tích mặt biển. Độ mặn của nước - 32-34%. Về mùa hè và mùa thu trong biển này thường xuyên có bão.
Tàu bè sau khi rời các cảng ở Trung Quốc, Nhật, Nga tới eo biển Singapore và theo hướng ngược lại vào biển "Nam Trung Hoa" đều đi theo tuyến đường biển thường gọi là tuyến hàng hải chính, Đó là tuyến đường biển ngắn nhất và an toàn nhất cho các con tàu.
Yếu tố tự nhiên chủ yếu ảnh hưởng đến hải trình trên tuyến hàng hải chính này là Gió Mùa - một chế độ di chuyển tương đối ổn định của các khối không khí và tụ khí xoáy nhiệt đới - các lốc xoáy sinh ra từ các vùng tụ khí xoáy này thường có cường độ rất mạnh. Các vịnh lớn nhất trong biển "Nam-Trung Hoa" là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Các đảo nằm trên đường hàng hải chính này có cấu trúc khác nhau. Các đảo trong quần đảo Hoàng Sa và ở vĩ độ thấp hơn là các đảo thuộc quần đảo Trường Sa được cấu tạo từ các tầng san hô, phủ đầy lớp thảo mộc có tầm cao thấp. Giữa  các đảo có rất nhiều đá ngầm nguồn gốc san hô, các doi cát và rặng san hô ngầm. Đặc biệt nhiều đá ngầm giữa các đảo của quần đảo Trường Sa, khu vực xung quanh chúng hầu như chưa được khảo sát. Đảo cao độ lớn nhất Itu-Aba có cao độ vượt trên mực nước biển chỉ là 4m.
Đối với các tàu của hạm đội Xô viết Thái Bình Dương, việc thực hành nhiệm vụ chiến đấu tại Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, và biển "Nam-Trung Hoa", đã gặp thuận lợi hơn nhiều khi xây dựng được điểm tiếp liệu đảm bảo hậu cần-kỹ thuật (PMTO) trong vịnh và trên bán đảo Cam Ranh thuộc lãnh thổ Việt Nam, còn thực tế - đó là căn cứ hải quân Cam Ranh trong vịnh Cam Ranh.
 V.S. Kozlov-chuẩn đô đốc hồi hưu - nguyên cục trưởng hợp tác quốc tế về kỹ thuật quân sự hải quân Liên Xô, đầu tháng 2 năm 1978, dẫn đầu nhóm sỹ quan ở Bộ chỉ huy trung ương hải quân và hạm đội TBD với toàn quyền quyết định, đã bay đến Hà Nội. Trước khi đoàn đi, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô, đô đốc hạm đội Liên bang Xô Viết, đã huấn thị và chỉ dẫn tìm hiểu tỉ mỉ những gì còn lại tại các căn cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ ở vịnh Cam Ranh hiện Việt Nam đang quản lý, sau khi cuộc chiến tranh với chế độ thân Mỹ ở Sài gòn mới kết thúc cách đây không lâu. Một nhóm lớn các nhà chuyên môn quân sự sẽ phải xem xét kỹ lưỡng căn cứ cũ của Mỹ và chuẩn bị những tài liệu cần thiết để sau này ký thỏa thuận song phương về cùng sử dụng chung căn cứ Cam Ranh phục vụ tàu chiến Xô viết và tàu chiến Việt Nam. Cũng sẽ phải giới thiệu và giải trình với Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam về khả năng các tàu chiến Liên Xô sử dụng căn cứ này khi thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Valentine Stepanovitch Kozlov ghi lại các sự kiện hồi đó như sau: "Căn cứ cũ của Mỹ gây ấn tượng mạnh bởi số lượng rất nhiều công trình bố trí trên 100 km mặt nước ven bờ vịnh. Để đi được khắp khu vực này cần phải mất nhiều giờ trên những con đường còn giữ được trải asphalt và các tấm ghi kim loại. Hàng chục hầm dã chiến các loại, các công trình kho chứa kết cấu kim loại lắp ghép, thậm chí cả 2 nhà xác. Xưởng sửa chữa tàu biển với hệ thống kích thủy lực sừng sững và thiết bị cơ khí lớn và đồng bộ đã làm cho các kỹ sư cơ khí của chúng ta vô cùng mừng rỡ. Hai bến tàu kết cấu bê tông có thể tiếp nhận các tàu và chiến hạm có độ choán nước lớn. Sự thực thì một trong hai bến đó, ở vị trí trung tâm, đã bị phá hủy khá nặng. Tất cả các công trình trong căn cứ đều giữ được kết cấu hạ tầng như quy định, mặc dù cũng có nhiều chỗ hư hỏng đáng kể.
Các chuyên gia hàng không trong nhóm chúng tôi đã rất chú tâm đến sân bay có hệ thống 2 đường cất-hạ cánh với chiều dài hơn 3 km, một trong 2 đường băng này cần tái bổ sung trang bị, nhà chỉ huy đã bị phá hủy hoàn toàn.
Cần 2 tuần lễ cho công việc tìm hiểu, và các bạn Việt Nam tháp tùng chúng tôi đã rất ngạc nhiên về khả năng làm việc của các chuyên gia Xô viết trong điều kiện nóng nực không quen và thừa thãi các loại ruồi muỗi nhiệt đới.
Trở về Hà Nội, tôi báo cáo qua đường liên lạc riêng với Tổng tư lệnh hải quân Xô Viết dự kiến của chúng tôi khả năng sử dụng Cam Ranh làm cơ sở đảm bảo hậu cần-kỹ thuật cho các tàu chiến Xô viết sau khi có những tái thiết cần thiết. Theo chỉ lệnh của Sergei Gorskov, đã chuẩn bị dự thảo nghị định thư và một loạt tài liệu liên quan để thảo luận với ban lãnh đạo Việt Nam việc cùng sử dụng chung cơ sở tiếp liệu hậu cần-kỹ thuật (PMTO) theo nguyên tắc đồng đẳng.  
Chúng tôi đã làm việc rất khẩn trương và năm mới 1979 đã đến gần. Nghiên cứu sơ bộ trong các cuộc trò chuyện với các chỉ huy hải quân vùng đã tạo cơ sở cho chúng tôi giả định rằng trong các cuộc trao đổi cuối cùng, sẽ tìm được sự nhất trí về thỏa thuận sử dụng chung căn cứ. Tuy nhiên dự định của chúng tôi từ những ngày thảo luận đầu tiên đã vấp phải ý muốn của chỉ huy hải quân nước CHXHCN Việt Nam gắn thỏa thuận này với việc cần có sự giúp đỡ bổ sung trang bị kỹ thuật quân sự và vũ khí cho hải quân Việt Nam. Tôi đã nhiều lần liên lạc báo cáo với ban lãnh đạo hải quân Xô viết vấn đề này, rồi nhiều lần quay lại thảo luận với Bộ chỉ huy hải quân Việt Nam.
Cần phải có nhiều nỗ lực mới đạt được thảo thuận nguyên tắc và có sự chuẩn bị cho nội dung "nghị định thư về các dự định"có tính khả thi hơn nữa. Với dự thảo nghị định thư này, chúng tôi cùng chuẩn đô đốc Giáp Văn Cương đến gặp Thứ trưởng Quốc phòng CHXHCN Việt Nam thượng tướng Trần Văn Trà. Trong quá trình thảo luận kỹ càng, chúng tôi đã xem xét những luận điểm cơ bản của đề án, đặt điều kiện trước cho việc sử dụng chung PMTO và sân bay sau khi tái thiết.Ngày 30 tháng 12, nghị định thư đã được ký kết, và ngay hôm đó chúng tôi trở về Moskva và gặp phải tiết trời băng giá ở 35 độ âm. Đô đốc Hạm đội Liên bang Xô Viết S.G.Gorskov đã đánh giá tích cực kết quả chuyến công tác này"
.
Ngày 2 tháng 5 năm 1979, chính phủ 2 nước Liên Xô và CHXHCN Việt Nam đã ký Hiệp định. Trong bản hiệp định này có nói rõ: "...Hai bên Liên Xô và Việt Nam sẽ xây dựng căn cứ Cam Ranh để sử dụng chung cho các hạm đội của mình...hiệp định....cần phải có hiệu lực trong thời gian 25 năm đến năm 2004 và được tự động gia hạn thêm mỗi lần tiếp theo là 10 năm..."
Phù hợp với hiệp định trên là nghị định thư liên chính phủ về việc từ ngày 4 tháng 2 năm 1982 sẽ triển khai (tại Cam Ranh) một binh đoàn chiến thuật của hạm đội Thái Bình Dương, một trung đoàn không quân hỗn hợp và cơ sở đảm bảo hậu cần-kỹ thuật (PMTO) để đảm bảo hoạt động của những đơn vị trên.

Sơ đồ khu PMTO. Nguồn: clubadmiral.ru

............
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Mười Một, 2010, 02:38:47 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #62 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2010, 11:57:37 pm »

(tiếp)
Những chiến hạm đầu tiên của hải quân Xô viết đã cập cảng Cam Ranh:
-   Tháng 3 và 4 năm 1979 - biên đội 3 tàu chiến, dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng hạng 1 Đ.Tserivatyi gồm có tàu săn ngầm "Vasili Tsapaev" (chỉ huy E.Znakhourenko), tàu tuần tiễu "SKR-46", tàu quét mìn "Tral";
-   Tháng 4 năm 1980 - tàu ngầm nguyên tử đề án 670 thuộc biên chế sư đoàn 10 phân hạm đội tàu ngầm số 2 dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng hạng 1 N.M.Souvorov (phó chỉ huy chính trị thuyền trưởng hạng 2 V.T.Puzik, chỉ huy boong tham mưu trưởng sư đoàn thuyền trưởng hạng 1 N.N.Alkaev).

Ảnh: tàu săn ngầm "Vasili Tsapaev" thuộc đề án 1134A.


Ảnh: tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa hành trình K-43 thuộc đề án 670 "Skat" (NATO phân lớp "Charlie-1"). Biên chế tại sư đoàn tàu ngầm số 10, hạm đội TBD, đóng căn cứ chính tại vịnh Krasheninnikov bán đảo Kamchatka. Năm 1984 tàu được chuyển giao cho hải quân Ấn Độ và mang số hiệu S-71, tên gọi "Chakra".

« Sửa lần cuối: 10 Tháng Mười Một, 2010, 03:32:27 am gửi bởi qtdc » Logged
thainhi_vn
Thành viên
*
Bài viết: 705


« Trả lời #63 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2010, 12:10:57 am »

... thuyền trưởng hạng 1 Đ.Tserivatyi...
...thuyền trưởng hạng 2 V.T.Puzik...

Sao ta không dịch hẳn là Đại tá Hải quân và Trung tá Hải quân nhỉ?
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #64 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2010, 12:42:37 am »

Bác nói đúng đấy, nhưng lại nghĩ cứ để thế cho nó khó hiểu theo kiểu hai quần. Ví dụ: chuẩn đô đốc-thiếu tướng cũng được mà chuẩn đô đốc cũng chẳng sao. Đã thế lại còn phó đô đốc-trung tướng. Khó quá, chuẩn bị làm đô đốc rồi thì nó lại chỉ cho lên phó, thế thì không chơi, lên đô đốc luôn, ấy vậy mà mới tương đương thượng tướng. Đô đốc rồi lại không bằng đô đốc hạm đội. Thời CCCP lại còn đô đốc hạm đội Liên bang mới tương đương Nguyên soái. Rất cám ơn bác.  
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Mười Một, 2010, 01:33:59 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #65 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2010, 02:25:09 am »

Từ chối đặt căn cứ tại quân cảng Ream (CHND Campuchia)

Hoàn cảnh đề xuất đặt căn cứ tại quân cảng Ream xảy ra như sau
Trưởng đoàn cố vấn quân sự bên cạnh Bộ Quốc phòng CHXHCN Việt Nam, đại tướng G.I.Obaturov vào tháng 3 năm 1979, trong khi tìm hiểu tình hình bố trí các đơn vị quân đội Campuchia ở miền nam nước này, đã có mặt tại vịnh Ream và nhận thấy vịnh Ream rất thuận tiện để đặt căn cứ cho các tàu chiến Xô viết. Ông đã gửi đề nghị của mình về việc sử dụng cảng Ream và bố trí sân bay cạnh cảng tới Bộ TTM các lực lượng vũ trang Liên Xô. Trong lúc này tại Moskva, người ta đang chuẩn bị cho việc ký Hiệp ước giữa Liên Xô và CHXHCN Việt Nam về xây dựng căn cứ Cam Ranh ở phía nam Việt Nam làm căn cứ sử dụng chung cho các tàu của hải quân Liên Xô và hải quân CHXHCN Việt Nam.
Đến thay thế theo kỳ hạn cương vị Cố vấn trưởng về quân sự cho Bộ Quốc phòng CHXHCN Việt Nam, thượng tướng (từ năm 1984-đại tướng) Ph.Ph.Krivda trong chuyến đi kiểm tra các doanh trại phía nam Việt Nam và Campuchia cũng đã thị sát cảng Ream. Trong hồi ký "Trên hai bờ Mê kông" của minhg, ông viết:"Trên trực thăng bay đến cảng Ream, nơi mà đã dự kiến thỏa thuận với phía Campuchia đặt căn cứ cho các tàu phóng lôi và các khinh hạm Xô viết.........việc sửa chữa cảng và sân bay không cần nhiều phương tiện và tiền bạc, đồng thời cũng không tốn nhiều thời gian." Như vậy, đến lượt mình, Ph.Ph.Krivda cũng đưa đề nghị của ông về việc sử dụng cảng Ream phục vụ hải quân Xô viết, tới Bộ TTM các lực lượng vũ trang Liên Xô.
Tháng 4 năm 1983, đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng Liên Xô (12 người), dẫn đầu là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục xây dựng và quản lý nhà thuộc Bộ Quốc phòng, trung tướng V.I.Ivankov bay đến Cam Ranh theo hành trình: Moskva-Tasken-Karachi-Bombay-Hà Nội-Cam Ranh-Ream. Mục đích chuyến đi: nghiên cứu khả năng đặt căn cứ cho các tàu chiến và máy bay của Hạm đội Thái Bình Dương tại cảng Ream. Trong thành phần của đoàn có Tổng cục trưởng Tổng cục công binh hải quân Xô viết, phó tư lệnh hải quân Xô viết phụ trách xây dựng, quản lý nhà và công binh công trình O.K.Anikanov. Trước chuyến bay, Tổng tư lệnh hải quân, đô đốc hạm đội Liên bang Xô viết S.G.Gorskov đã chỉ thị cho Oleg Karpovitch, tư lệnh đã giao trách nhiệm cho ông phải tìm hiểu vịnh Ream thật tỉ mỉ kỹ lưỡng, phải có kết luận về khả năng có thể đặt căn cứ tàu chiến của hạm đội Thái Bình Dương ở đây hay không. Theo kết quả làm việc ở Bộ Tổng tham mưu Xô viết và Bộ Tham mưu hải quân, người ta đã ra báo cáo về việc không có khả năng đặt căn cứ tại Ream cho các tàu mặt nước của hạm đội vì lý do độ sâu của vịnh nhỏ, chỉ từ 4-6m, chi phí để xây dựng lại hạ tầng cũ của cảng và sân bay rất lớn và phải xây dựng các công trình mới.
Oleg Karpovitch ngày hôm nay, 27 năm sau chuyến thị sát quân cảng Ream và sân bay, nhớ lại: "Tất nhiên, là nhà xây dựng, chúng tôi có thể nạo vét cho vịnh sâu thêm, xây dựng các bến tàu mới, các doanh trại, các toà nhà quản lý, xây dựng lại sân bay. Nhưng tiếp theo làm gì nữa?Về phía biển vịnh không được bảo vệ. Cần phải xây dựng tổng thể mạng lưới đường bộ, công trình phòng thủ chống địch đổ bộ. Cần đổ bộ lên đây một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ (ít nhất là như thế). Cần phải chở vật liệu xây dựng đến bằng đường biển. Chi phí sẽ rất lớn. Đã có những doanh trại bằng gỗ xây trên các hàng cọc cao, rắn rết suốt ngày đêm bò trong các phòng, cắn người và gây ra mối nguy chết chóc. Khu vực này mới rà mìn từng phần. Điều kiện vệ sinh-dịch bệnh trong khu vực rất phức tạp. Cácnhân viên quân sự đóng quân cạnh các phân đội bộ đội Campuchia chỉ riêng bệnh sốt rét thôi cũng đã bị 2-3 lần rồi. Vậy có đáng không? Từ Cam Ranh, theo đường liên lạc riêng tôi đã báo cáo thẳng về Bộ Tham mưu hải quân, còn tại Moskva-báo cáo riêng với Tổng tư lệnh hải quân, đô đốc hạm đội Liên bang Xô viết S.G.Gorskov, những hoài nghi của mình và đề nghị không đặt căn cứ cho các tàu chiến hạm đội Thái Bình Dương tại cảng Ream."Tuy nhiên Bộ Tổng tham mưu quân đội Campuchia ra sức nài nỉ về việc nên đặt căn cứ cho các tàu của hạm đội hải quân Xô viết tại cảng Ream, viện dẫn Hiệp định đã ký giữa Liên Xô và CHXHCN Việt Nam ngày 2 tháng 5 năm 1979. Vì vậy tháng 10 năm 1985, một nhóm sỹ quan bộ tham mưu binh đoàn 17 và sư đoàn tàu ngầm số 38, dẫn đầu là tư lệnh sư đoàn, chuẩn đô đốc Iu.Ph.Spirin, đi trên tàu tiếp liệu "Ivan Vakhromeev" tới cảng Ream với mục đích nghiên cứu thật tỉ mỉ các điều kiện và khả năng đặt căn cứ tàu chiến cho hạm đội. Trong đoàn, có phân đội gỡ mìn (40 người), có nhiệm vụ rà phá mìn cho cảng, dò gỡ mìn các khu vực đặc quyền của cảng và sân bay.
Chuẩn đô đốc Iu.Ph.Spirin nhớ lại: "Chúng tôi đã xem xét kỹ cảng Ream. Những bãi biển đẹp...Cầu tàu duy nhất dài hơn 100m. các công trình trên bờ: Trạm phát điện chạy máy phát diezen (có 4-5 máy phát), xưởng sửa chữa, khách sạn và một số công trình nhà ở. Cạnh đó là sân bay, có thể tiếp nhận các loại máy bay An-26, An-24 và máy bay trực thăng. Đường cất cánh dài gần 1000 m có nhiều chỗ đã bị phá hủy. Tất cả ở trong trạng thái hoang tàn. Hiểm họa về mìn vẫn còn. hệ thống cấp nước đã bị phá hủy. Cần phương tiện, thời gian, cần một đơn vị lập đề án và xây dựng và v.v..Tóm lại, với chi phí thấp, vịnh Ream chỉ thích hợp làm căn cứ cho các tàu tên lửa loại nhỏ, kiểu như cảng Mersa-Matrukh ở biển Địa Trung Hải. Để làm căn cứ cho tàu ngầm diezen, cần phải đổ vào đây nhiều vốn, mà viễn cảnh lại không sáng sủa gì. Phải báo cáo điều này cho tư lệnh binh đoàn (hải đoàn 17) A.A.Kuzmin." 
Việc không chọn cảng Ream để đặt căn cứ tàu ngầm và tàu mặt nước đã được báo cáo tại Bộ Tham mưu hải quân. Và quyết định đặt căn cứ cho tàu chiến hạm đội Thái Bình Dương tại cảng Ream (CHND Campuchia) đã không được đưa ra.

Ảnh: 27 năm sau, Oleg Karpovitch Anikanov (áo trắng) nhớ lại việc xem xét đặt căn cứ tại cảng Ream.
   

..................
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Mười Một, 2010, 08:27:44 pm gửi bởi qtdc » Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #66 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2010, 08:54:58 pm »

Việt Nam và Nga hợp tác xây dựng xưởng tàu hải quân tại Cam Ranh

 
 Các nhà lãnh đạo Việt Nam đang xem xét đề nghị của Nga về việc cùng xây dựng xưởng tàu hải quân tại vịnh Cam Ranh, trên bờ biển Đông Nam của Việt Nam, Jane’s Defence Industry cho hay.

Theo thông tin của chính phủ Việt Nam, nhiệm vụ chính của liên doanh này là sửa chữa và bảo dưỡng kỹ thuật cho tàu chiến và tàu thương mại. Xưởng sẽ bảo đảm bảo dưỡng tàu hải quân của Việt nam, cũng như của hải quân nước ngoài.

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã tuyên bố rằng, cơ sở này dự kiến được bố trí riêng biệt với các phương tiện bảo dưỡng của Hải quân Việt Nam và được xây dựng với sự tham gia của các chuyên gia Nga.

Vịnh nước sâu Cam Ranh nằm tại khu vực có tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông. Ban đầu, Cam Ranh được sử dụng làm căn cứ của Hải quân Mỹ, còn từ năm 1979-2002 là căn cứ của Hải quân Liên Xô/Nga.

Bất chấp những tuyên bố nói rằng, Nga không có ý định khôi phục căn cứ hải quân ưor Cam Ranh, nhưng xét đến sự tham gia tích cực vào các chiến dịch chống cướp biển và việc trở lại đại dương thế giới, rõ ràng là hạm đội Nga quan tâm đến sự hiện diện của một căn cứ bảo đảm vật chất-kỹ thuật ở Việt Nam.

Kế hoạch hợp tác xây dựng xưởng tàu đã được Nga đưa ra với ban lãnh đạo Việt Nam trong chuyến thăm Việt Nam vào cuối tháng 10.2010 của TT Nga Dmitri Medvedev.

Theo các chuyên gia, trong quá trình hội đàm, hai bên tập trung chú ý chủ yếu vào việc thống nhất danh mục các chương trình đền bù liên quan đến những thương vụ mua sắm vũ khí Nga của Việt Nam, trong đó có 6 tàu ngầm diesel-điện lớp Kilo, 20 tiêm kích Su-30MK2 và các tàu tuần tra lớp Projekt 10412 Svetlyak.

Nguồn: Armstrade, 15.11.2010.

http://vietnamdefence.com/Home/tintuc/Viet-Nam-va-Nga-hop-tac-xay-dung-xuong-tau-hai-quan-tai-Cam-Ranh/201011/49867.aspx
Logged
DetuHitler
Thành viên

Bài viết: 2


« Trả lời #67 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2010, 06:09:47 pm »

Liệu có nêu cho Nga tiếp tục thuê căn cứ này? Với một số điều khoản khác như: Nga hỗ trợ Việt Nam xây dựng căn cứ tàu ngầm với một số tiền viện trợ không hoàn lại; giúp đỡ việc đào tạo đội ngũ quân nhân trình độ, đại học, trên đại học; chuyển giao các công nghệ tiên tiến để Việt Nam có thể tự nghiên cứu và đóng mới các tàu Hải quân; góp phần cùng nước ta xây dựng Cam Ranh trở thành căn cứ hải không quân tầm cỡ trên thế giới góp nhằm nâng cao vị thế Việt Nam trên trường thế giới. So với việc chúng ta ra giá 200 triệu USD 1 năm, năm 2004.
Tiểu đệ mới viết bài lần đầu còn nhiều thiếu sót và kém hiểu biết, có gì không phải xin các sư huynh chỉ giáo thêm. Tiểu đệ xin cung kính cúi đầu lĩnh ý !
-------------------------------------------------------
Vô sản các nước đoàn kết lại.
Logged

Vô sản các nước đoàn kết lại.
lantuyet
Thành viên
*
Bài viết: 27


« Trả lời #68 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2010, 08:58:06 am »

Bác qtdc viết về sự hiện diện quân đội Liên xô tại căn cứ Cam ranh rất hấp dẫn, chắc bác "đi tranh thủ mà vẫn chưa lên đơn vị" để viết tiếp chủ đề này. Xin lỗi MOD cho em spam chút: Em đoán là bác qtdc cũng đã phục vụ ở Cam Ranh, chắc bác ở Phòng kỹ thuật của Vùng 4 hay ở bộ phận chuyên làm việc với chuyên gia Liên xô à. Em đã ở Cam Ranh năm 1996, bọn em ở dãy nhà gỗ 2 tầng (nghe nói là khu nhà nghỉ của phi công Liên xô) và cũng được nghe nhiều, đi tham quan nhiều công trình do Liên xô và Mỹ xây dựng trong căn cứ. Tuy nhiên, đọc bài của bác, em thấy có rất nhiều thông tin bổ ích và em đề nghị bác viết tiếp cho nhiều người quan tâm được hiểu rõ thêm thời kỳ Hải quân Liên xô có mặt tại Cam Ranh.
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Mười Một, 2010, 09:12:35 am gửi bởi lantuyet » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #69 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2010, 12:44:06 am »

Bác lantuyet: em cũng chỉ ở đó đến 1989 thôi. Đây là topic về kiến thức quốc phòng, nên thông tin cũng phải chọn lọc và cân nhắc một chút, từ từ em sẽ post tiếp, góc nhìn của các sỹ quan trung và cao cấp của bạn đồng minh tất nhiên sẽ khác với góc nhìn của người lính trơn. Khu nhà gỗ đó là do công binh hải quân Nga dựng cho phi công trung đoàn 169 của họ khi mới sang.

Tàu sân bay "Minsk" (tàu sân bay lớp Kiev) thuộc biên chế hạm đội Thái Bình Dương từ tháng 11 năm 1978. Ảnh chụp 9 tháng 2 năm 1983 bởi quan sát viên phương Tây. Nguồn ảnh: vikipedia.ru. Mùa hè 1980, tàu đã ghé Cam Ranh trong hành trình thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trong ngôn ngữ hải quân Nga, thường gọi là tàu tuần dương hạng nặng chở máy bay (тяжёлый авианосный крейсер).


Cẩu chuyển máy bay trên tàu. Ảnh chụp tại Cam Ranh.


Máy bay cất hạ cánh thẳng đứng Yak-38 trên tàu "Minsk".Ảnh chụp tại Cam Ranh.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM