Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 04:51:46 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tam giác Trung Quốc - Việt Nam - Campuchia  (Đọc 68571 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #30 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 03:57:10 pm »

Ông Hồ Duy Kế, người đã hỏi cung một số tên tù binh, kể rằng chúng đã được tôi luyện, rèn đúc để tin rằng giết được “nhiều người Việt nam” là con đường chắc chắn để được thăng quan tiến chức trong các lực lượng Kme đỏ.

“Chúng được giáo dục để tin rằng bị Việt nam bắt có nghĩa là chết, song chúng biết rằng rút lui cũng có nghĩa là chết. Chúng có thể chém giết, hãm hiếp, cướp bóc mặc lòng – làm gì cũng được miễn là đừng rút lui; rút lui có nghĩa là chết, đối với cả gia đình chúng lẫn bản thân chúng. Những thao tác “giết hàng loạt” và nhiều khả năng sáng tạo ra các trò man rợ, đặc biệt là việc nhanh chóng giết được nhiều người mà không tốn đạn và lựu đạn, đều được khen thưởng. sau mỗi ngày hoạt động, đều có các cuộc họp “sơ kết” nhằm trao đổi kinh nghiệm giết người với “giá thành thấp”. Những tên có phương pháp giết người dã man nhất thì được bọ chỉ huy Khme đỏ khen ngợi nhiều nhất và được tuyên dương để làm gương cho những tên khác trong đơn vị đua theo”.

Ông Phạm Văn Ba, Bí thư Đảng bộ Đảng Cộng sản trong đó có Pon Pot tham gia sinh hoạt hồi năm 1954 và về sau là Đại sứ đầu tiên của Việt nam tại Campuchia của Khme đỏ, kể cho tôi rằng trong những cuộc tiếp xúc chính thức định kỳ với Pon Pot trong quãng thời gian năm 1975 – 1977, Pon Pot thường cho “những sự cố” trên biên giới là “những sai sót đáng tiếc” do “có địch trà trộn trong hàng ngũ chúng tôi” hoặc do lính của hắn ta dốt nát trong những vấn đề như địa hình học hoặc kỹ năng xem bản đồ. Ông Phạm Văn Ba nêu ví dụ cụ thể về một cuộc gặp gỡ ngày 2 tháng 9 năm 1977 giữa ông và Pon Pot, Iêng Xari và Nuôn Chia. “Trong khi trao đổi ý kiến với nhau, về mặt thể thức nghi lễ, Pon Pot thường phát biểu với tôi bằng một giọng lễ độ vì tôi nguyên là bí thư chi bộ của hắn. Nhưng trong thực tế, hắn vi phạm tất thảy những quy tắc mà đáng ra các đồng chí đảng viên với nhau phải tôn trọng”. Nhắc tới mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng của các sự cố trên biên giới, ông Phạm Văn Ba kể cho tôi rằng, cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa ông và Pon Pot đã diễn ra như sau:

- Phạm Văn Ba: Việt nam không hề có ý định đô hộ, xâm lược hoặc duy trì bất kỳ sự có mặt nào của mình ở Campuchia. Chúng tôi muốn Campuchia là một người bạn của Việt nam. Chúng tôi vẫn còn phải tính đến chủ nghĩa đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác muốn nuốt chửng chúng tôi. Chính vì thế, chúng tôi muốn rằng ở hậu phương, chúng tôi phải có bạn, chứ không phải thù. Chúng tôi chỉ muốn Campuchia là bạn mà thôi.

- Pon Pot: Đồng chí có thực sự tin rằng Camphchia có thể chinh phục hay đô hộ Việt nam không?

- Phạm Văn Ba: Tôi ghi nhận câu hỏi của đồng chí. Nhưng chúng tôi có bằng chứng về ý đồ của các đồng chí định chiếm đảo Phú quốc. Chúng tôi có chứng cớ, tư liệu rằng các đồng chí định đánh chiếm Sài gòn, rằng các đồng chí mơ ước đô hộ Việt nam.

- Pon Pot: Những điều đó không phải là lợi ích thực sự của chúng tôi. Vấn đề là trong hàng ngũ của chúng tôi có địch trà trộn vào.


Trước cuộc gặp gỡ này, ông Phạm Văn ba chỉ được phép tự do đi lại trong vòng 50 – 100 thước Anh (1 thước Anh = 0,914 m) quanh nơi ở của mình, cũng như đại sứ của một nhúm nước khác có mặt ở Phnom Penh (có những trường hợp ngoại lệ đáng chú ý là Trung quốc và Bắc Triều tiên: đại sứ hai nước này được đi lại tương đối tự do khi họ muốn). Sau đó, ông Phạm Văn Ba bị quản thúc tại nhà. Sau cuộc phản công của Việt nam cuối năm 1977, ông bị trục xuất khỏi Campuchia và quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt.

Nỗ lực chính của Hà nội nhằm gạt bỏ nguy cơ đụng đầu toàn cục dường như không thể tránh khỏi là đề nghị 3 điểm vào ngày 5 tháng 2 năm 1978. Bản đề nghị viết:

1. Chấm dứt ngay lập tức mọi hoạt động quân sự thù địch trong khu vực biên giới: các lực lượng vũ trang của mỗi bên phải rút vào trong phạm vi lãnh thổ của mình, cách biên giới 5 km.

2. Hai bên gặp nhau ngay tức khắc tại Hà nội, Phnom Penh hoặc một nơi nào đó trên biên giới, để thảo luận và ký kết một hiệp định tôn trọng lẫn nhau và một hiệp định biên giới giữa hai nước.

3. Hai bên cùng đạt tới một thỏa thuận về một hình thức phù hợp của sự bảo đảm và giám sát quốc tế.


Bản sao lời đề nghị này được gửi tới Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kuốc Vanhem, tới các chính phủ có đại diện tại Ủy ban Phối hợp Phong trào Không liên kết, khi đó do Xri Lanca (Xâylan) làm chủ tịch. Phnom Penh không trả lời, nhưng ngay sau khi lời đề nghị được đưa ra, từ ngày 9 – 11 tháng 2, tỉnh lỵ Tây ninh bị pháo kích bằng pháo Trung quốc cỡ 122 mm và 130 mmm, các huyện lỵ thuộc 3 tỉnh đồng bằng sông Mê Kông là Long an, An Giang và Đồng tháp cũng bị bắn phá.

Tháng 5 năm 1978, Hà nội đề nghị Liên hợp quốc chỉ định một phái đoàn làm trung gian giải quyết các vần đề biên giới và các vấn đề lớn khác giữa Việt nam và Campuchia. Đề nghị này bị Trung quốc cản phá.

Sau đó, tại Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao phong trào Không Liên kết họp tại Bengrát tháng 7 năm 1978, - tôi có tham dự Hội nghị này – Bộ trưởng Ngoại gaio Việt nam Nguyễn Duy Trinh đã đề nghị ghi vào chương trình nghị sự việc chỉ định một phái đoàn “giúp đỡ” gồm các thành viên không liên kết, làm trung gian cho việc giải quyết các vấn đề bất đồng Việt nam – Campuchia. Ngoại trưởng Xri Lanca A.C.S.Hamít, với tư cách Chủ tịch Phong trào đã sẵn sàng, cũng như Ngoại trưởng Ấn độ A.B. Vagiơpaiê, Chủ tịch tiểu ban Chính trị, là nơi quyết định chương trình nghị sự. Nhưng Ngoại trưởng Nam tư Giôxíp Vơrêvếch, với tư cách đại biểu của nước chủ nhà và chịu áp lực rất mạnh của Trung quốc – tuy không là thành viên Phong trào Không liên kết nhưng lại hoạt động cực kỳ tích cực ở ngoài hành lang – đã thuyết phục ông Hamít của Xri Lanca rằng đây là một “đề nghị sẽ gây chia rẽ” vì chỉ một trong hai bên xung đột đi tìm kiếm sự trung gian. Cứ ép thông qua đề nghị này – chắc chắn là nó sẽ nhận được sự ủng hộ áp đảo – sẽ là “can thiệp vào công việc nội bộ” của nước Campuchia của Pon Pot! Bị Xri Lanca ép, Việt nam đã rút lui đề nghị của mình vì lợi ích của việc “duy trì sự thống nhất của Phong trào Không liên kết”.

Hôm khai mạc hội nghị Bengrát, tôi gặp Milan Macôvích, phụ tr1ch công tác liên lạc với đại biểu nước ngoài và đồng thời là một người bạn của tôi khi tôi còn ở Phnom Penh, lúc đó ông là Đại biện lâm thời của Nam tư ở đó. Câu hỏi đầu tiên của ông là: “Anh có biết cái gì đang diễn ra ở Campuchia không?”, tôi trả lời rằng tôi không biết và chính việc thiếu thông tin đó là đáng lo ngại nhất. Tất cả những đề nghị của tôi được tới thăm (Campuchia – ND) đều bị làm ngơ. “Thật kinh khủng – Macôvích nói - ở phương Tây chúng tôi có điều kiện thuận lợi nhất để biết tình hình, ví chúng tôi luôn có một Sứ quán đóng ở đó. Tất cả bạn bè của hai ta đều bị giết cả rồi”. Rồi ông xòe tay, đếm trên đầu ngón tay, bắt đầu từ Huốt Xambát – người đã từng là Bộ trưởng một số bộ dưới thời Sihanuc và trong khi là Đại sứ của Campuchia tại Liên hợp quốc đã ngay lập tức đứng về phía chính phủ kháng chiến. Pon Pot sau đó đã chỉ định anh ta làm Đại sứ của Khme đỏ tại Bengrát. “Anh ấy về nước để dự một cái gọi là hội nghị các đại sứ và giống như tất cả những ai tuân lệnh trở về, anh ấy đã bị bắt và bị giết”.

Ông ta hỏi xem tôi có gặp Vítôrôvích, nhà làm phim người Nam tư, người phương Tây duy nhất đã làm một bộ phim ngày trong lòng nước Campuchia của Pon Pot. Tôi trả lời là tôi đã từng gặp, nhưng từ khi ông ta đến thăm chúng tôi tại nhà riêng ở Campuchia từ nhiều năm trước, tôi không thấy ông ta đâu nữa.Macôvích cho biết có thể Vítôrôvích sẽ tới Hội nghị ngày hôm sau – và ông ta đến thật. Sau khi chào nhau, ông ta hỏi tôi câu đầu tiên: “Anh đã xem phim của tôi chưa?”. Tôi chưa xem nhưng vợ tôi, Vétxa – khí đó đang đứng cạnh tôi, trả lời là đã xem trên vô tuyến truyền hình của Pháp. Khi được hỏi cảm tưởng về bộ phim này, Vétxa trả lời: “Đối với ai đã từng sống ở Campuchia thì thật kinh khủng. Bộ mặt tươi cười duy nhất là bộ mặt của Pon Pot”. Vít6oro6vi1ch có vẻ rất mãn nguyện: “Thế là mọi người đã hiểu được hàm ý của tôi – ông ta nói – những gì chúng tôi đã trông thấy còn tồi tệ gấp trăm lần những gì chúng tôi có thể đưa lên phim ảnh hay những lời bình luận mà tôi có thể viết cho phim”. Rõ ràng là những tính toán ngoại giao đã là một nhân tố ức chế!

Điều hết sức đặc biệt ở Bengrát – rồi tiếp đó ở tại một cuộc họp tháng 2 năm 1979 của Ủy ban phối hợp các nước không liên kết ở Maputô (Môdămbích), và còn đặc biệt hơn nữa tại Hội nghị cấp cao các nước không liên kết ở La Habana tháng 9 năm 1979 – là Nam tư đã đi đầu trong việc ngoan cố bảo vệ chế độ Pon Pot. Về sau, Nam tư đã tiếp tục làm như vậy tại Liên hợp quốc. Chỉ có thể lý giải việc làm này của nước phương Tây duy nhất có được “thông tin tốt nhất” về Campuchia bằng mối quan hệ thân thiết của Nam tư với Mỹ, cũng như mối tình hữu nghị mới được xây đắp giữa họ với Trung quốc.

Chính tại hội nghị Bengrát này, đoàn đại biểu của Pon Pot đã đề nghị khai trừ Việt nam khỏi phong trào không liên kết. Đề nghị này không được một lá phiếu ủng hộ nào, bất chấp những hoạt động hành lang rất tích cực của các nhà ngoại giao và các nhà báo Trung quốc. Tại phiên bế mạc, khi người ta đang đọc những bài phát biểu có tính chất nghi thức đối với Chủ tịch Phong trào, chúc mừng thành công của Hội nghị, thì phái đoàn Pon Pot vênh vang bỏ ra ngoài. Iêng Xari – trưởng đoàn Campuchia Dân chủ, người mà tôi từng gặp nhiều lần – từ chối đề nghị phỏng vấn của tôi và khi chúng tôi đi ngang nhau ở hành lang, hắn nhìn tôi trừng trừng như thể tiếc rẻ vì đã không có trong tay một chiếc rìu hay một chiếc xẻng ngắn cán để nện cho tôi một nhát như hắn đã nện cho biết bao “đồng chí” gần gũi nhất của hắn.
-----------------------------------------------------------
Chú thích
1. Trong bài phát biểu này, Đờ Gôn nói rằng nguyên nhân của cuộc chiến tranh ở Nam Việt nam là mưu đồ của Mỹ nhằm thay thế sự có mặt của Pháp ở Đông dương, rằng bản thân cuộc chiến tranh đó là một cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải pháp cho nó là Mỹ rút quân.

2. Từ lâu trước khi Sihanuc bị lật đổ, Mỹ đã xâm phạm biên giới và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia. Về nhận định chi tiết và rõ nét nhất liên quan tới chính sách của Mỹ đối với Campuchia và đặc biệt về những cuộc ném bom bí mật của Mỹ từ năm 1970 trở về trước, xem: Màn biểu diễn phụ: Kítxinhgiơ, Ních xơn và việc hủy diệt Campuchia, New York: Simon và Sextơ, 1979.

3. Norodom Sihanuc: Biên niên sử chiến tranh và hy vọng, Paris, Hachette Stock, 1979, tr.64-65

4. Sách đã dẫn, tr.66-67

5. Sách đã dẫn.

6. Một cuộc tấn công nghiêm trọng xảy ra ngày 30 tháng 4 năm 1977 khi 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn độc lập đồng thời tấn công 13 xã thuộc tỉnh An Giang, say sưa lao vào cuộc truy hoan chém giết và phá phách.

7. Chua đầy 2 năm sau, ông Nguyễn Cơ Thạch trở thành Bộ trưởng Ngoại giao của Việt nam.

8. Tuyên bố của Chính phủ Campuchia dân chủ gửi bè bạn xa gần năm châu và gửi dư luận thế giới, Phnom Penh, ngày 31 tháng 12 năm 1977.

9. Sách đã dẫn.

10. Sihanuc: Biên niên sử chiến tranh và hy vọng, tr.110

11. Sihanuc không phải là người duy nhất tin rằng ông ta có thể dễ dàng thương lượng với người Việt nam về một hiệp định hai bên cùng chấp nhận được. Trong chuyến tôi tới thăm Hà nội tháng 12 năm 1978, tôi được thông báo ở cấp cao nhất, kể cả Phó chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng, r8a2ng giá như Campuchia vẫn còn giữ Chính phủ Đoàn kết Dân tộc và Mặt trận Thống nhất Dân tộc – với Sihanuc giữ cương vị người sáng lập và người lãnh đạo – trong những năm sau chiến tranh, và giá như Sihanuc vẫn còn là Quốc trưởng thì hẳn sẽ không có những vấn đề biên giới, chứ đừng có nói đến một cuộc chiến tranh biên giới.

12. Sihanuc: Biên niên sử chiến tranh và hy vọng, tr.113-114

13. Thời báo (Times) ngày 14 tháng 2 năm 1977, tr.11, như đã trích dẫn trong công hàm phản đối của Thái lan.

14. An Giang là tỉnh tháng 3 năm 1962, các cố vấn quân sự Mỹ đã phát động cuộc hành quân lớn đầu tiên nhằm lùa nhân dân Nam Việt nam vào các “Ấp chiến lược” hoặc là các trại tập trung. Cuốn sách đầu tiên của tác giả về hành động can thiệp “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở Nam Việt nam mở đầu bằng bài tường thuật về “cuộc hành quân Mặt trời mọc” dựa theo lời kể của những người tị nạn gốc Khme ở An Giang trong các cuộc phỏng vấn ở Nom đên, đối diện với Ba chúc ở bên kia biên giới. Xem: Cuộc chiến tranh lén lút, tr.12-32, New York, Nxb. Quốc tế, 1963.

Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #31 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:03:55 pm »

XI. Sự dính líu của Trung-quốc

Khi các lực lượng Việt nam và Hêng Xomrin tràn ngập căn cứ chính của Khme đỏ ở Tà xanh – cách biên giới Thái lan 10 dặm – hồi cuối tháng 3 năm 1979, họ thu được nguyên vẹn toàn bộ kho lưu trữ của Khme đỏ. Họ đã bắt hụt Pon Pot và Iêng Xari. Khi bộ đội xông lên, họ còn trông thấy hai tên này đang được khiêng đi trên những chiếc kiệu, với tốc độ rất nhanh về phía biên giới Thái lan. Iêng Xari cuống cuồng bỏ chạy tối nỗi hắn ta bỏ lại cả tấm hộ chiếu Trung quốc của mình! Trong số những tài liệu lưu trữ được bảo quản một cách cẩn thận trong những ống tre dài, có những tài liệu rất hay cho thấy những hoạt động quân sự phối hợp Trung quốc – Khme đỏ.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống quân Lon Non, chính người Việt nam là những người đầu tiên đã được (Campuchia – ND) kêu gọi sang giúp đỡ đảo tạo và xây dựng các đơn vị quân sự cho cuộc kháng chiến; chính người Việt nam đã bieết bao lần tới cứu thoát các lực lượng của Khme đỏ; và cũng chính người Việt nam đã vận chuyển theo “đường mòn Hồ Chí Minh” vũ khí và các đồ tiếp tế khác có tính thiết yếu để tiếp tục cuộc chiến tranh cho Khme đỏ. Thế mà sau ngày 17 tháng 4 năm 1975, chính người Trung quốc là người nắm lấy những hoạt động quân sự và lập tức bắt tay vào việc mở rộng cái mà lúc đó đã trở thành lực lượng vũ trang Khme đỏ (trong khi những người theo Sihanuc và những người khác (thân Việt nam – BT) đ4 bị thủ tiêu về mặt thể xác) từ 6 sư đoàn hồi cuối cuộc chiến với Lon Non thành 23 sư đoàn khi Khme đổ bị lật đổ.

Trong số những tài liệu do Pon Pot và Iêng Xari bỏ lại, có một bài phát biểu của Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung quốc, tướng Vương Thượng Vinh, sau khi thảo luận với Xôn xen, tư lệnh danh nghĩa của các lực lượng vũ trang Khme đỏ vào ngày 2 tháng 2 năm 1976. Bài này bắt đầu bằng việc nhắc tới những cuộc thương lượng hồi tháng 6 năm 1975, 2 tháng sau khi Khme đỏ giành chính quyền ở Phnom Penh và nhắc tới những phái đoàn quân sự từ Bắc kinh tới Phnom Penh tháng 8 và tháng 10 năm đó “để xem xét tình hình”. Bài nói cũng nhắc tới việc chuyển giao vũ khí năm 1976 “về vấn đề đó, hai bên đã trao đổi quan điểm trong cuộc đi thăm Bắc kinh tháng 4 năm 1975 của đồng chí Iêng Xari”. Hai bên thỏa thuận sẽ chuyển sang 13.300 tấn vũ khí, nhưng chỉ mới chuyển được 3.200 tấn do đó còn lại 10.000 tấn, “trong đó có 4.000 tấn súng ống và đạn dược và 1.301 xe cộ các loại”.

“Chúng tôi nghĩ rằng – trừ xe hơi, nhiều quá không thể chuyển hết trong tháng 3 được (mỗi chuyến tàu biển của chúng tôi không thể chở quá được 200 chiếc); hàng trăm khảu pháo 120 mm còn phải kiểm tra chất lượng và vấn đề đạn đại bác cỡ 120 mm – phần còn lại sẽ được chuyển sang tháng 3. Các đồng chí đã đồng ý gia hạn việc chuyển giao xăng dầu và thùng rỗng, chúng tôi đang trao đổi vấn đề này với các ngành có trách nhiệm của chúng tôi”.

Tướng Vương Thượng Vinh trình bày cái mà hắn ta mô tả là một “dự thảo hiệp định tương đối tóm tắt” về nguyên tắc cho việc “tổ chức và tăng cường” lực lượng bộ binh của Campuchia. “Lúc này ta chưa thể đề cập cụ thể tới các quân binh chủng khác do có liên quan tới kiểu loại chất lượng khác nhau và số lượng rất lớn” trang thiết bị. Hắn ta gợi ý rằng chi tiết của các vấn đề đó nên để Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang hai bên cùng xem xét rồi sẽ phê chuẩn trong một hiệp định riêng rẽ. Bản dự thảo do hắn ta đề nghị bao gồm việc chuyển giao vũ khí từ năm 1976 tới cuối năm 1978. Bản hiệp định này đề cập tới thời hạn chuyển giao nhiều hơn so với số lượng chuyển giao. Tuy nhiên có một số vấn đề cũng được đề cập rất cụ thể:

“Năm 1976, chúng tôi sẽ ưu tiên chuyển giao trước những trang thiết bị và vũ khí cần thiết cho việc đào tạo cơ bản cán bộ tại chỗ. Số này gồm:

1. Một phần trang thiế bị cho một trung đoàn pháo phòng không, một phần trang thiết bị cho một trung đoàn rađa và trang thiết bị cho một sân bay quân sự.
Bốn tàu hộ tống và 4 thuyền cao tốc phóng ngư lôi cho lực lượng hải quân.

Một phần trang thiết bị cho một trung đoàn xe tăng, một phần trang thiết bị cho một trung đoàn liên lạc, một phần trang thiết bị cho 3 trung đoàn pháo binh và trang thiết bị cho một tiểu đoàn công binh cầu phao nhằm sử dụng cho lực lượng bộ binh.

Những trang thiết bị và vũ khí sẽ được chuyển giao khác gồm có:

2. Súng phòng không dùng cho lực lượng không quân sẽ được chuyển giao trong năm 1977. Trang thiết bị rađa sẽ được chuyển giao trong năm 1977 – 1978. Máy bay chiến đấu, kể cả máy bay ném bom, sẽ được chuyển giao theo nhịp độ đào tạo các tổ lái máy bay và việc xây dựng các trường bay mới. Phần trang thiết bị sân bay khác sẽ được chuyển giao tùy theo tiến độ xây dựng sân bay mới. Đối với 6 tàu hộ tống hải quân bổ sung, 4 tầu sẽ được chuyển giao trong năm 1977 và 2 tầu trong năm 1978. Đối với 8 thuyền cao tốc phóng ngư lôi bổ sung, trong hai năm 1977 – 1978, mỗi năm sẽ chuyển giao 4 chiếc.

Trang thiết bị cho 3 trung đoàn pháo mặt đất, trừ đại bác 130 mm, sẽ được chuyển giao từ đầu năm 1977, các trang thiết bị khác sẽ được chuyển giao trong 6 tháng cuối năm 1976. Trang thiết bị cho trung đoàn xe tăng sẽ được chuyển giao dần trong năm 1977 – 1978. Trang thiết bị và vũ khí cho trung đoàn thông tin liên lạc sẽ được chuyển giao trong năm 1977. Ba trăm km dây thông tin sẽ được chuyển giao trong năm 1976, như vậy là còn 1.000 km nữa. Đề nghị các đồng chí nêu đề nghị cụ thể về vấn đề này để chúng tôi có thu xếp đáp ứng thích hợp…

3. Về thủ tục và phương thức vận chuyển: phần lớn trang thiết bị sẽ được vận chuyển bằng đường biển và bốc dỡ tại cảng Sihanucvin (Công pông Xom). Máy bay sẽ được tháo rời và cho vào container để vận chuyển, sẽ lắp ráp tại Campuchia. Tầu ngầm và tầu chở dầu có thể chạy thẳng tới Campuchia, nhưng vấn đề tương đối phức tạp là làm thế nào để bảo đảm việc đi lại trên biển và an ninh cho tầu – những vấn đề cụ thể của vấn đề này phải được thảo luận sau này”.


Hầu hết phần còn lại của tài liệu này đề cấp đến những chi tiết kỹ thuật, trong đó có sự khó khăn đối với người Trung quốc trong việc chuẩn bị văn bản bằng tiếng Campuchia cũng như bằng tiếng Hoa. Ngay việc dùng tiếng Pháp cũng gặp khó khăn. “Có lẽ làm văn bản bằng tiếng Hoa là đủ rồi. Nếu các đồng chí thấy có thể dùng tiếng Anh thay cho Pháp hay tiếng Khme, chúng tôi có thể đáp ứng yêu cầu của các đồng chí”.

Vương Thượng Vinh còn nêu lên vấn đề cố vấn kỹ thuật. Hắn ta nêu ra một con số ước tính khá khiêm tốn: số chuyên viên kỹ thuật cần thiết dùng cho các ngành khác nhau, kể cả phi công và nhân viên bảo dưỡng trong công tác vận chuyển hàng không, là 500 người – đầu tiên hãy thế đã. Cần có khoảng 600 người để đào tạo cán bộ ngành hàng không và hàng hải cho Khme đỏ. Chúng tôi tới Campuchia vừa để giúp đỡ các đồng chí, vừa để học hỏi các đồng chí. Nhưng chúng tôi cho rằng số người sang sẽ tăng dần lên. Về lâu dài, sẽ khó mà tránh được vấn đề này vấn đề kia nảy sinh từ tình hình đó”.

Vương Thượng Vinh gợi ý rằng trong năm 1976, Campuchia nên cử 471 người sang Trung quốc để đào tạo về hàng không và 157 người sang đào tạo về hàng hải, “việc tuyển lựa và thời hạn sẽ trao đổi sau”. Về 5 công trình quân sự lớn do người Trung quốc xây dựng, hắn nói:

“Chính phủ chúng tôi đã đồng ý đảm nhận việc xây mới một căn cứ hải quân, một sân bay, một kho vũ khí, mở rộng một xưởng sửa chữa vũ khí và mở rộng cảng Kếp. Vì đây là những công trình cần được cung cấp những loại trang thiết bị đồng bộ của chúng tôi, nên Bộ Ngoại thương sẽ chịu trách nhiệm về những công trình này. Quy mô và lịch trình chính xác hoàn thành các công trình này sẽ được thảo luận với các đồng chí sau khi xem xét, nghiên cứu tổng quát. Xin các đồng chí cho biết khi nào thì cán bộ khảo sát và thiết kế có thể tới Campuchia được”.

Tướng Vương nói rằng Trung quốc cũng đã đồng ý gửi nhân viên kỹ thuật và những phụ tùng thay thế cần thiết để tu sửa những trang thiết bị quân sự thu được của quân Lon Non.

Viên tướng này cũng lưu ý tới một vấn đề lớn trong việc thực hiện chương trình viện trợ quân sự: thiếu người Campuchia làm phiên dịch tiếng Hoa:

“Năm 1976 chúng tôi cần hơn 100 phiên dịch cho các cán bộ kỹ thuật, khảo sát và thiết kế và cả cho sinh viên sẽ đi đào tạo ở Trung quốc nữa. Thế mà cho tới nay chúng tôi mới chỉ có 10 người. Chúng tôi hy vọng các đồng chí sẽ cố gắng giải quyết một phần vấn đề này”.
(...)
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #32 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:04:24 pm »

Hẳn Xôn Xen sẽ phải hết sức bối rối khi giải thích rằng các sinh viên nói tiếng Hoa đã không được miễn trừ trong cuộc tổng tàn sát trí thức – đứng hàng ưu tiên bị giết là những ai biết nói tiếng nước ngoài kia mà – thậm chí dù đó là tiếng Hoa!

Một bản phụ lục kèm theo liệt kê những chủng loại và số lượng vũ khí, đạn dược sẽ được chuyển giao từ năm 1976 – 1978. Ví dụ, một trung đoàn xe tăng sẽ có 72 xe tăng hạng nhẹ (kiểu 62) và 32 xe tăng lội nước (kiểu 63). Vũ khí cho 3 trung đoàn pháo sẽ có mỗi trung đoàn 36 khẩu pháo 130 mm và 85 mm, cối 122 mm và 18 khẩu pháo cao xạ 37 mm 2 nòng. Mọi thứ đều được nêu ra một cách chi tiết cẩn thận nhất. Ví dụ, Trung quốc đang chuyển 10.058 quả đạn cho pháo 85mm gắn trên xe tăng. Trang thieết bị vho một trung đoàn thông tin gồm 459 máy vô tuyến điện, 2.203 máy điện báo dã chiến, 910 km dây thông tin các loại và 1.300 bộ ăngten. Phần chuyển giao cho lực lượng không quân gồm có 30 má bay chiến đấu (mẫu 6) cùng 6 nhân viên huấn luyện phi công lái máy bay chiến đấu và 17 máy bay ném bom cùng 3 nhân viên huấn luyện phi công lái máy bay ném bom.

Tất cả những trang thiết bị quân sự này đếu được cung cấp trên cơ sở không viện trợ hoàn lại. Việc bản phụ lục nêu cụ thể vấn đề này khi nói đến số hàng chuyển giao này cho thấy một cách kín đáo rằng, những công trình xây dựng lớn – căn cứ hải quân, sân bay, kho vũ khí và các công trình khác với các chi tiết phải thảo luận với Bộ Ngoại thương – phải được thực hiện trên cơ sở mua bán giữa hai nước, có hoàn lại.

Rõ ràng Khme đỏ đang thực hiện một chính sách “súng trước gao” bất chấp những báo cáo quặn lòng về tình trang chết đói ở khắc các tỉnh gửi về. Những người nông dân ở các hợp tác xã chẳng bao giờ sờ được tây vào hạt lúa mà họ phải quần quật trồng cấy nên. Người ta đưa lúa đi đến những kho chứa, rồi nửa đêm chất lên ôtô, chất xuống xà lan chở đi đâu ai mà biết được! Theo đoan trích từ một tài liệu về kế hoạch kinh tế 4 năm của Khme đỏ từ năm 1977 – 1980, dự kiến phải xuất khẩu từ 3 – 3,5 triệu tấn gạo. như vậy, từ năm 1977 phải bắt đầu xuất 400.000 tấn gạo rồi đến 1980 thì tăng lên tới 1,1 – 1,3 triệu tấn gạo. Vì những số liệu sản xuất gạo trung bình thường được tính theo mức của những năm 1960 trước chiến tranh tương đối được mùa – khoảng 2,5 triệu tấn một năm, nên những chỉ tiêu xuất khẩu trên đây là quá lớn và giải thích khá nhiều cho tình hình đói kém lan tràn từ năm 1975 trở đi. Mặc dù bản báo cáo cụ thể này (đề ngày 22 tháng 12 năm 1976) không nêu rõ gạo được xuất khẩu cho nước nào, nhưng rõ ràng nước đó phải là Trung quốc, bạn hàng thương mại có ảnh hưởng duy nhất khi đó của Campuchia.

Vì sao Khme đỏ thực hiện chính sách “súng trước gạo”?, Iêng Xari đã từng giải thích như sau: “Với khoản hoa lợi do nông nghiệp đem lại, chúng ta đaang xây dựng công nghiệp có nhiệm vụ phục vụ công cuộc phát triển nông nghiệp” (1). Đây đúng chỉ là một trong những lời đại bịp! Có công nghiệp nào được xây dựng đâu. Những công trình công nghiệp đó – những xưởng sản xuất vũ khí và những xưởng sửa chữa vũ khí Khme đỏ thu được – chắc chắn không để phục vụ nông nghiệp. Vì sao lại đi xây dựng một căn cứ hải quân, một sân bay quân sự trong khi còn có những nhiệm vụ cấp bách như nhiệm vụ xây dựng lại kinh tế? (đã bị chiến tranh tàn phá – BT).

Có thể thấy một phần nguyên nhân căn bản trong một đoạn trích dẫn từ biên bản một cuộc gặp gỡ cấp cao, giữa các nhà lãnh đạo Trung quốc với các nhà lãnh đạo Campuchia ở Bắc kinh ngày 29 tháng 9 năm 1977. Tham dự cuộc gặp gỡ, về phía Trung quốc có Chủ tịch Hoa Quốc Phong, các Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Cảnh Tiêu va Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long – “cỗ trọng pháo” của ban lãnh đạo khi đó. Về phía Campuchia có: Pon Pot, Iêng xari và “Von Vet”, (mật danh của Xon Xen). Đoạn trích dẫn trong báo cáo của Pon Pot, theo tài liệu thu được ở căn cứ Tà Xanh, viết:

“Nếu cách mạng ở Đông Nam Á nhân cơ hội này tăng cường thế tấn công, thì tình hình sẽ được cải thiện và chúng ta sẽ giải quyết được những vấn đề của chúng ta. Chúng tôi đã trao đổi và thống nhất quan điểm với bạn bè ở Miến điện, Malaixia, Indonexia và Thái lan (2). Đó sẽ là một thắng lợi rất lớn về mặt chính trị. Dù cho về chi tiết vẫn còn một số vấn đề phức tạp, nhưng ở phía bắc, chúng tôi có sự ủng hộ của các bạn Trung quốc. Ở Đông Nam Á, giữa chúng ta với bạn bè có sự nhất trí. Phương diện có tính chiến lược này là động lực thúc đẩy chúng ta”.

Vậy còn phải vũ trang chống lại ai? Campuchia có biên giới chung với 3 nước: Thái lan, Lào và Việt nam. Hiển nhiên Pon Pot chẳng lo lắng gì về Thái lan; hắn ta cũng khó có thể phải bận tâm tới lào với dân số chưa đến 3 triệu! Toàn bộ trọng tâm bản báo cáo của hắn hướng vào tầm quan trọng của việc giành được thế chủ động và điều này trùng hợp với một thời kỳ mà các lực lượng Khme đỏ đang tấn công vào sâu lãnh thổ Việt nam trên toàn tuyến biên giới. Hắn ta nói bóng gió vắn tắt đến vấn đề này:

“Đối với Việt nam, chúng ta đã tiến hành tương đối nhiều cuộc thương lượng nhưng đều vô ích và người ta chẳng biết đến thế kỷ nào mới giải quyết được các vấn đề ấy... Nếu như trước đây, tôi đã từng cảm thấy thoải mái thì hôm nay đây, tôi lại còn cảm thấy thoải mái hơn với việc các bạn Trung quốc ở bên cạnh chúng ta...”.

Cả Trung quốc lẫn Campuchia đều biết rằng trong việc làm này, Mỹ đã “bật đèn xanh” cho chúng. Trong hồi ký của mình, Henry Kítxinhgiơ để lộ ra rằng tại một bữa cơm thân mật của ông ta với Thứ trưởng Ngoại giao Trung quốc, Kiền Quán Hoa o83 câu lạc bộ Thế kỷ, New York ngày 13 tháng 11 năm 1971, hai người đã nhất trí với nhau rằng họ có chung lợi ích trong việc ngăn không cho Campuchia “trở thành một nước chư hầu của Hà nội”(3). Kiều Quán Hoa có mặt ở New York với tư cách là trưởng phái đoàn đại diện Trung quốc tại Liên hợp quốc. Nói theo ngôn ngữ ngoại giao, trong tình hình quan hệ Mỹ Trung khi đó, cái “lợi ích chung” này chỉ có thể có nghĩa là câu kết để phá vỡ mối quan hệ giữa Việt nam với Campuchia. Tất nhiên Kítxinhgiơ đang làm động tác thăm dò người Trung quốc trên cơ sở tìm kiếm một sự nhất trí cụ thể về chiến lược để chính thức hóa khi Níchxơn đi thăm Trung quốc sau đó vài tháng. Giới lãnh đạo Việt nam tin rằng những thỏa thuận đạt được trong chuyến thăm viếng đó đã cổ vũ Trung quốc nam tiến và khả năng của các lực lượng vũ trang Trung quốc tới đâu sẽ “dạy cho Việt nam một bài học đến đó”. Ở tập đoàn Pon Pot – Iêng Xari, Trung quốc đã tìm thấy một đồng minh tình nguyện và hăng hái thực hiện nhiệm vụ này.

Việc Khme đỏ không chịu tham gia vào những cuộc thương lượng dẫn tới Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, chắc chắn một phần ít nhất là do tác động của việc Bắc kinh khăng khăng phản đối một giải pháp bằng thương lượng cho cuộc chiến tranh Việt nam. Từ năm 1967, người Trung quốc đã đi đầu trong việc chống lại thương lượng dù dưới hình thức nào, thương lượng đều bị coi là “phản bội”. Ngày 27 tháng 1 năm 1967, tôi phỏng vấn ông Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Ngoại giao của Bắc Việt nam. Ông cho biết nếu Mỹ ngừng ném bom Bắc Việt nam thì các cuộc thương lượng với Mỹ để chấm dứt chiến tranh ở Việt nam có thể bắt đầu. Đây là sự khởi đầu của một quá trình dẫn tới các cuộc hội đàm Paris. Nhưng ở Bắc kinh và ở Đại sứ quán Trung quốc tại Paris, tôi bị công kích là một tên “phản bội” cách mạng Việt nam vì đã tham gia vào quá trình này.

Trong cuốn “Sách đen”, cuốn sách cẩm nang của Khme đỏ (!) cũng nêu lên quan điểm trên đây, phản đối thương lượng và cho rằng Việt nam đã không thông báo gì cho họ về tiến trình và kết quả của cuộc thương lượng. Tuy nhiên, ngay trong tài liệu của chúng, người ta vẫn thấy rõ ràng là người Việt nam vẫn đều đặn thông báo cho ban lãnh đạo Chính phủ Kháng chiến Campuchia về tiến triển của các cuộc thương lượng ở Paris. Người Việt nam cũng khuyên Campuchia nên thương lượng một giải pháp của chính họ để chấm dứt đổ máu, sẵn sàng giúp đỡ nếu các nhà lãnh đạo kháng chiến Campuchia không muốn đàm phán trực tiếp. Việc coi thái độ trên đây của Việt nam là “sự phản bội” phản ánh nhận thức chính trị thấp kém và định kiến chống Việt nam tới mức cuồng dại của ban lãnh đạo Pon Pot – Iêng xari rõ ràng hơn bất kỳ một tình hình thực tế nào khác.

Trong hồi ký của mình, Kítxinhgiơ ghi nhận rằng:

“Rõ ràng một trong những thảm kịch của Hiệp định Paris về Việt nam (ngày 27 tháng 1 năm 1973-TG) là không thống nhất nổi một cuộc ngừng bắn ở Campuchia. Nhưng không còn ai nghi ngờ gì về việc lỗi này nằm ở đâu. Tôi thường xuyên ép Lê Đức Thọ về một cuộc ngừng bắn ở Campuchia, ông ta lấy cớ là ít có ảnh hưởng đối với Khme đỏ”(4).

Kítxinhgiơ hiển nhiên đang ra sức gỡ bỏ cho Mỹ trách nhiệm đối với các cuộc ném bom tàn ác ở Campuchia bằng B52 từ khi ký Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 tới khi Nghị viện (Mỹ - ND) có hành động ngăn chặn vào tháng 8 năm đó. Trong quãng thời gian đó, các máy bay ném bom B52 đã ném xuống Campuchia 240.000 tấn bom (trong chiến tranh Thế giới lần thứ II, một lượng bom nhiều gấp rưỡi như vậy đã ném xuống Nhật bản – không kể hai quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima và Nagasaki). Kítxinhgiơ tỏ ra tiếc rằng Nghị viện đã có hành động như vậy, vì như thế là gây trở ngại cho học thuyết “sử dụng sức mạnh” – một yếu tố chủ chốt trong quan điểm ngoại giao của ông ta. Ông ta cũng tự cho rằng ông ta thương lượng vì một cuộc ngừng bắn ở Campuchia, cuộc ngừng bắn đó đáng lý ra đã đưa Sihanuc trở về “vai trò giữ thăng bằng” như trước năm 1970 của ông ta – một việc mà trước kia Mỹ đã cố hết sức để phá hoại.

“Tài liệu này cho thấy rằng (tôi sẽ nêu rõ vấn đề này trong tập 2) chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng, thực sự nóng lòng, cho Sihanuc trở lại dưới những điều kiện đó và rằng một cuộc thương lượng đang bắt đầu. Chính việc Nghị viện ra lệnh tạm ngừng các cuộc ném bom hồi giữa năm 1973 đã làm chấm dứt cuộc thương lượng đó. Khi ấy, nắm chắc phần thắng, Khme đỏ chẳng còn lợi ích gì trong việc thương lượng nữa – và vai trò giữ thăng bằng của Sihanuc đã đến lúc cáo chung”(5).

Lời lẽ của Khme đỏ trong “Sách đen” cho chúng ta thấy rõ rang là người Việt nam biết rằng sẽ có các cuộc ném bom bằng B52 (ở Campuchia – ND) cũng như việc họ đã từng biết trước và dồn sức sẵn sang chờ đón một cuộc ném bom Hà nội dịp Nôen năm 1972. Trong quá trình thương lượng tại Paris, người Việt nam đã khuyên Khme đỏ nên theo gương họ, chấp nhận một giải pháp bằng thương lượng với những điều khoản có thể bảo đảm một thắng lợi về chính trị trong tương lai của mình. Đem so sánh hai bá cáo của Kítxinhgiơ và Khme đỏ với nhau thì dường như là nếu Khme đỏ không từ chối thương lượng về một cuộc ngừng bắn, nếu Khme đỏ không khước từ tất thảy mọi thứ trừ một giải pháp trên chiến trường, thì những cuộc ném bom này có thể sẽ thực sự không xảy ra.
(...)
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #33 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:04:47 pm »

Trong hoàn cảnh như vậy, điều lớn nhất mà những nhà thương thuyết Việt nam có thể làm được ở Paris lien quan tới Campuchia là ghi vào Hiệp định Paris sự xác nhận Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Campuchia và Lào.

a) Các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt nam phải triệt để tôn trọng Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Campuchia và Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước đó. Các bên phải tôn trọng nền trung lập của Campuchia và Lào.

b) Các nước ngoài sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Campuchia và Lào, rút hết và không đưa trở lại vào hai nước đó quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.

c) Công việc nội bộ của Campuchia và Lào phải do nhân dân mỗi nước này giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài.

d) Những vấn đề lien quan giữa các nước Đông dương sẽ do các nước Đông dương giải quyết, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”(6).


Hiệp định Paris đã chấm dứt sự can thiệp công khai của Mỹ (nếu không kể tới 7 tháng ném bom) vào cuộc chiến ở Campuchia và bổ sung thêm vào lá chắn hợp pháp cho việc rút quân Việt nam khỏi Campuchia. Việc rút quân này đã được đề cập đến trong khuôn khổ những quy định tại Hội nghị Cao cấp nhân dân 3 nước Đông dương tháng 4 năm 1970, rằng quân đội của một nước này chỉ có thể vào lãnh thổ của nước kia nếu có lời mời chính thức. Ngay “Sách đen” của Khme đỏ cũng còn phải nêu rõ việc Việt nam tôn trọng quy định này (cũng như điều 20 của Hiệp định Paris).

Sau khi Iêng Xari có các cuộc thảo luận ở Bắc kinh tháng 4 năm 1975, thậm chí trước khi Việt nam giành thắng lợi hoàn toàn đối với chính quyền Sài gòn, thì rõ ràng là sự hợp tác trong thời chiến giữa Việt nam và Khme đỏ đã trở thành sự đối đầu trong thời bình. Trong tình hình như vậy, thật khó mà tìm ra được ai là người nổ phát súng đầu tiên. Nhưng cũng có thể dự đoán một cách có cơ sở bằng cách xem xét xem bên nào kiên trì đưa ra sáng kiến chấm dứt tình trạng bắn phá. Về phương diện này, lợi thế hiển nhiên thuộc về phía Việt nam.

Cả trong cuốn sách của mình (7) lẫn trong các cuộc nói chuyện với tôi, Sihanuc đều đưa ra bằng chứng có giá trị về thái độ của Khme đỏ đối với Việt nam và sự quỵ lụy của Pon Pot – Iêng Xari đối với Bắc kinh. Đã có thời Sihanuc tin tưởng rằng giữa Campuchia và Việt nam sẽ không có các vấn đề về lãnh thổ. Ông ta kể lại các cuộc gặp gỡ ở Bắc kinh tháng 3 năm 1970 với ông Phạm Văn Đồng, tại đó họ đã nhất trí sẽ ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh vũ trang chống Lon Non.

“Thủ tướng Phạm Văn Đồng tới thăm tôi và trước mặt Thủ tướng Chu Ân Lai, ông đã nhân danh Việt nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố rằng Việt nam sẽ luôn luôn tôn trọng đường biên giới trên bộ cũng như các hòn đảo thuộc Vương quốc Campuchia...

Trong bầu không khí phấn khởi chung cuối Hội nghị cấp cao nhân dân 3 nước Đông dương (ngày 24-25 tháng 4 năm 1970) ông Phạm Văn Đồng đã hứa với Norodom Sihanuc – cũng lại trước mặt Chu Ân Lai – rằng sau “chiến thắng chung của chúng ta đối với chủ nghĩa đế quốc Mỹ”, ông Phạm Văn Đồng và tôi, Sihanuc sẽ cùng đến một nơi nào đó trên biên giới Việt nam – Campuchia để đặt một “cột mốc biên giới hữu nghị” là biểu tượng cho sự tôn trọng giữa hai nước láng giềng anh em đối với toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc của nhau”(Cool.


Trong những lần nói chuyện với tôi hồi tháng 12 năm 1978 (?), nhiều lãnh tụ Việt nam khác nhau, kể cả các ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Hữu Thọ và Nguyễn Cơ Thạch đã hé ra rằng họ không hề có ý nghi ngờ gì rằng Sihanuc sẽ vẫn làm Quốc trưởng và Mặt trận thống nhất Dân tộc Khme (FUNK) sẽ vẫn là cơ quan lãnh đạo ở Campuchia, sẽ không có vấn đề biên giới cũng chắc chắn không có xung đột võ trang giữa hai nước.

Chính Sihanuc là người đã để lộ ra rằng ban lãnh đạo Khme đỏ đã tính trước một “cuộc hành quân giải phẫu ba phần Việt nam”. Trong một cuộc trao đổi ý kiến với Sihanuc trong khi ông ta bị quản thúc tại nhà ở Phnom Penh từ tháng 7 năm 1976 cho tới tận cuối năm 1978, Khiêu Xamphon đã giải thích cho ông ta một cách chính xác dự tính này dẫn đến đâu. Sihanuc trình bày tóm tắt như sau:

“Thứ nhất: Tuyệt đối không cho bất kỳ người Việt nam nào có quyền sống ở Campuchia. Biện pháp của Khme đỏ để thực hiện chủ trương này bao gồm cả việc tiêu diệt số lớn những kiều dân nào “bị nghi là tay chân hoặc gián điệp của Việt Minh hay Việt Cộng” và đồng thời dùng vũ lực tống cổ tất cả các Việt kiều khác. Phải làm xong việc này trong nửa cuối năm 1973 (tác giả nhấn mạnh).

Thứ hai: Ra lệnh cho tất cả đàn ông lẫn đàn bà Campuchia làm việc gấp đôi, thậm chí gấp 10 lần so với người Việt nam sao cho – như Khiêu Xamphon đã từng lý giải – Campuchia có thể trở nên hùng mạnh hơn Việt nam trên mọi lĩnh vực: quân sự, kinh tế và tư tưởng...

Thứ ba: Chấp nhận một cuộc đối đầu vũ trang trên phạm vi rộng với Việt nam. Nhằm mục đích gì? Đối với những vùng đất thánh của người Việt nam ở Campuchia, chúng ta phải chiến đấu tới cùng để quét sạch. Chúng ta cũng cần có một định nghĩa “công bằng” hơn về các đường biên giới trên đất liền và trên biển giữa Campuchia và Việt nam. Cuối cùng, chúng ta phải dũng cảm đương đầu với mối đe dọa của “Chủ nghĩa bành chướng của Liên xô – Việt nam. Không có Campuchia “Dân chủ” cản đường, thứ chủ nghĩa ấy chắc sẽ tràn ngập khắp phần còn lại của Đông Nam Á, và thậm chí còn hơn thế nữa. Ngày 7 tháng 1 năm 1979, chúng ta đã được chứng kiến cuộc đối đầu vũ trang trên phạm vi lớn này kết thúc như thế nào rồi”(9).

Chắc chắn Sihanuc không ở trong trạng thái tình cảm thân Việt nam khi ông ta viết những dòng này. Lúc đó ông ta đã và đang kêu gọi các lực lượng vũ trang Liên hợp quốc hoặc các lực lượng vũ trang khác mà ông ta có thể lãnh đạo, vào đuổi quân Việt nam khỏi Campuchia. Nhưng ông ta còn có đủ trung thực để công nhận cội nguồn của sự đụng đầu Khme đỏ - Việt nam và còn có đủ dũng cảm để viết lại những gì ông ta đã được trông thấy, ngay cả khi ở Bắc kinh. Ông ta cũng đáng được khen vì đã viết tất cả những điều đó trên giấy trắng mực đen ở Bắc kinh vào lúc mà, như ông ta đã vài lần lưu ý, ông ta còn bị lệ thuộc “từng miếng cơm hàng ngày” vào Chính phủ Trung quốc.

Mặc dù ông ta đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng Trung quốc là “người bạn vĩ đại nhất” của Campuchia, ông ta vẫn ngầm quy cho Trung quốc trách nhiệm về mọi phương diện hoạt động ở trong lòng đất nước ông ta. Tỏ ý nghi ngờ một cách gay gắt về lời tuyên bố của Khme đỏ rằng chính chúng là người đã giải phóng nhân dân, dân tộc và quốc gia Campuchia khỏi mọi sự giám hộ của ngoại bang và khỏi sự phụ thuộc vào ngọai bang”, Sihanuc viết:

“Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa thật lòng và thực sự chống thực dân và chống đế quốc, đã và đang phải đảm nhiệm cho cái gọi là “Campuchia Dân chủ” về tài chính, về những cái giống như kinh tế, công nghiệp, quốc phòng, cảng sông, cảng biển, ngoại giao “quốc gia, dân tộc”.v.v... Tất thảy những cái này chỉ có thể hoạt động bình thường nhờ có sự viện trợ nhiều mặt và ồ ạt, cũng như nhờ “sự hợp tác” cực kỳ quan trọng và độ lượng do Bắc kinh ban cho...

Pon Pot và Iêng Xari ra sức đem vinh quang phủ lên mình bằng cách huênh hoang lần đầu tiên đã giành được nền độc lập hoàn toàn trong suốt 2.000 năm qua. Thật nực cười! Thực ra, dù cho ý của Trung quốc có thể là thế này hoặc thế kia... thì chính sách “đối ngoại” của Chính phủ Pon Pot – Iêng Xari trong thực tế vẫn luôn luôn được sự dẫn dắt của Chính phủ Trung quốc”(10).


Trong sách của mình, Sihanuc tỏ ra khôn ngoan không nêu bất kỳ một lời chỉ trích nào đối với việc ban lãnh đạo Trung quốc chẳng mảy may làm bất cứ việc gì để giúp giải phóng ông ta khỏi cảnh quản thúc tại gia trong 3 năm trời. Ông ta viết: “Đêm đêm, khi đi ngủ, tôi không hề được bảo đảm rằng ngày hôm sau tôi vẫn còn sống”(11). Khi tôi hỏi ông ta xem ban lãnh đạo Trung quốc có giải thích gì về nguyên nhân họ bỏ rơi ông ta trong tình cảnh như vậy không? Ông ta cười hài hước và nói:

“Bà phu nhân Chu Ân Lai (Đặng Dĩnh Siêu) giải thích rằng Campuchia là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, can thiệp nhân danh tôi sẽ có nghĩa là can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền và điều đó không bao giờ được phép xảy ra. (Giọng của ông ta nâng lên một quãng tám). Thưa Monsieur (ông – ND) Bớcsét, điều đó thật hết sức nhố nhăng! Trung quốc kiểm soát mọi cái ở đất nước Campuchia của Khme đỏ”.
------------------------------------------------------------------
Chú thích:
1. Hồ sơ lưu trữ đương thời của Kizing, ngày 3 tháng 2 năm 1978, tr.28807.
2. Tháng 3 năm 1977, ngoài những nước này, Iêng Xari còn thăm Singapor và Pakitstan.
3. Henry Kítxinhgiơ, Henry Kitxinhgiơ: Những năm tháng trong Nhà Trắng, tr.1414, London: Weidenfeld, Nicolson and Michiel Joseph, 1979.
4. Henry Kítxinhgiơ, Henry Kitxinhgiơ: Những năm tháng trong Nhà Trắng, tr.1414, London: Weidenfeld, Nicolson and Michiel Joseph, 1979.
5. Sách đã dẫn, tr.1415.
6. Chương 7 điều 20 Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt nam, ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
7. Norodom Sihanuc, Biên niên sử chiến tranh và hy vọng, Paris: Hachette Stock, 1979.
8. Sách đã dẫn.
9. Sách đã dẫn.
10. Sách đã dẫn.
11. Sách đã dẫn.

Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #34 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:10:49 pm »

XII. Trung quốc chuẩn bị tấn công Việt-nam

Trong vòng 1 tháng từ cuối tháng 11 đến cuối tháng 12 năm 1978 tôi đã ở Việt nam trong khung cảnh rất ảm đạm tại những vùng dọc theo biên giới tây nam tiếp giáp Campuchia và biên giới phía bắc tiếp giáp Trung quốc của Việt nam. Đó là một tháng u ám bởi bóng đen của những sự kiện đang lơ lửng trên đầu.

Điềm xấu đầu tiên mà tôi được biết khi tới Thành phố Hồ Chí Minh là nữ nghệ sỉ nổi tiếng nhất cà tài năng nhất của Nam Việt nam – Thanh Nga đã bị giết hại trước đó 4 đêm. Thanh Nga đã nhận được một lời cảnh cáo bằng điện thoại rằng chị sẽ bị giết nếu dám đóng vai Thái hậu Dương Vân Nga – một nữ anh hùnh của thế kỷ thứ X. Chồng của Dương Vân Nga, ông vua trị vì thời ấy, đã bị quân Trung quốc chiếm đóng giết hại vì đã chống lại ách thống trị của chúng. Thái hậu tiếp tục cuộc kháng chiến và khuyến khích một viên tướng trẻ thành công trong việc đánh đuổi quân chiếm đóng. Sau đó, bà Thái hậu góa bụa đã thách thức cái luân lý của đạo Khổng bằng cách kết hôn với viên tướng kia. Thế là, bà đã trở thành biểu tượng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Thanh Nga bỏ qua lời cảnh cáo và đã đóng vai này rất thành công. Chị đã bị bắn chết khi cùng chồng từ nơi biểu diễn trở về nhà ngày 16 tháng 11 năm 1978.

Hơn một năm trước đó, chị cũng đã làm ngơ trước một cú điện thoại cảnh cáo tương tự yêu cầu chị không đóng vai Trưng Trắc, người chị trong số hai chị em Bà Trưng nổi tiếng. Hồi thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, hai Bà Trưng đã lập nên một đội quân và lãnh đạo họ đánh đuổi bọn Trung quốc chiếm đóng trong 3 năm trời. Trong một buổi biểu diễn, có một kẻ đã ném một quả lựu đạn lên sân khấu và một mảnh lựu đạn đã găm vào vai phải Thanh Nga.

Trong cả hai vụ, bọn gây án đều tẩu thoát. Khi tôi đặt câu hỏi là ai chịu trách nhiệm về những vụ này, tôi chỉ nhận được câu trả lời như sau: “Hỏi người phương Bắc ấy!”

Tôi tới thăm Nghi Đoàn, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận 5, nơi có nhiều tư sản mại bản người Việt gốc Hoa kinh doanh. Đó là một người to lớn, luôn tươi cười, là một người Hoa thiểu số, đại biểu Quốc hội, Thành ủy viên Thành ủy Đảng Cộng sản Việt nam Tp.Hồ Chí Minh. Tôi muốn tìn hiểu xem bầu không khí đã dẫn tới hai cuộc ám sát Thanh Nga đã được tạo ra như thế nào. Cùng có mặt với Nghi Đoàn là hai cán bộ của Ủy abn Nhân dân quận 5, một trong hai người đó cũng đồng thời là Thành ủy viên Tp.Hồ Chí Minh. Câu trả lời của họ dài, chi tiết và đáng buồn. Nghi Đoàn nói là chính, thỉnh thoảng lại quay sang các đồng sự của mình để khẳng định ngày tháng và số liệu.

“Quận 5 là trung tâm buôn bán kinh doanh của người Hoa, cũng là trung tâm của tư sản mạn bản và thương gia tư sản cỡ bự. Nói về Sài gòn trong những ngày ấy, người ta phải nói tới quận 5 như hang ổ của bọn tư sản mại bản cỡ bự. Một trong những vấn đề chủ yếu trong công tác hành chính ở thành phố này là mọi công việc buôn bán đều năm trong tay các tư sản mại bản và các tư sản người Hoa. Đó là trung tâm mua bán lúa gạo với “Vua gạo” May Hy nắm quyền kiểm soát. Đó là trung tâm ngân hàng với hơn 30 ngân hàng và các cơ sở dịch vụ ngân hàng thu hút tiền vốn của Mỹ, Anh, Pháp và Hồng kông, nhưng luôn có sự tham gia của tư sản mại bản người Hoa. Để giữ được chức giám đốc nhà băng, người ta phải là một quan chức cao cấp trong cơ quan chính quyền hoặc là một sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang. Không nhất thiết phải có vốn – họ được trả một khoản tiền vì đã cho người ta sử dụng tên tuổi – nhưng các tư sản mại bản người Hoa tài trợ và kiểm soát mọi hoạt động thực tế. Ho thao túng mọi hoạt động tài chính, toàn bộ nội – ngoại thương, và hoạt động thương mại trong miền(1).

Trong số những tư sản mại bản này, một số không chỉ có quan hệ với Đài loan, mà cả với Bắc kinh nữa...”


Nghi Đoàn nhắc tới tên một vị Trần Thanh nào đó, ông này là người Hoa Đài loan, đứng ra tài trợ cho một nhà máy sản xuất mì chính rất có lãi ở Sài gòn, với 48% là vốn của Đài loan và phần còn lại là của chính ông ta. Ít lâu sau ngày Sài gòn hoàn toàn giải phóng, Trần Thanh chuyển giao vốn của mình cho Bắc kinh và trở về quê mình ở tỉnh Quảng đông (thủ phủ là Quảng châu). Tại đó, ông ta cho xây dựng một đại lộ hiện đại để gây ấn tượng cho ban lãnh đạo Trung quốc về “lòng ái quốc” của ông ta và về tính có ích (cho Trung quốc – ND) tiền tàng của bản thân ông ta cũng như của cái hội đồng hương của ông ta ở Việt nam.

“Trước giải phóng, ở quận 5 có 40 trường học (tiểu học và trung học) và 6 nhà thương, tất cả đều nằm trong tay Trần Thanh và các tư sản mại bản người Hoa khác. Trần Thanh là Giám đốc nhà thương Triều châu – tên làng quê ông ta ở Quảng đông. Trong nhà thương này có mật vụ của cả Bắc kinh lẫn Đài loan – thậm chí ngay từ thời ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu – đã gửi cán bộ tới “giúp” Trần Thanh điều hành nhà thương. Với các trường học cũng vậy. Chúng đều nằm trong tay những người như Trần Thanh. Đa số giám đốc và giáo viên được đưa từ Đài loan tới, nhưng Bắc kinh cũng cài mật vụ của mình vào. Nguyên tắc là sẽ không thể bành trướng được ảnh hưởng của Trung hoa lục địa ra nước ngoài, nếu như không dựa vào hệ thống giáo dục đối với thanh thiếu niên người Hoa. Nhiều năm trước khi giải phóng Sài gòn, Bắc kinh đã bắt đầu việc chuẩn bị cơ sở trong lòng các nhà tư sản mại bản và các thương gia cũng như trong lòng lứa trẻ. Sau giải phóng, những tổ chức bí mật này chuyển sang hoạt động phản cách mạng dưới những tên gọi như: “Hiệp hội Thanh niên Trung hoa Cứu quốc” và “Hội học tập tác phẩm của Mao Chủ tịch”. Chúng bắt đầu tung truyền đơn ủng hộ Mao. Dĩ nhiên chúng tôi đã bám sát việc chuẩn bị cho những hoạt động như vậy ngay từ lúc Bắc kinh bắt đầu xuất khẩu Cách mạng Văn hóa về phía chúng tôi. Chúng tôi đã có một số biện pháp để hạn chế hậu quả bất lợi(2). Đồng thời chúng tôi phát hiện ra rằng các cơ quan mật vụ ở Quảng đông và các tỉnh khác ở phía nam Trung quốc trực tiếp tung người vào đây. Chúng đem theo thẻ căn cước đóng dấu giả (Nghi Đoàn cho tôi xem mấy tấm căn cước đóng dấu giả và chỉ cho tôi thấy rằng cần phải có sự kiểm tra hết sức chuyên nghiệp mới có thể phân biệt thẻ giả với thẻ thật – TG). Thanh niên người Hoa từ đây được phái đi theo học các lớp học cấp tốc làm mật vụ, rồi lại được phái trở lại. May mắn là chúng tôi đã nhanh chóng hiểu ra tình hình này”.

Tháng 3 năm 1978, có việc quốc hữu hóa các cơ sở thương mại buôn bán và các cửa hàng bán lẻ cỡ lớn. Trong số khoảng 3.000 thương gia lớn bị đánh, có 600 người Việt và còn lại là người Hoa. Nghi Đoàn giải thích rằng chính sách đối với người Việt và người Hoa chẳng khác gì nhau, nhưng vì người Hoa có số lượng nhiều hơn và có vai trò quan trọng hơn về mặt tài chính nên “họ phải gánh chịu hậu quả lớn hơn”. Hành động này đã gây ra một cơn lũ phản đối từ Bắc kinh trong đó người ta tố cáo rằng các “cư dân” người Hoa và “Hoa kiều” đã bị “khủng bố”, xua đuổi và bài xích”.

“Một “Hiệp hội đấu tranh của cư dân người Hoa” xuất hiện. Một trong những tờ truyền đơn của hội này hô hào người Hoa “vùng lên – đoàn kết với nhau – xứng đáng với nhiệm vụ bảo vệ Trung hoa mẫu quốc”. Một tờ truyền đơn khác của nhóm “Cứu quốc” còn đi xa hơn nữa, kêu gọi “đấu tranh chống giai cấp thống trị người Việt – kẻ thù của dân tộc ta... Đoàn kết lại vì một tương lai sán lạn”.

Với kiểu kích động như vậy tiếp diễn, sẽ dễ dàng thổi bùng không khí của chủ nghĩa chủng tộc và chủ nghĩa sôvanh trong đó Thanh Nga đã bị sát hại”.


Sau đó tôi hỏi Nghi Đoàn và các đồng chí của anh Uỷ ban Nhân dân quận 5 rằng đằng sau dòng “thuyền” người Hoa ra đi là cái gì. Họ trả lời:

“Về những thuyền đó ư? Chúng tôi muốn người Hoa ở lại cùng chúng tôi. Sau khi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp, chúng tôi cố gắng thu hút những người trước kia là thương gia tham gia những hoạt động sản xuất nhằm phát triển các xí nghiệp khu vực – thậm chí nếu đó là các xí nghiệp tư bản. Chúng tôi sẵn sàng xuất vốn cho vay, từ 10.000 – 20.000 đồng (chuyển thành trang thiết bị do Nhà nước cung cấp theo giá tương đương, thì số tiền này cũng xấp xỉ tương đương với số tiền tính bằng dollards – TG) để bổ sung cho số vốn của riêng họ nhằm phát triển những xí nghiệp này. Nhưng nhiều người trong số họ có tâm tính của kẻ chuyên bóc lột – không thể chịu nổi viễn cảnh cuộc sống bên ngoài những villa sang trọng của họ. Thế là tìm mọi cách trốn ra nước ngoài. Có cả một mạng lưới những bọn buôn bán chợ đen khá lớn – bọn này trước đây sống bằng nghề buôn lậu má túy, còn nay sống bằng nghề buôn người. Mạng lưới này chịu sự điều khiển của những người Hoa có quan hệ gần gũi với Hồng kông và những nơi khác ở nước ngoài, kể cả Bắc kinh. Khi bắt được những người đang tìm các chạy trốn, chúng tôi cố gắng dùng lý lẽ thuyết phục họ sống một cuộc sống bình thường. Nhưng cuối cùng họ vẫn ra đi, cho dù phải vài lần thất bại. Bờ biển thật là dài. Đối với những ai sẵn lòng bỏ ra một đống tiền chi cho bọn cướp “thuyền thủng”, việc ngăn chặn họ thật hết sức khó khăn. Và chúng tôi còn phải giải quyết nhiều vấn đề cấp bách hơn là việc lập ra một tổ chức khả dĩ chặn được họ”.

Chẳng bao lâu các cơ sở thương mại lớn bị quốc hữu hóa, ở phố Tân Hàng thuộc quận 5 xảy ra một vụ chưa từng có. Ngày 20 tháng 3na8m 1978, cũng như đối với các nơi khác trong thành phố, cán bộ đến quận 5 vận động mọi người tình nguyện tham gia hoạt động công dân vào các ngày thứ Bảy – một việc làm phổ biến và được hưởng ứng rộng rãi trong những năm đầu sau giải phóng. Họ ào ào tổ chức một cuộc biểu tình, băng cờ khẩu hiệu xung quanh chủ đề: “Chúng tôi là người Hoa – không có nghĩa vụ phải làm việc tình nguyện”. Những người tham gia biểu tình vẫy cờ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa và đem theo chân dung chủ tịch Mao. Khi các cán bộ cố giải thích sự cần thiết phải tiếp tục lao động tình nguyện, thì từ các căn gác cao, gạch đá và chai lọ ném xuống họ như trút. Người ta phải gọi cảnh sát tới và các phóng viên chụp ảnh người Trung quốc đã sẵn sàng ghi chép lại những hình ảnh này về việc người Việt nam “áp bức” người Trung quốc thiểu số. Sau vụ này và sau một chiến dịch tuyên truyền rầm rộ, Bắc kinh công bố đưa 2 tầu tới Hải phòng và Tp.Hồ Chí Minh để bắt đầu cho di tản những người lúc đó được người ta mô tả là những “Hoa kiều và cư dân Hoa kiều bị bài xích”.

Để thấu hiểu tầm quan trọng của những từ ngữ này, cũng như hiểu tầm quan trọng của việc những người biểu tình ở phố Tân Hàng không chịu lao động ngày thứ Bảy vì họ là người Hoa, chúng ta cần biết rằng năm 1955, Đảng Cộng sản Trung quốc và Đảng Lao động Việt nam đã ký kết một hiệp định ghi rõ rằng những cư dân gốc Việt ở Trung quốc và cư dân gốc Hoa tại Việt nam thuộc phạm vi quyền hạn tương ứng của các Đảng Cộng sản Trung quốc và Việt nam trong vòng 2 năm sẽ trở thành công dân Trung quốc và công dân Việt nam. Kể từ khi hiệp định này được ký kết, họ có cùng quyền lợi và nghĩa vụ như những công dân khác của Trung quốc và Việt nam (ở nơi họ sinh sống – BT). Vấn đề này đã được thực hiện một cách rất triệt để, tỉ mỉ ở Việt nam và các công dân gốc Hoa đã giữ những vị trí cao trong Đảng, Chính phủ và trong nền kinh tế. Thế nhưng, tại một Hội nghị Hoa kiều hải ngoại tổ chức tại Bắc kinh cuối năm 1977 đầu năm 1978, quan điểm này đã bị đảo ngược lại. Người ta nói với những đại biểu của 20 triệu Hoa kiều ở Đông nam Á rằng nếu như trong mình họ còn mang theo dòng máu Trung quốc thì họ phải giữ vững lòng trung thành đối với “mẫu quốc” và đóng góp của cải và tài năng vào chiến dịch “Bốn hiện đại hóa”.

Đáp lại công bố của Bắc kinh về việc đưa 2 tầu thủy đến chở những người Hoa nào muốn rời khỏi Việt nam, Chính phủ Việt nam tuyên bố không phản đối bất kỳ người Hoa nào muốn ra đi, cũng không phản đối việc những tầu thủy kia nhưng chỉ được tới những cảng do Việt nam quy định và phù hợp với thủ tục hàng hải quốc tế thông thường. Hà nội quy định ngày tầu có thể vào cảng tại Hải phòng và Vũng tàu – cách Tp.Hồ Chí Minh 50 dặm về phía đông nam – chứ không phải là cảng Tp.Hồ Chí Minh. Khi con tầu đầu tiên tới cảng Hải phòng, viên thuyền trưởng giải thích nguyên nhân tầu tới đó là để “cho hồi hương những Hoa kiều bị bài xích và xua đuổi”. Đây là một công thức mà người Trung quốc biết rõ là người Việt nam không thể nào chấp nhận được.
(...)
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #35 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:11:21 pm »

Sau mấy tuần thương lượng, 2 con tầu nhổ neo trở lại Trung quốc, chẳng chở theo hành khách nào. Nhưng Bắc kinh đã tuyên truyền rất rùm beng vế cái “sứ mệnh cứu nạn” và uy tín của họ trong người Hoa tăng lên vùn vụt.

Sau này tôi được một quan chức cấp cao tại Hà nội cho biết rằng ban lãnh đạo Bắc kinh:

“Bằng phương thức bí mật đã vạch kế hoạch gây rối loạn trên phạm vi lớn khi 2 con tầu vào cảng Hải phòng và đặc biệt ở Tp.Hồ Chí Minh. Bầu không khí tâm lý đã được tạo ra và người ta tính rằng sẽ cho nó phóng hết ga. Nhưng “trong cái bí mật cũng lại có cái bí mật”. Chúng tôi đã biết những âm mưu khiêu khích và bọn trùm khiêu khích đã được “mời đi nghỉ”. Toàn bộ tính toán đã bị thất bại thảm hại”.

Đúng như vậy. Ấn tượng của tôi về khu vực do người Hoa ngự trị ở Tp.Hồ Chí Minh hồi đầu tháng 12 năm 1978 là tình hình ở đó rất dễ “bùng nổ” và các phần tử gây rối ở đó đang chỉ còn chờ châm ngòi nổ là bật dậy hành động. Các nhà tư sản mại bản có thông đồng với bọn vô lại găngxtơ y như ở Thượng hải “ngày xưa”. Chúng có vẻ không chịu nằm yên để cho người ta tiến hành quốc hữu hóa. Và Bắc kinh cũng có vẻ không cam chịu thất bại thảm hại của “các con tầu tị nạn”!

Từ Tp.Hồ Chí Minh, đi ôtô ngược lên phía bắc ngót hai giờ đồng hồ là tới thị xã Tây ninh. Tại đó, điều làm tôi cảm thấy choáng váng là câu trả lời của những chỉ huy quân sự tỉnh về việc họ đánh giá mục đích các cuộc tấn công vượt biên của Khme đỏ như thế nào. “Bọn tù binh khẳng định rằng chúng được chỉ thị tấn công xuống phía nam, củng cố dần dần những căn cứ để rồi từ đó đánh chiến Tp.Hồ Chí Minh”. Tôi xin không tường trình về việc này vì thấy nó có vẻ ngớ ngẩn quá.

Vài ngày sau khi thăm Tây ninh, tại cơ quan lãnh đạo tỉnh Đồng tháp vùng đồng bằng sông Mê kông, tôi lại được nghe những câu trả lời tương tự của anh Mai văn Hai, thu ký Ủy ban Nhân dân tỉnh. Tại một nơi cách biên giới một quãng mà anh cho là an toàn, anh Mai Văn Hai miêu tả cho tôi nghe về “tình hình tiểu – chiến – tranh” diễn ra dọc biên giới. Những tiếng nổ xa xa và những tiếng đạn đại bác nổ lắc rắc xác nhận cho lời kể của anh. Trong khi anh đang trình bày vắn tắt với tôi về tình hình quân sự, một liên lạc viên đến đưa cho anh một bản báo cáo rằng đêm trước, 2 trung đoàn quân Khme đỏ đã tấn công một trong những huyện vùng biên giới.

“Chúng nã pháo vào thị trấn Hồng Ngự bằng đại bác 130 mm, nhưng chúng tôi đã được báo tin và đã kịp thời sơ tán cả thị trấn. Chúng đã thực sự chiếm được một số nơi thuộc các huyện biên giới, vào sâu tới 8 km. Chúng lợi dụng những trận lụt vừa qua và những dòng sông chảy từ Campuchia và Việt nam để đưa các đội thuyền sông do Trung quốc chế tạo chở pháo hạng nhẹ bắn phá làng mạc sâu trong lãnh thổ của chúng tôi (mùa thu năm 1978, các tỉnh đồng bằng sông Mê kông phải chịu một trong những trận lụt lớn nhất trong lịch sử Việt nam – TG). Chúng cũng cho các nhóm biệt kích thâm nhập, ăn mặc như nông dân của chúng tôi, tấn công ngư dân chúng tôi. Chúng phải trả giá đắt cho những cuộc tấn công như vậy, nhưng chúng vẫn tiếp tục kéo tới”.

Tôi hỏi anh Mai văn Hai: bọn tù binh Khme đỏ khai như thế nào về nguyên nhân của các cuộc tấn công tiếp tục trên tuyến biên giới? Anh trả lời: “Chúng tin rằng chúng đang tham gia vào một nỗ lực vĩ đại của toàn quốc nhằm “giải phóng” đồng bằng sông Mê Kông và “giải phóng” cái mà chúng gọi là Prêy Noko (T.Hồ Chí Minh). Khi tôi hỏi liệu có thể khóa miệng pháo Khme đỏ được không, anh Mai Văn Hai đáp rằng vì lũ lụt, Quân đội Nhân dân Việt nam khó có thể đưa pháo vào tuyến bắn và rằng dù sao chăng nữa, bộ đội Việt nam đang chủ yếu bận bịu với việc cứu lụt.

Nếu nói rằng tình hình dọc theo biên giới Việt nam – Campuchia cuối năm 1978 căng thẳng tới mức nguy hiểm, thì cũng khí có thể nói rằng tình hình ở phía Bắc – dọc biên giới với Trung quốc – lại ít căng thẳng hơn. Ngày 24 tháng 21, tôi tới ga xe lửa Đồng Đăng, cách biên giới Việt – Trung 3 km. Mới trước đó 48 tiếng đồng hồ, Trung quốc đã cắt đứt tuyến đường sắt duy nhất nối Việt nam với thế giới bên ngoài. Các tuyến đường bộ cũng đã bị đóng cửa. Người đầu tiên tôi gặp là ông Hoàng Văn Thạch, Bí thư Đảng bộ Cộng sản tỉnh Lạng sơn. Những nhận xét mào đầu của ông thật đáng lo ngại:

“Tình hình dọc biên giới rất căng thẳng, hai ngày qua không một chuyến xe lửa nào được phép ra vào nước tôi. Phía Trung quốc vừa mới đơn phương trục xuất nhóm công tác liên lạc đường sắt của chúng tôi khỏi trạm kiểm soát quốc tế ở Bằng tường (nằm trong lãnh thổ Trung quốc chứng 15 km). Dọc toàn tuyến biên giới, cú trông thấy các đội tuần tra của chúng tôi là phía Trung quốc bắn. Sáng hôm qua, một đồn biên phòng của chúng tôi, cách đây 40 km, đã bị quân Trung quốc dùng bộ binh đánh chiếm. Tình hình càng ngày càng trở nên căng thẳng hơn và lỗi này hoàn toàn thuộc về phía Trung quốc. Quân chúng tôi không khi nào, không bao giờ đặt chân lên đất Trung quốc – đường biên giới đã được phân định rõ ràng bằng các cột mốc biên giới bằng đá.

Trước kia, lình biên phòng Trung quốc ném đá và bắn súng caosu để gây rối các đội tuần tra của chúng tôi. Bây giờ chúng dùng súng tự động, lựu đạn và súng cối. Trước kia, ở đâu có đụng độ biên giới, hai bên Việt – Trung đều có thể gặp nhau trao đổi ý kiến. Nhưng đến tháng vừa rồi, chẳng còn trao đổi ý kiến gì nữa. Trước kia, thường chúng tôi gặp nhau ở bên này hoặc bên kia Hữu nghị quan (một tháp vòm xây bằng đá ngay trên biên giới – TG). Nay, ngay cả khi chúng tôi tới gặp họ để trao đổi ý kiến thì họ cũng nổ súng vào chúng tôi. Mối giao tiếp duy nhất bây giờ là qua điện thoại. Sự căng thẳng đã lên đến đỉnh điểm và bất kỳ việc gì cũng có thể xảy ra”.


Lời nhận định điềm đạm này đã được khẳng định và làm rõ hơn bởi trung úy Nguyễn Tiến Hòa, Phó Đồn trưởng đồn Biên phòng Nam Quan nằm ở phía nam biên giới cách đó 1 km. Anh còn trẻ nhưng đã có khuôn mặt sạm nắng của một cựu chiến binh đã từng sống qua những nơi nóng bỏng của cuộc chiến tranh giải phóng. Để lên đến đồn biên phòng của anh, xe chúng tôi phải len lách theo những tuyến hào để khỏi rơi vào hàng loạt bẫy tăng làm bằng những tảng đá lớn gắn bằng ximăng lại với nhau. Từ vị trí của anh trải ra phía trước là những rào chắn làm bằng dây thép gai có thể trong chốc lát được triển khai vào đúng vị trí. Dọc theo hai bên mép đường dẫn tới cổng “Hữu nghị quan” là dây thép gai cuộn thành từng cuộn.

“Ngay phía đầu đường này – anh nói – là cái mà chúng tôi thường gọi là cổng “Hữu nghị”. Bây giờ chúng tôi chỉ gọi nó bằng cái tên đơn giản là cổng “Bắc” (Ải Bắc – BT). Con đường trở lại Lạng sơn trước đây rất tốt, nhưng chúng tôiu đã phải phá hỏng một phần con đường ấy, chúng tôi cũng phải dựng chướng ngại vật ở phía bắc và phía nam đồn Nam Quan này. Mới đây Trung quốc đã cho dựng một dàn ăngten rada lớn trên một điểm cao ngay sát biên giới phía họ, dàn này quay suốt 24 giờ một ngày thám thính các vị trí của chúng tôi. Dọc toàn tuyến biên giới, đâu cũng có súng nổ và gần như ngày nào cũng có những vụ “lấn đất”, còn đêm đến lại có những cuộc cướp phá theo kiểu biệt kích”

Khi tôi hỏi về mục đích của những hành động này, anh Nguyễn Tiến Hòa trả lời rằng chúng nhằm “chiếm miền đất cao” và bắt các nhân viên dân sự và quân sự rồi “lôi về bên kia biên giới”. Anh khẳng định rằng tất cả những sự việc này đều diễn ra ở bên phía Việt nam như đã thể hiện trong các bản đồ của cả Trung quốc lẫn Việt nam. Kiểu hoạt động như anh mô tả - đánh chiếm các cứ điểm “xuất phát” và bắt “lưỡi” để khai thác tin tức tình báo – là những chiến thuật cổ điển được thực hiện trước một cuộc tấn công.

Vùng cửa ải Lạng Sơn, nơi tôi đang thăm, đã từng là tuyến đường chính mà Trung quốc sử dụng trong biết bao cuộc xâm lược Việt nam trong hơn hai ngàn năm qua. Đó là một vùng đầy núi cao dốc đứng. Chỉ có những chuyên gia sử dụng bản đồ - và những người dân ở địa phương này – mới có thể biết chính xác đường biên giới nằm ở nơi nào. Địa hình vùng này như thể một bộ mặt nửa để râu, nửa cạo sạch. Người Trung quốc trồng thông dày đặc bên phía họ - có phần ăn xoải xuống sườn dốc và đây đó “tháu cáy” vài ba trăm mét, theo lời người Việt nam. Những sườn dốc “trọc” là của bên Việt nam, được dùng để cấy trồng sát tới tận đường ranh giới bằng cây. Nhiều thửa ruộng bị những giao thông hào mới đào chạy chéo qua, cũng có thể thấy rõ qua những vệt đỏ rạch ngang dọc những bãi gốc rạ lúa và ngô. Giữa những gì được ẩn giấu trong những chiến hào này với những gì được ẩn giấu trong rừng thông nọ rõ ràng là đang có một cuộc đối đầu “mắt chọi mắt” và chỉ ở một vài nơi giữa những “cặp mắt chọi nhau” ấy mới có một cột mốc biên giới.
(...)
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #36 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:11:47 pm »

Với ông Hoàng Văn Thạch, anh Nguyễn Tiến Hòa và một số Hoa kiều, tôi đã trao đổi vấn đề cực kỳ phức tạp: dòng người Hoa ra đi. Ông Hoàng Văn Thạch đã đề cập tới vấn đề trọng tâm của việc thuyết phục nhiều người Hoa ở lại – như tôi đã có điều kiện để kiểm chứng tại các trạm kiểm tra với người Hoa thiểu số ở Lạng Sơn (nơi có tới 1.000 trong số 4.000 người Hoa của cả tỉnh đã ra đi) và ở Hà nội về sau này.

“Họ ra đi chủ yếu vì có ảo tưởng (thế cơ đấy!) rằng Trung quốc đang sắp sửa tấn công, do Việt nam bây giờ đã chuyển sang lập trường thân Liên xô, chống Trung quốc. Trong số những người ra đi, nhiều người cảm thấy rất bất hạnh – họ đã từng sống với người Việt nam trong cảnh yên bình qua nhiều thế hệ. Nhưng những mật vụ người Hoa ở địa phương, được những tên vượt biên mớm cho, dọa họ rằng nếu họ không rời về Trung quốc thì khi quân đội Trung quốc chiếm được Lạng Sơn, họ sẽ bị giết vì tội phản bội. Còn nếu ở lại Việt nam, Liên xô đánh thắng, họ cũng sẽ bị giết vì là “kẻ thù”. Lối thoát duy nhất là lên đường về “Tổ quốc”!

Sự việc đã trở nên rõ ràng: vấn đề số phận của người Hoa thiểu số về mặt pháp lý đã bị quyết định của Bắc kinh hồi đầu năm đó làm cho thay đổi ghê gớm. Quyết định này nói rằng từ nây trở đi họ là những “cư dân” người Hoa hoặc những “kiều dân” người Hoa. Những từ ngữ này lần đầu tiên xuất hiện trên các xuất bản phẩm chính thức bằng tiếng nước ngoài của Trung quốc từ năm 1978 trở đi (các xuất bản phẩm bằng tiếng Pháp dùng từ Ressostissants – nghĩa là kiếu dân hay thần dân). Hàng ngàn thương gia, đáng ra đã từ Tp.Hồ Chí Minh ra đi một cách hợp pháp bằng cách xin cấp thị thực xuất cảnh, xuất trình thẻ đã đòng thuế rồi lên đường phương tiện vận tải thương mại, thì nay nhảy xuống “thyền thúng” vì bọn tay chân người Hoa – kể cả các quan chức lãnh sự quán từ Hà nội vào – cảnh cáo họ rằng đóng thuế là biểu hiện của sự “không trung thành”, bởi lẽ nó bao hàm sự công nhận quyền hạn của người Việt nam đối với những “kiều dân” Trung quốc! Trong thực tế, từ đầu năm 1978 trở đi, Trung quốc đã đòi cho người Hoa thiểu số được có những đặc quyền ngoại giao. Vì thế, mà người Hoa ở Lạng sơn thấy bị dọa giết vì tội “phản bội” nếu họ dám ở lại bất chấp “mệnh lệnh” ra đi.

Theo Hiệp định 1955 giữa Đảng Cộng sản, hai bên đã thỏa thuận cho Đại sứ quán Trung quốc tại Hà nội được cấp “thị thực du lịch” cho những người Hoa thiểu số nào muốn về thăm họ hàng ở Trung quốc. Trên cơ sở những thị thực này, phía Việt nam sẽ mặc nhiên cấp thị thực xuất cảnh và tái nhập cảnh. Ông Hoàng Văn Thạch đã giải thích cho tôi về tác động của việc thay đổi về mặt pháp lý số phận của người Hoa đối với thủ tục này như sau:

“Bọn đặc vụ Trung quốc muốn kích động tư tưởng cho rằng người Hoa thực sự là những “người nước ngoài”. Sau khi giải thích chính sách của Chính phủ (Việt nam – BT), chúng tôi tùy ai muốn ra đi thì ra đi. Họ có thể được cấp thị thực xuất cảnh ngay tức khắc và chúng tôi làm các thủ tục rất nhanh. Nhưng bọn đặc vụ bảo với Hoa kiều rằng họ chẳng cần phải tuân thủ những quy chế, quy định của Việt nam, chẳng cần xin thị thực xuất cảnh. Để tăng thêm ý nghĩa cho việc lý giải này, chúng nói rằng những người ra đi không có giấy tờ và thị thực sẽ được ưu tiên đối xử, còn những ai tuân thủ theo những quy chế, quy định sẽ bị coi là những kẻ “cộng tác với địch”. Vì thế, nhiều người đã được chúng tôi cấp cho những giấy tờ hợp lệ đã xé giấy tờ trước khi vượt qua đường biên. Việc làm này lại càng làm tăng sức nặng của ý kiến cho rằng chúng tôi “xua đuổi họ”.

Trả lời câu hỏi của tôi rằng không biết nhà chức trách cấp tỉnh có quyền xua đuổi những người “không được ưa thích” hay không, ông Hoàng Văn Thạch nói rằng: “Tuyệt đối không! Chưa từng có ai bị xua đuổi khỏi tỉnh Lạng sơn”.

Trung úy Nguyễn Tiến Hòa là người được chứng kiến toàn bộ tấn thảm kịch của những cuộc vượt biên vì dần dần Lạng Sơn đã trở thành điểm hội tụ của những người Hoa ra đi từ khắp nơi ở Việt nam kéo về, kể cả ở Tp.Hồ Chí Minh. Anh diễn giải lời kể của ông Hoàng Văn Thạch.

“Toàn bộ tình hình bắt đầu từ ngày 7 tháng 5 năm 1978, khi nhóm người Hoa đầu tiên tới đây và chuẩn bị rời Việt nam. Chúng tôi thông báo cho người Trung quốc ở đồn biên phòng biết và sau đó để họ ra đi. Phía Trung quốc chấp nhận họ - cả những người có giấy tờ lẫn những người không có giấy tờ. Chúng tôi hoàn tất mọi thủ tực mà hai bên đã thỏa thuận đối với những người gốc Hoa về thăm Trung quốc. Chúng tôi cung cấp phương tiện đi lại cho những người có yêu cầu. Có nhiều cảnh chia tay cảm động, đầy nước mắt giữa những gia đình có người đi người ở. Cá nhân chúng tôi nghĩ rằng việc đứng nhìn cảnh vợ xa chồng, cha mẹ xa lìa con cái là một tội ác. Cha mẹ níu theo con cái và ngược lại, cho tới khoảnh khắc cuối cùng. Những phóng viên nhiếp ảnh và những đoàn làm phim phía bên kia mô tả những người đầy nước mắt là “nạn nhân của sự bài xích của người Việt nam”.

Ngày 11 tháng 7 năm 1978, 30.000 người Hoa tập trung từ đồn biên phòng này đến “Hữu nghị quan”, vì sự chậm chạp của phía Trung quốc trong việc cấp giấy tờ nhập cảnh. Khi đó chúng tôi cho phép họ từ phía chúng tôi ra đi mà không cần có thị thực xuất cảnh. 11 giờ 30 phút sáng hôm đó, lính biên phòng Trung quốc thông báo cho chúng tôi rằng họ sẽ không nhận thêm bất cứ người nào không có đủ thủ tục đã nhất trí lúc đầu là phải tuân thủ mà cũng là điều mà nhà đương cục Trung quốc thoái thác. Chúng tôi lại bắt đầu cấp thị thực xuất cảnh với tốc độ kỷ lục, nhưng các nà chức trách biên giới (của Trung quốc – ND) lại từ chối cấp thị thực nhập cảnh. Một đoàn đại biểu người Hoa đến gặp nhà chức trách biên phòng Trung quốc được trả lời là tất cả họ phải quay trở lại Hà nội để nhận chứng chỉ của Đại sứ quán Trung quốc ở đó. Cũng như chúng tôi, nhà chức trách biên phòng (Trung quốc – ND) biết rất rõ rằng Đại sứ quán Trung quốc không chịu cấp bất kỳ loại giấy tờ gì trong lúc đó vẫn tăng sức ép người Hoa ra đi. Nhân tình hình bế tắc đó, chúng tôi một lần nữa kêu gọi mọi người trở lại làng xóm, thành phố quê hương của mình. Vài trăm người đồng ý và chúng tôi đã thu xếp phương tiện đi lại cho họ. Nhưng chỗ của họ lại được thay thế bởi hàng ngàn người nữa vẫn đang dồn đống cả ở đó.

Điểm cháy đã điểm ngày 25 tháng 8, khi một nhóm nhân viên của Ty Y tế Lạng sơn bắt đầu tiến hành công tác rà soát tình hình sức khỏe đang nhanh chóng suy sụp (của người Hoa chờ làm thủ tục - ND). Nguyễn Tiến Hòa cho biết, nhóm này đã bị những phần tử người Hoa do cảnh sát mặc thường phục dùng loa pin chỉ huy tấn công (Anh đưa ra những bức ảnh chụp những người Trung quốc điển hình tóc húi cua, mặc áo cộc tay trắng đồng phục, đang gào vào loa). Trong cuộc ấu chiến diễn ra lúc đó, lính biên phòng Trung quốc đã tấn công và chiếm được điểm cao Quốc Khung (?) khống chế các tuyến giao thông sắt bộ trong khu vực Đồng Đăng và vốn là mục tiêu của mấy cuộc tấn công trước đó. Vài giờ sau, phía Việt nam tung lực lượng dân quân chiến tuyến lên và chiếm lại điểm cao này. Lợi dụng sự có mặt lỏng lẻo của Trung quốc tại đồn biên phòng. Một số người Hoa hiếu động đã dỡ tung hàng rào chắn biên giới và ào ào tràn qua đường ranh giới như một dòng lũ không gì có thể phá vỡ hay ngăn chặn nổi. Trung úy Nguyễn Tiến Hòa kết luận:

“Chính từ bữa đó trở đi, tình trạng căng thẳng giữa hai bên bắt đầu tăng lên cùng với việc thấy bóng chúng tôi là lính biên phòng bên kia nổ súng. Chính từ sau ngày 25 tháng 8, Trung quốc bắt đầu xây dựng một đài rađa cỡ lớn và tập trung rất đông quân ngay sát đường biên giới, xây dựng các công sự pháo binh và đường xá phục vụ cho các vị trí quân sự của họ”.

Trong suốt cả tháng tai họa này, tôi đã phải miễn cưỡng tin rằng vụ ám sát Thanh Nga, dàn ăngten rađa khổng lồ khống chế cái thường được gọi là “Hữu nghị quan” và quay tròn suốt 24 giờ đồng hồ một ngày để thám thính các căn cứ phòng thủ của Việt nam, những cuộc tấn công ác liệt của Khme đỏ vào những vùng biên giới của Việt nam và tất thảy những gì tôi đã nhìn đã nghe – mới chỉ là những điểm nổi bật trong số những vấn đề liên quan ở đây – đều là một phần của một âm mưu kinh khủng. Tôi đã từng nghiên cứu lịch sử Trung quốc và lịch sử Việt nam kỹ tới mức đủ để biết rằng trong những cuộc xâm lăng của Trung quốc trong hơn hai ngàn năm qua, bọn xâm lăng – kể cả những đội quân Nguyên Mông của KubiLai Khan đóng đô tại Yên kinh (Bắc kinh hiện nay – BT), trong ba lần xâm lăng Đại Việt hồi thế kỷ XIII – luôn luôn hỗ trợ cho mũi tấn công chính qua cửa ải Lạng Sơn bằng những mũi tấn công phụ: những chiến dịch thủy – bộ dọc theo bờ biển phía đông và các con sông của Việt nam và các tấn công trên bộ xuyên qua vùng đất khi đó là Vương quốc Chăm pa ở phương nam hoặc xuyên qua Lào. Lịch sử quân sự lại được lặp lại, những cuộc tấn công của Khme đỏ vào sườn biên giới tây nam cùa Việt nam, trong khi Trung quốc tập trung binh lực khổng lồ ở phía bắc dọc theo những tuyến đường tấn công truyền thống, chuẩn bị cho cuộc xâm lăng. Hàng nghìn cố vấn quân sự Trung quốc bên các lực lượng Khme đỏ - phía Việt nam nói con số này cao tớ 20.000 – là một nhân tố có ý nghĩa trong toàn bộ kế hoạch xâm lăng này. Hình như đã rõ là những vùng biêngiới, từ biên giới tây nam cho tới biên giới phía bắc Việt nam, sắp sửa trở thành bãi chiến địa cho cuộc hành quân phối hợp nằm nghiền nát người Việt nam và quét sạch cái chướng ngại vật lịch sử này đối với công cuộc nam tiến của Trung quốc! Vô cùng đau xót và tan vỡ ảo tưởng, tôi đi tới kết luận như vậy.
--------------------------------------------------------------
Chú thích:
1. Tháng 9 năm 1975, ông Huỳnh Tấn Phát, Thủ tướng Chính phụ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam (và hiện nay là Phó Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam) cho tôi hay rằng rằng Chính phủ của ông là chính phủ đầu tiên từ trước tới nay cố gắng nắm lấy nền kinh tế Nam Việt nam. “Cả người Pháp, người Nhật, rồi người Pháp khi họ quay trở lại năm 1845, lẫn người Mỹ, đều chưa ai từng thủ xem sao – ông nói – người Hoa nắm trong tay toàn bộ nền kinh tế đến nỗi người ta thích làm ăn thông qua người Hoa hơn”. Cuộc nói chuyện của chúng tôi diễn ra vài giờ trước khi ông Huỳnh Tấn Phát ký một sắc lệnh trừng trị thẳng tay các ông “vua gạo’, “vua thuốc lá”, “vua dệt” và các loại “vua” khác!

Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #37 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:18:26 pm »

Phần thứ năm - Campuchia sống sót – Cái gì đang chờ đợi ở phía trước

XIII. Từ kháng chiến đến giải phóng


Sẽ chẳng bao giờ biết nổi toàn bộ câu chuyện về cuộc kháng chiến của nhân dân Campuchia chống chế độ Khme đỏ. Không thể chắp nối để có được một bức tranh toàn cảnh vì hàng chục ngàn nam nữ anh hùng vô danh đã bị giết hại – thường là những người tham gia trong các cuộc nổi dậy đã bị giết tới người cuối cùng. Nhưng điều có thể khẳng định được là cuộc đấu tranh đã lan ra một cách cực kỳ nhanh chóng và rộng khắp và được tiến hành với chủ nghĩa anh hùng vĩ đại của những người dân thường tay không tắc sắt, cũng như của các đơn vị vũ trang. Tất cả các thành viên của “Hội đồng Nhân dân Cách mạng” đang cầm quyền và của các cơ quan lãnh đạo khác của Cộng hòa Nhân dân Campuchia đều đã từng tham gia hoặc lãnh đạo những nỗ lực kháng chiến. Trong số các lãnh tụ của nhóm kháng chiến trong lòng các lực lượng vũ trang Khme đỏ có Hêng Xomrin, sau này trở thành Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Campuchia; Hun Xen, Ngoại trưởng Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Xô Phim, nguyên Phó Chủ tịch thứ nhất của Khiêu Xamphon khi hắn ta thay Sihanuc là Quốc trưởng năm 1976. Xô Phim chỉ huy một trong những cuộc binh biến lớn nhất trong hàng ngũ các lực lượng vũ trang Khme đỏ. Ông bị đồng ngũ làm phản và bị giết hại.

Cuộc kháng chiến vũ trang chống ban lãnh đạo Polpot – Iêng Xari bắt đầu ngay từ đầu năm 1973. Năm đó, Xải Phu Thoòng, hiện là một trong những Phó Chủ tịch của Mặt trận cứu nước đoàn kết Campuchia (FUNKS), đã lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở tỉnh Kô kông, tây nam Campuchia có biên giới chung với Thái lan. Cuộc khởi nghĩa này được nổ ra bởi phản ứng mạnh mẽ của các cán bộ Khme đỏ địa phương trước mệnh lệnh áp dụng những biện pháp dã man đối với dân thường. Cuộc nổi dậy bị đàn áp đẫm máu và tất cả các cán bộ Khme đỏ của địa phương đều bị giết chết. Nhóm kháng chiến của Xải Phu Thoòng là nhóm ra đời sớm nhất và lớn mất, có 5 căn cứ nhỏ, mỗi căn cứ có từ 20 – 60 người có vũ trang. Tòa bộ họ chỉ có 2 máy thu thanh nhỏ và không có máy phát. Đã 17 lần Xải Phu Thoòng cử phái viên đi tìm kiếm sự giúp đỡ của người Việt nam. Ba nhóm trong số này đã bị đón lõng và bị các lực lượng Khme đỏ xóa sổ. Cuối cùng, Xải Phu Thoòng, một người Khme gốc Thái, đã phải tìm cách chạy sang Thái lan và được dân Khme thiểu số ở vùng biên giới che chở cho tới khi ông có khả năng quay trở lại hỗ trợ cho cuộc nổi dậy trên cả nước nhằm chấm dứt chế độ Pol Pot.

Một cuộc binh biến tương tự do Bu Thoong lãnh đạo, nổ ra sau đó ít lâu ở vùng gần biên giới với Lào phía đông bắc Campuchia. Những cuộc binh biến trong các lực lượng vũ trang đã có đà thúc đẩy, đặc biệt từ năm 1977 trở đi, nhưng hầu hết đều bị đàn áp dã man bằng bản tính tàn bạo vốn có của Khme đỏ. Việc gần như không có thông tin qua lại giữa các nhóm kháng chiến với nhau làm cho họ không biết gì về sự tồn tại và hoạt động của nhau và trong một thời gian dài, đã ngăn cản việc tổ chức một phong trào nổi dậy rộng khắp toàn quốc. Dẫu sao thì những cuộc binh biến trong các lực lượng vũ trang của Khme đỏ và các cuộc nổi dậy của nhân dân riêng rẽ vẫn cứ tiếp tục.

Bác sĩ Apdun Côiômơ, một Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận cứu nước thành phố Phnom Penh giới thiệu cho tôi nghe về cuộc kháng chiến tự phát của nhân dân.Ông phụ trách về các vấn để dân tộc thiểu số, kiêm phụ trách về y tế thành phố. Bác sĩ Côiômơ là người Chàm. Theo ông, khối cộng đồng người Khme theo đạo Hồi này trước đây là 700.000 người (1). Vốn là ngư dân, người Chàm chủ yếu sinh sống dọc theo sông Mê Kông và sông Tônglê Sáp. Bác sĩ Côiômơ số ở xã Co cô, cùng với xã Cô Prác và Roang hợp thành huyện Côngpông Xiên thuộc tỉnh Côngpông Chàm. Chúng tôi gặp nhau vào đầu tháng 12 năm 1980, ông mới về thăm 3 xã này và thấy cả 3 xã đều bị bỏ hoang hoàn toàn. Trong số 20.000 người Chàm trước đây sống ở Côngpông Xiên, nay chẳng còn ai cả. Nói vậy không hẳn đã có nghĩa rằng chẳng ai còn sống sót, nhưng mùi họi thối và ký ức về sự chết chóc đến mức chẳng có người nào còn sống sót muốn trở lại nơi này nữa. Bác sĩ Coiômơ kể lại cái về sau này được biết tới với tên gọi: “Cuộc khởi nghĩa Crốtma”.

“Khi đó là tháng 10 năm 1975, việc cấy lúa mùa chính vừa mới hoàn thành. Chúng tôi đang chuẩn bị tổ chức lễ Ramađan, ngày lễ thiêng liêng nhất của đạo Hồi. Các cán bộ Ăngca tới, triệu tập mọi người đi họp. Tên cán bộ lãnh đạo nói: “Bây giờ các đồng chí là những người cách mạng rồi, các đồng chí không được sùng đạo nữa. Các đồng chi có thể đem kinh Coran làm giấy lộn được rồi. Đưa kinh Coran ra đây và chúng ta sẽ biến chúng thành đống lửa mừng”. Mọi người không chịu, thế là lính Pon Pot bắt đầu sực vào các nhà tịch thu các bản kinh Coran. Cánh đàn ông chúng tôi chống lại, giành nhau với chúng. Bọn lính xua đàn bà và trẻ em đi, rồi quây lấy đàn ông. Họ bị bắt đi và bị giết chết.

Sự việc này được mọi người nhanh chóng kể đi khắp các làng xã của người Chàm ở vùng trung lưu sông Mê Kông. Một hình thức chống đối để cứu lấy kinh Coran ra đời. Nhưng đây chỉ là cái cớ để chúng tiến hành việc thanh toán chủng tộc Chàm chúng tôi. Chúng nói rằng đàn bà chúng tôi để tóc dài giống như dân Việt nam và như vậy là đã bị “nhiễm xáu”. Cách xã tôi không xa là một hòn đảo rất mầu mỡ - đảo Côpham - “Đảo Thịnh vượng” ở giữa dòng sông Mê kông. Ở đó, cuộc đấu tranh để cứu kinh Coran cũng diễn ra tương tự. Bọn lính Pol Pot quây lùng đàn ông. Nhiều người nhảy xuống sông. Một số bị chết đuối, một số bị súng máy bắn chết dưới nước. Bọn lính Pol Pot sau đó đưa một đơn vị giang thuyền từ Côngpông Chàm tới diệt nốt những ai còn sót lại ở Cô Pham. Đảo này nay đã được mang tên mới – Cô Phét, nghĩa là đảo Tro tàn”.

Theo bác sĩ Coiômơ (và đã được khẳng định bằng các cuộc phỏng vấn của bản thân tôi với những người Chàm còn sống sót, đầu tiên là với những người đã trốn sang Việt nam hồi năm 1977 – 1978), người Chàm bị xếp vào loại A, cùng với những sĩ quan và binh sĩ của quân đội Lon Non, trong hàng thứ tự ưu tiên bị giết.

“Các cuộc giết chóc diễn ra ngay sau cái mà chúng tôi coi là chiến thắng chung của mình. Giai đoạn đầu tiên là kêu gọi mọi người tình nguyện đi giúp cấy lúa. Không ai còn gặp lại những người tình nguyện nữa. Những cuộc giết chóc diễn ra không thường xuyên trong các năm 1975 và 1976. Đến tháng 7 năm 1977, các lãnh tụ Khme đỏ ở địa phương nói rằng dân số ở huyện chúng tôi quá đông, một số người phải chuyển đến các huyện khác. Xã tôi thuộc “huyện 42” và chúng tôi được lệnh bước đầu phải chuyển 120 gia đình đến “huyện 41”. Một nửa gia đình trong số đó là ngưới Chàm. Họ chẳng thể đem bất kỳ của cải vật dụng gì – Ăngca sẽ cấp cho. Những người đầu tiên phải ra đi ngủ đêm ạoi một trường học trong lúc vài chiến xe tải chạy đi chạy lại chở những người khác. Từ lúc này trở đi, họ phải bỏ lại tất cả, trừ bộ quần áo mặc trên người. Họ bị đưa tới đồn điền caosu Chúp; ở đó người ta đã đào sẵn nhiều hố, có những hố sâu đến 10m. Đàn ông, đàn bà và trẻ em bị tách riêng ra để giết, xác họ bị ném xuống các hố khác nhau”.

Prom Than cùng dự các cuộc thảo luận với bác sĩ Coiômơ, cũng là một Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận thành phố Phnom Penh, phụ trách các vấn đề tôn giáo. Tôi hỏi ông vì sao Pol Pot lại đặc biệt chống đối người Chàm. Ông trả lời rằng tập đoàn lãnh đạo Pol Pot – Iêng Xari chống đối mọi tôn giáo.

“Tụi lãnh đạo Khme đỏ đã giết chết khoảng ba phần tư số các nhà sư theo đạo Phật, nhưng chúng không thể giết sạch các tín đồ Phật giáo, bởi lẽ họ thật sự đại diện cho toàn dân tộc. Nhưng đối với người Chàm, chúng có thể giết sạch không chỉ các vị mula (giáo sĩ đạo Hồi – ND) mà còn cả tất cả các tín đồ nữa chỉ vì đây là một tộc người nước ngoài với một tôn giáo nước ngoài. Ngược lại, người Chàm lại dùng mọi thứ có trong tay để chống trả nằm bảo vệ tôn giáo và những phong tục tập quán đặc biệt của họ.

Trước năm 1975, người Chàm sống trong những khối cộng đồng rất gần gũi với nhau, thường tụ lại chung quanh nhà thờ của họ và học cực kỳ đoàn kết với nhau (một cộng đồng sống khá khép kín – BT). Pol Pot bắt tay ngay vào việc phá vỡ thực trạng này. Chúng thi hành một chính sách có tính toán kỹ càng để chia rẽ, phân ly và tiêu diệt họ. Để thoát chết, người Chàm phải từ bỏ tập tục của mình. Nhà thờ bị biến thành chuồng lợn và nơi chứa phân người. Đàn bà phải cắt tóc ngắn, đàn ông phải ăn thịt lợn – từ chối có nghĩa là bị giết ngay lập tức – phải bỏ việc cầu kinh, phải che dấu hay phủ nhận nguồn gốc của mình. Nhưng dưới hình thức này hay hình thức khác, người Chàm không bao giờ chịu ngừng chống trả dù phải chịu biết bao hy sinh”.


Châu Coong, nguyên giáo viên trung học Xiêm Riệp (thị xã của tỉnh Xiêm Riệp, nơi gìn giữ những gì còn lại của đền Ăngko), giới thiệu một ví dụ về kiểu nổi dậy tuyệt vọng của nhân dân. Hiện nay anh là cán bộ Vụ Trung Đông và châu Phi thuộc Bộ Ngoại giao và là người phiên dịch tiếng Anh cho tôi trong chuyến đi thăm Campuchia tháng 12 năm 1980.

Khi những trung tâm thành thị bị bỏ hoang sau khi Khme đỏ lật đỏ Lon Non tháng 4 năm 1975, Châu Coong bị đưa đi khỏi thị xã quê anh tời xã Cuốc Thiốc thuộc huyện ChíKrông tỉnh Xiên Riệp. Tháng 4 năm 1977, anh bị đưa đi tham gia xây một con đập ở một nơi tên là Rôhan Truôn.

“Những người dân “cũ” đang làm việc ở đó rồi, nhưng họ phải bị thay thế bởi những người “mới”. Khi nhân danh Ăng ca, người ta “mời” những người dân “cũ” trở lại quê cũ, thì họ đã ngờ rằng người ta đưa họ đi giết. Họ ở lỳ tại chỗ. Những người dân “mới” đã dày dạn tới mức hiểu rằng những “lời đề nghị” của ăngca cũng có nghĩa là án tử hình. Dân “cũ” và dân “mới” họp nhau lại chỉ định hai lãnh tụ: Chớt của dân “cũ” và Xíp của dân “mới”, để biểu tình chống Ăngca. Những cuộc biểu tình này nổ ra ngay nơi làm việc, nhưng cũng gần như đồng thời nổ ra ở tất cả 20 xã của huyện Chí krông. Bọn cán bộ Ăngca ra sức ngăn chặn họ, lúc đầu bằng lời lẽ thuyết phục, rồi sau bằng vũ lực. Chúng chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa nổi dậy. Nhiều cán bộ Ăngca, binh lính, đội trưởng các đội lao động và chủ nhiệm các hợp tác xã bị tấn công bằng rìu, cuốc, gậy sắt, gậy gộc và bị giết. Cuộc nổi dậy kéo dài ha tuần; tới lúc đó, tất cả cán bộ Ăngca trong huyện Chí Krông đều bị giết sạch. Dân “cũ” và dân “mới” sát cách chiến đấu bên nhau.

Chuyện bắt đầu vào những ngày tháng 4. Một số lính Pol Pot tới xã Cuốc Thiốc để gắng ngăn chặn cuộc biểu tình. Chúng đã bị giết, sau đó chúng phái các lực lượng tăng viện lớn tới, và ngày 29 tháng tên phụ trách toàn vùng, trong đó có các tỉnh Xiêm Riệp, CôngPông Thơm và Ốtđô Miênchay tới nói về việc cách mạng đã “giải phóng chúng ta khỏi ách chủ nghĩa đế quốc” và về những quyền lợi và ân huệ mà Ăngca đã đưa lại cho chúng tôi. Hắn buộc tội chúng tôi đã “vô ơn bội nghĩa” khi tiến hành biểu tình và cảnh cáo rằng “cách mạng vẫn còn sống”.

Mọi người hét lại rằng chúng tôi không chống cách mạng, chúng tôi chỉ chống lại các cuộc giết chóc và chống lại tình trạng thiếu ăn. Chúng tôi tiến hành một “cuộc cách mạng trong lòng cách mạng”. Tên phụ trách đáo rằng một số cán bộ đã bị giết, rằng Ăngca theo đường lối đúng đắn của mình, sẽ bảo đảm rằng “công lý sẽ được thực hiện”. Khi đó, bọn lính lôi Chớt và Xíp đi, còn tên phụ trách nói rằng Ăngca “yêu cầu họ có mặt để giáo dục thêm nữa”. Chúng tôi hiểu rằng đó chính là cái án tử hình đối với họ.

Rồi mọi người bị bắt đúng thành hàng và ai cũng phải trả lời câu hỏi: “Có tham gia biểu tình không?” Những ai trả lới “có” bị dồn sang một bên, những ai trả lờ “không” bị dồn sang phía bên kia. Khi tất cả mọi người trả lời xong, những ai trả lời “có’ bị đi7a trở lại xã và bị bắt nằm xuống. Tay bị trói quặt ra sau, họ bị bắt đi giữa ban ngày ban mặt và bị giết ngay quanh xã. Đối với những người giống tôi trả lời “không”, đêm đêm Ăngca yêu cầu lên trình diện và không ai trở lại nữa. Đêm 21 – 22 tháng 4, tôi tìm cách trốn sang một huyện khác. Theo tôi biết, tôi là người đàn ông duy nhất của Cuốc Thiốc và một trong số rất ít đàn ông của huyện Chí Krông còn sống sót”.

(...)
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #38 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:19:06 pm »

Cũng hợp lẽ khi khẳng định rằng những người nằm dưới các hố chôn người ở Rô luốt chính là những nạn nhân của một cuộc khởi nghĩa của nhân dân, tương tự như cuộc nổi dậy ở huyện Chí Krông, nhưng xảy ra ở mạn bên kia của Campuchia. Xã Rôluốt, trên đôi bờ sông Bát xắc, cách Phnom Penh khoảng 15km. Khi tôi tới thăm vào giữa tháng 12 năm 1980, người ta mới khai quật được 20 trong tổng số 129 hố chôn người được phát hiện vào tháng 8 năm 1980. Việc bốc mộ bị tạm ngưng vì thành viên các nhóm khai quật đều bị ốm do những mùi hôi thối và cảnh khủng khiếp của công việc. Tôi cũng vậy. Dưới mỗi hố đã được đào, có từ 60 – 120 xác chết. Hầu hết những người này, tay bị trói quặt ra sau bằng dây điện, mắt bị bịt bằng những mảnh vải xé từ quần áo của chính họ. Có cả đàn ông, đàn bà và trẻ em. Những túm tóc và thịt khô vẫn còn bá lấy xương sọ và các xương khác. Hình như rõ ràng là nhiều gia đình đã bị giết sạch. Trạng thái của những gì còn lại cho thấy rằng các nạn nhân chỉ mới bị giết ít lậu trước khi chế độ Pol Pot – Iêng Xari bị lật đổ. Nhưng chẳn ai có thể nói được rằng khoảng 11 – 12 ngàn nạn nhân đã bị đưa từ đâu tới nôi hành quyết. “Chết là hết chuyện”, như một câu ngạn ngữ cổ của Anh đã từng nói!

Dân làng ở Rôluốt, đang dùng đôi tay thu hoạch một vụ lúa sớm năng suất khá cao khi tôi tới thăm, cũng chẳng thể đóng góp được gì vào việc giải quyết câu chuyện bí hiểm này. Bị buộc phải tản cư xa quê hương trong những ngày đầu tiên sau khi Khme đỏ giành chính quyền, họ mới chỉ trở lại quê sau ngày chế độ ấy bị lật đổ. Một số người đã gục xuống ốm nặng sau khi khai quật những hố chôn người tập thể. Có thể giả định rằng những nạn nhân này thuộc về một cộng đồng người nổi dậy chống bọn Khme đỏ bạo ngược ở địa phương. Nhưng từ lòng những hố chôn người này, không có gì có thể gợi cho người ta biết họ là ai và từ đâu tới.

Vanđi Caon là một nhà xã hội học được đào tạo ở Sorbon, thoát chết nhờ giả làm người bán thuốc lá rong mù chữ. Bị đầy tới xã Prếch Các, huyện Xtung Treng, tỉnh Công pông Chàm, ông ta đã được chứng kiến những hành vi chống đối của cá nhân và bản thân ông đã định lấy một loại cây có chất độc chết người chế thành thuốc độc để tự tử. Ông ta nói với tôi:

“Mọi người đều sẵn sàng vùng dậy chống Pol Pot. Giá như có một khẩu súng thì hẳn tôi đã tham gia cùng họ rồi. Nhưng tình hình dường như vô vọng. Nhiều người đã phải tự vẫn. Họ cảm thấy thế nào họ cũng sắp chết đến nơi rồi – vậy còn kéo dài cảnh cùng cực này làm gì?”

Ông ta kể ra trường hợp một sinh viên trẻ “cởi mở và khoan dung” trong khi đối xử với mọi người cùng tổ lao động, quyết định tự kết liễu đời mình, nhưng ít nhất cũng tự sát bằng một cách thể hiện sự thách thức nhằm động viên tinh thần kháng cự. Ở Prếch Các cũng như ở mọi nơi khác, tụi mật thám còn đêm đêm ẩn náu tại những khu nhà ở để phát hiện xem ai nói tiếng nước ngoài. Những ai bị tố giác là nói tiếng nước ngoài thì ngay hôm sau sẽ bị bắt đi và rồi chẳng bao giờ trở lại nữa. Một hôm, trước sự lo sợ và kinh ngạc của mọi người, chàng thanh niên ấy đứng giữa công trường hát một bài hát, một bài thuộc loại “hit” khá phổ biến hồi những năm 1970 – bằng tiếng Pháp. Hát xong, khi bị bắt đi, anh còn thét lên: “Tao biết cái chết đang chờ tao. Giờ thì tao sẵn sàng chết đây”. Cha mẹ anh rơi vào tình trạng suy sụp, mẹ anh mất sau đó một tháng, còn cha anh tự thắt cổ ít lâu sau cái chết của mẹ anh. Vanđi Caon nói thêm:

“Tại công trường Xtung Treng, nhiều trí thức đã bị giết vì sơ suất buột miệng nói ra một từ tiếng Pháp hoặc tiếng Anh sau khi đi làm về. Cha của anh sinh viên nọ để lại mấy chữ: “cầu cho linh hồn chúng ta không bao giờ tái sinh trên mảnh đất ngàn lần khốn nạn này nữa!” Thật là một con người đáng thương! Điều duy nhất người đời có thể trách ông ta là ông đã chọn nhầm đối tượng của lời nguyền rủa của ông. Lẽ ra, lời nguyền rủa trước khi chết của ông phải nhằm vào bọn Khme đỏ ch71 không phải vào đất nước Campuchia”.

Liệu có thể tưởng tượng rằng hai cha con ông già này lại không cầm vũ khí một khi có cơ hội, dù là mỏng manh nhất, lật đổ chế độ ấy không? Phải nhân những trường hợp như thế này lên hàng chục lần. Ở tất cả những nơi tôi đã qua, là những tỉnh đông dân nhất của Campuchia, tôi đều được nghe kể về những hành động kháng cự có tính chất cá nhân tuyệt vọng tương tự. Giá như họ có khả năng phối hợp với nhau và tập trung lực lượng lại thì cái chế độ ấy chắc đã bị lật đổ sớm hơn nhiều.

Pin Yathay viết một cách rất thuyết phục rằng những lời đồn đại về các cuộc nổi dậy ở nhiều nơi trong nước đã làm hé ra những niềm hy vọng, nhưng không thể xác minh được các lời đồn đại ấy, lại càng không thể tìm đến tham gia những nhóm nổi dậy đó (2). Một trong những cuộc nổi dậy quan trọng nhất, cũng là cuộc nổi dậy giúp ta lý giải về những vụ đào ngũ hàng loạt sau này của lính Pol Pot và chiến thắng vũ bão của của các lực lượng chống Khme đỏ được Việt nam ủng hộ tháng 1 năm 1979 – được sự lãnh đạo của Chacrây, Phó Tổng tham mưu trưởng, tư lệnh quân khu Phnom Penh. Cuộc nổi dậy này diễn ra vào tháng 2 năm 1977, nhưng mạng lưới mật thám của Pol Pot trong các lực lượng vũ trang đã được tổ chức quá tốt. Cuộc binh biến vừa mới bắt đầu, Chacrây đã bị giết, những người giúp việc chủ yếu của ông đều bị bắt. Về sau họ bị thiêu sống tại sân vận động Phnom Penh.

Cuộc kháng chiến chống chính quyền Khme đỏ của Pol Pot, Iêng Xari và Khiêu Xamphon quá ư phức tạp và những yếu tố đã biết lại quá thiếu hoàn chỉnh, trong một vài trang sách không thể giải quyết nổi. Chắc chắn vấn đề này rồi sẽ phải là đề tài của một cuốn sách với đúng tầm cỡ của nó. Phó Chủ tịch FUNKS có trách nhiệm thu thập tài liệu về vấn đề này. Giá như chỉ cần những nắm xương vô danh dưới hàng ngàn những nấm mồ tập thể kia có thể làm chứng hoặc những kẻ thủ phạm bằng xương bằng thịt bị đưa ra tòa, thì ta cũng có thể có được một bản báo cáo tương đối đầy đủ rồi.Từ những tài liệu điều tra hẳn là còn hạn chế của tôi, tôi đã đi dần tới chỗ làm rõ được rằng: nói rằng hơn ba triệu người Campuchia chịu bị động đi vào cõi chết là không đúng. Họ đã kháng cự, từng cá nhân và cả tập thể, cả dân thường không tấc sắt trong tay lẫn những đơn vị trong các lực lượng vũ trang, nhưng chủ yếu là tự phát và rời rạc, sức đến đâu kháng cự đến đó. Tuy nhiên, họ phải chịu ở vào thế bất khả kháng đến mức tuyệt vọng bởi vì súng ống, đạn dược, tổ chức thông tin liên lạc, giao thông vận tải và – trên hết – sự lãnh đạo còn nằm trong tay Pol Pot và phe lũ, những kẻ ngày càng trở thành những công cụ tình nguyện của đội quân cố vấn Trung quốc của chúng!

Tháng 12 năm 1980, tôi có thảo luận vấn đề lật đổ chế độ Khme đỏ với Yốt Po, một thành viên trong Ủy ban Trung Ương FUNKS, khi đó là cố vấn cao cấp của Bộ Văn hóa – Báo chí – Thông tin, là một trong số hiếm hoi những người của Đảng bộ Khme thuộc Đảng Cộng sản Đông dương trước kia còn sống sót, và điều rất thú vị nữa là người đã từng nghiên cứu triết học ở Trùng khánh trong thời gian Cách mạng Văn hóa ở Trung quốc. Yốt Po đã từng tham gia trong các cuộc đấu tranh giải phóng chống Pháp và chống Mỹ và đã giữ vai trò lãnh đạo trong việc thành lập FUNKS cũng như trong việc soạn thảo điều lệ của tổ chức này. Ông đã thoát khỏi bàn tay những đội hành quyết của Pol Pot vì đã vượt biên trốn sang Việt nam. Kinh nghiệm rộng rãi của Yốt Po trong đấu tranh cách mạng làm cho ông ta giải đáp một cách rõ ràng và cô đọng những gì đã diễn ra:

“Chính cuộc đấu tranh của nhân dân đã giải phóng đất nước chúng tôi tháng 4 năm 1975. Nhưng tập đòn Pol Pot – Iêng Xari đã tiếm quyền, biến Campuchia thành một trại tập trung khổng lồ. Chúng đối xử với chúng tôi như một loại đồ vật vô tri vô giác chứ không phải như một con người. Pol Pot, Iêng Xari và vợ chúng đã lập nên một chế độ độc tài kiểu gia đình trị. Tất cả những nhà cách mạng chân chính, từng góp phần vào chiến thắng Lon Non, đều đã bị giết hại. Nhưng nhà cách mạng cao tuổi đã từng chiến đấu chống thực dân Pháp vì nền độc lập của nước nhà cũng vậy. Chúng không chỉ giết hại các nhà cách mạng mà còn làm cho người nông thôn chống lại người thành thị và rồi làm cho người nông dân chống đối lẫn nhau.

Từ năm 1973 trở đi đã có những cuộc binh biến ngay trong hàng ngũ lực lượng vũ trang Khme đỏ vì những người cách mạng chân chính không thể ủng hộ việc đàn áp chính nhân dân mình. Nhưng từ năm 1976 trở đi, những cuộc nổi dậy này có thêm sức mạng vì khi đó Pol Pot còn giết cả gia đình, họ hàng của binh lính trong quân đội của chính hắn. Vợ con, họ hàng của những sĩ quan và binh lính trung thành của Khme đỏ cũng bị giết hại. Họ muốn tiêu diệt cái chế độ chịu trách nhiệm về những hành động tàn bạo như vậy. Tất cả bọn họ đều thiết tha với một cuộc sống bình thường, đều muốn gia đình, bạn bè của mình được yên ổn.

Mọi chiến sĩ đều biết rõ những mâu thuẫn trong giới lãnh đạo và đều biết rằng những nhà cách mạng chân chính đang bị giết hại. Trong số những nhà cách mạng được kính trọng nhất, nhiều người đã trốn sang Việt nam lánh nạn, coi đó là cách duy nhất để sống sót. Họ tập hợp nhau lại thành những thành viên của một lực lượng cách mạng được củng cố, hiến dâng tất cả cho sự nghiệp lật đổ cái đã trở thành một chế độ phát xít phân dân không thể tha thứ được. Đến cuối năm 1978, thời gian đã chín muồi cho sự ra đời của một Mặt trận thống nhất dân tộc để giải phóng đất nước. Cuối cùng, các nhóm kháng chiến đã có khả năng liên lạc được với nhau. Tình hình đã cho phép tổ chức một đại hội thành lập Mặt trận cứu nước tại Chloong, tỉnh Crachê ngày 2 tháng 12 năm 1978, nhằm thống nhất mọi lực lượng và tầng lớp nhân dân lật đổ tập đoàn Pol Pot – Iêng Xari. Tham gia Mặt trận có nhiều cán bộ và nhà cách mạng kỳ cựu cũng như những nhân vật mới như Hêng Xomrin, Hun Xen và nhiều người khác; nhưng người này lúc đầu ủng hộ Pol Pot, nhưng trong một thời gian dài đã chống lại chính sách phản dân, diệt chủng của hắn.

Trong vòng 30 ngày từ khi thành lập Mặt trân, các lực lượng Pol Pot – Iêng Xari đã bị đánh đuổi khỏi đất nước. Một Hội đồng Nhân dân Cách mạng được thành lập để lãnh đạo nhân dân, điều hành công việc quản lý và bảo vệ đất nước”.


Tôi hỏi Yốt Po rằng với tư cách là một người cộng sản lão thành và đã từng làm việc với ban lãnh đạo Khme đỏ, ông giải thích thế nào về chính sách diệt chủng của chúng đối với những người cách mạng, chiến hữu của chúng, một chính sách đã dẫn tới những cuộc binh biến và nổi dậy, dẫn tới sự sụp đổ của chính quyền và tan rã các lực lượng vũ trang của chúng?

“Sợ! Tập đoàn Pol Pot – Iêng Xari sợ. Sợ những người cách mạng chân chính, sợ nhân dân. Chúng có mặc cảm tội lỗi vì đã tiếm quyền lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia (Pracheachon) ra đời từ Đảng bộ Khme thuộc Đảng Cộng sản Đông dương. Cái gọi là Đảng Cộng sản Campuchia do chúng thành lập về sau này là cội nguồn của tấn thảm kịch đẫm máu ngập tràn Campuchia trong thời gian từ năjm 1975 đến năm 1979. Chúng còn có cả mặc cảm tội lỗi vì đã chống lại những đồng minh và những bạn chiến đấu gần gũi nhất của nhân dân Campuchia, những người đã từng hy sinh biết bao xương máu để giúp đỡ chúng tôi trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chúng đã thành công trong việc làm cho những người bạn tốt nhất của chúng tôi và toàn thể dân tộc tôi chống lại nhau, và vì thế chúng đã tự đào huyệt chôn chúng”.

Quân đội Nhân dân Việt nam đã cứu Cách mạng Campuchia. Họ đã phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia đập tan 19 sư đoàn quân Khme đỏ tập trung dọc biên giới với Việt nam, kể cả 3 sư đoàn trong thực tế đã xâm nhập vào tỉnh Tây ninh của Việt nam. Họ đã bẻ gẫy xương sống của các lực lượng Khme đỏ và do vậy tạo điều kiện cho nhân dân Campuchia nổi dậy và đập tan nhanh chóng chế độ Pol Pot. Một khi bị Quân đội Nhân dân Việt nam giáng cho những đòn phủ đầu, chúng lập tức tan rã như tuyết bị đưa lên bếp nóng. Tôi đề nghị Vanđi Caon kể lại không khí ở vùng của ông khi mọi người hiểu rằng một cuộc phản công chống chế độ Khme đỏ đã bắt đầu.

“Tôi và nhiều người khác luôn luôn ấp ủ ảo tưởng rằng thế nào rồi Liên hợp quốc cũng can thiệp để chấm dứt cơn ác mộng. Chúng tôi không thể tưởng tượng được rằng mọi người lại bỏ mặc để chúng tôi lụi tàn. Mỗi khi nghe tiếng pháo hạng nặng nổ, tôi lại nghĩ: “Cuối cùng thì Liên hợp quốc cũng đã đến”.

Đầu tháng 1 năm 1979, khi nghe tiếng pháo hạng nặng ngày càng gần hướng chúng tôi, nhân dân xã Prếch Các nổi dậy bắt tên Chim – trùm Ăngca địa phương và cũng là tên sát nhân tàn bạo nhất. Trước kia, chỉ bề ngoài của nó cũng đủ làm cho mọi người run lên. Nhưng khi nghe tiếng pháo nổ, nó bắt đầu run lên như cầy sấy. Tụi vệ binh của nó bắt đầu thì thào với nhau: “Mình làm sao mà đánh lại được loại đó”, khi chúng nghe tiếng nổ của đạn phá cỡ lớn. “Họ có xe tăng khổng lồ cơ mà”. Từ thời điểm ấy, nhân dân bắt đầu hành động”.

(...)
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #39 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2010, 04:19:24 pm »

Tôi hỏi Vanđi Caon: “Phản ứng tức thì của ông và những người khi đó đang ở bên ông là gì?” Ông cười và trả lời: “Khi đó là giờ ăn cơm và giống như mọi người khác, tôi chỉ được ăn một muôi cháo gạo. Tôi làm thêm hai muôi nữa. Thường ra, bọn lính gác bếp của Pol Pot đã bắt và giết tôi rồi. Tôi nói với chúng: “Tụi mày tịch rồi”. Chúng trả lời: “Phải! Chúng tao tịch rồi”. Ông kể tiếp:

“Những gì xảy ra tiếp theo đó làm cho tôi phải thay đổi cách suy nghĩ về nhân tố quyết định chiến tranh. Tôi đã chờ mong được chứng kiến một đội quân khổng lồ, xứng với tiếng pháo nổ và nét khủng khiếp trên mặt bọn Khme đỏ. Nhưng không hề có chuyện như vậy. Chỉ dăm ba người lính Pol Pot thôi, họ chĩa súng vào bọn chỉ huy, bọn này quẳng súng xuống đất.

Cho tới tận khi đó, tôi vẫn nghĩ rằng chỉ có sức mạnh quân sự mới là yếu tố quyết định. Nhưng rồi tôi đã hiểu rằng sức mạnh chính trị mới là nhân tố quyết định. Đột nhiên, người ta đồn rằng bộ đội FUNKS đã tới đầy xã. Hóa ra họ chính là quân lính Pol Pot đã chạy sang phía bên kia. Họ chính là mũi xung kích của các lực lượng giải phóng, đã chuẩn bị sẵn sàng cho vai trò mà họ đang thể hiện rất tốt vào lúc này, trước khi xe tăng và pháo binh Việt nam kéo tới.

Nhiều tháng trước đó, người ta đã tiến hành công tác chính trị một cách thận trọng. Toàn dân đứng về phía FUNKS ngay từ phút đầu tiên. Đây chính là lực lượng giải phóng chân chính. Cán bộ FUNKS đưa ra khẩu hiệu “Cấm trả thù” và khi lực lượng vũ trang của họ tới, họ đã nhiều lần phải can thiệp để cứu bọn theo Pol Pot khỏi bị xử tử theo kiểu Lynch. Những tên trung thành với Pol Pot bắt đầu hạ vũ khí và cũng không thể tránh khỏi một số trường hợp trả thù cá nhân, nhưng nói chung chủ trương của FUNKS được tôn trọng.

Là một nhà xã hội học, tôi hết sức quan tâm tìm hiểu xem một chế độ thay đổi như thế nào và tôi đã có mặt ở đó, tiếp cận gần nhất với sự thay đổi ấy. Trong thực tế, sự thay đổi diễn ra thật vô cùng đơn giản. Bọn theo Pol Pot ra sức liên hệ với mọi người: “Xin hãy nhớ tới tôi! Tôi chưa bao giờ thực sự ủng hộ Pol Pot!”. Đột nhiên chúng nhận thấy tương lai và vứt súng đi.

Chúng tôi đã bị Khme đỏ nhồi vào đầu cái “lý thuyết” cho rằng chỉ có sức mạnh quân sự mới là đáng kể. Theo đường lối Maoít thì “súng đẻ ra chính quyền”. Thật ra không phải như vậy. Chính sức mạnh của cả một dân tộc đoàn kết lại với nhau trong đau khổ mới là đáng kể trong việc lật đổ Pol Pot. Nhiệm vụ cuối cùng của tôi cho đến phút chót là dùng đôi bàn tay của mình nhào trộn bản chất con người, dưới sự quản thúc của một nhóm cảnh vệ Khme đỏ dữ tợn. Đột nhiên, khi nghe tiếng pháo nổ tới gần, chúng trở nên giống như những chú cừu non, rồi làm ra vẻ rằng chúng vẫn luôn luôn ủng hộ nhân dân và căm ghét chính sách của Pol Pot. Chúng có thể làm gì để chứng minh điều này? Chúng tôi yêu cầu chúng dùng vũ khí của chúng đi vây ráp những tên Khme đỏ chậm chân tụt lại; chúng thi hành một cách rất nhiệt tình”.

Vanđi Caon giải thích rằng nhiều người đã có ý định làm cho ông ta phải thú nhận mình là một nhà trí thức, rằng rõ ràng là trong hàng ngũ các cán bộ Khme đỏ, ít nhất là tới năm 1977, đã có những người chân thành tìm kiếm ý kiến của những người bị nghi là trí thức để xem họ thấy tương lai như thế nào. “Nhưng những nhóm Khme đỏ ấy bị làm cho sợ hãi đến cứng cả người. Họ biết rằng cứ mỗi nhóm 5 người lại có ít ra là một tên mật thám của Pol Pot và sự tố giác của tên mật thám đó chắc chắn là một bản án tử hình”. Khi được hỏi ông nghĩ chính quyền này định đi xa tới mức nào trong việc giết chóc, Vanđi Caon đáp:

“Đôi khi chúng tôi phải nghe những bài diễn thuyết trình bầy đường lối “triệt để đến cùng” của ban lãnh đạo “triệt để đến cùng”. Một phương diện của đường lối này là luận thuyết về “một trên mười” biện minh cho các cuộc giết chóc thường xuyên. Nếu trong một nhóm mười người có một người bị nghi là địch, thì giết cả mười người còn hơn là để một người trốn thoát. Chính theo ý nghĩa đó mà tôi nghe thấy các cán bộ Khme đỏ thảo luận một chỉ thị ban bố năm 1977 quy định rằng để bảo vệ “tính trong sạch” của cách mạng, mỗi xã chỉ cần có từ 4 – 8 gia đình sống sót là đủ. Trên cơ sở những gia đình ấy, một chế độ ấy sẽ được xây dựng. Do vậy, ở Prêy Các, chỉ có 7 gia đình còn sống sót.

Năm 1978 đường lối này được thay đổi đôi chút ở chỗ nói rằng trẻ em phải là cơ sở của xã hội mới và các cán bộ được lệnh dành “sự chăm sóc đặc biệt cho trẻ em”. Đồng thời chúng được lệnh tằng cường tiêu diệt “kẻ thù”. Trong thực tế, điều đó có nghĩa là mọi tên trùm Ăngca xã phải giết người, nếu không sẽ bị giết. Theo cách nhìn của Pol Pot khi đó, công trạng của một cán bộ thể hiện ở chỗ người ấy đã giết được bao nhiêu “kẻ thù”.


Vanđi Caon kể rằng ông thường nghe thấy các cán bộ Khme đỏ ở địa phương khoe khoang với nhau về việc đã giết được bao nhiêu “kẻ thù” và trao đổi kinh nghiệm về những phương pháp giết người kinh tế nhất và có hiệu quả nhất. Khi tôi hỏi: “Theo ông, cái gì là nhân tố quyết định trong sự sụp đổ của một chế độ một khi đã bị giáng một đòn quân sự?” Ông trả lời:

“Nhân dân nông thôn nhận ra rằng Pol Pot đã lừa dối họ. Những người dân Phnom Penh và dân các trung tâm thành thị khác không phải là những kẻ thù tàn ác như người ta hằng mô tả họ, mà chỉ là những người dân lương thiện; hiển nhiên được hưởng một cuộc sống khá hơn so với những người sống ở nông thôn dưới thời Pol Pot.

Nhân dân ở khắp nơi, kể cả những trong các lực lượng vũ trang và trong bộ máy hành chính của Khme đỏ, ngày càng lo lắng về vận mệnh của gia đình họ, khi họ được chứng kiến những điều đã xảy ra đối với những gia đình rõ ràng là vô tội, đã từ Phnom Penh hoặc các trung tâm thành thị khác ra đi.

Từ lâu trước cuối năm 1978, người ta đã phản đối về cơ bản cái hệ tư tưởng của Pol Pot. Mọi người đếu thấy rằng ban lãnh đạo Khme đỏ thật ngu xuẩn. Đâu đâu tôi cũng nghe thấy câu hỏi: “Làm sao chúng tôi có thể làm việc và xây dựng đất nước trong nhưng điều kiện như vậy?”

Mọi người chỉ cần khẳng định chắc chắn rằng đã có sự hậu thuẫn về quân sự hùng hậu để thanh toán các đơn vị quân sự chủ yếu của Khme đỏ thì họ sẽ nổi dậy ở khắp nơi”.


Sự phân tích của Yốt Po và Vanđi Caon là chính xác và giải thích cho tốc độ sụp đổ nhanh chóng đến mức đáng kinh ngạc của các lực lượng Pol Pot. Tất nhiên, xe tăng và pháo binh Việt nam giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt các đơn vị quân sự chủ yếu của Khme đỏ và các cố vấn Trung quốc của chúng. Nhưng sự chuẩn bị cẩn thận và chu đáo về mặt chính trị và công tác binh vận đã làm cho hàng ngàn, cũng có thể là hàng vạn binh lính Khme đỏ quay súng vào bọn sĩ quan chỉ huy, đẩy nhanh hơn quá trình tan rã của toàn bộ nhiều sư đoàn. Cuộc tấn công bọn Pol Pot bắt đầu từ ngày 25 tháng 12 năm 1978. Mục tiêu của cuộc tấn công này là 19 sư đoàn quân Pol Pot tập trung ở dọc toàn tuyến biên giới từ tỉnh Campốt ở cực nam đến tỉnh Ratanakiri ở cực bắc. Chỉ trong vòng 14 ngày, chính quyền Khme đỏ đã sụp đổ hoàn toàn trên cả nước, trừ một vài căn cứ trong dãy núi Con Voi và dãy núi Đậu Khấu cũng như dọc biên giới với Thái lan.

Pol Pot, kẻ tự nhận là “thiên tài quân sự vĩ đại”, kẻ thật sự chịu trách nhiệm về hoạt động quân sự của Khme đỏ, đã phạm một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng trong việc bố trí một nửa số đơn vị quân lực chủ yếu của mình tại khu vực mang tên “Mỏ Vẹt” trong tỉnh Xvây Riêng và “Lưỡi câu cá” trong tỉnh Công pông Chàm. Cả hai khu vực này đều tiếp giáp với Việt nam và nổi tiếng về nhiệt tình cách mạng của nhân dân trong vùng. Các sư đoàn Pol Pot bị các mũi đánh thọc sườn thọc sườn ồ ạt vây kín, xe tăng và pháo binh của chúng bị hỏa lực mạnh và độ chính xác hơn hẳn của bộ đội Việt nam tiêu diệt và cán bộ chỉ huy của chúng phần lớn bị binh lính của chính chúng thanh toán trong các cuộc binh biến chống lại sự đàn áp đẫm máu không gì tha thứ nổi ngay trong hàng ngũ các lực lượng vũ trang của chúng. Bọn người trốn chạy – kể cả các cố vấn Trung quốc – bị giết hay vây bắt bởi nhân dân địa phương, nhưng người tự vũ trang cho mình bằng vũ khí nhặt được và bừng bừng ý chí căm thù đối với bất kỳ vết tích gì của chế độ Khme đỏ.

Tới ngày 1 tháng 1 năm 1979, FUNKS đã có thể công bố được rằng chính sách của họ đã và đang được đưa vào các vùng giải phóng. Những chính sách ấy khá đơn giản. Thực chất, chúng chỉ chặn đứng những việc làm ghê tởm của chế độ đang bị lật đổ. Chính sách ấy bao gồm quyền tự do đi lại(3), việc bầu các ban quản lý ở các nhà máy và nông trang tập thể, quyền tự do tín ngưỡng và việc cho hoạt động trở lại các cơ sở y tế và giáo dục. Trong thực tế, lệnh ân xá đã được công bố cho những quan chức và binh sĩ của chế độ Khme đỏ ra đầu thú. Những người này được tự do trở về quê cũ hoặc trong khi chờ đợi giải phóng hoàn toàn đất nước khỏi ách Khme đỏ, họ có thể được bố trí công ăn việc làm ở nơi họ ra đầu hàng.

Các nguồn tình báo phương Tây ước tính rằng Việt nam đã sử dụng khoảng 100.000 quân cộng thêm lực lượng ban đầu của Mặt trận của Mặt trận Cứu nước gồm khoảng 20.000 người. Lực lượng của Mặt trận cứu nước nhanh chóng được tăng cường do nhiều đơn vị trọn vẹn từ bỏ hàng ngũ Pol Pot tham gia vào Mặt trận.

Khi đem kỳ công của Quân đội Nhân dân Việt nam và của các lực lượng Mặt trận trong việc đập nát tan tành 23 sư đoàn quân Pol Pot trong 11 ngày và trong việc đánh chiếm được toàn bộ 19 thị xã trong vòng 20 ngày, so sánh với hiệu suất tác chiến của đội quân 600.000 lính Trung quốc trong cuốc xâm lược Việt nam (bắt đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1979), người ta sẽ thấy sự khác nhau giữa một hành động được nhân dân ủng hộ và một hành động không được nhân dân ủng hộ. Trên mặt trận chính ở của ải Lạng sơn, các đơn vị quân chính quy Trung quốc chỉ tiến được 16 km trong vòng 16 ngày đánh nhau với bộ đội biên phòng và dân quân địa phương. Cho tới nay, đây là cuộc tiến quân chậm chạp nhất, dù cho đã có xe tăng và xe vận tải thay thế cho ngựa và lính đi bộ - trong toàn bộ lịch sử 2.000 năm Trung quốc xâm lược Việt nam. Thế mạnh áp đảo về quân số và về vật chất của Trung quốc đã không thể chiến thắng nổi một thực tế quân sự là nhân dân Việt nam chống lại chúng, quyết tâm bảo vệ làng quê và chế độ xã hội chủ nghĩa của mình. Ở Campuchia, niềm khát vọng thiết tha của nhân dân là giúp cho bộ đội Việt nam và Mặt trận Cứu nước của chính mình tiêu diệt cái chế độ đã gây ra nỗi thống khổ chưa từng có như vậy cho họ. Các chiến lược gia quân sự và các nhà khoa học xã hội chắc chắn sẽ phải suy ngẫm vấn đề này trong những năm tháng tới đây và cũng có thể đi tới những kết luận tương tự như kết luận của Vanđi Caon về “những nhân tố quyết định cuộc chiến”.

Tới giữa năm 1981, mặc dù được Trung quốc viện trợ ồ ạt qua đường Thái lan, binh lính Khme đỏ đóng trong các vùng đất thánh trên đất Thái lan hoặc trong các trại rải rác dọc biên giới Thái lan – Campuchia vẫn phải đèo bòng trên vai nào khẩu phần ăn uống, nào súng ống đạn dược trong các cuộc tấn công ăn cướp vào đất Campuchia. Chúng không thể kiếm được đồ ăn trong nhân dân Campuchia, không có khả năng thiết lập những ổ cất giấu vũ khí đạn dược trong các làng quê, cũng như không có khả năng được nhân dân giúp đỡ phương tiện đi lại hoặc ngay cả việc cung cấp thông tin. Nhân dân địa phương đã trở thành những tử thù của chúng và Khme đỏ là đại diện cho tất thảy những gì đi ngược lại nguyện vọng sâu xa nhất của họ. Hiểu theo khái niệm nhà binh, việ nhân dân không chịu ủng hộ này có nghĩa là các lực lượng Khme đỏ chỉ còn tiến hành được những hoạt động khủng bố mà thôi. Những cuộc tấn công ăn cướp nọ không thể kéo dài quá 4 – 5 ngày và Khme đỏ phải trở về căn cứ của chúng trên biên giới Thái lan để kiếm trác bất kể thứ hàng cung cấp quân sự gì của Trung quốc được đưa đến, cũng như bất kỳ loại đồ ăn thức uống gì của các tổ chức quốc tế đã bị lái khỏi mục đích ban đầu của nó, là làm giảm nỗi khốn cùng của những người dân thường Campuchia. Nếu không có những nguồn cung cấp này, hẳn là chẳng làm gì có mối đe dọa do bọn tàn quân Khme đỏ gây ra!
-----------------------------------------------------------------------
Chú thích

1. Về tổng số người Chàm ở Campuchia, các số liệu khác nhau rất nhiều. Tuy nhiên nói chung mọi người đều nhất trí rằng Khme đỏ đã có âm mưu giết sạch người Chàm và những người Chàm nào còn sống sót được là nhờ đã dấu đi gốc tích thiểu số của mình.

2. Pin Yathay, Cõi không tưởng chết chóc, Paris, Robert Laffont, 1980.

3. Quyền tự do đi lại bao gồm cả quyền của mọi người được trở về quê cũ của mình. Hàng vạn người đã lợi dụng chính sách này để chạy trốn khỏi những tai họa của chế độ cũ bằng con đường ngắn nhất và nhanh nhất, nghĩa là họ chạy sang Thái lan và ở hẳn đó. Vì thế sẽ là nói sai nếu coi việc này là sự chạy trốn khỏi “quân Việt nam xâm lược”.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM