Cuộc xung đột Israel-Palestin lại đang hết sức căng thẳng. Sau những đợt không kích đẫm máu,
có tin Israel đang tập trung lực lượng bộ binh và thiết giáp để chuẩn bị tấn công vào Gaza.
Chúng ta cùng nhìn nhận lại cuộc xung đột Ly-băng/Israel 2006 trên phương diện xe tăng và
chống tăng và những điểm quan trọng mà tác giả kết luận:
1. Vũ khí chống tăng nào có thể đối phó với xe tăng hiện đại.
2. Hướng phát triển các lớp bảo vệ cho xe tăng.
3. Chiến thuật sử dụng xe tăng và chống tăng để giành thắng lợi.
Vũ khí chống tăng Nga-Xe tăng Israel trong cuộc xung đột Li-băngMikhail BarabanovXung đột quân sự diễn ra từ 12/7 đến 14/8/2006 giữa Israel và Hezbollah, lực lượng quân sự ly khai Li-băng, sau một vài năm QĐ Israel mới giáp mặt với một đội quân được trang bị tốt. Các nhà quan sát quân sự dành nhiều sự quan tâm vào các xe bọc thép của Israel và kết cục chiến trận giữa xe tăng chủ lực chiến trường (MBT) và vũ khí chống tăng Hezbollah.
Phía Israel có tất cả 4 sư đoàn, 17 lữ đoàn (6 thiết giáp, 7 bộ binh, 4 không quân) tham gia vào xung đột, mặc dù tất cả không tham gia đầy đủ các mức độ. Trên 30000 lính và 400 MBT tấn công vào đất Li-băng, tất cả các xe tăng là loại Merkava do Israel sản xuất. Trong số 6 lữ thiết giáp, có 2 lữ đoàn trang bị Merkava Mk 2 (số 7 và số 847) 3 lữ trang bị Merkava Mk 3 (số 188, 434, và 673) một lữ trang bị loại hiện đại nhất Merkava Mk 4 (số 401). Trong số 7 lữ đoàn bộ binh thì có 2 được trang bị xe bọc thép chở quân hạng nặng Achzarit chuyển đổi trên khung bệ xe tăng T-55.
Kể từ năm 2000, Hezbollah đã mở rộng hoạt động giữa biên giới Israel và sông Litani thành một tuyến phòng thủ gọi là Nasser. Trên thực tế, mọi khu định cư được củng cố bằng các công trình quân sự tạm thời hay kiên cố (bao gồm boong-ke bê tông, cửa thép...) cùng một số lượng lớn các đường hầm được nguỵ trang. Mặc dù họ có sử dụng các công trình này nhưng không cố định mà thường xuyên di chuyển. Các chiến binh Hezbollah chia thành các nhóm cơ động không quá 20 người và thường là 5 hoặc 6 người trang bị các hệ thống chống tăng. Có vẻ như chiến thuật của họ là làm sao để Israel bộc lộ các đơn vị tấn công, thường là các đơn vị tăng, để bắn tên lửa chống tăng từ khoảng cách khá xa. Họ thường xuyên thay đổi vị trí, sử dụng hệ thống đường hầm và boong-ke.
Hezbollah đã triển khai trên 2500 chiến binh mà nòng cốt là 1000 tay súng “chuyên nghiệp” được huấn luyện và trang bị theo tiêu chuẩn tốt nhất của phương Tây. Không ai có thể nói Israel chiến đấu với đội quân “du kích” trong một cuộc chiến tranh thông thường mà thực sự họ chiến đấu với một quân đội trang bị và tổ chức tốt, thậm chí đã bộc lộ một số phương pháp tiến hành chiến tranh đặc biệt.
Hezbollah đã giành được một số kết quả khi đương đầu với chiến xa bọc thép Israel bằng một số lượng lớn vũ khí chống tăng Xô viết bao gồm tên lửa chống tăng dẫn đường Malyutka AT3/9M14, gồm bản có giấy phép theo phiên bản của Nam-tư và Iran Raad cũng như Raad-2T đầu đạn lõm, hàng nhái, tên lửa AT-4 Fagot, AT-5 Konkurs, gồm cả loại của Iran mang đầu đạn lõm Toophan và hàng nhái Toophan-2,các loại súng chống tăng không giật và một vài loại RPG-7 Xô viết. Iran và Syria là nguồn cung cấp chính những loại vũ khí này, cũng có một số hệ thống phương Tây đến tay người Shiites từ các kho của quân đội Ly-băng.
Bên cạnh đó,Hezbollah cũng có một số ít tên lửa chống tăng di động loại 9K115-2 Metis-M (AT-13) và 9K129 Kornet-E (AT-14), và một số súng chống tăng RPG-29 Vampir hàng Nga bán cho Syria 1998-1999. Cả 3 loại này phá vỏ bọc thép tốt hơn hẳn nhờ đầu đạn lõm chống tăng chất lượng cao. Loại tên lửa tầm ngắn Metis-M có tầm bắn đến 1500m trang bị tên lửa 9M131 dẫn đường bằng dây nặng 13.8kg. Loại mạnh hơn Kornet-E 9M133 dẫn đường bằng la-de nặng 29kg, tầm bắn đến 5500m. Hai loại này do Viện Tula chế tạo và trang bị bộ dò nhiệt độ 1PN86V1. Loại súng chống tăng RPG-29 Vampir là một trong những sản phẩm mới nhất của tổ hợp Basalt Mát-xcơ-va. Khối lượng của nó là 11.5kg, đạn nặng 6.2kg tầm bắn đến 500m, trang bị ống ngắm quang học.
Hezbollah tổ chức phòng ngự trên cơ sở những vũ khí chống tăng mà họ có này, chúng được dùng với số lượng lớn. Theo ước lượng của Israel, họ đã bắn trên 500 tên lửa chống tăng trong tháng 7, và tổng cộng khoảng 1000 quả trong cả cuộc xung đột. Tuy nhiên số tên lửa này không chỉ dùng để chống xe bọc thép mà còn được dùng để chống cả bộ binh Israel. Các chiến binh thường bắn chúng từ khoảng cách lớn nhất có thể.
Nhìn chung cả mức độ sử dụng vũ khí chống tăng và số lượng lớn các vũ khí hiện đại, có khả năng xuyên thủng bọc thép tốt mà họ có đã làm các chỉ huy phía Israel kinh ngạc. Việc đo đếm tổn thất của các xe bọc thép được thực hiện ngay từ đầu cho thấy Israel đã chỉ sử dụng các xe bọc thép hạng nặng khi tấn công vào Ly-băng: APC, xe chở quân trên khung sườn xe tăng Achazarit (loại tăng T-55), Nagmahon, và một số Nemerah (khung sườn tăng Merkava), Puma và Nakpadon (trên cơ sở tăng Anh). Xe chở quân tiêu chuẩn Mỹ M113, thậm chí đã được hiện đại hoá theo hướng siêu tăng cường bọc thép bảo vệ hầu như không được dùng, nó chỉ dùng cho lính kỹ thuật tuyến sau, lính hỗ trợ và các đoàn hậu cần.
Theo một số nguồn tin Israel và phương Tây, trong cuộc chiến tranh này, khoảng 46 đến 50 xe tăng chủ lực Merkava trong số 400 xe được triển khai và 14 APC đã bị các vũ khí chống tăng bắn hỏng. Bao gồm 22 chiếc tăng và 5 xe bọc thép APC bị xuyên thủng bọc thép. 6 chiếc tăng khác và ít nhất một chiếc APC bị nổ tung vì trúng mìn IDE.
Trong số những xe tăng dính đạn, có 18 chiếc là loại mới nhất Merkava Mk 4 (của lữ 401), 6 chiếc trong số chúng bị xuyên thủng vỏ giáp. Tổ lái của 23 chiếc tăng và 5 chiếc APC bị giết chết. Một số lớn tên lửa chống tăng và RGP bắn trúng xe tăng nhưng trong nhiều trường hợp chỉ gây hư hỏng nhẹ. Có một xe tăng Merkava Mk 4 vẫn sống sót sau khi bị trúng 23 quả tên lửa, trước khi nó bị phá huỷ vì thủng vỏ giáp. Tất cả các xe Merkava, theo nguồn của Israel chỉ bị xuyên thủng vỏ giáp bởi Kornet-E và RPG-29. Nếu như 22 xe thủng vỏ giáp trong số 50 xe bị bắn trúng thì tỉ lệ xuyên thủng giáp là 44% (và chỉ đạt 33% với Merkava Mk 4). Theo con số thống kê của Israel, tỉ lệ xuyên thủng vỏ giáp xe tăng trong chiến tranh Ly-băng 1982 là 47%, chiến tranh Ai cập năm 1973 là 60%. Tỉ lệ thương vong của tổ lái năm 2006 cũng cao hơn và chiếm 50% trong số tăng bị phá huỷ trong khi chiến tranh 1973 là 100%.
Số các xe tăng không sửa được trong số tăng hỏng này, theo nguồn hiện tại công khai của Israel tổng cộng là 5 chiếc, trong đó 2 chiếc (1 Merkava 2 và 1 Merkava 4) bị mìn IDE phá huỷ, 3 chiếc khác bị cháy hoàn toàn sau khi trúng tên lửa chống tăng. Nó chứng minh mức độ bảo vệ cao của xe tăng đời mới nhất Merkava 4, loại này chỉ có thể bị phá huỷ bởi các vũ khí chống tăng mới nhất, mang đạn nổ lõm mạnh mới phá được vỏ giáp.
Tỉ lệ trúng đạn thấp và xuyên thủng vỏ giáp thấp cho thấy rõ ràng là phần lớn vũ khí chống tăng, tên lửa đều là loại cũ, dường như hầu hết chúng đều là Malyutka và các bản copy hàng nhái của chúng, có hệ thống dẫn đường kém (điều khiển bằng tay trong loại cũ), không có các bộ dò tìn hiệu hiện đại và đầu nổ tương đối nhỏ so với tiêu chuẩn hiện đại.
Nó cũng cho thấy các tên lửa chống tăng có dẫn đường thế hệ thứ 2 chế tạo trong những năm 1970 như Fagot, Konkurs, MILAN, TOW đã được sử dụng trong trận đánh. Các hệ thống mới có hiệu quả cao hơn nhiều như Kornet-E và Metis-M rõ ràng chỉ được sử dụng ở một số lượng rất nhỏ, nhưng đã gây ra phần lớn tổn thất cho Israel. Nó cũng cho thấy Israel nêu vấn đề Hezbollah sở hữu những vũ khí chống tăng hiện đại của Nga phần lớn là vì lý do chính trị hơn là những nguyên nhân quân sự. Mặt khác, nếu Hezbollah có được một số lượng lớn Kornet-E và Metis-M thì xe tăng Israel tấn công vào Ly-băng có lẽ đã hoàn toàn bị đẩy lùi. Vũ khí chống tăng hiện đại Nga chứng tỏ hoàn toàn có hiệu quả đối với những trang bị hiện đại nhất phương Tây.
Những hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển loại cũ cho thấy chúng rất không hiệu quả. Khi mà các lực lượng chống tăng chủ yếu trang bị loại này thì kết quả hiện tại trong cụôc chiến Ly-băng thật đáng báo động, đặt ra nhu cầu phải trang bị những hệ thống chống tăng hiện đại hơn như là Kornet-E.
Tuy vậy, từ những kinh nghiệm tại Ly-băng, Israel tự mình kết luận rằng vỏ giáp về nguyên tắc không thể bảo vệ đầy đủ chống lại các hệ thống chống tăng dẫn đường và tất cả các xe tăng của họ cần được trang bị hệ thống bảo vệ chủ động như là Rafael Trophy và IMI-nắm đấm thép (Iron Fist).
Đầu những năm 1970, Israel đã quyết định cho đến cuối năm 2008 sẽ trang bị cho cả binh chủng tăng Merkava và cũng như APC Nemerah bằng hệ thống bảo vệ chủ động Trophy. Đối phó điện tử thụ động bây giờ cũng rất được quan tâm. Rõ ràng, không chiếc tăng nào có thiết bị đối phó điện tử thụ động bị trúng tên lửa dẫn đường.
(Cái này nếu có thực thì chỉ là may mắn, các tên lửa chống tăng dẫn đường kiểu cũ điều khiển bằng dây như Milan, Metis, Konkus... không chịu ảnh hưởng nhiều của nhiễu điện tử). Tuy nhiên, vấn đề quan trọng của giáp thép hạng nặng "thông thường" (kể cả giáp phản ứng nổ) đã được chứng tỏ trong chiến trận, và Israel quyết định tiếp tục chế tạo Merkava 4 MBT, và APC hạng nặng Nemerah trên khung sườn xe tăng Merkava này. 200 chiếc đã được đặt sản xuất.
Cũng qua xung đột Ly-băng, xu hướng phát triển các lớp bảo vệ cho xe tăng của Liên xô và Nga từ những năm 1970 chứng tỏ là rất tốt. Trong những năm 1980, Liên xô đã chế tạo những thiết bị bảo vệ hỗn hợp đầu tiên Shtora và hệ thống bảo vệ chủ động Drozd, Arena, những hệ thống này cho đến nay vẫn đang được tiếp tục phát triển. Israel và phương Tây bây giờ chỉ mới đang cố gắng đuổi kịp Nga. Trong khi ấy, chúng ta vẫn thấy những chiếc xe tăng phương Tây tốt nhất, kể cả những loại được bảo vệ rất tốt, vỏ thép dày như Merkava bốc cháy khi bị trúng vũ khí chống tăng cùng một kiểu như những cái tăng T-72 cũ ở Chechnya và Iraq.
Nga đã tránh cái mốt thời thượng phương Tây rằng cần vỏ giáp dày và rằng giáp phản ứng nổ là không cần thiết. Nga tiếp tục phát triển một cấu hình cân bằng của vỏ giáp, kể cả loại tháo rời và gắn chìm, đó là một minh chứng. Ly-băng năm 2006 và chiến tranh Iraq một lần nữa chứng tỏ lập luận MBT không còn cần thiết là ngớ ngẩn. MBT hiện đại với vỏ giáp dày, trọng lượng lớn sẽ tiếp tục làm nòng cốt cho bộ binh một thời gian đáng kể nữa.
Một ứng dụng chiến thuật mà Israel áp dụng cho thiết giáp là sử dụng tăng của họ trong những nhóm nhỏ hầu như thiếu sự hỗ trợ kịp thời của bộ binh. Không hiểu sao một đội quân được trang bị tốt và huấn luyện bài bản lại có những quyết định kiểu như vậy trong chiến trận. Những nỗ lực sử dụng thiết giáp để chọc thủng tuyến phòng thủ đối phương mà không có bộ binh hỗ trợ và trinh sát là không tránh khỏi những tổn thất vô ích, như đã xảy ra với tiểu đoàn 401 của một lữ thiết giáp Israel tại Vadi Saluki ngày 9/8.
Tiểu đoàn tăng này tấn công lên phía trước mà không có bộ binh hỗ trợ và bị rơi vào bẫy lửa chống tăng, hầu hết là Kornet-E theo như nguồn tin Israel, và bị mất 11 chiếc Merkava 4, 8 tổ lái bị giết chết, kể cả chỉ huy tiểu đoàn. Lực lượng thiết giáp Israel rõ ràng chưa chuẩn bị tốt cách thức đối phó với những vũ khí chống tăng hiện đại.
Về phía Israel, cũng thấy rằng các đơn vị thiết giáp đã thiếu sự chuẩn bị, đặc biệt là các biện pháp chống tấn công như màn khói, hướng phát triển tấn công vào những mục tiêu phức tạp, phương án rút lui khi gặp kháng cự mạnh... Như vậy chất lượng huấn luyện lực lượng thiết giáp và tài năng mưu lược của chỉ huy để kết hợp hiệu quả thiết giáp và các lực lượng khác vẫn là mấu chốt để sử dụng thành công MBT trong chiến trận.
http://mdb.cast.ru/mdb/2-2007/item2/item1/